Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

KIM TÚY TÌNH TỪ - NGUYỄN DU (PHẠM KIM CHI CHÚ THÍCH)

Cuốn "Kim Túy tình từ" này được Huỳnh Thúc Mậu dịch thuở triều vua Duy Tân, năm thứ 9 tháng Giêng từ bản chính gốc "Kim Túy Tình Từ" (bản cũ do cháu dòng họ Nguyễn Du là Nguyễn Mai, hiệu Long Khê hữu tuyết cất giữ, có chú dẫn điển tích rõ ràng). Chữ nghĩa để đời thêm nặng giá; dầu xứ khác kiểu thơm truyền đặng khắp, bia bài nơi chúng ví dường hoa.

Cuốn "Kim Túy tình từ" này được Huỳnh Thúc Mậu dịch thuở triều vua Duy Tân, năm thứ 9 tháng Giêng từ bản chính gốc "Kim Túy Tình Từ" (bản cũ do cháu dòng họ Nguyễn Du là Nguyễn Mai, hiệu Long Khê hữu tuyết cất giữ, có chú dẫn điển tích rõ ràng). Chữ nghĩa để đời thêm nặng giá; dầu xứ khác kiểu thơm truyền đặng khắp, bia bài nơi chúng ví dường hoa.

Cuốn sách in ra cho tài nhản tao khách xem chung, ngỏ biết ý nhiệm màu, lời tao nhã và khuôn linh sắp đặt cho người đời, ít ai tròn qua trời đặng. Xin chư vị cao minh vui lòng xem chơi, dẫu thấy sai suyễn cho nào, rộng lòng sông biển. Phạm Kim Chi - chú thích.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Nguyễn Du Trên Đường Gió Bụi (Hoàng Khôi)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nguyễn Du Trên Đường Gió Bụi PDF của tác giả Hoàng Khôi nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
170 Nhà Thơ Nga (Nhiều Tác Giả)
Đây là ebook được tập hợp bao gồm những sử thi, bài thơ của các tác giả Nga. eBook 170 nhà thơ Nga dưới đây sẽ được chia ra 5 phần gồm:Thế kỷ XIX: Thế kỷ vàngThế kỷ XX: Thế kỷ bạcThơ Nga Xô ViếtCác nhà thơ chưa có tiểu sử Mời các bạn đón đọc. Tìm mua: 170 Nhà Thơ Nga TiKi Lazada Shopee Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 170 Nhà Thơ Nga PDF của tác giả Nhiều Tác Giả nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
HÀ THÀNH THẤT THỦ VÀ HOÀNG DIỆU (VĂN CỔ VÔ DANH) - HOÀNG XUÂN HÃN chú dịch
Trong tập sách này, chúng tôi góp những bài văn kể chuyện hoặc vịnh thời-cuộc và nhân-vật ở Hà-nội trong hai vụ người Pháp đánh Hà-nội vào năm 1873 và 1882: Trong tập sách này, chúng tôi góp những bài văn kể chuyện hoặc vịnh thời-cuộc và nhân-vật ở Hà-nội trong hai vụ người Pháp đánh Hà-nội vào năm 1873 và 1882: Bài đầu là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ CA, kể chuyện Hà-nội thất-thủ hai lần, và tình-cảnh nhân-dân ở Bắc sau cuộc thứ hai. Thể văn là song-thất lục-bát. Bài thứ hai là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ CHÍ CÔNG QUÁ CA, kể chuyện thất-thủ năm 1882, để ca-ngợi tiết-tháo của quan tổng-đốc Hoàng-Diệu, và chế-diễu các quan khác. Thường gọi bài này là HÀ-THÀNH CHÍNH-KHÍ-CA, hay gọi tắt là CHÍNH-KHÍ-CA. Thể văn là lục-bát. Đoạn thứ ba là ĐIẾU HOÀNG-DIỆU, gồm ba bài tự-sự và khen quan tổng-đốc, làm bằng lối văn ca-khúc, bốn bài thơ chữ Hán và hai đôi đối-liễn của quan tuần-phủ Hà-nội Hoàng-Hữu-Xứng và của quan khâm sai tổng-đốc Hà-nội Trần-Đình-Túc. Chúng tôi có dịch các bài thơ và câu đối ấy. Đoạn thứ tư là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ-ÁN gồm chín bài thơ thất-ngôn bát-cú, luận công tội của các quan tỉnh Hà-nội. Đề-mục cũng chúng tôi đặt. Cuối cùng sẽ phụ lục những bài dịch Hán-văn hay Pháp-văn có liên-can đến việc Hà-nội năm Nhâm ngọ. Những bài này đều là những chứng trực-tiếp cho cuộc xử án các nhân-vật đương-thời. Giá-trị các tài-liệu ấy về lịch-sử rất quí. Mời các bạn đón đọc  Hà Thành Thất Thủ Ca Và Hoàng Diệu của tác giả  Vô Danh. (Hoàng Xuân Hãn chú dịch)Bài đầu là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ CA, kể chuyện Hà-nội thất-thủ hai lần, và tình-cảnh nhân-dân ở Bắc sau cuộc thứ hai. Thể văn là song-thất lục-bát.Bài thứ hai là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ CHÍ CÔNG QUÁ CA, kể chuyện thất-thủ năm 1882, để ca-ngợi tiết-tháo của quan tổng-đốc Hoàng-Diệu, và chế-diễu các quan khác. Thường gọi bài này là HÀ-THÀNH CHÍNH-KHÍ-CA, hay gọi tắt là CHÍNH-KHÍ-CA. Thể văn là lục-bát.Đoạn thứ ba là ĐIẾU HOÀNG-DIỆU, gồm ba bài tự-sự và khen quan tổng-đốc, làm bằng lối văn ca-khúc, bốn bài thơ chữ Hán và hai đôi đối-liễn của quan tuần-phủ Hà-nội Hoàng-Hữu-Xứng và của quan khâm sai tổng-đốc Hà-nội Trần-Đình-Túc.Chúng tôi có dịch các bài thơ và câu đối ấy. Đoạn thứ tư là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ-ÁN gồm chín bài thơ thất-ngôn bát-cú, luận công tội của các quan tỉnh Hà-nội. Đề-mục cũng chúng tôi đặt.Cuối cùng sẽ phụ lục những bài dịch Hán-văn hay Pháp-văn có liên-can đến việc Hà-nội năm Nhâm ngọ. Những bài này đều là những chứng trực-tiếp cho cuộc xử án các nhân-vật đương-thời. Giá-trị các tài-liệu ấy về lịch-sử rất quí.Mời các bạn đón đọc của tác giả
THI TÙ TÙNG THOẠI - MINH-VIÊN HUỲNH THÚC KHÁNG
Ngày 15-8-1911, gần 100 năm trước, tại nhà ngục Côn Đảo của thực dân Pháp đã xảy ra một sự kiện hiếm có: Tù quốc sự là các nhà khoa bảng đã tổ chức một cuộc vịnh thơ lấy đề là “Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn” (Ngày này năm trước đến Côn Lôn) để kỷ niệm tròn ba năm ngày bị  đày với án “lưu biệt xứ; ngộ xá bất nguyên” (lưu đày vĩnh viễn khỏi xứ; gặp dịp ân xá cũng không được tha). Chuyện làm thơ hy hữu ấy cùng nhiều chuyện khác trong tù đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng ghi lại  trong tác phẩm “Thi tù tùng thoại”. Ngày 15-8-1911, gần 100 năm trước, tại nhà ngục Côn Đảo của thực dân Pháp đã xảy ra một sự kiện hiếm có: Tù quốc sự là các nhà khoa bảng đã tổ chức một cuộc vịnh thơ lấy đề là “Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn” (Ngày này năm trước đến Côn Lôn) để kỷ niệm tròn ba năm ngày bị  đày với án “lưu biệt xứ; ngộ xá bất nguyên” (lưu đày vĩnh viễn khỏi xứ; gặp dịp ân xá cũng không được tha). Chuyện làm thơ hy hữu ấy cùng nhiều chuyện khác trong tù đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng ghi lại  trong tác phẩm “Thi tù tùng thoại”. Cụ Huỳnh đề tựa cho cuốn “sử tù” của mình như sau: “Bản này là ký giả chép góp thi (thơ) và chuyện của một ít bạn chính trị phạm đồng tội trong thời gian 13 năm bị đày ở Côn Đảo (Poulo Condore) mà ký giả là một người trong đồng bọn ấy, tai nghe mắt thấy toàn là chuyện thật khởi đầu năm 1908 đến năm 1921”. (Mính Viên, Thi tù tùng thoại, NXB Nam Cường, Sài Gòn, tháng 10-1951, tr.7).Cuốn sử ấy bắt đầu bằng bài thơ của cụ Phan Châu Trinh ứng khẩu trên đường bị giải ra đảo: “Luy luy già tỏa xuất đô môn/ Khẳng khái bi ca thiệt thượng tồn/ Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy/ Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn”. Cụ Huỳnh dịch: “Xiềng gông cà kệ biệt Đô môn/ Khẳng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn/ Đất nước đắm chìm nòi giống mỏn/Thân trai nào sợ cái Côn Lôn” ( Sđd, tr.12; từ đây trở đi, chỉ ghi các câu thơ dịch của cụ Huỳnh – NV).Nhưng, theo cụ Huỳnh thì cụ Ngô Đức Kế mới là người làm thơ tù đầu tiên. Năm 1907, một năm trước ngày bị giải ra Côn Lôn, tại nhà ngục Hà Tĩnh, cụ nghè Ngô đã viết “Ham học văn minh đà mấy lúc/ Mão tù đâu khéo cấp cho ông?” (sđd tr.13) Người thứ ba được nhắc đến là cụ nghè Trần Quý Cáp. Nghe tin cụ Trần bị xử chém ở Khánh Hòa, nhớ lại lúc chia tay ở Tourane, cụ Huỳnh khóc mấy vần thảm thiết “Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng/ Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng/ Chia tay chén rượu còn đương nóng/ Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền” (tr.17).Nhờ cuốn sử tù của cụ Huỳnh Thúc Kháng, người đời sau biết được diễn tiến cái chết bi tráng ngoài đảo của cụ Tiểu La Nguyễn Thành, của ông tú tài làng Chiên Đàn (Tam Kỳ) là Dương Thạc, của ông hương chức làng Hà Lam (Thăng Bình) là Nguyễn Quần cùng nhiều vị khác.Bị đày ra Côn Lôn cùng cụ Huỳnh chuyến ấy, ngoài các đồng hương như các cụ Phan Thúc Duyện, Lê Bá Trinh, Lê Bá Huy, Nguyễn Cảnh, còn có các văn thân, sĩ dân Nghệ Tĩnh, Bình Định, Quảng Ngãi: “Kể cả thân sĩ cùng dân mấy tỉnh cùng đày đi chuyến tàu ấy là 27 người. Mà văn hào chiếm gần 20 người. Cái họa khoa giáp cùng mạt kiếp Hán học rõ là một đoạn thảm kịch trên sử Hồng Bàng xưa nay chưa từng có!”(tr.33).Các người tù có chữ nghĩa đó, cùng với các văn thân bị đày ra các năm sau, được bọn cai ngục gọi chung là “tù quan to” và bị đối xử một cách “đặc biệt”. Cụ Huỳnh kể một câu chuyện cười ra nước mắt: “Một ngày nọ, có một chú ma tà nhỏ tuổi coi xâu đập đá thấy “tụi quan to” đập đá ươn quá, tay cầm cây roi mây đi tự đầu này đến đầu kia hỏi từng người: Mày cái gì? – Bẩm cử nhân. Chú cho một roi”. Rồi cụ cho biết lúc chú lính gặp một người mà “khi bẩm có bộ cười, chú ta cũng cho một roi khá đau và bảo: “Mày ăn nói vô lễ, cho một roi từ này về sau biết tay tao!” Rồi ấm sanh, tú tài đều được ngọn roi ấy, duy có người xưng chánh tổng được khỏi roi” (tr.48).Cụ Huỳnh còn ghi lại nhiều chuyện rất sinh động như cuộc đối đáp giữa cụ Phan Châu Trinh và viên thống soái Sài Gòn đại diện phái bộ Pháp ra Côn Lôn điều tra về hành tung của cụ Phan trong quá khứ (tr.104-107); hoặc như chuyện vượt ngục Côn Lôn bằng bè về đất liền rồi bị bắt trở lại của các ông Cửu Cai, Hy Cao và Kim Đài (tr.213-222). Câu chuyện vượt ngục ly kỳ của các ông này cùng rất nhiều chuyện về sinh hoạt của người tù trong nhà ngục Côn Lôn thời Pháp thuộc có thể giúp cho các nhà làm phim thời nay tái hiện một cách sinh động bộ mặt của chốn “địa ngục trần gian” giữa biển khơi vào đầu thế kỷ XX này.Cụ Huỳnh ghi lại “Thi tù tùng thoại” bằng trí nhớ; bởi trong tù, bọn thực dân cấm viết chữ Tây, chữ quốc ngữ mà chỉ cho viết bằng chữ Hán; đến khi ra tù thì mọi tài liệu chữ Hán – kể cả bản gốc “Thi tù tùng thoại” – chúng đều tịch thu. Vì thế, theo cụ, tất cả trứ tác của tù nhân đã đều “mất tích đáng tiếc” (tr.271). Bản “thi tù” hiện lưu hành là bản được cụ Huỳnh nhớ lại và dịch ra quốc ngữ. Xin giới thiệu trích lời mở đầu và một số bài thơ Tết ở Côn Lôn, Bảy mươi tuổi tự thọ, và các tác giả khác được trích từ tác phẩm “Thi tù tùng thoại”.(Trích)I. Lời mở đầu"Thi có cùng mà sau mới hay “tin như lời nói xưa, thì trên đời mà gọi là “cùng” không chi cùng hơn cảnh tù, đáng lẻ thơ của kẻ tù, lưu truyền khá nhiều mới phải vậy mà xét trên lịch sử phương đông, trên dưới ngàn năm, duy có mấy bài của Lý Bạch lúc dày có Gia Lạng, bài “ở trong ngục vịnh con ve”của Lạc Tân Vương (1) bài “chính khi ca “ của Văn Thiên Tường(2), bài thi “Vịnh lúc gần hành chính” của Dương Kế Thạnh (3) cùng ở nước ta thì bài trần tình của Cao Ba Nhạ, tờ khai của Đoàn Trưng…. Còn có truyền lại, ngoài ra không thấy thi văn tù bao nhiêu.Trái lại, những lối uống rượu ngắm hoa, trông trăng thưởng gió, cùng lối thi ứng thú tiêu khiển của bọn văn sĩ phong lưu, thôi thì đầy kho chật tủ, làm họa cho bàn in không biết là bao!Trên thi sử xưa nay, thừa bên này mà thiếu bên kia, nghĩa là thi phong lưu nhiều mà thi tù ít, là vì lẽ gì ? không phải trái với cái thuyết “cùng mới hay” kia sao?Như nói trong đám tù tội không có bọn văn nhân thì ngục Đảng có nhà Hán, ngục Thanh lưu đời đường, án Ngụy học đòi Tống, án Đông Lâm Phục Xá đời Minh, bọn văn hào thi bá mấy đời co tay bó chân làm bạn với gông cùm xiềng bộng, cúi đầu nín tiếng, ngồi than thở cái oai quyền vô thượng của bọn ngục quan và lính gác ngục, trước sau nối gót, biết bao nhiêu người ! Ai bảo rằng trong đám tù không có hạng văn hào thi bá ở phương Đông về thời đại quân chủ chuyên chế, tù là tội cả, không có hạng tù quốc sự (chánh trị phạm) như phương tây. Bởi thế nên đã vào tù, vô luận nhân cách lưu phẩm thế nào, người đời đều xem như vật ghê gớm đáng sợ, đã là vật đáng sợ trong xã hội, tự nhiên cái người đã mang cái huy hiệu “tù”. Công chúng đều tránh xa, với người đó còn không  dám lại gần, huống chi thi với văn, dù có nghe thấy thi văn của họ, không dùng dậy hũ tương thì phú cho ngọn lữa. Thi kẻ tù ít truyền là vì thế.Âu triều truyền sang, phong khí đổi mới, chế độ về thời đại chuyên chế bị triều lưu văn minh dội quét gần tàn, trên sử tấn hóa của loài người, trong đám tù tội có cái tên gọi là “tù quốc sự” khác với hạng tù thường, không những xã hội không bài xích như ngày xưa, mà trong có hạng chí sĩ chân nhân, trở được người tỏ lòng sùng bái và khen ngợi, từ đó mà thi tù mới truyền.Ở Âu Mỹ không nói, nói riêng về phương đông như sử duy Tân khẳng khái của Nhật Bản, cách mạng -  sử của Trung Hoa sau cuộc Mậu Tuất chánh biến, ở trong có nhiều chi của bọn tù, không sao kể hết. Nước ta sau cuộc dân biến năm 1908 về sau có nhiều thi của bọn tù, chính là theo lệ chung đời mới nói trên.Chuẩn theo lẽ ấy, tức gọi rằng thi tù mở một cái màn mới trong văn giới cùng đi với công lệ tấn hóa cũng không phải là quá đáng. Độc giả để ý xem                                                                                                                                                  Minh Viên                                                                                                                                             Huỳnh Thúc Kháng