Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tội Ác Dưới Ánh Mặt Trời

Arlena Marshall là một nữ diễn viên xinh đẹp, luôn liếc mắt đưa tình những người đàn ông hấp dẫn đối với cô. Cô đến Khách sạn Hải Tặc cùng chồng Kenneth Marshall, và con gái riêng của chồng, Linda Marshall, 16 tuổi. Linda rất ghét mẹ kế. Arlena đong đưa tán tỉnh anh chàng Patrick Redfern đẹp trai, trước sự giận dữ ra mặt của vợ anh ta, Christine, một cựu giáo viên. Cùng ngụ trong khách sạn này có Hercule Poirot; ông Horace Blatt khoác lác; thiếu tá Barry, sĩ quan người Anh gốc Ấn Độ về hưu hay kể chuyện lê thê; Rosamund Darnley, nhà tạo mẫu thời trang cao cấp, vốn là bạn thanh mai trúc mã với Kenneth; bà Carrie Gardener, một du khách người Mỹ lắm mồm, và ông chồng tên Odell; cha xứ Stephen Lane; và cô Emily Brewster, quý cô chưa chồng khỏe như vận động viên.  Arlena được phát hiện bị giết chết vào buổi sáng của một ngày đẹp trời. Các chứng cứ ngoại phạm bắt đầu được thu thập. Arlena chèo bè đến Vũng Tiên rõ ràng cho một cuộc hẹn hò. Nhưng cả Kenneth lẫn Patrick đều tìm cô. Cuối cùng Patrick xin cô Emily cho anh đi chèo thuyền cùng. Anh phát hiện một cái xác nằm sải tay, giấu mặt trong nón, những lọn tóc đỏ ló ra ngoài. Anh ở lại đó trong lúc Emily đi báo cảnh sát. Bác sĩ pháp y nhận định nạn nhân bị một đôi bàn tay rất khỏe mạnh siết cổ chết. Phải là đôi bàn tay của đàn ông. Hai người có động cơ giết Arlena rõ nhất là: ông chồng Kenneth, Christine – cô vợ của anh chàng nhân tình Patrick nọ. Nhưng Kenneth có chứng cớ ngoại phạm chắc nịch. Còn Christine là một phụ nữ tay chân đặc biệt nhỏ nhắn xinh xắn! Thế rồi cô con gái riêng Linda nổi lên thành kẻ tình nghi số một vì có đôi bàn tay to tướng khỏe mạnh như đàn ông lẫn ác cảm với mẹ kế… và chứng cớ ngoại phạm không vững!  Khi cảnh sát sở tại và Hercule Poirot phối hợp điều tra ráo riết, lần ra nhiều bí mật đen tối của các vị du khách. Ông Horace Blatt khoác lác có thể là một tay buôn lậu ma túy. Cha xứ Stephen Lane thù ghét đàn bà lẳng lơ đến phát bệnh thần kinh và từng phải vào bệnh viện tâm thần. Một lời khai bổ sung của nhà tạo mẫu thời trang Rosamund Darnley hóa ra là nói dối, hơn nữa mọi du khách cùng ở đó đều thấy rõ cô phải lòng Kenneth… Một mê hồn trận những động cơ gây án và nghi phạm!  Đùng một phát, Linda Marshall uống thuốc ngủ tự tử, để lại thư tuyệt mệnh thú nhận tội lỗi! Rất may cô hầu phòng phát hiện và Linda được đưa đi cứu chữa trong tình trạng thập tử nhất sinh. Phải chăng chỉ cần đợi cô bé sống lại là có thể làm rõ các bước gây án? Chỉ có Hercule Poirot mới trả lời được câu hỏi này. *** Khi thuyền trưởng Roger Angmering xây nhà vào năm 1782 trên hòn đảo trong Vịnh Leathercombe, người ta nghĩ căn nhà ấy biểu hiện tính lập dị tột đỉnh của ông. Một người con nhà khá giả như ông đáng lẽ phải có cơ ngơi đường hoàng tọa lạc giữa đồng cỏ rộng, với một dòng suối chảy qua và bãi cỏ ngon lành cho gia súc. Nhưng ông thuyền trưởng này chỉ có một tình yêu vĩ đại, tình yêu biển cả. Vì thế ông đã xây ngôi nhà của mình - còn là một ngôi nhà kiên cố vì cần phải như thể, trên một mũi đất nhỏ lộng gió nơi hải âu thường xuyên lui tới - cách biệt với đất liền mỗi khi thủy triều lên. Ông không lập gia đình, biển cả là hôn thê đầu tiên và cuối cùng của ông, và khi ông qua đời ngôi nhà và hòn đảo về tay một người em họ xa. Ông em họ đó và đàn con cháu ít nghĩ tới việc để lại một chúc thư. Đất đai của họ thu hẹp và những người thừa kế dần dần trở nên nghèo khó hơn. Vào năm 1922 khi cuối cùng thiên hạ bắt đầu đổ xô đi tắm biển vào dịp nghỉ hè, không còn nghĩ vùng bờ biển Devon và Cornwall quá nóng bức vào mưa hè nữa, Arthur Angmering nhận thấy ngôi nhà rộng mênh mông thiếu tiện nghi xây vào cuối thời vua George của mình không bán được, nhưng khu đất nhỏ xíu kỳ quặc do đại úy thuyền trưởng Roger tậu được đem lại một giá trị lớn lao. Ngôi nhà kiên cố đó được xây thêm và trang trí lại thật đẹp. Một con đường bằng bêtông bắt đầu được đắp cao trên bãi lầy nối đất liền ra đảo. Nhiều lối tản bộ và góc riêng tư được hình thành và xây dựng quanh đảo. Có hai sân quần vợt, những nền đất cao để phơi nắng dẫn xuống một vịnh nhỏ với những bè gỗ và ván nhào lặn tôn thêm vẻ đẹp của nó. Khách sạn Hải Tặc, Đảo Buôn Lậu, Vịnh Leathercombe ra đời, hân hoan đắc thắng. Và từ tháng 6 tới tháng 9 cùng với mùa Phục sinh ngắn ngủi, khách sạn đó thường đầy ắp khách đến tận tầng thượng. Nó được mở rộng và nâng cấp vào năm 1934, có thêm một quầy bar, một phòng ăn lớn hơn và một số buồng tắm phụ. Giá cả tăng lên. Người ta hỏi nhau: “Tới Vịnh Leathercombe chưa hả? Ở đó có một khách sạn hay cực kỳ, trên một chỗ như là hòn đảo. Rất tiện nghi thoải mái, chẳng có người dạo chơi hay xe buýt tham quan đâu. Nấu ăn ngon và tất cả đều tốt đẹp. Ông nên tới đó đi.” Và quả thật người ta đã tới. Có một nhân vật rất quan trọng lưu trú tại Khách sạn Hải Tặc (hay ít ra ông ấy tự đánh giá mình như vậy). Hercule Poirot rực rỡ trong bộ comlê bằng vải dày màu trắng, với cái mũ panama nghiêng nghiêng trên đôi mắt, hàng ria mép xoắn lại thật đẹp. Ông nằm dựa ngửa trên ghế bố kiểu cải tiến quan sát bãi tắm. Một dãy nền đất cao từ khách sạn dẫn xuống đó. Trên bãi biển còn có các phao tấm, phao nằm, thuyền hơi và vải bạt, những quả bóng và đồ chơi bằng cao su. Có một tấm ván nhún dài và ba bè gỗ ở những khoảng cách khác nhau từ bờ biển. Về phần những người tắm biển, một số đang ở dưới nước, một số nằm duỗi dài trên bãi phơi nắng, số khác thì đang bôi díu lên người thật kỹ lưỡng. Ở trảng đất cao bên trên, những người không xuống tắm thì chọn cách ngồi bình luận về thời tiết, phong cảnh trước mặt, tin tức trên báo buổi sáng hay bất cứ đề tài nào khác lôi cuốn họ. Về phía bên trái của Poirot những câu nói dông dài, dịu dàng đơn điệu không ngừng tuôn ra từ miệng bà Gardener, trong khi hai tay bà vẫn thoăn thoắt đan len, khiến hai que đan cứ chạm vào nhau kêu lách cách. Ở phía bên kia là chồng bà, ông Odell C. Gardener nằm trên ghế võng, cái mũ sụp xuống tận mũi. Thỉnh thoảng ông chỉ góp vài lời ngắn gọn khi được yêu cầu nói. Về phía bên phải của Poirot, cô Emily Brewster, một phụ nữ mạnh mẽ rắn rỏi có mái tóc hoa râm và khuôn mặt dạn dày sương gió vui vẻ dễ ưa, đưa ra một lời bình luận cộc lốc. Nghe gần như tiếng sủa ngắn, thật to và mạnh mẽ của một con chó chăn cừu làm gián đoạn tiếng kêu ăng ẳng không ngớt của một con chó dòng Pomerania. Bà Gardener đang nói: “Và thế là tôi nói với ông nhà tôi, à, tôi đã nói là các chuyến tham quan đều rất tốt, và quả là tôi thường đi tham quan suốt. Chúng tôi đã đi khá nhiều nơi khắp xứ Anh này rồi, nên bây giờ tôi chỉ muốn đến một nơi yên tĩnh ở miền biển và chỉ để thư giãn mà thôi. Em đã nói thế, đúng không Odell? Chỉ thư giãn thôi. Tôi cảm thấy mình phải thư giãn. Đúng như thể, phải vậy không Odell?” Từ sau cái mũ ông chồng khẽ đáp: “Phải, em yêu à.” Bà vợ tiếp tục theo đuổi đề tài của mình: “Và thế là khi tôi đề cập chuyện ấy với ông Kelso ở công ty du lịch Cook - ông ấy đã thu xếp cả lộ trình cho chúng tôi, hết sức hữu ích về mọi mặt. Thật tình tôi chẳng biết chúng tôi phải làm gì nếu không có ông ấy! - À, như tôi nói đó, khi tôi đề cập chuyện ấy, ông Kelso nói tốt hơn hết chúng tôi nên tới đây. Một địa điểm đẹp như tranh vẽ, hoàn toàn cách biệt, mà vẫn rất tiện nghi thoải mái và riêng tư. Tất nhiên ông nhà tôi đã xen vào ngay vào hỏi vệ sinh thì thu xếp ra sao? Bởi vì nếu ông chịu tin lời tôi, ông Poirot à, một cô em gái của ông Gardener có lần từng tới trọ ở một nhà khách mà họ bảo là rất riêng biệt giữa một bãi đất hoang, nhưng ông có tin không, chẳng có gì ngoài nhà xí lấy đất phủ lên phân. Vì thế lẽ tất nhiên chuyện ấy khiến ông nhà tôi nghi ngờ những nơi cách biệt với thế giới bên ngoài, có phải vậy không Odell?” “Ờ phải, em yêu à,” ông chồng đáp. “Nhưng ông Kelso lập tức cam đoan với chúng tôi một lần nữa. Ông ấy bảo chuyện vệ sinh tuyệt đối không cần phải bàn thêm gì, và nấu ăn thật xuất sắc. Tôi chắc chắn thế đó. Và điều khiến tôi rất thích là đúng giờ đúng giấc, chắc ông hiểu tôi muốn nói gì rồi. Là một nơi nhỏ bé nên tất cả chúng ta trò chuyện với nhau và ai nấy đều biết nhau. Người Anh nếu có một lỗi thì đó là họ hơi xa cách một chút xíu cho tới khi đã quen nhau chừng vài năm. Sau đó chẳng ai có thể tử tế hơn họ. Ông Kelso bảo những con người thú vị thường hay tới đây, và tôi thấy ông ấy nói đúng. Có các vị đây, ông Poirot và cô Darnley. Ôi! Đúng là tôi đã thích đến chết đi được khi khám phá ra các vị là ai, có phải vậy không Odell?” “Phải, em yêu à.” “Hà!” cô Brewster hùng hổ ngắt ngang câu chuyện. “Thật rộn ràng vui sướng quá, hử, ông Poirot?” Poirot giơ hai tay lên có vẻ không đồng tình. Nhưng đó chỉ là một cử chỉ lịch sự không hơn không kém. Bà Gardener nói tiếp như một dòng nước đang lững lờ trôi: “Xin hiểu cho, thưa ông Poirot, tôi từng nghe Cornelia Robson kể rất nhiều chuyện về ông đó. Tháng 5 vừa rồi, vợ chồng tôi đã tới Badenhoi Và tất nhiên Cornelia đã kể hết cho chúng tôi nghe vể vụ Linnet Ridgeway bị giết chết ờ Ai Cập. Bà ấy bảo ông thật tuyệt vời, và lâu nay tôi đã muốn gặp ông hết sức, có phải vậy không, Odell?” “Phải, em yêu à.” “Rồi sau đó còn cô Darnley nữa. Tôi mua rất nhiều đồ hiệu Rose Mond, và tất nhiên cô ấy là Rose Mond, đúng không? Cô ấy thiết kế trang phục quá thông minh. Một mặt hàng tuyệt diệu quá đỗi. Cái đầm tôi mặc đêm hôm qua là của cô ấy đó. Quả đúng là một phụ nữ đáng yêu về mọi mặt.” Từ phía bên kia cô Brewster, thiếu tá Barry nãy giờ vẫn ngồi dán cặp mắt ốc nhồi vào những người đang tắm, lẩm bẩm: “Cô nàng trông ngon lành đáo để!” Bà Gardener khua que đan lách cách: “Tôi phải thú nhận một điều thôi, ông Poirot à. Gặp ông ở đây khiến tôi bị điếng người kiểu nào đó - chẳng phải tôi không phấn khích khi gặp ông đâu, phấn khích quá đi chứ. Ông nhà tôi biết điều ấy. Nhưng tôi vừa nghĩ đến chuyện có thể ông tới đây - à, là để hành nghề. Ông biết tôi muốn nói gì chứ? À, tôi vốn cực kỳ nhạy cảm, như ông Gardener sẽ nói cho ông biết, và quả tôi chẳng thể chịu nổi nếu phải dính líu vảo bất cử kiểu tội ác nào. Xin ông hiểu cho.” Chồng bà ta đằng hắng rồi nói: “Xin ông hiểu cho, ông Poirot à, bà nhà tôi nhạy cảm lắm.” Hai tay thám tử Poirot giơ thẳng lên trời thật nhanh: “Xin cam đoan với bà, Madame, tôi tới đây cũng y như bà vậy thôi - để vui hưởng - để nghỉ hè thôi. Thậm chí tôi chẳng hề nghĩ tới tội ác.” Cô Brewster lại nói như tiếng chó sủa ngắn cộc cằn: “Chẳng có cái xác nào trên Đảo Buôn Lậu đâu.” “A!” Hercule Poirot nói. “Nói thế cũng không hoàn toàn đúng.” Ông chỉ tay xuống phía dưới. “Bà nhìn họ đang nằm dài ra đó từng hàng đi! Họ là gì vậy hả? Không phải đàn ông hay đàn bà. Chẳng có đặc điểm cá nhân nào cả. Họ chỉ là - những thân xác.” Thiếu tá Barry tán thành: “Một đám ngớ ngẩn trông cũng được mắt đó, vài người trong bọn họ. Mảnh khảnh, có lẽ vậy.” “Phải đó,” Poirot kêu lên, “nhưng có gì hấp dẫn? Có gì bí ẩn? Tôi già mất rồi, thuộc trường phái cũ xưa, hồi tôi còn trẻ người ta hiếm khi trông thấy mắt cá chân. Thoáng thấy một cái váy lót xốp cũng làm mình mê mẩn xiết bao! Một bắp chân căng tròn mém mại - một đẩu gối - ghim nịt vớ…” “Hư đốn, hư đốn!” thiếu tá Barry nói với giọng khàn khàn. “Đồ ta mặc ngày nay gợi cảm hơn nhiều,” cô Brewster nhận xét. “À phải đó, ông Poirot à. Bọn con trai con gái đời nay sống tự nhiên khỏe mạnh hơn nhiều. Chúng chỉ nô đùa đây đó với nhau rổi chúng - à, chúng nó…” bà Gardener hơi đỏ mặt vì đầu óc bà vốn rất tinh tế - “chúng chẳng nghĩ gì về chuyện ấy, ông hiểu ý tôi chứ?” “Tôi hiểu rồi,” Poirot đáp. “Thật đáng trách!” “Đáng trách sao?” bà Gardener rít lên. “Xóa bỏ hết tình cảm lãng mạn - hết còn bí ẩn! Ngày nay mọi thứ đều bị tiêu chuẩn hóa.” Ông thám tử phẩy tay về phía những hình hài nằm sấp nằm ngửa. “Cái cảnh đó nhắc tôi nhớ rất nhiều tới Nhà xác ở Paris.” “Ông Poirot!” bà Gardener cảm thấy bị xúc phạm. “Những cái xác - xếp trên những phiến dày và rộng - y hệt thịt ở cửa hàng bán thịt!” “Ông Poirot à, nói vậy chẳng phải là quá cường điệu sao?” Hercule Poirot thừa nhận: “Có lẽ thế, đúng vậy.” “Dù sao đi nữa,” bà Gardener đan len thật hăng, “tôi vẫn có thể đồng ý với ông về một điểm. Những cô gái đang nằm dài phơi nắng như thể kia sẽ bị mọc lông tay lông chân đó. Tôi từng bảo Irene - con gái tôi, ông Poirot à, - tôi bảo nó nếu cứ nằm dài phơi nắng như thế, con sẽ mọc lông khắp mình khắp mẩy, lông tay lông chân và lông ngực, khi ấy trông con sẽ như thể nào hở? Em đã nói với con bé, phải vậy không Odell?” “Phải, em yêu à,” chồng bà đáp. Mọi người im lặng, có lẽ đang mường tượng trong đầu hình ảnh của Irene khi tình huống xấu nhất đã xảy ra. Bà Gardener cuốn đồ đan len lại rổi nói: “Bây giở tôi tự hỏi..” Ông chồng hỏi: “Gì thế, em yêu?” Ông gượng đứng lên rời khỏi cái ghế võng, cầm lấy đồ đan len và quyển sách của vợ rổi hỏi: “Cùng uống với chúng tôi một ly nhé, cô Brewster?” “Ngay bây giờ thì không được, cảm ơn ông.” Hai vợ chồng đi trở lên khách sạn. Cô Brewster nói: “Các ông chồng người Mỹ thật tuyệt vời!” Cha Stephen Lane ngồi vào chỗ của bà Gardener. Đó là một ông thầy tu cao ráo sung sức ngoài năm mươi. Khuôn mặt rám nắng và cái quần dài bằng nỉ mỏng tanh màu xám sẫm thích hợp để đi nghỉ mát lại làm ô uế thanh danh của một kẻ tu hành. Ông nói thật hăng hái: “Miền quê này thật kỳ diệu! Ta đã đi từ Vịnh Leathercombe đến Harford rồi quay về chỗ gành đá.” “Hôm nay đi bộ làm ấm người lắm đó,” thiếu tá Barry nói, nhưng ông ta chẳng bao giờ đi bộ. “Rèn luyện thân thể là rất tốt,” cô Brewster thêm vào. “Tôi vẫn chưa chèo thuyền đây. Muốn tập cơ bụng thì không gì bằng chèo thuyền đâu.” Cặp mắt Hercule Poirot sụp xuống, hơi rầu rĩ liếc nhìn chỗ trương phình lên chính giữa bụng. Để ý thấy, cô Brewster nói thật tử tế: “Ông sẽ sớm làm chỗ ấy xẹp xuống thôi, ông Poirot ạ, nếu hằng ngày chèo thuyền ra biển.” “Merci, Mademoiselle. Tôi thì lại ghét cay ghét đắng các loại thuyền bè!” “Ông muốn nói đến những chiếc thuyền nhỏ sao ạ?” “Thuyền bè mọi kích cỡ.” Ông nhắm mắt lại và rùng mình. “Biển động thì chẳng hề dễ chịu.” “Chúa ban phúc lành cho cái ông này, hôm nay sóng yên biển lặng mà ông.” Poirot đáp lại với niềm tin vững chắc: “Thật ra chẳng có chuyện biển lặng đâu. Lúc nào, lúc nào cũng chuyển động.” “Nếu ông hỏi tôi,” thiếu tá Barry nói, “cứ mười người thì có tới chín người bị say sóng đó.” “Thế đấy,” ông thầy tu hơi nhếch mép mỉm cười, “là thủy thủ lành nghề mà cũng nói thế ư, ông thiếu tá?” “Chỉ bị say sóng mỗi một lần, đó là lúc tôi vượt Biển Manche! Đừng nghĩ tới say sóng, đó là phương châm của tôi.” “Say sóng thật sự là một chứng rất kỳ quặc,” cô Brewster có vẻ đâm chiêu. “Vì sao người này mắc chứng ấy, còn kẻ khác lại không chứ? Chẳng phải là quá bất công hay sao? Chẳng liên quan gì tới sức khỏe thể chất cả. Có người cực kỳ ốm yếu lại là thủy thủ giỏi. Từng có người bảo tôi chứng ấy liên quan gì đấy với cột sống. Rồi còn có cái kiểu chẳng chịu nổi độ cao. Chính tôi cũng chịu đựng không tốt lắm, nhưng bà Redfern còn tệ hơn nhiều. Hôm nọ ở lối đi trên vách đá đến Harford, bà ấy bỗng dưng bị chóng mặt, đến nỗi phải vịn vào tôi đấy. Bà kể tôi nghe có lần từng bị kẹt ở nửa chừng đường đi xuống cầu thang bên ngoài nóc Nhà thờ Milan. Bà ấy leo lên thì chẳng hề nghĩ ngợi gì, nhưng khi đi xuống lại bị choáng.” “Thế thì tốt hơn hết bà ấy không nên leo cái thang xuống Vũng Tiên,” cha Lane nhân xét. Cô Brewster nhăn mặt. “Chính tôi cũng khiếp nữa là. Bọn trẻ thì không sao cả. Thằng bé nhà Cowan với cậu Mastermans cứ leo lên trèo xuống nhoay nhoáy, ra cái điều thích thú lắm.” Ông thầy tu nói: “Bà Redfern vừa tắm xong lên đây kia kìa.” Cô Brewster nhận xét: “Ông Poirot phải tán dương bà ấy đấy. Bà ấy tắm biển không hề bắt nắng.” Cô Redfern trẻ trung đã cởi cái mũ cao su và đang giũ tóc. Đó là một phụ nữ tóc vàng xám tro và làn da trắng tinh rất hợp với màu tóc. Chân tay rất trắng trẻo. Thiếu tá Barry cười khềnh khệch: “Trông cô ấy còn tai tái một tí, chưa nướng chín như những người khác nhỉ?” Redfern từ bãi biển đi lên rồi leo các bậc thềm tiến về phía họ. Khuôn mặt nghiêm trang của cô thật xinh đẹp, một kiểu xinh đẹp trơ trơ vô vị, bàn tay bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn. Cô mỉm cười với họ, buông mình ngồi xuống bên cạnh, kín mít trong lớp áo tắm bọc lấy người. Brewster nói: “Chị được ông Poirot đánh giá cao đấy. Ông ấy chẳng thích đám người da rám nắng. Bảo họ giống như những súc thịt trong hàng thịt, hay những từ mô tả vậy đấy.” Christine Redfern mỉm cười buồn bã: “Tôi vẫn ước ao da mình có thể ăn nắng thì tốt. Nhưng nó chẳng chịu đổi màu nâu. Chỉ bị rộp lên vì bỏng nắng và có những vết tàn nhang kinh khủng nhất khắp cả hai cánh tay.” “Còn đỡ hơn là bị mọc đầy lông như cô bé Irene con gái bà Gardener,” cô Brewster nói. Rồi đáp lại cái liếc nhìn dò hỏi của thiếu phụ xinh xắn trắng trèo, cô nói tiếp: “Sáng nay bà Gardener cực kỳ phấn khởi. Cứ luôn mổm nói liên tu bất tận. ‘Có phải vậy không Odell?’ Ông chồng liền đáp, ‘Phải, em yêu à.’” Cô dừng lại một lát rổi nói: “Tuy thế tôi vẫn ước ao, ông Poirot ạ, lẽ ra ông nên trêu bà ta một chút. Sao ông không làm thế? Sao không bảo bà ta rằng ông xuống đây để điều tra một án mạng ghê rợn, và kẻ gây án là một tên sát nhân cuồng loạn, mà nhất định là một trong số khách trọ của khách sạn này?” Hercule Poirot thở dài. “Tôi rất ngại bà ấy sẽ tin lời tôi.” Thiếu tá Barry cười khò khè khục khặc. “Chắc chắn bà ấy sẽ tin.” Cô Brewster nói: “Không đâu. Chắc ngay cả bà ấy cũng chẳng tin có án mạng xảy ra ở đây đâu. Đây không phải là nơi có thể tìm ra một cái xác.” Hơi nhúc nhích cựa quậy trong cái ghế, Poirot phản đối: “Nhưng sao lại không, thưa cô? Sao lại không có cái mà cô gọi là cái xác ở đây trên Đảo Buôn Lậu này?” Emily Brewster đáp: “Không biết nữa. Tôi cho rằng một số nơi ít có khả nàng xảy ra án mạng hơn những nơi khác. Đây không phải là nơi kiểu đó…” Đột nhiên cô ngừng lại, thấy khó lòng giải thích điều mình muốn nói. “Nơi này thật lãng mạn, đúng vậy,” Poirot đồng ý. “Thật bình an. Mặt trời chiếu sáng. Biển xanh. Nhưng cô quên rồi, cô Brewster à, tội ác có ở khắp mọi nơi dưới ánh mặt ười.” Ông thầy tu cựa quậy trong cái ghế bố của mình. Ông chồm người tới trước. Đôi mắt xanh lơ sáng rực lên. Cô Brewster nhún vai. “Ôi, dĩ nhiên tôi biết điều ấy chứ, nhưng dù sao đi nữa…” “Nhưng dù sao đi nữa nơi đây đối với cô hình như vẫn không có khả nàng là bối cảnh xảy ra một án mạng à? Cô quên mất một điều, thưa cô.” “Bản tính con người phải không ông?” “Đúng vậy đó. Vẫn luôn như vậy. Nhưng không phải là điều tôi vừa mới nói. Tôi vừa chỉ cho cô rõ ở đây mọi người đều đang đi nghỉ mát.” Cô Brewster quay khuôn mặt bối rối sang nhìn Poirot: “Tôi không hiểu.” Poirot tươi cười nhìn cô. Ông nhịp nhịp ngón trỏ vào không trung. “Giả sử cô có một kẻ thù. Nếu cô cố tìm cho ra hắn ở căn hộ của hắn, ở sở làm, ở ngoài đường phố, eh bien, cô phải có một lý do - cô phải giải thích hành vi của mình. Nhưng ở đây trên bờ biển chẳng ai cần phải giải thích về hành vi của mình. Cô tới Vịnh Leathercombe, sao hả? Parbleu! Bây giờ là tháng 8 - người ta thường ra biển vào tháng 8 - đi nghỉ hè. Hoàn toàn là lẽ đương nhiên chuyện cô và cha Lane tới đây, chuyện thiếu tá Barry và cô Redfern cùng chồng tới đây. Bởi vì đi nghỉ mát vào tháng 8 là tập quán ở xứ Anh này.” “À,” Brewster công nhận, chắc chắn đấy là một ý kiến rất tinh tế. “Nhưng còn ông bà Gardener thì sao? Họ là người Mỹ cơ mà.” Thám tử mỉm cười. “Chính bà Gardener cũng nói với chúng ta bà cảm thấy có nhu cầu được thư giãn. Hơn nữa bà đang tham quan xứ Anh, nên nhất thiết phải trải qua nửa tháng ngoài bờ biển mới đúng là một du khách sành điệu, chứ không làm điều gì khác. Bà ấy thích quan sát mọi người.” Christine Redfern khẽ hỏi: “Chắc ông cũng thích quan sát mọi người chứ?” “Thưa bà, tôi xin thú nhận điều đó. Tôi thích chứ.” Cô nói vẻ trầm ngâm: “Ông thấy - khá nhiều đấy.” Có một khoảnh khắc tạm dừng. Cha Lane đằng hắng rồi nối, hơi ngượng ngùng một chút. “Ta quan tâm đến điều ông vừa nói lúc nãy, ông Poirot ạ. Ông bảo tội ác hoành hành khắp nơi dưới ánh mặt trời. Đấy có vẻ như là một câu trích dẫn từ Sách Truyền Đạo.” Cha tạm dừng rồi sau đó tự trích dẫn: “Phải, trong tim con cái của con người cũng đầy rẫy cái ác, và sự điên cuồng ở trong tim họ trong khi họ sống.” Mắt ông rực lên một thứ ánh sáng gần như cuồng tín. “Ta rất vui khi nghe ông nói câu ấy. Đời nay chẳng ai tin có cái ác cả. Cùng lắm được xem đơn giản chỉ là phủ định của cái thiện. Người ta bảo cái ác được thực thi bởi những kẻ chẳng biết điều gì tốt hơn - những kẻ chậm phát triển - những kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Nhưng ông Poirot này, cái ác có thật đấy. Đấy là một thực tế. Ta tin có cái ác cũng như ta tin có cái thiện. Nó tồn tại! Nó có quyền lực lớn lao! Nó bước đi khắp trên quả đất này!” Ông thầy tu dừng lại, hơi thở gấp gáp một chút. Ông lấy khăn tay lau trán và chợt có vẻ ân hận. “Ta rất tiếc vì đã quá sa đà.” Poirot nói thật điềm tĩnh: “Tôi hiểu ý của ông. Tôi đồng ý với ông về một điểm. Quả là cái ác vẫn bước đi khắp trên trái đất và ta có thể nhận biết điều đó.” Thiếu tá Barry đằng hắng. “Bàn về chuyện kiểu ấy thì, mấy thằng cha tu hành khổ hạnh ở Ấn Độ…” Thiếu tá Barry ở Khách sạn Hải Tặc đã đủ lâu để mọi người cảnh giác đề phòng cái khuynh hướng sa vào những câu chuyện Ấn Độ dài lê thê chán ngắt của ông ta. Cả cô Brewster lẫn Christine đều đột nhiên cùng cất tiếng. “Bây giờ chồng cô đang xuống bơi, phải không cô Redfern? Kiểu bơi sải của ông ấy thật cừ khôi. Ông ấy bơi giỏi kinh khủng.” Cùng lúc đó Redfern nói: “Ôi, xem kìa! Chiếc thuyền nhỏ có những cánh buồm đỏ ở ngoài kia đẹp quá! Là thuyền của ông Blatt, phải không?” Chiếc thuyền buồm đỏ đúng là đang băng qua cuối vịnh. Thiếu tá Barry lẩm bẩm: “Ý tưởng thật kỳ khôi, những cánh buồm màu đỏ.” Nhưng mọi người đã thoát khỏi câu chuyện phiền hà về những nhà tu khổ hạnh của ông ta. Hercule Poirot nhìn người đàn ông trẻ vừa bơi vào bờ, tấm tắc khen thầm. Patrick Redfern là một mẫu người thật tuyệt. Thanh mảnh, nước da màu đồng thau, đôi vai rộng và hai bắp đùi săn chắc, anh ta có cái kiểu vui vẻ khoan khoái dễ hòa đồng - tính hồn nhiên bẩm sinh mà tất cả đàn bà và hầu hết đàn ông đều quý mến. Anh ta đứng đó giũ nước trên người rổi giơ tay vui vẻ gọi vợ. Cô vợ vừa vẫy tay đáp lại vừa cất tiếng: “Đến đây đi, Pat!” “Anh đến ngay.” Anh ta đi một quãng ngắn dọc theo bãi biển để lấy cái khản tắm đã để lại đó. Ngay lúc ấy một phụ nữ từ khách sạn đi xuống bãi biển ngang qua chỗ họ. Chuyện cô ta tới chỗ đó có tầm quan trọng cỡ như một diễn viên bước ra sân khấu. Hơn nữa cô ta bước đi như thể biết rõ điều đó. Chẳng hề có vẻ ngượng ngùng gì cả. Dường như cô ta đã quá quen thuộc với hiệu quả bất biến do sự có mặt của mình. Dáng người cao ráo mảnh mai, cô ta mặc chiếc áo tắm một mảnh hở lưng màu trắng và từng li từng tí trên thân thể lộ ra ngoài đều nhuốm một chút màu đồng thau tuyệt đẹp. Hoàn hảo như một bức tượng. Mái tóc màu nâu đỏ rực lửa uốn quăn úp thật sát vào cái cổ rất đẹp. Nét mặt hơi nghiêm nghị thường thấy khi ba mươi năm đã đến rồi đi, nhưng toàn bộ tác động của cô ta là tác động của tuổi trẻ - của sức sống chiến thắng thật mãnh liệt. Khuôn mặt ấy bất động kiểu Trung Hoa và đôi mắt xanh sẫm xếch lên. Trên đầu đội một cái nón Trung Hoa bằng bìa cứng màu xanh ngọc thạch thật kỳ quái. Cô ta có điểm gì đó khiến mọi phụ nữ khác trên bãi biển dường như đểu lu mờ đi và chẳng có nghĩa lý gì. Cũng không thể nào tránh khỏi điều đó, mọi cặp mắt đàn ông hiện diện đều bị hút dính vào cô ta. Hercule Poirot mở to cặp mắt, hàng ria mép rung rinh tấm tắc khen thầm. Thiếu tá Barry ngổi thẳng dậy, cặp mắt ốc nhồi thậm chí còn lồi ra nhiều hơn vì quá phấn khích. Bên trái Poirot, cha Stephen Lane hít vào một hơi với một tiếng rít khe khẽ, còn toàn thân thì cứ cứng đơ ra. Thiếu tá Barry thì thào, giọng khàn khàn: “Arlena Stuart – là tên cô ta trước khi lấy Marshall. Tôi từng xem cô ta trong vở Đến và Đi trước khi cô ta rời bỏ sân khấu. Cũng có cái đáng để ngắm nhìn đó, hử?” Christine Redfern nói thật chậm rãi, giọng lạnh lùng: “Cô ta trông cũng được mắt - vâng. Tôi nghĩ - trông cô ta như một con thú thì đúng hơn!” Emily Brewster nói cộc lốc: “Lúc nãy ông vừa bàn về cái ác, thưa ông Poirot. Giờ đây trong tâm trí tôi người đàn bà này chính là hiện thân của cái ác! Cô ta là một ả đê tiện suốt từ đầu đến cuối. Tôi tình cờ được biết rất nhiều chuyện về cô ta.” Thiếu tá Barry hồi tưởng: “Tôi còn nhớ một ả ở bên Simla. Tóc ả cũng màu đỏ. Vợ của một trung úy hải quân. Có làm cho nơi ấy xào xáo hay không ư? Xin thưa là có ạ. Đàn ông phát điên lên vì ả. Tất nhiên hết thảy đàn bà đều muốn móc mắt ả ra! Ả đã phá nát hơn một gia đình rồi đó.” Ông ta cười khục khạc khi nhớ lại. “Chồng ả là một thằng cha trầm lặng thật tuyệt. Sùng bái cả mặt đất dưới bước chân ả. Chẳng bao giờ thấy cái gì - hay vờ không thấy.” Cha Lane nói với giọng trầm trầm đầy cảm xúc mãnh hệt: “Phụ nữ như thế là một mối đe dọa - đe dọa đối với… Ông dừng lại. Arlena Stuart đã ra tới mép nước. Hai cậu trai choai nhảy dựng lên rồi hăm hở tiến tới. Cô đứng lại mỉm cười với họ. Mắt cô lướt nhanh ngang qua họ tới chỗ Patrick Redfern đang đi dọc theo bãi biển. Hercule Poirot nghĩ như thể ông đang theo dõi cây kim la bàn. Patrick Redfern đi chệch đường, đôi chân anh ta đổi hướng. Kim la bàn dù muốn hay không cũng phải tuân theo quy luật của từ trường và xoay về hướng bắc. Hai chân Patrick Redfern đưa anh ta đến với Arlena Stuart. Cô đứng đó mỉm cười với anh ta. Rồi cô chầm chậm di chuyển dọc theo bải biển sát bên những ngọn sóng. Anh ta đi cùng với cô. Cô nằm duỗi dài ra cạnh một tảng đá. Patrick buông mình nằm xuống chỗ đay đá cuội ở bên cạnh. Christine Redfern lập tức đứng dậy và đi vào khách sạn. Có một thoáng im lặng không thoải mái sau khi cô ta bỏ đi. Rồi Emily Brewster nói: “Hơi quá tệ đấy. Cô ấy nhỏ bé, dễ thương. Họ chỉ mới lấy nhau chừng một hai năm thôi.” “Cái ả tôi vừa nhắc đến,” thiếu tá Barry nói, “ở Simla ấy. Ả đã làm đổ vỡ một cặp vợ chồng thật sự hạnh phúc. Có vẻ đáng thương, nhỉ?” Brewster nói: “Có một hạng đàn bà thích phá nát gia đình người ta.” Chừng một vài phút sau cô nói thêm, “Patrick Redfern là đồ ngu ngốc!” Hercule Poirot không nói gì. Ông đang chăm chú nhìn xuống bãi biển. Nhưng không phải nhìn Patrick và Arlena. Cô Brewster lại nói: “À, tôi nên đi chèo chiếc thuyền thì hơn.” Cô rời khỏi họ. Thiếu tá xoay cặp mắt như hai trái lý gai nấu chín ngó Poirot có vẻ hơi tò mò: “Này Poirot, ông đang nghĩ gì vậy? Ông chưa mở miệng. Nghĩ gì về ả mỹ nhân ngư ấy? Cũng nóng bỏng đấy chứ nhỉ?” Poirot trả lời: “C’est possible.” “À ra thế, ông bạn già. Tôi biết ngay ông là người Pháp mà.” Poirot lạnh lùng đáp lại: ‘Tôi không phải người Pháp!” “À, đừng nói với tôi ông chẳng hề để mắt đến gái đẹp nhé! Ông nghĩ gì về cô ả, hử?” “Cô ta không còn trẻ nữa.” “Điều ấy có quan trọng gì đâu chứ? Đàn bà trẻ hay già là tùy ở vẻ bề ngoài. Dáng cô ả cũng được đó chứ.” Poirot gật đầu nói: “Phải, cô ta xinh đẹp thật. Nhưng rốt cuộc sắc đẹp không phải là điều đáng quan tâm. Không phải sắc đẹp đã khiến mọi cái đầu – ngoại trừ một cái – đều xoay ra bãi biển để ngắm nhìn cô ta đâu.” “Chính thế, ông bạn ạ. Chính là điều ấy.” Thiếu tá nói, rồi đột nhiên tò mò hỏi, “Ông đang nhìn cái gì quá chăm chú vậy?” Poirot đáp: “Tôi đang nhìn trường hợp ngoại lệ. Người đàn ông duy nhất không ngước nhìn lên khi cô ta đi ngang qua.” Thiếu tá Barry nhìn theo ánh mắt đăm đăm của Poirot dừng lại nơi một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi, tóc vàng hoe và da rám nắng. Khuôn mặt trầm tĩnh dễ ưa, ông ta đang ngồi trên bãi biển vừa hút ống điếu vừa đọc báo The Times. “À ra thế. Đó là ông chồng, ông bạn ạ, là Marshall đó.” “Phải, tôi biết rồi,” Hercule Poirot đáp. Thiếu tá Barry cười khục khặc. Là đàn ông độc thân, ông ta vẫn quen nghĩ Người Chồng có ba nghĩa - là kỳ đà cản mũi, kẻ gây phiền phức hay gã bảo vệ. “Có vẻ là một thằng cha tử tế đó,” ông ta nhận xét. Thật trầm lặng. Tôi tự hỏi phải chăng thời cơ của tôi đã tới?” Thiếu tá Barry đứng dậy và đi lên về phía khách sạn. Cái liếc nhìn của Poirot chầm chậm chuyển sang khuôn mặt cha Lane. Vị cha xứ đang chăm chú theo dõi Arlena Marshall và Patrick Redfern. Chợt ông quay sang Poirot. Trong đôi mắt ông có một thứ ánh sáng nghiêm khắc cuồng tín. “Người đàn bà ấy là cái ác suốt từ đầu đến cuối. Ông có nghi ngờ điều đó không?” cha Lane nói. Poirot đáp thật chậm rãi: “Thật khó lòng biết chắc ạ.” “Nhưng là người còn sống, ông không cảm thấy nó trong không trung hay sao? Khắp xung quanh ông. Sự hiện hữu của Cái Ác.” Poirot chầm chậm gật đầu. Mời bạn đón đọc Tội Ác dưới Ánh Mặt Trời của tác giả Agatha Christie & Trần Hữu Kham (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lắng Nghe Trong Gió - Mạch Gia
Lắng Nghe Trong Gió - Tác phẩm đạt giải Mao Thuẫn 2008 của tác giả Mạch Gia đi sâu vào miêu tả những gì sâu sắc nhất thuộc về nhân tính và trí tuệ con người. Tác phẩm là câu chuyện về đề tài phản gián, phần 1 của Phong Thanh, mang đến cho người đọc những kiến thức mới mẻ về hoạt động của đơn vị làm công tác thu thập thông tin tình báo của Trung Quốc. Bằng những chi tiết ly kỳ, những logic chặt chẽ và cách kể chuyện hấp dẫn như một mê cung huyền bí, Mạch Gia đã đưa người đọc vào một không gian đóng đến cực độ và đột ngột mở ra những khả năng phong phú của câu chuyện. Từ Lắng Nghe Trong Gió đến Phong Thanh, Mạch Gia giống như một người điều tra tinh thần tài tình, từ những góc độ mà người khác không thể tưởng tượng, từ những chỗ tưởng chừng như đã kết thúc, ông đã đem lại những kì tích cho bạn đọc. Ông đã dùng trí tuệ của mình để đặt những bước chân vững chắc lên mảnh đất nhân tính của con người... *** Một người mười năm không gặp, bỗng một hôm gặp lại ở ngoài phố, hoặc một người không quen biết, bỗng một hôm trở thành bạn tâm giao, sau đấy cuộc đời anh như nước gặp nước, hoặc như nước gặp lửa, sự thay đổi không thể nào hiểu nổi bắt đầu xuất hiện. Tôi tin rằng, những chuyện như vậy ai cũng có. Tôi cũng có. Nói thẳng ra, quyển sách này bắt nguồn từ một lần gặp gỡ tình cờ của tôi. Cuộc gặp gỡ tình cờ này thật sự rất có ý nghĩa. Chuyện xảy ra vào mười hai năm trước, khi đó tôi còn là một thanh niên chưa đầy 30 tuổi, làm công việc bình thường, đi công tác chưa có tiêu chuẩn đi máy bay. Nhưng có một lần, sếp của tôi lên Bắc Kinh báo cáo công việc với cấp trên, nội dung báo cáo đã được viết trên giấy trắng mực đen, chỉ cần sếp dọc đường đọc đi đọc lại cho nhớ, khỏi cần tôi đi theo. Nhưng sau đấy cấp trên thay đổi ý kiến, muốn nghe báo cáo trực tiếp, sếp tôi lúng túng, vội vã triệu tôi “bay” tới, để tôi chuẩn bị tài liệu tại chỗ cho ông. Vậy là lần đầu tiên tôi được bước lên máy bay. Giống như các nhà thơ vẫn nói, nhờ vào sức mạnh của bầu trời, chỉ hai tiếng đồng hồ sau tôi đã đến Bắc Kinh. Sếp cuối cùng vẫn là sếp, ông ra tận sân bay đón tôi, tất nhiên không phải vì yêu quý gì nhau mà, chủ yếu là để tôi “nhanh chóng nắm bắt tình hình”. Nhưng vừa ra khỏi sân bay, một đồng chí công an rất ngang nhiên đứng chắn giữa chúng tôi, không cần hỏi lôi thôi, yêu cầu tôi đi theo anh ta. Tôi hỏi có chuyện gì, anh ta bảo cứ đi rồi sẽ biết. Nói xong, anh ta đẩy tôi đi, khiến vị sếp còn bối rối hơn cả tôi. Dọc đường, ông hỏi tôi có chuyện gì xảy ra, tôi đâu biết. Có thể khẳng định đây là cuộc “đưa đi” đầy bí mật, nếu không chỉ là chuyện nhầm lẫn. Tôi phải nhắc đi nhắc lại với “hai vị” công an tên tôi là Mạch Gia - Mạch là lúa mạch, Gia trong chữ gia đình, chứ không phải gia giảm. Thật ra, bố tôi đặt tên cho tôi trước tiên là do kém hiểu biết, không biết trên đời này có Thánh địa Mecca[1], thứ nữa để tỏ ra khiêm tốn, ông yêu cầu tôi phải khiêm tốn, vì ý nghĩa của hai chữ Mạch Gia, nói thẳng ra là đồng ruộng, là cày cấy, là nông dân, rất chất phác. ... Mời các bạn đón đọc Lắng Nghe Trong Gió của tác giả Mạch Gia.
Pháp y Tần Minh: Người Giải Mã Tử Thi - Tần Minh
Sách Nói Kẻ Dọn Rác Gồm một chuỗi những vụ điều tra phá án với những vụ án lạ kỳ, bộ tiểu thuyết Pháp y Tần Minh được biên soạn dựa trên kinh nghiệm của bác sĩ pháp y nổi tiếng Tần Minh. Trong bộ sách, tác giả hóa thân thành nhân vật chính lần mò từng dấu vết để tìm kiếm sự thật đang bị kẻ xấu che đậy. Ở Việt Nam, tiểu thuyết trinh thám được xuất bản nhiều, tuy nhiên liên quan đến nghề pháp y thì đây là tác phẩm lần đầu được ra mắt. Với kết cấu logic phù hợp với thực tiễn, bộ sách đã khắc họa rõ nét những gian khổ vất vả tình yêu mà tác giả dành cho nghề nghiệp mình theo đuổi. Được duy trì bởi phong cách nhất quán, từng vụ án riêng rẽ được kết nối với trục chính xuyên suốt cùng hành văn mạch lạc, mục đích chính của Pháp y Tần Minh là phổ biến kiến thức tới độc giả, hướng tới tinh thần khoa học chân chính. Với câu nói thách thức: "Muốn cho người không biết, trừ phi mình đừng làm", tác giả cũng chính là nhân vật chính trong tác phẩm khẳng khái đối đầu với bọn tội phạm đang lẩn khuất trong bóng tối. Tinh thần nêu cao chính nghĩa, truy tìm đến cùng sự thật chính là một trong những điều nổi bật tạo nên sức hấp dẫn của bộ tiểu thuyết trinh thám này. Bộ tiểu thuyết Pháp y Tần Minh gồm có: + Quyển 1: Người giải mã tử thi + Quyển 2: Lời khai câm lặng + Quyển 3: Ngón tay thứ mười một + Quyển 4: Kẻ dọn rác + Quyển 5: Người sống sót *** Lần đầu tiên đứng trước phòng giải phẫu ngoài trời, đối mặt với một thi thể còn mới nguyên, là lúc tôi mới vừa tròn 18 tuổi. Anh Thánh Binh phụ trách mổ chính, mặt mũi nghiêm túc, động tác cẩn thận tỉ mỉ, từ từ kéo túi bọc tử thi ra. Vừa làm, anh còn vừa nhìn tôi chằm chằm, tự nhiên khiến trái tim tôi càng lúc đập càng nhanh. Nhịp tim đập tưng bừng bất gi{c đưa tôi trở về là thằng nhóc luôn lẽo đẽo theo ba, mặt đầy hiếu kì và mong ngóng. Đừng chỉ thấy ba con bề ngoài hùng dũng, có thể ba con đã phải chịu khổ rất nhiều! Ngay trước khi ba đi làm cũng là lúc tôi mong chờ nhất trong ngày. Nhìn thấy ba đeo khẩu súng bóng loáng, cài từng chiếc nút áo trên bộ cảnh phục, trong lòng tôi tự nhiên cứ phấn khởi không chịu được. Ba thấy thế thì thích lắm, thường hôn‚ chụt một cái lên má tôi. Ba tôi thuộc thế hệ những kĩ thuật viên hình sự chuyên nghiệp đầu tiên, là chuyên gia khám nghiệm dấu vết. Dĩ nhiên ba tôi cũng hi vọng đứa con trai nhỏ kế nghiệp cha. Nhưng mẹ của tôi lại khăng khăng không đồng ý. Một đời làm người nhà cảnh sát, mẹ tôi không nỡ nhìn con trai lao đi bán mạng. Theo ý của bà, cứ yên ổn làm bác sĩ chính là con đường tốt nhất. Bản thân mẹ tôi cũng là y tá trưởng tại một bệnh viện, bà nghĩ như thế thì chuyện lớn nhỏ hai mẹ con đều có thể giúp đỡ lẫn nhau. Nói đi cũng phải nói lại, thầy thuốc còn có thể cứu người, so với cảnh sát đâu hề kém cạnh! ...   Mời các bạn đón đọc Pháp y Tần Minh: Người Giải Mã Tử Thi của tác giả Tần Minh.
Hoa Hồng Máu
Will Robie là một sát thủ bậc thầy, át chủ bài của CIA trong những vụ ám sát các nhân vật cấp cao trên thế giới để bảo toàn lợi ích của nước Mỹ. Một điệp viên sống trong bóng tối, trong cô độc. Không ai có thể sánh tầm với tài năng của anh, không ai ngoại trừ Jessica Reel. Nhưng rồi, đột ngột như một phát súng chí mạng, Reel trở mặt với CIA và ra tay hạ sát 2 thành viên của tổ chức. Để ngăn chặn Reel, tổ chức cử Robie đi, với nhiệm vụ là mang Reel về, bất kể sống hay chết. Lấy độc trị độc. Muốn hạ một một sát thủ bậc thầy, phải viện đến một bậc thầy sát thủ. Nhưng càng lần theo dấu Reel, Robie càng thấy đằng sau sự phản bộ đó là vô số uẩn khúc. Những hồ sơ cá nhân bị chỉnh sửa, những manh mối bị lấp liếm, những điệp vụ không ai biết. Và nữa, tại hiện trường ám sát 2 nhân vật của tổ chức, Reel đều để lại những cánh hoa hồng trắng vấy máu. Cô muốn nói gì với anh? Những cánh hoa hồng đó có ý nghĩa gì?   Và sau tất cả, ai mới là kẻ phản bội? *** DAVID BALDACCI sinh ngày 05/08/1960, là một tác giả sách bán chạy người Mỹ gốc Ý. Ông sinh ra và lớn lên ở Virginia. Ông tốt nghiệp khoa Luật của Đại học Virginia, sau đó hành nghề luật chin năm tại Washington, D.C. Trong quá trình làm luật sư, ông chuyển sang viết tiểu thuyết. Baldacci xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu niên năm 1996. Đến nay, ông đã cho ra mắt 33 tiểu thuyết, bao gồm cả tiểu thuyết dành cho thiếu niên và người lớn. Tác phẩm của ông luôn nằm trong danh sách bán chạy nhất tại Mỹ. Tiểu thuyết của ông đã được dịch ra 45 thứ tiếng và bán tại 80 quốc gia, với trên 110 triệu bản in. Hiện ông sống tại Virginia cùng vợ và hai con. Hoa hồng máu nằm trong series tiểu thuyết về nhân vật Will Robie, được xuất bản tại Mỹ năm 2013. *** Tóm tắt: Hoa hồng máu là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hành động của tác giả David Baldacci. Câu chuyện kể về cuộc đối đầu giữa hai sát thủ bậc thầy của CIA: Will Robie và Jessica Reel. Will Robie là một sát thủ được đào tạo bài bản, với nhiệm vụ ám sát các nhân vật cấp cao trên thế giới để bảo vệ lợi ích của nước Mỹ. Jessica Reel cũng là một sát thủ tài năng, từng là đồng đội của Robie. Một ngày nọ, Reel đột ngột trở mặt với CIA và ra tay hạ sát hai thành viên của tổ chức. Robie được giao nhiệm vụ truy bắt Reel, bất kể sống hay chết. Robie sớm nhận ra rằng đằng sau sự phản bộ của Reel là một âm mưu đen tối. Anh phải đối đầu với Reel trong một cuộc đấu trí đấu sức đầy căng thẳng, để tìm ra sự thật và ngăn chặn âm mưu đó. Review: Hoa hồng máu là một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và lôi cuốn. Tác phẩm có nhiều tình tiết kịch tính và bất ngờ, khiến người đọc không thể rời mắt. Nhân vật: Will Robie: Một nhân vật chính hấp dẫn và đáng nhớ. Anh ta là một sát thủ tài năng, nhưng cũng có những mâu thuẫn nội tâm. Jessica Reel: Một nhân vật phức tạp và đáng đồng cảm. Cô là một sát thủ giỏi, nhưng cũng là nạn nhân của một âm mưu đen tối. Cốt truyện: Cốt truyện của Hoa hồng máu được xây dựng rất chặt chẽ và hấp dẫn. Tác phẩm có nhiều tình tiết kịch tính và bất ngờ, khiến người đọc không thể rời mắt. Đánh giá: Hoa hồng máu là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, xứng đáng là một trong những tác phẩm kinh điển của thể loại trinh thám hành động. Điểm cộng: Nhân vật được xây dựng tốt, có chiều sâu và tính cách phức tạp. Cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn và có nhiều tình tiết bất ngờ. Thể hiện rõ ràng những mâu thuẫn giữa thiện và ác. Điểm trừ: Một số tình tiết hơi phi logic, khiến người đọc cảm thấy khó hiểu. Kết luận: Hoa hồng máu là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại trinh thám hành động. *** Cảm thấy như được tiếp thêm năng lượng bởi cái chết sắp xảy đến, Doug Jacobs chỉnh lại tay nghe bộ đàm và tăng độ sáng màn hình máy tính. Giờ thì hình ảnh đã rõ mồn một, gần như thể hắn đang ở đó. Nhưng tạ ơn Chúa vì hắn đã không có mặt ở nơi ấy. Nơi ấy cách đây cả ngàn dặm, nhưng không ai có thể nhận ra nếu chỉ nhìn vào màn hình. Họ không đủ sức chi trả để hắn có mặt trực tiếp tại nơi ấy. Vả lại, còn nhiều người khác thích hợp với công việc đó hơn. Hắn sẽ sớm liên lạc với một trong số những người đó. Jacobs liếc nhah khắp bốn bức tường và chiếc cửa sổ duy nhất trong văn phòng ở Washington, D.C. đầy nắng của hắn. Đó là một toà nhà ít tầng bằng gạch trông rất đỗi bình thường tại khu phức hợp bao gồm cả những toà nhà lịch sử, hoặc xập xệ, hoặc đang được trùng tu. Nhưng một số yếu tố trong toà nhà của Jacobs lại không bình thường chút nào. Trong đó bao gồm cổng trước bằng thép kiên cố với hàng rào cao chót vót xung quanh khu đất. Lính gác có vũ trang đi tuần khắp các hành lang bên trong và camera giám sát bên ngoài. Nhưng nhìn từ ngoài vào không có dấu hiệu nào cho biết bên trong đang diễn ra chuyện gì. Và có rất nhiều chuyện đang diễn ra bên trong, Jacobs nhấc cốc cà phê mới pha lên, hắn vừa bỏ ba gói đường vào. Phải tập trung cao độ để theo dõi màn hình. Đường và caffeine đem lại cho hắn sự tập trung đó. Nó thích hợp với cảm giác hưng phấn mà hắn sẽ có trong vài phút tới. Hắn nói vào bộ đàm. “Alpha Một, hãy xác định vị trí,” hắn nói dứt khoát. Hắn chợt thấy mình giống như người điều khiển không vận đang cố giữ cho bầu trời bình yên. Ở khía cạnh nào đó thì mình đúng là như vậy. Chỉ có điều mục tiêu của tổ chức là tạo ra cái chết trong mỗi chuyến đi. ... Mời các bạn đón đọc Hoa Hồng Máu của tác giả David Baldacci.
Kẻ Báo Thù - Jo Nesbo
Cũng như mọi câu chuyện khác của Jo Nesbo không bao giờ giống như vẻ ngoài của nó, Kẻ báo thù như một mê cung, được cấu trúc sao cho đúng vào lúc người đọc tưởng rằng mình đã đoán ra tất cả thì một ngã rẽ mới lại xuất hiện, cứ thế cho tới tận khi kết thúc. Jo Nesbo dành nhiều thời gian để nói về quá khứ, tính cách và các mối quan hệ của những người liên quan đến vụ án hơn là hành vi thủ ác của cùng các thủ thuật phá án. Cái cách ấy có thể thử thách lòng kiên nhẫn của nhiều độc giả, nhưng lại khiến cuốn sách đáng đọc hơn theo một cách khác: Nó góp thêm vào trải nghiệm đọc của ta những hiểu biết về chính con người. Trên băng ghi hình camera theo dõi, tên cướp ngân hàng đã bắn chết một nhân viên. Thanh tra Harry Hole bắt đầu điều tra, nhưng sau một bữa tối với người yêu cũ, anh đã thức dậy với trí nhớ trống toang về những gì đã diễn ra trong vòng 12 giờ trước. Thế rồi người ta phát hiện ra xác chết của cô gái và anh bắt đầu nhận được những email đe dọa: kẻ nào đang gài bẫy để đổ tội giết người cho anh? *** “Xuất sắc, phức tạp, thực sự lôi cuốn.” Evening Standard “Vừa phức tạp vừa thanh tú… Hay đến nao lòng.” New York Times “Một thành tựu ấn tượng tuyệt vời!  Tham vọng về quy mô, thành thục khi khai triển.” Los Angeles Times *** Jo Nesbo sinh năm 1960, là tác giả viết tiểu thuyết dành cho thiếu nhi và cho cả người lớn thành công nhất tại Na uy. Ông là một nhà văn, nhưng ông cũng là một nhà kinh tế học và ông đã làm việc như là một môi giới chứng khoán và nhà báo. Là một tác giả, ông đã viết cuốn sách 16 và tiểu thuyết ngắn. cuốn sách 9 của ông có một loạt về cảnh sát Harry Hole và 3 trong số họ là một loạt các cuốn sách của trẻ em.  Ông đã giành được nhiều giải thưởng cho các thành tựu của ông là một nhà văn.. *** Truyện bắt đầu khi có một vụ cướp ngân hàng xảy ra và một nữ nhân viên ngân hàng bị bắn chết khi người trưởng chi nhánh không giao tiền theo thời gian quy định của tên cướp. Harry Hol vào cuộc điều tra. Trong thời gian đó anh cũng gặp lại người yêu cũ Anna Bethsen, một cô gái Digan, một nghệ sĩ bất đắc chí đang nỗ lực hoàn thiện tác phẩm Kẻ Báo Thù cho cuộc triển lãm sắp tới. Cô gái này cũng chết một cách bí ẩn sau một bữa tối với Harry và điều tệ hại là anh bị xóa hoàn toàn ký ức về buỏi tối hôm đó. Tiếp đó, Harry liên tục nhận được email đe dọa và anh bắt đầu bấn loạn với việc không làm chủ được ký ức cùng những thay đổi xung quanh: phải đối mặt với hàng loạt vụ cướp ngân hàng táo tợn, cái chết bi thảm của một doanh nhân nổi tiếng và việc một tên cướp bị bắn bởi người cảnh sát tài năng. Tất cả các vụ này hóa ra đều có liên quan đến nhau và như mọi tác phẩm khác của Jo Nesbø, động cơ của thủ phạm là để báo thù. Với sự hỗ trợ của Beate Lønn và cả tên tù nhân khét tiếng Raskol, Harry đã dần khám phá ra kẻ giết người chính là chồng của cô nhân viên ngân hàng và nút thắt của những đầu mối rắc rối Harry gặp phải chính là cô bạn gái đã mất Anna. Kết thúc câu chuyện là việc hé mở những chi tiết liên quan đến cái chết của Ellen Gjelten, nạn nhân trong phần trước của series truyện, Chim Cổ Đỏ, để gợi mở ra suy ngẫm, phán đoán ở các tập tiếp theo. Khai thác triệt để thế mạnh về việc xây dựng tình tiết, sắp xếp bố cục và khai thác tinh tế diễn biến tâm lý nhân vật, qua 6 phần gồm 51 mục của Kẻ Báo Thù, Jo Nesbø đã đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến ngỡ ngàng khác để nhận ra sức sống và sự hủy diệt ghê gớm của lòng thù hận cũng như sức mạnh của lòng tin, công lý, sự vị tha. Nhà xuất bản Hà Nội trân trọng giới thiệu! Mời các bạn đón đọc Kẻ Báo Thù của tác giả Jo Nesbo.