Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thông Điệp Từ Những Người Anh Em Trong Lòng Đất (Neverland)

CHÀO MỪNG BẠN ĐẾN VỚI TRÁI ĐẤT BÊN TRONG

Mikos, thông qua Suzanne Mattes

Những gì các bạn đang đọc đây không gì hơn là một phép lạ giữa chúng tôi và tác giả của cuốn sách này. Nó là một phép lạ của tình yêu, sự cống hiến, và trái tim mong mỏi giữa tình bằng hữu và thân tộc. Tôi có vinh dự được thay mặt cho Telos và những ai sống bên dưới bề mặt hành tinh xinh đẹp này mà các bạn gọi là Trái Đất.

Tên tôi là Mikos, và tôi là một cư dân của thành phố Catharia. Tôi là một người Catharia từ thư viện của Porthologos, nằm ở bên dưới các biển Aegean.

Thông cáo này là tin nhắn từ quê hương chúng tôi - thành phốTelos. Tìm mua: Thông Điệp Từ Những Người Anh Em Trong Lòng Đất TiKi Lazada Shopee

Thành phố của chúng tôi, Telos, đã thành lập một liên kết lâu dài với các bạn từ bên trên mặt đất. Nhiều người dân từ Telos sống và làm việc giữa các bạn, cũng giống như chúng tôi đã làm như vậy trong một thời gian rất dài.

Mỗi lần khảo cổ học phát hiện ra một phần đáng chú ý mà các bạn gọi là lịch sử hành tinh của các bạn, chúng tôi ở quê hương ngầm vui mừng khi biết rằng các bạn đang nhớ đến thời gian khi nhiều người trong chúng tôi thường xuyên và công khai sống giữa các bạn. Mỗi khi các bạn nhận ra rằng vạn vật đều liên kết mật thiết với nhau, từ các phần tử nhỏ nhất như đất dưới chân các bạn, các dạng sống trong các đại dương cho đến sự rộng lớn của bầu trời với hàng tỷ ngôi sao lấp lánh, chúng tôi rất mừng.

Các bạn tin rằng các bạn sống một mình, nhưng không, chúng tôi không chỉ tồn tại với các bạn, chúng tôi cũng giống như các bạn. Tuy nhiên, chúng tôi không đại diện cho nền văn hóa của các bạn hay trở thành trợ lý cho cái gọi là khoa học, tôn giáo, và chính trị.

Nói về Telos

Telos, một vùng đất của Lemuria nằm dưới núi Shasta ở miền bắc California, là một thành phố của ánh sáng điều hành bởi một hội đồng gồm 12 vị Minh Sư khai ngộ và 1 vị đứng đầu tên Adama. Tên gọi Telos này có nghĩa là "Sự giao tiếp với tinh thần".

Các công dân của Telos, trước đây là của Lemuria. Ngươì dân của Telos có khả năng di chuyển tức thời (bằng phép) đến bất kỳ vị trí nào, và có thể nói chuyện bằng thần giao cách cảm với bất kỳ ai ở bất kỳ địa phương vượt thời gian và không gian.

Tất cả các hành tinh trong Hệ Mặt Trời này là trống rỗng, và là nơi sinh sống của nhiều thực thể người với các tần số rung động khác nhau. Mặt Trời cũng rỗng, nhưng không nóng mà lạnh. Trái Đất của chúng ta là rỗng, và bên trong có một Mặt Trời ở giữa.

Thành phố Capital trong lòng đất được gọi là Shamballa. Nó nằm ngay trung tâm của hành tinh này, và lối vào của nó có thể thông qua lỗ hổng ở phía Bắc cực hoặc phía Nam cực của hành tinh này. Ánh sáng phát ra từ phía cực Bắc và Nam mà chúng ta thường thấy trên bầu trời thực ra là ánh sáng của Mặt Trời từ trong lỗ hổng của Trái Đất.

Có hơn 120 thành phố ngầm nằm trong lớp vỏ Trái Đất. Những thành phố ánh sáng này không xa bên dưới bề mặt Trái Đất. Nhóm các thành phố này được gọi là mạng Agartha. Các cư dân trong lòng đất đang rất phát triển về mặt tâm linh.

Họ hầu hết là những linh hồn đã lựa chọn làm người để tiếp tục quá trình tiến hóa của họ trong lòng của Trái Đất vì điều kiện hoàn thiện hiện có ở đó.

Mặc dù Atlantis và Lemuria đã trở thành huyền thoại trên mặt đất, người dân từ Atlantis và Lemuria đang phát triển ở các thành phố của họ dưới lòng đất.

Những người dân của các thuộc địa là những người giống như các bạn và tôi, những người đang sống trong chiều không gian thứ ba, cũng giống như chúng ta.

Thiên Hà Milky Way của chúng ta được chia thành 12 lĩnh vực. Hệ thống năng lượng Mặt Trời của chúng ta là nằm ở khu vực #9, và khu vực này có hàng trăm Hệ Mặt Trời khác. Bộ tư lệnh Galactic, bao gồm hàng triệu tàu không gian và các tình nguyện viên từ rất nhiều hệ sao và từ nhiều chiều không gian khác trong Thiên Hà của chúng ta. Bộ tư lệnh Galactic là một phần của Liên đoàn hành tinh, bảo vệ khu vực này của Ngân Hà. Mục đích của họ là để giúp Trái Đất trải qua chu kỳ hiện tại - chu kỳ tiến hoá của hành tinh.

Ashtar là hành tinh chỉ huy Liên đoàn ngành của chúng tôi. Hạm đội Silver giám sát Hệ Mặt Trời, và có trạm không gian bên trong cổng của núi Mt. Shasta.

Anton, người đến từ Telos, là tên của người chỉ huy của Hạm đội bạc - Silver.

Những người từ các thành phố ngầm Subterranean là những người phục vụ trong Hạm đội bạc.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Neverland":Các Con Đường Tiến HóaNgọn Lửa Tím Để Chuyển Hóa Thể Xác Tâm Trí Tâm HồnQuy Luật Tâm ThứcThông Điệp Từ Những Người Anh Em Trong Lòng ĐấtThông Điệp Từ Thế Giới Thượng ThiênTrái Đất RỗngVũ Trụ Và Con NgườiMở Rộng Tình YêuCâu Chuyện Của Sanat Kumara

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thông Điệp Từ Những Người Anh Em Trong Lòng Đất PDF của tác giả Neverland nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Những hiện tượng bí ẩn về nhân loại
Khoa học hiện đại đã tiến những bước dài trong lịch sử loài người, tạo nên muôn vàn tiện ích cho cuộc sống và giải mã hàng nghìn hàng vạn điều bí ẩn. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn tại nhiều câu chuyện tưởng như chỉ có trong cổ tích mà khi được chứng kiến, người ta chỉ biết thốt lên: "Sao có thể như vậy được nhỉ?". Đó là những câu chuyện về các hiện tượng khoa học thú vị hay những sự kiện lịch sử thần bí mà con người biết đến nhưng chưa thể lý giải. Xuất phát từ mong muốn thoả mãn khát vọng tìm hiểu, lý giải các hiện tượng bí ẩn trên thế giới từ xưa đến nay, cuốn sách "Những hiện tượng bí ẩn về nhân loại" được ra đời.
Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam
Sự dị biệt giữa các nền văn học có nhiều nguyên nhân, trong đó đáng kể nhất sự dị-biệt về ngôn ngữ từ khi loài người xây dựng Tháp Babel trong tội-lỗi (Sáng thế, XI, 7). Nhờ mầu-nhiệm Cứu thế, sự thống nhất ngôn ngữ nguyên thủy bắt đầu phục hồi khi Chúa Thánh- Thần Hiện Xuống (Công vụ Tông-đồ, II, 4-6) nhưng chỉ thể hiện toàn vẹn khi mạt thế trong cảnh toàn thể loài người đồng thanh ngợi-khen Thiên-Chúa (Khải-huyền- thư, VII, 9). Giáo-hội Công-giáo là bi-tích, là dấu-hiệu khả-kiến của sự phục-hồi thống-nhất nguyên thủy đang thành hình. Đó là một sự thống-nhất trong dị-biệt, thống nhất trong Tình Yêu Thiên Chúa, dị-biệt trong thề-cách diễn đạt với đặc điểm của từng dân-tộc, trong « y-phục rực-rỡ muôn màu » như lời Thành-Vịnh nói về Giáo hội (Thánh Vịnh 104).Bộ sách này có kỳ-vọng trình bày những màu sắc Việt-Nam của y-phục rực-rỡ ấy. Tôi muốn dùng hình ảnh này để nói đến văn học Công giáo Việt-Nam, một nền văn học dung hợp dân tộc tinh và công-giáo-tính, một thành phần bất-khả-phân của toàn thể văn học quốc-gia.
Chuyển họa thành phúc
Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được  lưu hành   rộng rãi  nhất. Nội dung tuy không có gì quá  sâu xa  khó hiểu, nhưng  quả thật  là những điều  nhận thức   vô cùng   thiết thực  và  lợi lạc  trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả  cuộc đời ,  hay nói  theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”. Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được lưu hành rộng rãi nhất. Nội dung tuy không có gì quá sâu xa khó hiểu, nhưng quả thật là những điều nhận thức vô cùng thiết thực và lợi lạc trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả cuộc đời, hay nói theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”. Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của  tiên sinh   Viên Liễu Phàm , do ông viết ra để kể lại  câu chuyện  của chính  cuộc đời  mình cho con cháu,  đồng thời  cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý  nhân quả , khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và  nỗ lực  làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại  cuộc đời  nhiều  sóng gió  của mình cùng cuộc hội ngộ  ly kỳ  với một nhân vật mà ông  tin chắc  là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được  nội tâm  của chính mình để  nhận ra  và  phân biệt  được những điều  thiện ác  thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ  quyết tâm  “tránh ác làm thiện”, và  cuối cùng  đạt kết quả là  chấm dứt  được những chuỗi ngày  tai họa   liên tục  giáng xuống  gia đình  ông, để có thể sống một cách an vui  hạnh phúc   cho đến   tuổi già . Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc. Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được  Đại sư   Ấn Quang  chọn khắc in vào phần  phụ lục  của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng  nghĩa lý  bài văn Âm chất.  Đại sư   Ấn Quang  đã có nhiều hàm ý rất  sâu xa  khi chọn  lưu hành  hai bản văn khuyến thiện này, và  hiệu quả   lợi lạc  của việc này đối với người đọc đã được  chứng minh  một cách  rõ ràng  qua  thời gian . Về bản văn thứ nhất,  tiên sinh   Viên Liễu Phàm  không viết ra như một  nghiên cứu  triết lý, mà như một sự chia sẻ  kinh nghiệm   thực tiễn , bởi chính ông là người đã vận dụng  thành công  những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự  chuyển đổi  được số mạng, thay đổi  cuộc đời  từ những điều  bất hạnh  sang thành an vui  hạnh phúc . Có thể nói, bằng vào những  nỗ lực  cứu người giúp đời không  mệt mỏi   liên tục  nhiều năm, ông đã  thành công  trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không  cầu xin  bất kỳ một  sức mạnh   siêu nhiên  nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong  chúng ta  cũng đều có thể làm được nếu có đủ  quyết tâm , không loại trừ bất cứ ai.  Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của tiên sinh Viên Liễu Phàm, do ông viết ra để kể lại câu chuyện của chính cuộc đời mình cho con cháu, đồng thời cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý nhân quả, khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và nỗ lực làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại cuộc đời nhiều sóng gió của mình cùng cuộc hội ngộ ly kỳ với một nhân vật mà ông tin chắc là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được nội tâm của chính mình để nhận ra và phân biệt được những điều thiện ác thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ quyết tâm “tránh ác làm thiện”, và cuối cùng đạt kết quả là chấm dứt được những chuỗi ngày tai họa liên tục giáng xuống gia đình ông, để có thể sống một cách an vui hạnh phúc cho đến tuổi già. Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc.Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được Đại sư Ấn Quang chọn khắc in vào phần phụ lục của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng nghĩa lý bài văn Âm chất. Đại sư Ấn Quang đã có nhiều hàm ý rất sâu xa khi chọn lưu hành hai bản văn khuyến thiện này, và hiệu quả lợi lạc của việc này đối với người đọc đã được chứng minh một cách rõ ràng qua thời gian.Về bản văn thứ nhất, tiên sinh Viên Liễu Phàm không viết ra như một nghiên cứu triết lý, mà như một sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, bởi chính ông là người đã vận dụng thành công những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự chuyển đổi được số mạng, thay đổi cuộc đời từ những điều bất hạnh sang thành an vui hạnh phúc. Có thể nói, bằng vào những nỗ lực cứu người giúp đời không mệt mỏi liên tục nhiều năm, ông đã thành công trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không cầu xin bất kỳ một sức mạnh siêu nhiên nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong chúng ta cũng đều có thể làm được nếu có đủ quyết tâm, không loại trừ bất cứ ai. 
Lịch sử giáo hội Công giáo
Hầu hết những gì xảy ra trong Kitô Giáo ở thế kỷ thứ nhất thì quen thuộc với chúng ta, nhờ kinh thánh Tân Ước. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, chúng ta biết công cuộc truyền giáo đã nới rộng giáo hội của Ðức Giêsu Kitô từ nguyên thủy ở Giêrusalem, gồm những người Do Thái tòng giáo theo Ðức Kitô, đến những người Dân Ngoại ở nhiều nơi trong Ðế Quốc La Mã và cho đến tận Rôma. Sự bình an tương đối trong thế kỷ này, cũng như hệ thống đường bộ và đường thủy của người La Mã, đã giúp Kitô Giáo có thể phát triển nhanh chóng. Nền văn hóa chung và một ngôn ngữ chung cũng giúp cho sự bành trướng. Tuy nhiên, động lực chính của sự phát triển Kitô Giáo là Chúa Thánh Thần, Ðấng đã làm nên các tông đồ vĩ đại như Thánh Phaolô và các vị tử đạo như Stêphanô, là vị tử đạo đầu tiên. Khi Phúc Âm được loan truyền cho đến tận cùng trái đất bởi những nhà thừa sai Công Giáo vào nửa đầu thế kỷ mười bảy, Âu Châu đã đắm chìm trong các cuộc chiến tôn giáo cay đắng giữa người Công Giáo và Tin Lành và giữa các quốc gia theo Tin Lành. Cuộc chiến sau cùng xảy ra ở nước Ðức. Cuộc chiến Ba Mươi Năm (1618-1648) được chấm dứt bằng Thỏa Ước Westphalia (1648), nó đã đem lại cho người Công Giáo, Luther và Calvin ở Ðức sự bình đẳng trước pháp luật. Trên thực tế, mỗi quốc gia hay mỗi vùng trong nước đều có một Giáo hội Kitô giáo riêng và tín đồ của các giáo phái khác sống tại lãnh thổ đó thường bị bách hại trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên, trong mỗi vùng của Giáo Hội phân ly, vẫn có nhiều nơi mà Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô bừng cháy một cách chói lọi. Chắc chắn rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn mong tìm ra cách củng cố đời sống Công Giáo ở Âu Châu, cũng như để lan tràn đức tin Công Giáo trên toàn thế giới. Cho đến nay, Giáo Hội Công Giáo đã vượt qua được những thử thách lớn lao và tồn tại với một sinh lực được đổi mới.