Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vỡ Tổ

Lời giới thiệu của bản tiếng Anh Cuốn tiểu thuyết ngắn Vỡ tổ (tựa tiếng Anh là The Broken Nest hay Nashtanir theo tiếng Bengal) của Rabindranath Tagore ra mắt lần đầu năm 1901 và được đăng nhiều kì trên tờ tạp chí Bharāti [1] . Năm 1909, ông đưa truyện này vào một tập truyện ngắn chọn lọc, và năm 1926, lần đầu tiên Vỡ tổ có mặt trong tuyển tập chính thức các tiểu thuyết ngắn của ông. Bản này là bản dịch tiếng Anh đầu tiên của tác phẩm. Việc The Broken Nest chậm đến với bạn đọc phương Tây như vậy vừa lạ lùng vừa đáng tiếc, vì đây là một trong những tác phẩm hư cấu hay nhất của Tagore. Cuốn truyện lại càng nổi bật hơn nữa vì lần đầu tiên nó xuất hiện bằng tiếng Bengal tại một thời điểm mà truyện ngắn hiện đại như một hình thức văn học đặt ra những câu hỏi sâu xa mà không nhất thiết đưa ra câu trả lời, một thể loại tương đối mới cả ở Ấn Độ lẫn phương Tây. Trong lúc đó, tiếng Bengal đang có nguy cơ thất bại trong cuộc đấu tranh để được thừa nhận như một phương tiện ngữ ngôn văn học nghệ thuật nghiêm túc. Giải thích lí do cho cuộc đấu tranh này và vai trò của Tagore trong đó sẽ cho thấy rõ ý nghĩa văn học và lịch sử của The Broken Nest . Vào đầu thế kỉ 19, văn xuôi Bengal thực ra không tồn tại. Tiếng Bengal chắc chắn là ngôn ngữ nói hằng ngày ở Bengal, nhưng nó không được xem trọng cả trong đời sống lẫn văn học. Người Thổ Nhĩ Kì xâm lược Ấn Độ vào cuối thế kỉ 12 đã mang theo họ tiếng Ba Tư, mà người Ấn thấy dễ học hơn tiếng Ả Rập. Cho đến năm 1834, khi tiếng Anh chính thức thay thế, tiếng Ba Tư vẫn là ngôn ngữ chính của chính phủ và bộ máy hành chính. Thực ra sau năm 1800, Sankrit, tổ tiên của tất cả các ngôn ngữ Ấn Âu, không có đối thủ nào đáng kể ở Bengal, trở thành một phương tiện có uy tín để biểu đạt văn học, triết học và tôn giáo. Tuy nhiên năm 1801, một nhà truyền giáo người Anh tên là William Carey đã đề xuất một chương trình ngôn ngữ tại trường Cao đẳng Fort ở Calcutta, một trung tâm đào tạo nhân viên cho công ty Đông Ấn Độ, nhà cai trị trên thực tế ở Ấn Độ. Chương trình của Carey ban đầu không có ý định dạy tiếng Anh cho người Bengal, mà dạy tiếng Bengal cho những người Anh được bổ nhiệm điều hành công việc tại các công ty ở những vùng xa xôi hẻo lánh. Vì lợi ích của các học sinh này - những thường dân được huy động từ London và Edinburgh, các thành phố công nghiệp ở miền Trung và các làng mạc miền Nam nước Anh, Carey và những cộng sự người Bengal của ông đã sử dụng trong một quá trình thử và sai thô sơ nhưng hiệu quả những công cụ này cho một thứ văn xuôi-viết tiếng Bengal đã được chuẩn hóa: những cuốn sách ngữ pháp, tự điển, những qui tắc cú pháp và một hệ thống chấm câu thống nhất. Việc giáo dục văn học Anh không phải là một phần dự tính trước của chương trình này. Các tác phẩm mà Carey và các cộng sự của ông chọn ban đầu để dịch sang tiếng Bengal vì nội dung đạo đức và mô phạm hơn là những giá trị cổ điển của chúng về văn chương. Nhưng những thanh niên Bengal này, và nhiều người khác giống như họ, đang theo học ở những trường như Cao đẳng Hindu ở Calcutta, đã bắt đầu cảm thấy họ bị cách biệt quá lâu khỏi phần còn lại của thế giới. Vì vậy, họ thôi thúc các đồng sự người Anh nói về văn học Anh, dạy họ về lịch sử của nền văn học này, bày cho họ cách viết những bài xon-nê và những tiểu thuyết lịch sử. Đối thủ chính đầu tiên của Sankrit đã xuất hiện. Cuộc cạnh tranh này có những khía cạnh tâm lí và văn chương. Năm 1835, Thomas Babington Macaulay xoay được một quyết định của chính phủ, chấp thuận việc dùng tiếng Anh để giảng dạy trong các trường học ở Ấn Độ. Sau năm 1844, chính phủ qui định Anh ngữ là điều kiện cần thiết trong việc tuyển dụng người Bengal. Nhiều người trong số những người Bengal này kết luận rằng việc tinh thông ngôn ngữ và cung cách của người Anh là những nấc thang đến thành công, và họ bắt đầu vứt bỏ một cách hệ thống tất cả những gì của Bengal, kể cả tiếng mẹ đẻ của họ. Kết quả thường là đau xót hơn khích lệ, và những kẻ thực nghiệm chỉ khiến bản thân họ trở thành lố bịch trước mắt những người mà họ khao khát gây ấn tượng nhất. Những người Bengal khác, trong đó có Tagore của Calcutta, không chấp nhận kiểu thích nghi mù quáng với lối sống phương Tây. Trái lại, họ đi tìm những cách có tính xây dựng, thoả mãn để kết hợp cái mới và cái cũ. Họ hiểu biết tường tận văn học cổ điển Sankrit, nhưng họ cũng say sưa với sự huy hoàng và sôi động của văn học cổ điển Anh. Họ thống nhất hai truyền thống đó trong câu trả lời cho sự thôi thúc ngày càng mạnh khi tiến lên thế kỷ phía trước, sự thôi thúc củng cố một bản sắc văn học “không Sankrit” cũng “không Anh”, hiện đại nhưng không giả Anh, một bản sắc độc đáo, nhấn mạnh tinh thần Bengal. Còn có gì gắn bó mật thiết với ý thức về bản sắc cá nhân hơn là tiếng mẹ đẻ? Các nhà văn bị lay động bởi sự thôi thúc mới này bắt đầu dùng tiếng Bengal trong những thí nghiệm của họ với các hình thức văn học mới du nhập từ phương Tây: Tiểu thuyết, truyện ngắn hoạt kê, tiểu luận theo sự kiện, bình luận báo chí. Lúc này, cuộc đua tranh không phải giữa tiếng Sankrit và tiếng Anh, mà giữa tiếng Anh và tiếng Bengal, và nó hoàn toàn chưa ngã ngũ khi Tagore bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tiên của ông, có thể gọi là thật sự hiện đại, vào đầu những năm 1890. Đó là thành quả của những năm ông sống ở miền Đông Bengal, cai quản điền trang của gia đình. Tại đó, lần đầu tiên ông quan sát những chotoloc , những người ‘dân quê nhỏ bé’ của Bengal. Những câu chuyện của ông thời kỳ này tràn ngập cảm giác cay đắng về bi kịch của những con người bị lãng quên, thấp cổ bé miệng, vô danh, dưới sự thống trị của những thế lực kinh tế và chính trị cực kì xa cách, khó hiểu. Lấy những tiêu chuẩn ngày nay về phê bình tiểu thuyết để đánh giá thì nhiều truyện ngắn trong số này bị coi là yếu về kết cấu. Cái “tác động duy nhất” mà Edgar Poe nêu lên làm tiêu chuẩn cho một truyện ngắn hay thì thường bị hỏng vì những đoạn lạc đề, những kết thúc lỏng lẻo, và nhiều chỗ tác giả nhảy vào để thuyết giáo. Nhưng nói cho công bằng, những truyện hay nhất của Tagore trong những năm 1890 là một thành tựu tuyệt vời, chúng chứng tỏ rằng tiếng bản xứ Bengal và những sự kiện hằng ngày trong cuộc sống của những người dân vô nghĩa có thể kết hợp để tạo ra những tác phẩm văn chương mang tính nghệ thuật cao. Những người đàn ông, đàn bà và trẻ con tầm thường vô nghĩa, không phải những nhân vật anh hùng ca, là động lực chính trong các truyện hay nhất của Tagore. Trong tất cả những yếu tố của tiểu thuyết như nhân vật, bố cục, cốt truyện, chủ đề, Tagore nhấn mạnh vào nhân vật. Bằng những gì họ nói và làm, hay những gì họ không nói và không làm, bản thân các nhân vật không chỉ tạo nên những sự kiện bên ngoài, trong những thời gian và địa điểm đã định, mà còn ghi lại những diễn biến không nhìn thấy và thường không ngờ tới, trong trí óc và tâm hồn họ. Sự chú ý này đến các chi tiết tâm lí làm cho The Broken Nest thành một tiểu thuyết ngắn hiện đại. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp của ba nhân vật: Bhupati - một người Bengal tuổi trung niên, Charulata - vợ anh, và Amal - em họ anh. Họ là những cư dân giàu có, nhàn rỗi của Calcutta, thành viên của Bhadralok , “những người có văn hóa” của Bengal, bắt kịp theo dòng ảnh hưởng của phương Tây; bắt kịp, nhưng theo sự phân tích cuối cùng là kém hiểu biết. Sự kém hiểu biết của họ là nguyên nhân chính của thế lưỡng nan về lịch sử, và cảm xúc của ba nhân vật này cũng là của toàn Ấn Độ trong bước ngoặt thế kỉ 19. Tagore đã cho chúng ta một bức tranh có tính giai đoạn nhưng đồng thời là phi thời gian, vì câu chuyện của Bhupati, Charu và Amal là câu chuyện về phản ứng của con người trước những biến động xã hội và trước sự khám phá đột ngột những thế giới mới của tưởng tượng. Bối cảnh của The Broken Nest là một ngôi nhà chung của nhiều gia đình, tương tự với ngôi nhà mà ở đó Tagore đã lớn lên. Ông biết tất cả những cái hay cái dở của kiểu nhà như thế, bao gồm nhiều nhánh của một gia tộc sống dưới một mái nhà, dưới quyền hành và sự bảo trợ của người cha hoặc người anh cả. Hệ thống này có vẻ cổ lỗ và tỏ ra khó đứng vững trong một thời đại thành thị hóa nhanh chóng, nhưng trong thế kỉ 19, nó giúp củng cố cơ cấu xã hội và thường cách xa điểm tan vỡ khi thực dân phương Tây đổ vào Ấn Độ qua ngả Bengal. Các gia đình duy trì những kiểu nhà như thế nhằm tìm kiếm một sự an toàn thật sự, cả về tài chính và tâm lí. The Broken Nest là một bi kịch gia đình, nhưng hiện thực chính trị bao trùm lên toàn bộ câu chuyện. Ngay ở câu thứ hai, Tagore đã ám chỉ một cách hóm hỉnh thực tế này khi ông nhận xét rằng Bhupati không phải làm việc để kiếm sống vì anh có nhiều tiền và vì anh sống ở một xứ nóng. Có lẽ những người sống ở xứ nóng sống được vì dễ dàng nhặt quả chín từ những cái cây gần nhất, nhưng phía sau đó mỉa mai, nhắc nhở đến việc hành nghề báo chí của Bhupati có tham dự vào chính trị, cho thấy bầu không khí chính trị của Ấn Độ cũng nóng như khí hậu vậy. Đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ được tổ chức năm 1885, và các lãnh đạo của Đảng đại diện cho các tầng lớp trung lưu mới, hướng theo những tư tưởng phóng khoáng của Anh. Vào thời gian Đại hội lần thứ ba họp năm 1887, thấy rõ tinh thần phục hưng đạo Hindu đang lớn dần lên chống lại ảnh hưởng của Anh. Các nhà cai trị quen nghĩ về Ấn Độ như một đất nước bị đúc khuôn bởi nền văn hóa Mughal [2] và về đạo Hindu như một tôn giáo tiêu cực nếu không phải là lỗi thời, sẽ giật mình khi thấy họ đứng trước một con phượng hoàng vươn lên từ đống tro tàn chưa bao giờ nguội lạnh. Cả những người ôn hoà trong Đảng Quốc Đại lẫn những nhà cai trị người Anh đều hoảng hồn vì những tổ chức khủng bố bí mật nổi lên ở Bengal và nhiều nơi khác tại Ấn Độ. Các quan chức vội vàng áp dụng những biện pháp hạn chế, nhưng đó chỉ là những vận động thử cho mưu đồ của phó vương Lord Curzon, nhằm chia tách Bengal vào năm 1905. Thực ra, việc chia tách đã là một vấn đề nóng bỏng trong vài năm trước thời điểm 1901, vì tỉnh này quá rộng để cai trị một cách hiệu quả. Vấn đề của chia tách là chính sách biên giới đang “nổi lên dữ dội” mà Bhupati, nhân vật chính của Tagore phải lo lắng trong phần đầu của câu chuyện. Khi Nashtanir được xuất bản năm 1909, sự phản đối chống lại sắc lệnh năm 1905 của Curzon không hề giảm xuống, và tính thời sự của câu chuyện vẫn còn nóng hổi. Có lẽ Lord Curzon chắc chắn đã hi vọng đóng vai Hercules và phá hoại tinh thần dân tộc bằng cách chia tách. Ông ta đã không thành công như Hercules, vì dùng chia tách để kiềm chế sự bất bình của những người Bengal khác nào dùng những lời chửi bới thô tục để chinh phục Hydra [3] , và có một thời gian phe Ôn hòa và phe Quá khích đã đoàn kết về vấn đề này. Một dòng thác lũ ngôn từ, thật đúng vậy, đã giúp cho Bengal trở thành chướng ngại và phiền hà hơn với người Anh. Những người dân tộc chủ nghĩa Bengal và Ấn Độ đã nhanh chóng nhận ra rằng việc Macaulay năm 1835 ủng hộ giảng dạy tiếng Anh ở Ấn Độ đã tặng cho họ một phương tiện lý tưởng để vượt qua các hàng rào ngôn ngữ trong nước. Từ Cape Comorin đến Himalaya, người Ấn Độ nỗ lực sử dụng tiếng Anh trong các cuộc mít-tinh, trong phát biểu ý kiến và trong ấn phẩm báo chí. Trong The Broken Nest, sự nghiệp báo chí của Bhupati phần nào biểu lộ thứ tình cảm dân tộc mới này. Nhưng tính khí và học vấn của anh chàng Bhupati ngây thơ, tốt bụng ít thích hợp hơn ai hết để đối phó với thực tế của báo chí chính trị. Tờ báo của anh là một thứ đồ chơi của anh. Tagore nhân từ đã không để độc giả thưởng thức những mẫu văn xuôi làm báo của Bhupati, nhưng có thể suy đoán mà không sợ sai rằng Chính phủ Ấn Độ chẳng hề thấy trong đó có mối đe dọa nào cho Đế quốc. Việc Bhupati dính với tiếng Anh gắn liền với một khía cạnh khác của mối quan hệ văn hóa giữa Ấn Độ và Anh quốc: Đó chính là sự hồ hởi thật sự và cảm giác tự do đến từ cái nhìn lướt qua thế giới mới của một ngoại ngữ. T.S Eliot đã nói về nhân cách bổ sung mà chúng ta có được nhờ học một ngôn ngữ khác, thậm chí chỉ cần nắm được kết cấu và ngữ điệu của nó là đủ, và những xúc cảm mà thơ ca của nó chuyên chở [4] . Nhiều người Ấn Độ đã học để đọc được, tuy chưa hoàn thiện. Shakespeare và Shelley, Byron và Browning, đã say mê với tinh thần Tây phương mà trước đó họ chưa có trải nghiệm gì. “Nó đã đánh thức chúng tôi,” - Tagore nhớ lại, “và làm cho chúng tôi sống động hơn.” [5] Mặc dầu tiếng Bengal chưa đạt được đến tầm văn học, nhưng nghiên cứu văn học đã có uy tín ở Bengal trong nhiều thế kỉ. Những người thông thạo văn học cổ điển và các qui tắc tu từ được coi như những người canh giữ văn hóa quan trọng của Bengal. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi cho rằng người Bengal đã lĩnh hội các tài liệu văn học Anh một cách dễ dàng và nhiệt tình, nếu không muốn nói là luôn luôn tuyệt đối chính xác. Trong truyện, Tagore đã châm biếm một cách sâu cay sự yếu kém về kiến thức văn học của họ bằng cách nhắc đến một nhà phê bình văn học Bengal khi gọi Amal là “Ruskin của Bengal.” Bất kì ai đưa ra một sự so sánh như thế rõ ràng là biết quá ít về các tác phẩm của Ruskin, tuy có nắm được những khái niệm của Ruskin. Cảm giác của ông về quá khứ có sức kêu gọi mạnh mẽ những người Bengal đang hi vọng tạo nên một dấu ấn mới về bản sắc cá nhân và dân tộc như thời hoàng kim trong quá khứ của Bengal trước khi người Anh đến, trước cả Mughal. Hoàn toàn đúng với tính cách của Bhupati khi anh muốn chuyển từ báo chí sang văn học, đọc Tennyson và Byron đồng thời với đọc Bankimchandra Chatterji, những người đương thời lớn tuổi hơn Tagore, những người đến nay vẫn còn được gọi là Walter Scott của Bengal. Bhupati vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được những hệ lụy từ cuộc xâm lăng văn học này của người Anh, nhưng làn gió mới của phương Tây đã khiến anh bồn chồn không yên đồng thời mang đến phương hướng cho cuộc đời vô mục đích của anh. Nhận xét của Eliot về lợi ích của việc biết ngoại ngữ đi kèm với một lời cảnh báo: người ta không bao giờ được chìm đắm vào một ngôn ngữ khác đến mức mất đi khả năng nghĩ và cảm bằng tiếng mẹ đẻ. Việc Bhupati mê đắm tiếng Anh đã khiến anh lơ là việc nhà và những gốc rễ văn hóa. Anh đã bỏ rơi cả người vợ lẫn tiếng mẹ đẻ và sau đó phát hiện ra rằng anh lênh đênh trôi dạt đến mức không thể tìm đường trở về với một trong hai điều đó. Anh chưa học đủ để theo chân những người tìm nơi trú ẩn trong Sankrit cổ điển, và anh không có đủ trí tưởng tượng để nối gót những người, giống như Tagore, quay trở về với việc mô tả hiện thực Bengal hoặc bất cứ thứ gì họ quan sát thấy trong cuộc sống hằng ngày. Amal và Charulata thì may mắn hơn, ít nhất ở khía cạnh này. Khi họ bắt đầu theo đuổi văn chương, Amal bắt chước những nhà văn cổ điển tiếng Sankrit. Tu từ của cậu quá lố và những ẩn dụ của cậu ngớ ngẩn, nhưng ít nhất, cậu còn cố gắng vay mượn phong cách và những biểu tượng của các nhà văn lớn trong quá khứ. Charu trong sự đơn giản của nàng, vô tình gia nhập vào chủ nghĩa hiện đại và viết bằng ngôn ngữ thông dụng thường ngày những sự việc hằng ngày. Việc Charu đứng ngang hàng với những người hiện đại là một trong những điều trớ trêu của The Broken Nest . Sự phụ thuộc của nàng vào ngôn ngữ thông tục và những sự kiện bình thường là kết quả tự nhiên của vai trò phụ nữ trong một hệ thống gia đình khiến chúng ta ngạc nhiên về bất cứ điều gì ngoài tính hiện đại. Giống như phần lớn những vùng đất phải trải qua một thời kì nào đó trong lịch sử dưới sự thống trị của chính quyền Hồi giáo, Bengal đã áp dụng nhiều qui ước của đạo Hồi, đòi hỏi phụ nữ ở những giai cấp xã hội nhất định phải sống qua tuổi trẻ và tuổi trưởng thành của họ bên trong những căn phòng riêng tách biệt của ngôi nhà. Từ Urdu thông dụng zenana vẫn còn để biểu thị khu vực phụ nữ ở [6] . Tagore dùng từ Bengal antahpur , được dịch là “bên trong của ngôi nhà.” Khu vực này được chia thành các phòng hay các nhóm phòng được giao cho các nhánh của gia đình. Đàn ông gặp gỡ vợ mình chỉ trong bữa ăn hoặc ban đêm, việc tiêu quá nhiều thời gian ở đây trong ngày làm sinh ra những sự chỉ trích và ngồi lê đôi mách. Một người phụ nữ không ra khỏi antahpur . Nếu cô ta muốn nói chuyện với các thành viên là đàn ông trong gia đình, cô ta sẽ sai một người đày tớ đưa lời nhắn hoặc thu hút sự chú ý của họ như Charu thu hút sự chú ý của Amal bằng cách vỗ tay hoặc lắc chùm chìa khóa mà họ buộc vào sari cho kêu leng keng. Một bộ qui tắc hành vi ứng xử được qui định rõ ràng, đặt ra khuôn mẫu cho những mối quan hệ trong những gia đình như thế. Một người vợ Hindu chính thống không bao giờ nói với chồng hoặc nhắc về chồng bằng tên riêng của anh ta, cô nói về anh là “chồng tôi” hoặc dùng dạng kính trọng của đại từ này hoặc dạng tương ứng của động từ. Bhupati gọi vợ là “Charu” nhưng nàng không bao giờ gọi anh là “Bhupati”. Amal là em họ ở quê của Bhupati và là thành viên của gia đình khi theo học trường cao đẳng ở Calcutta, được coi như người con nhỏ trong gia đình. Với cương vị như thế, cậu có thể đến và đi khỏi antahpur một cách tự do, tại đó cậu được những người phụ nữ bà con nuông chiều hết mức. Chị dâu và em họ trong lứa tuổi của cậu được phép là những bạn tâm tình. Tuy nhiên không bao giờ Amal gọi Charu bằng tên riêng. Nàng lớn hơn cậu một hoặc hai tuổi và hơn nữa nàng là bà chủ nhà. Cậu gọi nàng là “Chị dâu” hay “Chị”. Cậu cũng không gọi Bhupati bằng tên, cậu gọi “Anh” và dùng từ d ā d ā , một từ thương yêu và kính trọng đối với người anh. Việc dùng những tiếng như “anh”, “chị” trong những gia đình hỗn hợp thường làm những người không phải Ấn Độ nhầm lẫn. Một người Bengal khi bắt buộc phải giải thích tại sao con của bà cô có thể là anh em với anh ta, thường trả lời, “À, anh ấy không phải là anh ruột tôi đâu. Anh ấy là anh họ tôi.” Do đó, Bhupati trong quan hệ với Amal là vai anh họ, và Charu là chị dâu (họ). Qui ước xưng hô này trong tiếng Bengal được điều chỉnh một cách tế nhị. Nó cung cấp những từ ngữ mô tả rõ ràng về xưng hô và sự phân biệt giữa những người họ hàng già hơn hay trẻ hơn, họ nội hay họ ngoại. Nhưng mẫu đời sống thật sự có ý nghĩa đối với những người phụ nữ sống trong ngôi nhà của Bhupati ở Calcutta được thể hiện ở cách Tagore dùng một từ không liên quan gì đến tính trang trọng trong xưng hô. Từ quan trọng ấy là shangsh ā r . Nó được dùng lặp lại nhiều lần trong Nashtanir . Nó có thể có nghĩa là “thế giới”, “những công việc trần tục, vật chất”, “việc nhà, nội trợ” hay “gia đình” và được dịch bằng nhiều cách khác nhau tùy theo ngữ cảnh. Dù ở ngữ cảnh nào trong câu chuyện này, những nghĩa rộng của từ shangsh ā r đều mang sắc thái mỉa mai, vì từ này nhấn mạnh rằng phần của phụ nữ trong một ngôi nhà như thế này là một thế giới nhỏ bé chật hẹp, mà lí do tồn tại của họ là phục dịch và dâng hiến cho những thành viên đàn ông của gia đình. Đối với những phụ nữ như thế, shangsh ā r - “thế giới” hoàn toàn tương đương với shangsh ā r “nội trợ”. Người phụ nữ có thể đôi khi đột nhập vào thế giới bên ngoài, nhưng ước lệ này đã được qui định chặt chẽ. Khi Charu đến thăm một gia đình khác, nàng phải đi trên chiếc xe ngựa có che rèm kín, và chỉ được vào thăm trong antahpur, chơi với phụ nữ của nhà đó. Đám cưới là sự kiện xã hội lớn của những khách phụ nữ, và việc Charu không đi dự lễ cưới của Amal nhấn mạnh chiều sâu những rối loạn cảm xúc ở nàng trước việc cậu ra đi. Các gia đình tiến bộ có thể cung cấp cho các thành viên phụ nữ của họ giáo dục sơ yếu thông qua dịch vụ của một “thầy giáo zenana ”. Chị của Tagore, Svarna Kumari Ghosal, là một nhà văn, một biên tập viên và nhà hoạt động từ thiện tài trợ cho những chương trình đào tạo giáo viên như thế. Nhưng ngay cả với bà, một phụ nữ thông minh và tài năng trong gia đình tiến bộ độc đáo, việc học lên những lớp cao, chính qui cũng không được bàn đến. Việc Charu theo đuổi văn chương xem ra có vẻ ngây thơ khi nhìn trên một bối cảnh như thế. Thật ra, nàng đã can đảm và có óc sáng kiến khác thường so với những phụ nữ trẻ ở vào thời đại của nàng, địa vị của nàng và tuổi của nàng. Cả Bhupati nữa, cũng thật đặc biệt khi anh sẵn lòng khuyến khích vợ học văn chương, nhiều người chồng Bengal khác chắc không dung tha việc này. Tagore hết sức quan tâm đến những thất bại của những phụ nữ như thế. Năm 1883 ông viết Cuốn sổ tay - một câu chuyện khác về một cô vợ trẻ con, đam mê đọc và viết của cô đã bị bóp chết bởi anh chồng hiểu biết lơ mơ và các bà chị chồng vô học [7] ; mãi đến năm 1914 ông còn viết Bức thư của một người vợ , câu chuyện về một người vợ mà những tình cảm phong phú được đánh thức và nuôi dưỡng bởi thơ ca, nhưng đã phải chiến đấu vô vọng chống lại sự phản đối của gia đình và việc chồng nàng không nhìn nhận nàng như một nhân cách [8] . Bên cạnh những người chồng như thế thì Bhupati, với tất cả sự chậm hiểu những nhu cầu tri thức và tình cảm của Charu, là mẫu mực của một tâm hồn rộng lượng. Đáng tiếc là sự bao dung của anh lại bắt nguồn từ việc anh đắm chìm trong tờ báo của anh và việc anh dễ dàng chấp nhận “niềm tin phổ biến rằng một người đàn ông luôn có sẵn những gì cần đòi hỏi ở người vợ của mình.” Tagore không nói đến tuổi của Charu và Bhupati. Sẽ hợp lí nếu giả sử rằng Bhupati bắt đầu làm tờ báo của anh khi hai mươi tuổi và lấy vợ vào tuổi hai lăm. Charu có thể mười ba tuổi khi lấy chồng. Từ đó suy ra Bhupati ba mươi hai khi câu chuyện bắt đầu, và Charu hai mươi [9] . Trong những gia đình Bengal tương đối tiến bộ ngày nay, Charu dễ dàng có học vấn đại học và tiền đồ của nàng cũng rộng mở một cách tương ứng, nhưng với Charu của năm 1901, phạm vi bên ngoài antahpur, trong đó Bhupati sống thế nào nàng không hề hay biết, shangsh ā r là toàn bộ thế giới. Thật ra, Bhupati bị hạn chế bởi lòng tin ngây thơ vào người khác, bởi cái chất tỉnh lẻ và trí tưởng tượng vụng về của anh cũng như Charu bị hạn chế trong những chấn song cửa sổ và luật lệ xã hội thịnh hành. Tagore chọn những cái tên cho nhân vật của ông hoàn toàn có chủ ý. Tên đầy đủ của Charu là Charulata. Trong tiếng Bengal c ā ru có nghĩa là đẹp, và l ā ta có nghĩa là dây leo trong rừng, một thứ nho leo. Phong tục xã hội và cái nhìn của Bhupati về vợ anh như một đồ vật yêu quí trong tài sản đã làm tê liệt ở nàng sự hiểu biết vững vàng về những tài năng của nàng. Hoàn cảnh của nàng càng phức tạp, nàng càng ít khả năng đối phó với nó. Trong sự thiếu vắng hoàn toàn những mối tiếp xúc xã hội mới và thiếu sự hiểu biết của Bhupati sau khi Aman ra đi, Charu ngày càng lẩn sâu dưới cái bóng những kí ức của nàng. Tính không thực của chúng càng được tôn lên bởi sự tương phản ngầm với đời sống của Aman ở Anh, vì cậu đang thật sự trải nghiệm shangsh ā r như một thế giới rộng lớn – cái thế giới mà lịch sử đang kéo Ấn Độ vào. Quan hệ của Aman và Charu với truyền thống văn học Bengal bây giờ bị đảo ngược. Aman đã vứt bỏ văn học cổ điển và bây giờ đang đắm mình trong lối sống Tân Thời , trong đó cậu hi vọng tìm thấy chỗ đứng của mình như một luật sư. Trong khi đó thì Charu rút lui về Thời Hoàng kim của Ấn Độ và cố gắng sống với lí tưởng anh hùng ca của mọi người vợ, như một nàng Sita giữ cho ngọn đèn đêm cháy sáng đợi Rama [10] của nàng trở về. Nhưng Thời Hoàng kim ấy đã qua rồi, như Charu phát hiện cho nỗi buồn của nàng; chỉ lí tưởng không thôi thì không thể nâng đỡ một tâm hồn khao khát tình yêu. Bhupati, người không phân biệt được nhu cầu yêu đương với tình yêu văn chương – đúng như anh không phân biệt được văn chương hay với văn chương dở, là một chỗ dựa tồi cho Charulata. Lòng tốt không phân biệt của anh biến anh thành một thứ anh hùng, nhưng nhược điểm chủ yếu của anh là cứ luôn luôn đặt sự hào phóng của anh nhầm chỗ. Trên cơ sở truyền thống xã hội và các lí tưởng tôn giáo, anh cho rằng sự ổn định của gia đình là điều khoản của một học thuyết vững vàng. Giả định của anh vỡ tan khi đụng độ với những thực tế về nhu cầu tình cảm - của bản thân anh và của Charu. Chữ bhupati có nghĩa là “cột trụ xã hội” nhưng cho đến cuối cùng anh chàng Bhupati lơ lửng trên mây vẫn không hiểu được nguyên nhân thảm họa gia đình anh. Đã có lúc động lực muốn nâng đỡ Charu thắng thế, nhưng bản năng tự bảo toàn mạnh hơn. Thời khắc ấy qua đi, để lại Bhupati và Charu đối mặt với một tương lai trống rỗng. Chữ amal có nghĩa là “trong trắng”, “tinh khiết”. Liệu hạnh kiểm của Aman có thể được coi là hoàn toàn trong trắng được không? Cậu tầm thường và phù phiếm, vô tâm và non nớt, chưa trưởng thành. Nhưng sự non nớt của cậu không đáng trách trừ phi nó được làm thành công cụ phá hoại. Trong ba người của tam giác này, Aman là người đi gần nhất đến con đường hiểu được tình thế, và trong khoảnh khắc loé sáng nhìn rõ bản chất sự vật, dù chỉ một phần, cậu bắt đầu trưởng thành. Đối với một thanh niên dấn mình vào lối sống Tân Thời , việc chấp nhận một cô dâu chưa biết mặt mà không hề băn khoăn thắc mắc có thể cũng đáng trách như việc cậu không thấy trước những trò chơi văn chương nuôi dưỡng tính tự phụ nơi cậu làm nỗi cô đơn nơi Charu nặng thêm khi nuôi dưỡng trí tưởng tượng của nàng. Tuy nhiên, căn cứ vào địa vị xã hội, cuộc hôn nhân của cậu có thể được hiểu như một hành động danh dự. Nhiều cuộc hôn nhân ở Ấn Độ đã và vẫn đang là sắp đặt, và khi nước Anh còn là bí ẩn đối với nhiều người Ấn hơn ngày nay, luôn luôn có hi vọng một người vợ kiên nhẫn chờ chồng ở nhà sẽ là bảo đảm chắc chắn để người trai trẻ trở về, “vượt qua những đại dương xa thẳm”. Aman đã làm một cuộc vượt thoát khỏi tình thế khó xử được xã hội chấp nhận và minh chứng cho hành động của cậu bằng quyết định trở về giúp Bhupati, người có hình ảnh như một người cha trong đời cậu. Có thể nào ba người này không biết gì về những tình cảm của mình lâu đến thế? Một lần nữa, căn cứ vào hoàn cảnh xã hội và những nhánh tâm lí của nó, sự mù quáng rõ ràng của ba nhân vật chính có thể hiểu được thông qua việc họ dần dần gắn mình vào những biến động xã hội to lớn đang diễn ra. Báo chí hiện đại lọt vào Bengal một cách tình cờ, thậm chí nếu Bhupati thật sự có tài năng trong nghề, thì anh vẫn chưa tiếp cận đến những bí thuật của nó. Việc Charu tiếp xúc với những trào lưu mới trong văn học phải được thực hiện thông qua người khác, và được hưởng trong hoàn cảnh tương đối cách biệt. Amal là một cậu bé nhà quê tình cờ lọt vào xã hội thượng lưu trí thức của Calcutta. Trong ba người không ai có hình ảnh đầy đủ về hoàn cảnh sống của hai người kia. Mỗi người trong trạng thái bị kìm hãm trưởng thành; hoàn cảnh này góp phần vào thế lưỡng nan của họ và là một chủ đề chính của The Broken Nest . Bhupati, Charulata, và Aman lơ lửng trong trạng thái bối rối chung diễn ra trước khi những cơ hội mới có thể dạy họ những bổn phận mới. Tagore đã điều hòa giọng điệu của câu chuyện cho hợp với sự tiến triển mà tại đó họ bắt đầu ngờ ngợ, nếu không phải là hiểu rõ, rằng họ sắp đối mặt với những bổn phận mới. Giọng điệu bắt đầu thay đổi khi Aman nhận ra tình cảm của Charu đối với cậu. Những chuyện trò thơ mộng kiểu trẻ con nhường bước cho xung đột cảm xúc nghiêm trọng không tránh khỏi cũng như khu vườn không thực tế của họ nhường bước trước thực tế về kinh tế. Đã rõ rằng những ghen tuông của họ chẳng dính gì mấy đến văn chương, rằng những mưu mẹo vô lí nhưng lõi đời của Manda, chị dâu của Charu, sẽ có những hậu quả nguy hiểm, và rằng lòng tốt không phân biệt của Bhupati sẽ đem lại những kết quả chẳng có gì tốt đẹp. Những đụng độ đầu tiên của Bhupati và Aman với thực tế diễn ra ở nhịp độ nhanh chóng. Một tai nạn bên ngoài ngôi nhà của anh đã khiến Bhupati sững lại, và bộc lộ cho anh thấy anh kém phù hợp như thế nào với vai trò mà anh định mang là một con người của xã hội. Khi anh bạn Motilal của anh giả vờ không biết gì về những món nợ chưa trả, Bhupati theo bản năng chạy về nhà, “giống như một người sợ hãi trước trận lũ đột ngột, tìm một mô đất cao và lao đến đó.” Nhưng về tình hình ở nhà anh vẫn chưa biết chút gì, dù sao chăng nữa, anh cũng không thể đối mặt với nó một cách dứt khoát, thậm chí sau cú đụng độ thứ hai của anh với thực tế dưới dạng âm mưu thống thiết của Charu để liên lạc với Aman ở Anh. Lòng kính trọng và tình thương thật sự của Aman đối với Bhupati là tác nhân để cậu hiểu rằng nguy hiểm đã gần kề. Một chớp loé nhận thức cho cậu thấy Charu hoàn toàn không biết gì về những rắc rối tài chính của Bhupati cũng như về những tình cảm của nàng. Ngay khi Aman nhận ra vai trò của mình, cậu cố gắng rũ bỏ nó. Thậm chí sau khi Charu nhận ra rằng sự thiếu vắng Aman là nguyên nhân nỗi đau khổ của nàng, nàng đã hợp lí hóa cảm xúc của mình bằng cách buồn rầu về sự kiện dường như cậu đã ra đi trong giận dữ. Sự hiến mình thờ phụng chồng là hành động duy nhất mở ra cho nàng phương kế xua đuổi nỗi đau buồn. Nói rằng mặc cảm tội lỗi trong lương tâm nàng cũng cần xua đuổi là nói quá; nàng chẳng biết đường nẻo nào trong cuộc đời cũng như những hoạt động của trái tim nàng. Nàng đã sống trong một thế giới tưởng tượng. Nàng đã “quyết định”, nàng đã “nhất quyết”, nàng đã “hình dung” Aman hay Bhupati hành động theo những vai trò mà nàng phân cho họ. Cả họ nữa, cũng đã phân nàng vào một vai định trước. Khi không biết tại sao và như thế nào nàng không sắm được vai trò đó, họ bỏ mặc nàng. Việc Bhupati từ bỏ địa vị gia trưởng hầu như chắc chắn có nghĩa là Charu sẽ mất chút tự do mà nàng đã có. Những ông chú đến ở trong nhà sẽ mang theo vợ con của họ, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong số họ sẽ là bà chủ ngôi nhà. The Broken Nest không phải là câu chuyện của Aman, cậu chỉ là chất xúc tác cho một thảm họa mà những yếu tố của nó đã từ lâu là một phần kết cấu xã hội. Việc nó là câu chuyện của Charu hay của Bhupati phụ thuộc vào thiên hướng của độc giả. Tagore không nói ông có ý định cho nó là câu chuyện của ai. Ông không nói ông có ý định chỉ ra một đạo đức trong những ngẫu nhiên của cuộc đụng độ văn hóa, hoặc văn chương tầm thường là thứ nguy hiểm. Ông đặt các nhân vật ra trước độc giả, Bhupati, Charu và Aman sống qua một giai đoạn không thể đảo ngược và không có cách khắc phục có thể thấy trước. “Cái tổ bị vỡ” không phải là lỗi của ai mà là bi kịch của mọi người, một bi kịch của những tình thương lạc lối và những tài năng chưa phát triển. Như vậy, Tagore đã đặt ra một câu hỏi chi phối nhiều truyện ngắn của ông: liệu Ấn Độ có biết nó đang bỏ phí một kho tàng vô giá như thế nào không? Ông đặt câu hỏi liên hệ với những tài năng và những tình cảm phong phú của phụ nữ đặt Charu ngang hàng với những phụ nữ nổi bật trong văn học phương Tây: Emma Bovary trong Bà Bovary của Flaubert, Dorothea Brooke trong Middlemarch của George Eliot, và Nora Helmer trong vở kịch Nhà búp bê của Ibsen. Với The Broken Nest , Tagore mang tiểu thuyết Bengal hiện đại đầy đủ vào cuộc thảo luận về một đề tài đã và vẫn là một ưu phiền nhức nhối cho các xã hội hiện đại ở khắp nơi. Ông cũng không tụt lại đằng sau các nhà văn Anh trong việc nhận thức và xử lí chủ đề này. Năm 1906 nhân vật đáng nhớ Irene Forsyte trong Một người đàn ông giàu có của John Galsworthy có tính cách táo bạo, hành vi vượt ra khỏi lối sống xã giao kiểu cách của Irene thật sự gây choáng váng. Một người phụ nữ vẫn bị coi là bất nhã và không xứng đáng là một quí bà nếu cô ta dám nói lên những khao khát một điều gì đó vượt ra ngoài mái ấm gia đình. Charu không nói lên những khao khát của nàng, thậm chí không ý thức về chúng một cách rõ rệt, nhưng chúng có sức mạnh như một cái cây đang lớn lên cuối cùng làm nứt toác nền đá rắn. Tagore hết sức can đảm khi viết The Broken Nest và đã bị phê bình gay gắt về nó. Câu chuyện dường như là một âm mưu làm xói mòn hòn đá tảng trên đó thiết lập xã hội Bengal: gia đình. Vào năm 1901 những bất đồng về lối sống hiện đại đã chia lìa nhiều gia đình Bengal. Tagore để ngỏ cái kết câu chuyện làm nhiều độc giả hoang mang và phẫn nộ, vì ông cho thấy quá rõ rằng nếu có cách nào đó để sửa chữa cái tổ bị vỡ, thì Charu và Bhupati (và, nói rộng ra, cái xã hội mà trong đó họ sống) không biết cách nào tìm ra nó. Nhiều bạn đọc cảm thấy không thoải mái nhưng không thể nhầm lẫn những thành tố tạo nên tấn bi kịch tương tự trong cuộc sống của chính họ. Giống như Bhupati, họ ớn lạnh vì nhận ra sự ổn định của gia đình hoàn toàn không phải là một điều khoản của học thuyết đã được mọi người thừa nhận, mà phải giành lấy thông qua những cố gắng liên tục và có ý thức. Họ không hiểu rằng chủ đề thật sự của Tagore là sự bền vững của gia đình và nhu cầu của các thành viên trong gia đình là được hiểu như một con người, được tạo những cơ hội lớn hơn trong một thế giới đang rộng mở. The Broken Nest là tiếng kêu từ trái tim của một nhà văn, bằng cách thay cho những người thấp cổ bé miệng, nói với toàn xã hội. Mary M. Lago Tháng 6, 1969 Columbia, Missouri Hoa Kỳ Mời các bạn đón đọc Vỡ Tổ của tác giả Rabindranath Tagore.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đỗ Nương Nương Báo Oán
Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930. Tiểu thuyết của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... Lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày là một ưu thế khiến tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chiếm được cảm tình đặc biệt của người dân Nam Bộ. *** Trái đất vần xây, tối rồi kế sáng, sáng rồi tối lại. Nước sông luân-chuyển, hết ròng rồi lớn, lớn rồi lại ròng. Việc nhà hễ hết thạnh rồi tới suy cũng như vận nước hễ mất trị thì phải loạn. Đó là định-luật dĩ-nhiên xưa nay thường-lệ mà Đông Tây cũng thường-lệ. Thử lật Việt-Nam Quốc-Sử mà xem, chúng ta sẽ nhận thấy rõ-ràng cuộc thạnh-trị với cuộc loạn ly cứ tiếp mà diễn ra hoài hoài. Nếu người cầm-quyền hẫng-hờ để thất chánh thì tự-nhiên rối-rắm khắp mọi nơi. Nếu muốn non-nước được thanh-bình thì phải nhờ bực anh-hùng chí-sĩ có đại đức đại tài, thâu-phục dân tâm, hướng-dẫn quần-chúng, mới có thể đánh dẹp trong ngoài mà xây dựng an-ninh lại bá-tánh. Kìa như thuở xưa, sau một cơn bị trị kéo dài đến trót một ngàn năm, nước non nghiêng-ngửa, quốc-hồn lu-lờ, dân-chúng khóc than, cỏ cây khô héo. Trong thời-gian đau khổ ấy tuy có Trưng Nữ Vương, có Bà Tiệu-Ẩu, có Lý Nam-Đế, có Triệu Việt-Vương có Mai Hắc-Đế, có Khúc-Thừa Dũ lần-lượt nổi lên quyết ra tay bình-định sơn-hà và đem chủ-quyền quốc-gia về cho dân-tộc. Rất tiếc thay các đứng tiền-nhơn ấy có hào-khí chói-lòa, có hùng-tâm mãnh-liệt, nhưng chưa phải là người lật ngược thời-cuộc, bởi vậy công-nghiệp không thành-tựu được hoàn-toàn, chỉ lưu lại danh thơm chí cả cho hậu nhơn sùng-bái muôn đời mà thôi. Mãi đến thế-kỷ thứ 10, mới có Ngô-Quyền xuất-hiện, quét sạch ở trong, đánh dẹp ở ngoài, xây nền quốc-gia tự-chủ cho Việt-Nam rạng-rỡ ở góc trời Đông-Á. Non nước được hưởng thanh bình có 5 năm rồi Ngô-Vương lại băng. Người sau nối nghiệp lại không đủ tài đủ đức, để cho thất chánh đi, nên mới sanh phản loạn Thập-Nhị Sứ-Quân, làm lung-tung một lúc. May có Đinh Tiên-Hoàng ra đời bình-loạn trấn-an, lập ra nhà Đinh, sau liên-tiếp truyền ngôi quốc-vương cho các nhà Tiền Lê, nhà Lý rồi qua nhà Trần. Đến thế-kỷ 13, nhà Trần gặp nạn ngoại-xâm, Nguơn-Triều bên Trung-Quốc, ỷ binh đông tướng mạnh nên toan nuốt luôn đất nước Việt-Nam. Chẳng dè bên ta, trên vua hiền-đức, dưới tướng hùng-cường, lại thêm muôn dân nhứt tâm, nhứt trí, đoàn-kết cùng nhau quyết đổ máu phơi xương để bảo-vệ sơn-hà, bởi vậy binh tướng của Nguơn-Triều luôn luôn đại-bại, phải cầu hòa cho khỏi bị tiêu-diệt. Trong đời chẳng có vật chi trường-tồn vĩnh-viễn được. Đá lâu năm phải hao mòn, sắt lâu năm phải mục sét. Tinh-thần lâu năm cũng phải suy giảm, đạo-đức lâu năm cũng phải lu mờ. Trước kia đời nhà Lý là đời thạnh-trị nhưng giữ ngôi vua được 215 năm rồi phải sang lại cho nhà Trần. Mà đời nhà Trần là đời vừa xán-lạng vừa hùng-cường, song trị-vì được 175 năm rồi cũng bị nhà Hồ soán đoạt. Nhà Minh, bên Trung-Quốc, mượn cớ soán đoạt nầy mới xua binh qua đánh dẹp họ Hồ rồi chiếm trị cả đất nước Việt-Nam trót 13 năm. Thấy cha con Hồ-Quí-Ly vì tham quyền cố-vị để cho ngoại-bang cướp mất chủ-quyền quốc-gia, người Việt-Nam từ trẻ chí già, từ bực sĩ-phu cho đến hàng dân-giả, ai ai cũng phẫn-uất, quyết hy-sinh tánh mạng đặng cứu nước, cứu dân. Nghe ông Lê-Lợi phất cờ mộ nghĩa ở Lam-Sơn, người trong nước thảy đều hưởng ứng. Trong 10 năm chinh-chiến, ban đầu sức kém nên thất bại, nhưng nhờ đem tinh-thần cứu quốc cao vòi vọi mà đấu với lòng cướp giựt thấp hèn của giặc, bởi vậy tướng-sĩ ta lần-lần đánh rã quân xâm-lăng, đuổi chúng chạy về Tàu, tôn Lê Thái-Tổ lên ngôi báu, rồi bố-cáo cuộc bình Ngô đạt định. Miêu-Duệ của Lê Thái-Tổ tiếp nối trị-vì được 99 năm rồi bị quyền thần Mạc-Đăng-Dung cướp ngôi, may nhờ có hai trung-thần là ông Nguyễn-Kim với rể là ông Trịnh-Kiểm cứu giá đưa con của vua Lê Chiêu-Tôn qua Cam-Châu thuộc xứ Lèo, tôn lên làm vua rồi rước về Thanh-Hóa để chiêu binh mãi mã đánh dẹp họ Mạc. Từ đó nhà Lê đóng đô ở Thanh-Hóa, nhà Mạc đóng đô ở Thăng-Long. Trong nước có tới hai vua, hai triều, lòng dân phải chia rẽ, người phò Lê, kẻ phò Mạc, Nam Bắc cứ đánh nhau trót 65 năm, dân gian hết sức đồ-khổ. Mãi đến năm 1592, Trịnh-Tùng con của Trịnh-Kiểm mới đánh bắt được vua Mạc-Mậu-Hiệp mà giết rồi gom hết đất nước đem về một mối đưới quyền thống-trị của vua Lê. Nhưng đã dứt cái nạn một nước hai vua rồi thì tới cái họa một triều hai chúa nữa. Tuy nhà Lê đã thống nhứt sơn-hà song quyền-bính tại triều đều ở trong tay Trịnh-Tùng cả. Ông Nguyễn-Hoàng là con ông Nguyễn-Kim tức là cậu của Trịnh-Tùng trước kia đã được vào trấn đất Thuận-Hóa, chừng thấy Trịnh-Tùng lộng quyền xưng chúa, ông e quyền thần ám-hại nên ông không chịu ra Bắc chầu vua nhà Lê nữa, thành thử gây phân tranh. Chúa Trịnh chiếm cứ cả miền Bắc vô tới Linh-Giang, còn chúa Nguyễn thống-trị miền Nam từ Linh-Giang vô Quảng-Nam. Trong khoảng 45 năm, chúa Trịnh với chúa Nguyễn phải đánh nhau đến bảy lần, gây tai hại cho đất Hà-Tĩnh và đất Quảng-Bình không biết bao nhiêu, lại làm tổn-hao sanh-mạng của nhơn-dân không kể xiết. Tuy luôn luôn phải lo chống với chúa Trịnh ở phía Bắc, song chúa Nguyễn cũng chăm nom mở rộng bờ cõi ở phia Nam, lần lần chiếm hết đất Chiêm-thành từ Quảng-Nam vô Bình-Thuận rồi phân huyện, phân phủ mà cai-trị. Đến giữa thế-kỷ 18, tất cả vùng đất Nam-Việt bây giờ cũng thuộc luôn về chúa Nguyễn thống-trị nữa. Cuộc nam-tiến của các đời chúa Nguyễn được thành-công rất vẻ-vang chỉ nhờ sức cố-gắng của thần-dân từ tỉnh Quảng-Bình trở vô mà thôi. Từ Hà-Tỉnh trở ra Bắc, nhơn-dân là phe đảng của chúa Trịnh, nghịch hẳn với chúa Nguyễn nên không có tham-dự cuộc nam-tiến rực-rỡ đó. Đến năm 1765 chúa Nguyễn Võ-Vương mất. Quyền thần Trương-phước-Loan đổi tờ di-chiếu lập người con thứ 16 của Võ-Vương lên ngôi Chúa gọi là Định-Vương. Vả Định-Vương mới được 12 tuổi nên Phước-Loan đoạt hết quyền-hành tác oai tác phước, tham-lam, khắc-khổ, làm nhiều điều tàn ác, khiến cho cả nước quan dân thảy đều oán ghét. Ở đất Tây-Sơn, thuộc vùng Qui-Nhơn bây giờ, có ba anh em Nguyễn-Nhạc, Nguyễn-Lữ và Nguyễn-Huệ, vốn là miêu-duệ của một chiến-sĩ gốc ở Nghệ-An, trước kia theo Chúa Trịnh mà đánh giặc, bị tướng-sĩ của chúa Nguyễn bắt làm tù binh rồi đem về quản-thúc tại Qui-nhơn. Ba anh em Nhạc lóng nghe ở Thuận-Hóa Nguyễn-Triều thất chánh, lòng dân ly-tán, hết kể cang-thường, biết rồi đây thế nào cũng phải rối loạn khắp nơi. Nhạc mới hiệp với hai em mà chiêu mộ dân nghèo đặng huấn-luyện cho thành quân-sĩ để đánh giặc. Được người ta theo càng ngày càng thêm đông, Nhạc mới phân đội ngũ, lập trại đồn rồi kéo nhau ra đánh lấy thành Qui-Nhơn, lần lượt chiếm cả phần đất từ Bình-Thuận ra giáp Quảng-Nam. Ngoài Bắc Chúa Trịnh-Sâm thấy Nguyễn-Triều đương bối-rối, trong bị quyền thần ngang-ngược, ngoài bị giặc Tây-Sơn hùng-hào. Chúa Trịnh thừa dịp may bèn sai Đại-tướng Hoàng-Ngũ-Phúc đem thủy-bộ hơn ba muôn binh vào chiếm đất Bố-Chánh (Quảng-Bình) rồi lấy luôn đô-thành Phú-Xuân (Huế) mà bắt hết quần-thần của Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Định-Vương thấy tình-hình nguy-ngập, trong bị binh Tây-Sơn đánh ra, ngoài bị binh Chúa Trịnh tràn vào, mới nhóm quần-thần mà định kế đối-phó. Đình-thần bèn phân ra một tốp thì hộ-giá đưa Chúa Nguyễn cùng cung-quyến vào Quảng-Nam lánh nạn, còn một tốp thì đề binh khiển tướng bắt giam gian thần Trương-Phước-Loan đem nạp cho Hoàng-Ngũ-Phúc mà cầu hòa. Tướng Trịnh giết Trương-Phước-Loan, nhưng cũng đánh tan binh Nguyễn rồi vào chiếm kinh-thành Phú Xuân. Chúa Nguyễn Định-Vương vào Quảng-Nam rồi nghe lời khuyên của đình-thần mới lập Nguyễn Phước-Dương là con của cố thế-tử Nguyễn-Phước-Hiền lên ngôi Đông-Cung, chuyên lo sắp-đặt cuộc chống-cự với giặc. Chẳng bao lâu, Định-Vương nghe tin trong thì Tây-Sơn, ngoài thì tướng Trịnh, cả hai đều xua binh đánh ụp Quảng-Nam. Đình-thần bèn khuyên Định-Vương xuống thuyền cùng với cháu là Nguyễn-Phước-Ánh (sau là Gia-Long) vốn là con của người anh thứ hai cho quan hộ-giá đưa vào đất Gia-Định mà lánh nạn để Đông-Cung Dương với chư-tướng ở lại Quảng-Nam lo mưu trừ giặc. Và lúc Tây-sơn mới khởi binh dấy loạn ở Qui-Nhơn thì triều-đình đã có ban chiếu cho chư-trấn trong đất Gia-Định dạy phải đem binh ra đàng ngoài mà dẹp loạn. Ông Tống-Phước-Hiệp đương ngồi chức Lưu-Trấn Long-Hồ (Long-Hồ là Vĩnh-Long bây giờ) tiếp được chiếu của Chúa Nguyễn, ông hăng-hái gom binh các trấn, rần-rộ kéo ra Bình-Thuận quyết nghinh địch. Cuộc chiêu binh tuyển tướng nầy làm xao-xuyến, náo-động cả vùng Gia-Định là lãnh-thổ xứ Nam-Việt ngày nay. Những người trai-tráng tuy không được biết rõ tình-hình chung trong nước rắc-rối thế nào, song nghe nói có giặc thì ai cũng nô-nức toan-tính ra sức đẹp loạn, trị-an, đặng lập công-danh với đất nước.   Mời các bạn đón đọc Đỗ Nương Nương Báo Oán của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Đầu Hàng Tình Yêu Của Tôi
Độc giả của Heart Aflame hẳn còn nhớ nhân vật anh trai của Kristen, Selig - xuất hiện phần đầu của câu chuyện , lặn một hồi đến gần cuối truyện mới xuất hiện để hóa giải một phần mâu thuẫn giữa hai nhân vật chính là chàng Royce và nàng Kristen. Đến phần này, theo lời tác giả, " This book is for those who love Selig"... mọi người cùng chờ đón những cuộc phiêu lưu của anh chàng manly kinh khủng Selilg này nhé. Mình cũng vừa đọc vừa dịch thôi, mong được sự ủng hộ của các bạn nhé. Surrender my love.   *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you.   *** Wessex, 879 Anh rảo bước vào đại sảnh của Wyndhurst và cuốn theo ánh nhìn của tất cả phụ nữ nơi đây – họ đều tạm dừng công việc đang làm của mình . Điều này cũng không lấy gì làm lạ. Mỗi lần anh xuất hiện trước mặt đám đông phụ nữ, dù ở đây, ở quê nhà, hay ở đâu khác nữa, phụ nữ không thể không ngước nhìn. Tại Wyndhurst, cũng không là một ngoại lệ dù cho anh là một người Viking và tất cả họ đều là người Saxon, và dù cho người Viking và Saxon hiếm khi hòa nhập mà không có xô xát. Chỉ mới năm ngoái những người đàn ông của họ còn chưa kết thúc cuộc chiến khác với những người Viking Đan Mạch ở phía Bắc. Điều khiến những người đàn bà này đều bị mê hoặc bởi anh chàng Viking này không phải bởi anh ta là một chiến binh tinh nhuệ và được đảm bảo hay bởi chiều cao áp đảo, có phần còn vượt cả lãnh chúa Royce – người có chiều cao vượt trội trong những người Saxon. Lý do đơn giản hơn thế, chỉ bởi họ chưa bao giờ biết đến một người đàn ông với vẻ đẹp trai khác thường của Selig Haardrad. Anh không chỉ có một cơ thể khiến những vị thần miền Nam phải ghen tị mà anh còn sở hữu một khuôn mặt thiên thần, với đôi mắt có thể sáng lên như ánh bạc hay âm u như một cơn bão mùa hè; xương gò má nhô cao tạo nên một sống mũi hoàn hảo, với bờ lông mày hình cánh cung mỏng và một bộ tóc dài và đen ánh. Đôi môi anh thì vô cùng gợi cảm, khiến bất cứ người đàn bà nào gặp anh cũng khao khát được biết đến hương vị của chúng. Những người phụ nữ có lẽ quen với sự xuất hiện của anh trong sáu năm qua kể từ lần đầu tiên, khi anh đột kích tới đây với những người Viking và suýt chết. Nhưng sự quen thuộc cũng không làm nên điều gì khác biệt. Và không một người đàn bà nào miễn dịch, kể cả bà Eda đang nấu nướng tại cuối sảnh, mặc dù bà là người đầu tiên thức tỉnh bản thân và nhắc những người khác quay lại với công việc. Hay cô bé Meghan ngày nào ở trước sảnh, người đang ngồi thêu thùa với đám người hầu trước khi những cánh cửa sổ được mở. Meg mới hơn 14 tuổi , vậy mà cũng thở dài nuối tiếc và ước rằng người đàn ông Viking đặc biệt này không nhiều tuổi gấp đôi cô. Vấn đề không chỉ là cô bé chưa đủ tuổi kết hôn. Những đứa bé có thể được đính ước khi nhu cầu liên minh là cần thiết. Nhưng Royce, anh trai cô, không cần một sự liên minh tương tự bởi lẽ nó đã vốn có. Hơn thế, Royce rất yêu em gái mình và chưa thể cho phép cô bé rời bỏ quê hương trong nhiều năm và bản thân Meg cũng hài lòng về điều này. Ở góc trái của đại sảnh, tại một trong những chiếc bàn đặt quanh những thùng bia lớn, nơi những người đàn ông đang tụ tập, em gái Selig, Kristen đang dõi theo anh mình. Nàng không thường để tâm đến ảnh hưởng của anh trai mình với phụ nữ, nhưng với sự im lặng chào đón sự xuất hiện của anh vào ngày hôm nay thì nàng không thể làm ngơ được nữa. Nàng nhận thấy anh cười mỉm với nhiều người , và liếc mắt với nhiều người mà anh biết rõ. Có quá nhiều điều chưa rõ ràng trong suy nghĩ của nàng Ngồi cạnh Kristen, chồng nàng, Royce cũng đang quan sát và đưa ra một nhận xét “ Có lẽ anh ý nên lấy vợ và giải thoát những người phụ nữ đau khổ này” “ Đau khổ?”, nàng khịt mũi.”” Anh ý du ngoạn khắp nơi và không để lại gì ngoài những tiếng thở dài tiếc nuối. Điều đau khổ sẽ tới nếu anh ý kết hôn. Mà anh ý kết hôn làm gì khi mà tất cả đàn bà ở hai vương quốc này đều sẵn sàng sống chết, đó là còn chưa tính đến những phụ nữ ở những phiên chợ trung tâm mà anh ý vẫn thường ghé qua.?” “ Vậy là điều tương tự đã từng xảy ra ở Na-uy?" “Luôn luôn là thế”. Nàng thở dài. Royce cười thầm, hiểu rằng nàng không phải người duy nhất bực dọc với anh trai của mình về vô số những “cuộc chinh phục “, thậm chí ngay cả trên mảnh đất của riêng nàng. Hai anh em họ quá gần gũi, đến mức nàng không thể nổi cáu với anh mình . Anh biết Kristen đã từng đặt mục tiêu phải trả thù cho cái chết của Selig khi nàng nghĩ người em họ Alden của Royce đã giết chết anh trai mình trong vụ xâm nhập vào vùng đất của Royce ( Wessex) sáu năm về trước. Đó là khoảng thời gian mà Royce không thích nhắc tới, anh suýt nữa đã ra lệnh giết chết những tù nhân của mình và suýt nữa đã mất đi tình yêu đích thực của mình. Vợ anh là một trong số những tù nhân ấy, mặc dù những người bạn của nàng đã giúp nàng cải trang giống như một cậu bé. Và màn cải trang đó suýt đã thành công, vì nàng gần như cao bằng họ, và cao hơn hầu hết những người đàn ông ở đây. Người Viking chỉ phạm một sơ suất duy nhất, đó là vẫn cư xử như thể nàng là một người phụ nữ, bảo vệ, giúp đỡ nàng, chính điều này đã thu hút sự chú ý và cuối cùng chính Royce đã phát hiện ra sự thật vào cái ngày anh dùng roi da tra tấn nàng. Anh đã tách nàng ra khỏi bạn bè của mình ngay sau đó, đưa nàng về đại sảnh của riêng mình. Anh đã nghĩ nàng là một cô gái làm tiền, vì không còn một lí do nào hợp lí hơn cho sự có mặt của nàng ở trên con tàu . Và nàng đã để mặc anh với suy nghĩ đó, thậm chí còn thấy thú vị, và với sự bạo gan của nàng – không giống như bất cứ người phụ nữ nào anh đã từng gặp, nàng đã thực sự lôi cuốn anh ngay từ lần đầu tiên. Nếu nàng không bạo gan , thì anh có thể cưỡng lại ham muốn với nàng, dù nàng đẹp, dù nàng mê hoặc anh, vì lẽ anh ghét tất cả những người Viking. Mặc dầu anh đã chiến đấu chống lại họ trong vòng 15 năm, lòng căm thù của anh chỉ thực sự bùng nổ vào 11 năm về trước. Trong một trận chiến tàn khốc, anh đã buộc phải chết lặng chứng kiến những người Viking Đan Mạch đã giết chết cha và anh trai duy nhất của mình, nhìn vị hôn thê của mình bị cưỡng bức và giết chết. Royce bị bỏ mặc giữa thi thể của những người mà anh yêu thương nhất, và có thể chết nếu những người Đan Mạch không buộc Jurro Monastery đến mảnh đất khác, và cho phép những người hầu còn sống sót đi theo ông ta. Quả thật Royce có những lí do để ghét bỏ tất cả những người Viking. Nếu như anh không phải lòng một trong số họ và, cũng chính bởi lẽ đó, anh cũng cư xử đúng mực với những người thân của nàng. Họ ghé thăm từ Nauy trong những chuyến nghỉ dài ngày, nhưng anh trai Selig là khách thường xuyên nhất, và thực tế anh đã sống cùng họ ba trong số sáu năm qua. Trong năm đầu tiên của cuộc hôn nhân của em gái mình, Selig đã ở lại để đảm bảo Kristen dc đối xử tốt ở trong ngôi nhà mới. Anh đã ở lại cả một mùa đông, và anh trở về Nauy cùng với bố mẹ mình khi họ rời đi sau chuyến viếng thăm vào mùa hè sau đó. Và mặc dù bố mẹ họ không tới thăm vào các mùa hè sau đó, thì Selig vẫn ghé qua, với con tàu mới của mình ( Royce đã đốt con tàu đầu tiên), và thường đi cùng với một hoặc cả hai người em của mình. Tại chiếc bàn kế bên, vờ như đang mài chiếc gươm ngắn bằng gỗ như một người đàn ông đích thực, cậu nhóc năm tuổi Alfred cuối cùng cũng nhận ra sự xuất hiện của cậu mình và ùa ra chào đón. Với một tiếng cười lớn, Selig nhấc bổng cậu nhóc và tung cậu bé lên cao đến 6 feet, gần như chạm vào trần nhà cao. Kristen nhắm chặt mắt và rên lên, nhưng khi tiếng cười vui sướng của con trai vang lên báo hiệu sự an tòan thì nàng mở mắt nhìn cậu bé đang ngồi trên đôi vai của Selig và tiến lại gần vợ chồng nàng. Trong lòng mẹ, cô nhóc ba tuổi Thora đang giang đôi tay bé để đòi được giống như anh mình và Selig sẵn lòng phục vụ cô bé. Nhưng Kristen đã gạt tay anh và nói “ Không , nếu anh còn muốn sống “ Selig chỉ cười lớn khi nghe lời cảnh báo từ em gái mình và gạt tay nàng sang một bên để đón lấy cháu gái. Nhưng anh không tung cô bé lên mà chỉ nâng cô bé và hôn lên đôi má hồng thật kêu, đủ làm vang vọng cả đại sảnh khi cô nhóc cười khúc khích. Rồi anh kéo chiếc ghế dài để ngồi và vẫn đặt Thora trên cánh tay mình một cách vững chắc, trông cô bé thật nhỏ bé trong vòng tay của cậu mình. Kristen không thể giận anh khi nàng biết tình yêu của anh dành cho những đứa cháu trông giống hệt mình. Một đứa được đặt tên giống tên một vị vua, theo ý của Royce và một đứa đặt tên một vị thánh, của người Viking theo ý Kristen. Tuy vậy, sự thật là cả hai đứa bé đều không có màu tóc hoe đậm hay màu mắt xanh nước biển của mẹ mình. Alfred thừa hưởng mái tóc màu nâu xám của bố và đôi mắt xanh ngọc, còn Thora thì giống hệt mẹ Kristen, như cậu Selig, với mái tóc màu đen và đôi mắt xám, trông cô bé giống người Celtic hơn là người Nauy hay người Saxon. “Vậy là xong”, Selig cất tiếng không giấu một nụ cười mãn nguyện. Kristen và Royce không cần thêm một lời giải thích nào cho tuyên bố ngắn gọn ấy. Hai năm trước Selig đã quyết định rằng anh thích định cư ở Wessex. Anh là người thừa kế của cha mình, nhưng cha anh, Garrick vẫn còn dẻo dai nên Selig cũng chưa cần phải thừa kế ngôi nhà và mảnh đất ở Nauy. Ở Nauy, Selig vẫn sống trong ngôi nhà của cha. Giờ đây anh muốn có một ngôi nhà của riêng mình, và anh đã bắt đầu xây dựng ngôi nhà của mình trên mảnh đất gần Wyndhurst mà Royce đã bán cho anh. Đáng lẽ ngôi nhà phải hoàn thành vào năm ngóai nhưng năm ngóai người Saxon còn vướng bận chuyện chiến đấu với người Đan Mạch và Selig đã khiến mọi người ngạc nhiên – ngoại trừ Kristen, người luôn biết rõ là anh sẽ đứng về phe chính nghĩa – bằng việc tham gia cuộc chiến và đứng về phe của người em rể. Mời các bạn đón đọc Đầu Hàng Tình Yêu Của Tôi của tác giả Johanna Lindsey.
Trái Tim Đam Mê
Giàu có, xinh đẹp và đầy khiêu hãnh, Kristen Haardrad luôn luôn là nỗi khao khát của các anh chàng Viking chưa vợ. Nhưng với một trái tim tuổi trẻ đầy khao khát tình yêu như nàng thì cái vịnh Horten thật vô cùng nhỏ bé. Kristen trốn gia đình lên tầu đi tìm tình yêu cho chính mình. Royce, một thủ lĩnh Saxon tài giỏi, đẹp trai, nhưng có một mối căm thù sâu sắc đối với tất cả người Viking. Liệu khi gặp Kristen ngang ngược, thông minh, xinh đẹp chàng có bị cuốn hút và quên đi mối thù kia không? Chàng và nàng có tìm được hạnh phúc thật sự? *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. ***   Dirk Gerhardsen tiếp đất và lượn vòng đến gần bờ sông, nơi có một nàng gái tóc vàng đã dừng lại. Kristen Haardrad nhìn lại phía sau như thể nàng đã thấy hắn, rồi buộc con ngựa lại và đi xuống nước. Phía ngược lại, nước vịnh Horten chảy nhanh theo dòng của nó. Nhưng một vại đá cuội đã phân dòng nó, nước chảy yên ả, phẳng lặng như mặt hồ. Dirk biết rằng nó cũng ấm áp tuyệt vời và quá cám dỗ để lờ đi với một nàng gái. Anh ta biết Kristen đang đến đây khi thấy nàng rời ngôi nhà của chú Hugh và cưỡi ngựa theo lối này. Khi họ còn nhỏ, rất nhỏ, họ đã từng đi bơi chung với nhau, có cả những anh trai và anh em họ của nàng. Kristen có một gia đình lớn, một ông cậu của nàng, Jard, sống bên bờ vịnh này, và hàng tá những anh em nàng cậu xa, tất cả bọn họ tin rằng mặt trăng và mặt trời xoay quanh nàng gái này. Cho đến gần đây, Dirk cũng đã nghĩ vậy. Hắn đã cho nàng trái tim mình và hỏi cưới nàng, như nhiều người khác đã làm trước đây. Nàng đã từ chối – nhẹ nhàng, hắn đã miễn cưỡng đồng ý - nhưng sự thất vọng gần như hủy hoại hắn. Hắn nhìn thấy nàng lớn lên, từ một nàng bé cao, vụng về trở về thành một phụ nữ tuyệt vời. Không có gì hắn muốn nhiều hơn ước muốn Kristen là của riêng mình. Dirk nín thở khi nàng bắt đầu cởi bỏ áo choàng linen. Hắn đã hi vọng nàng sẽ làm vậy. Đó là lý do tại sao hắn đi theo nàng, hy vọng – Odin giúp hắn – nàng làm thật. Cảnh tượng còn hơn hắn có thể chịu được – đôi chân thon dài… những đường cong mềm mại của hông nàng, tấm lưng thẳng, mảnh khảnh chỉ được bao phủ bởi một bím tóc dày, nâu vàng. Chỉ cách đây hai tuần, hắn đã nắm trong tay bím tóc dày đó và kéo hông nàng sát vào hắn trong một nụ hôn, làm hắn gần như điên lên. Nàng đã tát hắn, cái tát làm hắn thật sự lảo đảo. Vì Kristen không phải là nàng gái chân yếu tay mềm; thật ra nàng chỉ thấp hơn hắn có 2 inches và hắn thì cao 6 feet. Điều này chẳng dọa được hắn. Vào lúc đó, đúng thời điểm đó, hắn thật sự nghĩ hắn có thể nổi điên nếu không thể có nàng. Thật may, Selig, người anh kế của nàng đã đến, nhưng không may vì khó mà Dirk gặp nàng lần nữa và kéo nàng xuống đất. Hắn và Selig đều bị thương trong cuộc chạm tráng đó, và Dirk đánh mất người bạn tốt này – không phải bởi vì họ đã đánh nhau, hay vì Norsemen đã sẳn sàng đánh nhau vì bất cứ lý do gì, mà vì những gì hắn đã cố làm với Kristen. Và hắn không thể phủ nhận rằng hắn có lẽ đã chiếm lấy nàng, ngay tại đó, trên sàn chuồng ngựa của cha nàng. Hắn ắt hẳn đã chết rồi nếu hắn thành nàngng. Và người mà hắn phải chiến đấu không phải là anh trai nàng hay những anh em họ khác, mà là cha nàng, Garrick, ông sẽ tay không mà giết Dirk. Kristen bây giờ đang ở trong nước, nhưng việc không còn nhìn thấy toàn bộ cơ thể nàng nữa không làm dịu được ngọn lửa đang xuyên qua các tĩnh mạch hắn. Hắn đã không nghĩ sẽ phải chịu tra tấn thế nào khi ngắm nàng bơi. Hắn chỉ lập luận rằng nàng sẽ một mình, không có gia đình nàng ở đây, và đây có lẽ là lần duy nhất hắn có thể gặp riêng nàng. Đã có tin đồn rằng nàng sẽ sớm kết hôn, với Sheldon, người con cả của Perrin, bạn thân của cha nàng. Dĩ nhiên trước đây cũng có vô số những tin đồn, khi Kristen 19 tuổi, và trong 4 năm gần đây, mỗi một chàng trai khỏe mạnh ở dọc vịnh này đều đã cầu hôn nàng. Nàng đang bơi ngữa trên mặt nước, những ngón chân hiện ra, đỉnh đùi mịn màng của nàng, ngực nàng… Loki dẫn dắt nàng, nàng đang mời gọi sự xâm phạm! Dirk không thể ngăn mình được nữa. Hắn vội vã xé toạc quần áo mình. Kristen đã nghe tiếng nước bắn tung tóe và nhìn theo hướng mà nàng đoán là nơi phát ra tiếng động, nhưng không có gì cả. Nàng nhanh chóng lượn một vòng, hồ nước ấm áp này không có ai khác ngoài nàng, chỉ có những làn sóng lăn tăn mà nàng đã tạo ra. Tuy nhiên, nàng bắt đầu bơi về phía bờ mà nàng đã để áo quần của mình, cùng với thứ vũ khí duy nhất của nàng, chiếc dao găm có nạm đá quý, nó đã cùn như một món trang sức chứ không còn là vũ khí nữa. Nàng đúng là ngốc khi đến đây một mình thay vì đợi một trong những người anh của mình đi cùng. Nhưng họ quá bận rộn chuẩn bị cho con tàu Viking của cha nàng, chiếc tàu mà tuần tới Selig sẽ xuôi miền đông, và ngày hôm nay ấm áp tuyệt vời sau một mùa xuân mát mẻ và một mùa động lạnh khác thường. Nàng không thể chống lại sự cám dỗ này. Đây như một cuộc phiêu lưu, làm những việc nàng chưa bao giờ làm, và nàng thật sự thích phiêu lưu. Nhưng tất cả những cuộc phiêu lưu của nàng trước đây đều chia sẽ với người khác. Và có lẽ là không khôn ngoan khi cỡi bỏ hết quần áo thế này, dù lúc này làm như vậy thật là một sự liều lỉnh tội tệ, và nếu Kristen là bất cứ thứ gì, thì đó là sự liều lĩnh. Luôn là như vậy, ngay bây giờ, nàng đã hối hận. Chỉ ngay khi chân nàng chạm đất, hắn đã đứng trước mặt nàng, to lớn và đầy đe dọa. Kristen rên thầm rằng đó là Dirk thay vì ai đó, vì hắn đã từng cưỡng bức nàng, và nhìn vào mặt hắn cứ y như cách đây 2 tuần. Hắn là một người đàn ông khỏe mạnh, rắn chắc, như anh Selig của nàng. Thật ra họ đã từng là bạn thân, cùng tuổi với nhau. Nàng cũng từng xem hắn là bạn, cho đến ngày hắn tấn công nàng trong chuồng ngựa. Hắn đã thay đổi, từ một cậu bé mà nàng cùng lớn lên, cùng cưỡi ngựa, đi săn, đi bơi. Hắn ta quả là đẹp trai với mái tóc vàng sậm và đôi mắt nâu vàng. Nhưng hắn không phải là Dirk mà nàng biết, nàng rất sợ những gì đã xảy ra ngày hôm đó lại tái diễn. “Em không nên đến đây, Kristen.” Giọng hắn nhỏ, khàn khàn. Mắt hắn ta bị thu hút bởi những giọt nước lấp lánh trên hàng mi dài của nàng.Nước đang nhỏ giọt xuống đôi gò má cao và chiếc mũi thẳng. Nàng liếm môi và hắn ta rên lên. Kristen đã nghe thấy và mở to mắt, không phải sự cảnh báo, mà là nguy hiểm. Đôi mắt đó giống như cha nàng, xuyên qua bầu trời, biển cả và mặt đất, với ánh mặt trời đằng sau để làm chúng thàng màu xanh biển sáng. Chỉ ngay lúc này, chúng có màu ngọc lam, hoảng loạn, như bão biển đang dậy sóng. “Để tôi đi, Dirk” “Anh nghĩ là không đâu” “Nghĩ lại đi.” Nàng không lên giọng, không cần phải làm vậy. Cơn giận của nàng là bằng chứng trong mỗi đường nét trên khuôn mặt nàng. Nhưng Dirk là một con ác quỷ đang quay lưng, con quỷ của sự thèm khát. Đã qua rồi cái suy nghĩ thật may mắn sao hắn không cưỡng bức nàng trước đây. “Ah, Kristen.” Hắn đưa tay tóm lấy đôi vai trần của nàng, giữ thật chặt khi nàng cố để thoát khỏi. “ Em có biết em đang làm gì với anh không? Em có biết gì về việc một người đàn ông có thể mất trí thế nào khi ham muốn một phụ nữ xinh đẹp như em không?” Một tia nguy hiểm lóe lên trong mắt nàng. “Anh mất trí nếu anh nghĩ…” Miệng hắn đáp xuống một cách hung bạo để ngăn nàng nói. Đôi tay hắn túm vai nàng kéo lại gần, ép ngực nàng vào hắn. Kristen ngạt thở. Miệng hắn đang chà xát môi nàng đau đớn và nàng ghét điều đó, ghét cảm giác cơ thể hắn áp sát vào nàng. Việc họ gần như cùng chiều cao làm cho cái nam tính của hắn ở ngay vị trí hắn tìm kiếm, và nàng ghét điều đó nhất. Nàng không ngờ nghệch đến nổi không biết cách mà một người đàn ông và một phụ nữ như thế nào khi họ ân ái. Mẹ nàng, Brenna, đã dạy nàng tất cả về việc này, nhưng đây không phải như thế, không khi mà nàng chỉ cảm thấy sợ hãi. Nàng nguyền rủa sức mạnh của hắn khi nàng cố gắng để thoát khỏi vòng tay hắn. Nàng ngưỡng mộ sức mạnh và sự can đảm của đàn ông nhưng không khi nó trực tiếp chống lại nàng. Dirk ắt hẳn không gặp trở ngại gì để tìm được lối vào và cướp đi đời con gái của nàng. Nàng sẽ giết hắn nếu hắn làm thế, hắn không có quyền đó. Chỉ nàng mới có quyền tặng nó cho người mà nàng muốn cho, nàng sẽ vui sướng làm điều đó. Nhưng không phải như thế này, và Dirk không phải con người. Nhận ra môi hắn đang ở giữa hàm răng mình, nàng cắn mạnh, móng tay nàng cắm sâu vào ngực hắn cùng lúc đó. Nàng cắn mạnh thêm cho đến khi hắn bỏ tay khỏi người nàng; lúc này nàng đẩy hắn ra cho đến khi họ thay đổi vị trí. Hắn có thể tấn công nàng để có thể tiếp tục, nhưng nàng dĩ nhiên sẽ xé toạc môi hắn ra và hắn chắc chắn nhận ra điều đó. Nhưng nàng không có cơ hội, tiếp tục cắn chặt môi hắn cho đến khi bất ngờ đá vào bụng hắn. Nàng nhả môi hắn ra vào đúng ngay lúc nàng dùng bụng hắn là ván đệm, bật chạy về phía bờ sông và Dirk bật ngược xuống nước. Việc hắn ngã xuống nước cho nàng thời gian để thoát khỏi mép nước và túm chặt dao găm trước khi hắn đến gần. Nhưng hắn không thử. Nhìn vào vũ khí của nàng làm hắn do dự một chút. “Em lắm trò như là con gái của Loki vậy!” Dirk thốt ra một cách đau đớn, chùi máu ở môi, trừng mắt giận dữ với nàng. “Đừng so sánh tôi với ông thần của anh, Dirk. Mẹ tôi nuôi lớn tôi là con chiên Thiên Chúa” “Anh không quan tâm em tin vào vị thần nào,” hắn vặn lại. “Bỏ con dao xuống, Kristen.” Nàng lắc đầu. Giờ nàng đã bình tĩnh, hắn nhìn thấy điều đó, bây giờ nàng có vũ khí trong tay. Và, nhờ Odin, nàng thật lộng lẫy, đứng đó hoàn toàn khỏa thân với những giọt nước lấp lánh khắp cơ thể, ngực nàng đầy đặn như trêu chọc hắn, cái bụng phẳng, mềm mại được bao phủ bởi đám cỏ rối hung vàng trải ra giữa hai chân nàng. Và nàng đang thách thức hắn, thách thức hắn di chuyển về phía nàng, và nắm chặt cái dao găm như thể nàng biết sử dụng nó vậy. “Anh nghĩ mẹ em đã dạy em nhiều thứ hơn là chỉ yêu mến Chúa trời.” Sự cay đắng trào lên giọng hắn. “Cha và anh trai em không bao giờ dạy em sử dụng thứ đồ chơi đó, cũng không tha thứ cho em vì đã học nó, vì đó sẽ là sĩ nhục khả năng bảo vệ em của họ. Quý bà Brenna đã dạy em các trò của người Celtic, phải không? Sau nhiều năm lẽ ra bà ta nên học được rằng các kỹ năng của Celtic không ăn nhầm gì với chiến binh or cướp biển vùng Bắc và Tây u chứ. Bà ấy đã dạy em điều gì nữa, Kristen?” “Tôi biết sử dụng mỗi loại vũ khí trừ rìu vì đó là thứ vũ khí vụng, không cần phải biết cách sử dụng.” Nàng trả lời một cách tự hào. “Vụng chỉ bởi vì em không đủ sức để dùng nó,” hắn đáp trả một cách cáu kỉnh. “Và cha em sẽ nói gì nếu ông ấy biết? Anh cá là ông sẽ dung roi da mà quất hai người.” “Anh sẽ nói với cha tôi à?” Nàng chế nhạo. Hắn nhìn trừng nàng. Dĩ nhiên hắn không kể với cha nàng, vì lúc đó hắn sẽ phải giải thích tại sao hắn biết việc đó. Và cái nhếch mép trên môi nàng nói lên rằng nàng đã biết. Nghĩ đến Garrick Haardrad, người cao hơn hắn cả 30cm và vẫn còn rất đường bệ, đã làm nguội một ít hăng hái của hắn – không phải tất cả. Hắn nhướng mày thăm dò phản ứng của nàng. “ Anh có gì không ổn mà em từ chối anh, Kristen?” Câu hỏi làm nàng kinh ngạc, được thốt ra nhẹ nhàng kèm theo chút bối rối. Hắn đứng trước nàng với ánh mắt trống rỗng và niềm kiêu hãnh cứng nhắc. Mắt nàng do dự quét qua người hắn. Nàng không khó chịu với những gì nàng thấy, nàng đã từng nhìn thấy những người đàn ông khỏa thân khi cùng bạn thân của mình, Tyra, lẽn vào nhà tắm của chú nàng, trốn sau thùng nước và nhìn các anh họ nàng tắm. Dĩ nhiên chuyện đó cách đây 10 năm rồi, và có sự khác biệt chứ. Nàng chưa bao giờ nhìn thấy cái vật đàn ông đang thẳng tưng và đầy kiêu hãnh như Dirk hiện giờ. Kristen thành thật trả lời với hắn, vì đáng phải như thế. “Anh không có gì không được cả, Dirk. Anh có thân hình rất đẹp và bắt mắt. Cha anh có một trang trại giàu có và anh là người thừa kế. Một người phụ nữ chắc chắn rất hài lòng lấy anh làm chồng.” Nàng không thêm rằng Tyra thậm chí sẽ mặc cả với các vị thần để có được hắn và đó là lý do tại sao Kristen sẽ không có ý với hắn. Tyra đã yêu người đàn ông này 5 năm, nhưng hắn không biết điều đó. Và Kristen đã thề sẽ không bao giờ kể với ai bí mật của bạn mình, nhất là Dirk. “Anh chỉ đơn giản là không dành cho tôi, Dirk Gerhardsen,”. Nàng kết thúc một cách chắn chắn. “Tại sao?” “Anh không làm tim tôi xao động.” Hắn nhìn nàng ngờ vực,gặng hỏi “ Điều đó có liên quan gì đến việc kết hôn chứ?” . Mọi thứ, nàng nói với bản thân mình. Với hắn, nàng chỉ nói “ Tôi xin lỗi, Dirk, Tôi không muốn kết hôn với anh. Tôi đã nói với anh rôi.” “Có thật em sẽ kết hôn với Sheldon?” Nàng có thể nói dối và dùng nó như cái cớ để thoát khỏi tình thế này, nhưng nàng không muốn nói dối chỉ để làm mọi thứ dễ dàng hơn. “Sheldon như là một người anh trai đối với tôi, bố mẹ tôi muốn tôi cưới anh ấy nhưng tôi cũng đã từ chối.” Và anh ấy thấy nhẹ nhõm, nàng nhủ thầm, vì anh ấy cũng xem tôi như em gái, cũng cảm thấy không thoải mái với cái viễn cảnh một đám cưới giữa chúng tôi.“Rồi em sẽ phải chọn ai đó, Kristen. Mọi đàn ông ở dọc cái vịnh này đều đã hỏi cưới em một lần rồi, có khi hơn. Em lẽ ra đã cưới lâu rồi.” Đây không phải là chủ đề hay ho gì với Kristen, bởi vì nàng rõ hoàn cảnh của mình hơn bất cứ ai, không có người đàn ông độc thân nào ở quanh sông này nàng muốn cưới cả. Nàng muốn có một tình yêu đẹp như bố mẹ nàng đã có với nhau, nhưng nàng biết cuối cùng rồi nàng cũng phải từ bỏ. Nàng đã hoãn lại nhiều năm rồi, bằng cách từ chối tất cả những lời cầu hôn, và bố mẹ nàng để mặc nàng làm vậy vì họ yêu thương nàng. Nhưng nàng không thể tiếp tục làm thế nữa rồi. Nàng điên tiết với Dirk vì đã làm nàng nhớ lại sự tuyệt vọng của mình, cái mà đã ở trong đầu nàng nhiều năm qua. “Tôi chọn ai không liên quan tới anh, Dirk, vì đó sẽ không phải là anh. Nghĩ lại đi và tìm người khác, xin đừng làm phiền tôi nữa.” “Anh có thể chiếm đoạt em, Kristen, và buộc em phải cưới anh,” hắn cảnh cáo nhẹ nhàng. “ Vì em đã từ chối quá nhiều lời cầu hôn rồi, cha em sẽ vui mừng trao em cho anh sau khi anh đã hủy hoại em” Đó là một khả năng. Dĩ nhiên cha nàng sẽ đánh hắn nhừ tử trước. Nhưng nếu Dirk vẫn sống sau đó, nàng sẽ bị ép lấy hắn. Sự thật thì nàng không còn là thiếu nữ nữa để mà xem xét. Kristen quắc mắt nhìn hắn. “Nếu cha tôi không giết anh, tôi sẽ làm việc đó. Đừng ngốc thế, Dirk, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho trò bẩn thĩu đó” “Nhưng em sẽ là của anh.” “Tôi nói tôi sẽ giết anh!” “Anh nghĩ là không,” hắn nói với quá nhiều tự tin vì ham muốn nàng. “Anh nghĩ rất đáng để liều.” Mắt hắn ở trên ngực nàng khi hắn nói câu đó. Kristen cứng người. Lẽ ra nàng không nên đứng đó mà nói chuyện với hắn. Lẽ ra nàng nên nhảy lên Torden và cưỡi thẳng đi thay vì túm lấy con dao găm mà đối mặt với hắn. “Giờ thì thử đi, chết tiệt đôi mắt của anh, tôi sẽ giết anh sớm hơn.” Kristen rít lên. Dirk nhìn vào con dao của nàng lần nữa và thấy nàng dơ nó lên theo cách nó chắc chắn sẽ trúng mục tiêu trước khi hắn có thể tước nó từ tay nàng. Chỉ khi nàng không cao bằng hắn, và sức mạnh thì thường đi kèm với chiều cao… Cơn giận của hắn bốc lên lần nữa, nhưng bây giờ nó hướng về mẹ nàng, bà ta đúng là điên rồi mới day nàng kỹ năng chiến đấu. Hắn gầm gừ “Em sẽ không luôn có món đồ chơi đó trong tay, Kristen.” Nàng hếch cằm. “ Anh là một tên ngốc mới cảnh báo tôi thế. Bây giờ tôi sẽ bao giờ để anh bắt gặp một mình nữa đâu.” Hắn kích động. “Vậy thì em nên chắc rằng cửa phòng luôn khóa khi đi ngủ, bằng cách nào đó, vào ngày nào đó, sớm thôi, anh sẽ có cách chiếm được em.” Kristen không thèm đáp trả lời đe dọa đó, mà khom người để nhặt nhạnh quần áo dưới chân và kéo chúng qua vai. Không rời mắt khỏi Dirk, nàng lui lại túm lấy dây cương của Torden và đi về phía con ngựa của mình. Khi đi một khoáng xa, nàng nắm lấy cái bờm trắng mượt mà của Torden và nhảy lên lưng nó.” Nàng có thể nghe thấy những lời nguyền rủa điên tiết của Dirk phía sau lưng mình, nhưng nàng chẳng quan tâm, điều nàng đang lo bây giờ là làm sao mặc quần ao vào mà không phải cho ngựa đi chậm lại, trước khi nàng đến gần lãnh địa của Haardrad và ai đó sẽ trông thấy nàng. Nàng sẽ không thể giải thích, và sự thật sẽ làm sự do của nàng bị giới hạn một khắc khe, còn Dirk Gerhardsen thì rơi vào đống lộn xộn. Nếu không phải vì những cấm kỵ đó, nàng sẽ thừa nhận những gì xảy ra, nhưng nàng đánh giá cao sự tự do của mình. Cha nàng lo lắng về nàng như thế đủ rồi. Mẹ nàng thì không, trong suốt những mùa hè mà cha nàng ra khơi và mang theo các anh trai cùng đi, bà đã dạy cho nàng rất tốt các kỹ năng tự vệ. Brenna đã dạy nàng cách bí mất để học từ cha nàng kỹ năng và xảo thuật cần thiết để sử dụng vũ khí chống lại kẻ địch mạnh hơn mình, phải có thủ đoạn bởi vì dù nàng có cao hơn mẹ nàng ½ foot, mạnh hơn hầu hết phụ nữ, nàng cũng không đủ mạnh so với 1 người đàn ông. Kristen tự hào vào khả năng tự vệ của nàng, nhưng đây là lần đầu tiên nàng kiểm chứng khả năng đó. Ngoài Selig, lớn hơn nàng 2 tuổi, còn có Eric, 16 tuổi, và Thorall, 14 tuổi, cả hai đứa đã to lớn gần bằng người cha vĩ đại của họ rồi. Nàng còn có người anh họ Athol, chỉ lớn hơn Selig vài tháng, và hàng tá anh em họ xa bên nhánh của cha nàng nữa, họ sẽ chiến đấu thậm chí tới chết để giảm tối thiểu tổn thương cho nàng. Không, nàng sẽ tự vệ tốt và không cần phải chứng minh bản thân như mẹ nàng cảm thấy cần khi bà ở tuổi nàng. Cho đến hôm nay. Nếu như nàng ra khơi với Selig và bạn anh tuần tới để đến các thị trấn thương mại ở Miền Đông, nàng sẽ không cần phải lo lắng về Dirk nữa – ít nhất cho đến khi nàng quay lại vào cuối mùa hè. Cho đến lúc đó, có lẽ hắn đã tìm được một nàng vợ rồi và sẽ không phiền nàng nữa. Trời ạ, nàng đã xin được tham gia chuyến đi này nhưng đã bị từ chối rồi. Nàng đã dư lớn để ra khơi với nhiều người đàn ông trẻ tuổi này rồi, dù đó là một trong những con tàu của cha nàng, với sự trông nom của Selig. Nếu Garrick không đi, nàng cũng không được đi, thế đấy. Thậm chí nàng đã tinh vi trêu chọc rằng có thể nàng sẽ gặp một ông hoàng kinh doanh như ông ở Birka or Hedeby để đem về làm chồng cũng không lay chuyển được ông. Nếu ông không ở đó để trông nom nàng như những lần ông đã đem nàng và mẹ nàng theo, thế thì, nhờ thần Odin, nàng phải ở nhà. Garrick đã không ra khơi tám năm nay rồi, ông thích trải qua hàng tháng hè với Brenna hơn, ông để bạn ông, Perrin, chỉ huy con tàu của mình, or Selig, vì giờ anh đã đủ tuổi làm việc đó. Bố mẹ Kristen sẽ cưỡi xuống phía bắc, một mình, và sẽ không quay lại cho đến hết hè. Họ sẽ cùng nhau đi săn, khám phá, yêu nhau, và Kristen luôn ước mình có sẽ có được tình yêu như họ. Nhưng ở đâu có thể tìm đc người đàn ông như Garrick, người rất dịu dàng hòa nhã với những ai ông yêu mến, và rất nguy hiểm, đáng sợ với những kẽ ngược lại, người có thể làm tim nàng đập nhanh hơn như cách Brenna đã thể hiện khi bà chỉ đơn giản nhìn vào Garrick? Kristen thở dài đánh thượt, cưỡi ngựa về nhà. Không có người đàn ông như thế, không phải ở đây. Oh, có một vài người khá lịch thiệp, nhưng không nhiều, dù là có nhiều gã khá là nguy hiểm. Miền bắc này đã sinh ra những người đàn ông dày dạn, khỏe mạnh, những hình mẫu tốt đẹp của đàn ông, nhưng không ai có thể khuấy động được trái tim nàng. Ở đâu đó chắc chắn có một người định mệnh dành cho nàng, có thể là một thương gia, or một thủy thủ như cha nàng – một người Đan Mạch, hay có lẽ là Thụy Điển, thậm chí là 1 người Na-uy đến từ Miền Nam. Tất cả bọn họ đều làm ăn ở các thị trấn thương mại lớn của Miền Đông. Nàng chỉ phải tìm ra anh thôi.   Mời các bạn đón đọc Trái Tim Đam Mê của tác giả Johanna Lindsey.
Ngọn Lửa Mùa Đông
Say đắm Cô quan sát cơ bắp rắn chắc nổi lên cuồn cuộn ở trên lưng anh khi cô cố gắng di chuyển cánh tay của mình và anh đã ngăn cô lại .Brenna ngưỡng mộ sức  mạnh và sự khéo léo mà cô luôn có.Nhưng sức mạnh của người đàn ông này là không thể tin được.Anh đã giữ  cô một cách dễ dàng khi cô cố gắng di chuyển khỏi anh.Mặc dù thế một cơ thể mạnh mẽ trông thật tuyệt, cô dám đánh cược rằng bị bắt giữ bởi sức mạnh đó là không thể chịu đựng được.   Thiêu đốt ”Garrick – Garrick.” Anh nhìn vào cô, có sự bối rối trong đôi mắt anh.” Đây là lần đầu tiên em gọi tên ta.Ta thích âm thanh của nó trên đôi môi em”   Chinh phục “Garrick, thả tôi ra.” Giọng nói cô nghẹn lại bởi tiếng cầu xin. Anh mỉm cười dịu dàng, đôi mắt anh rực cháy bởi sự say mê.” Không, người đẹp của ta, đã quá muộn rồi.” *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. ***  “Selig ngủ rồi hả?” “Vâng, anh yêu,” Brenna đáp, trườn vào giường để rúc vào Garrick. “ Con giật mình dậy vì bị đau bụng, không nghi ngờ gì là do những bánh kẹo ngọt mà cha anh cho nó trước đó.” “ Cha cưng chiều nó quá.” “Em không tranh cãi việc đó đâu,” cô nhe răng cười. “ Và tại sao, cô gái, em cứ muốn tranh cãi với ta về mọi vấn đề vậy?” anh giả vờ ngạc nhiên. Cô lùi lại, giả vờ ngạc nhiên. “ Anh đừng nghĩ là vì chúng ta đã kết hôn, ý muốn của ngài là mệnh lệnh của tôi, Viking” Anh cười khoái trá và kéo cô lại gần. “ Cô gái mạnh mẽ và bướng bỉnh. Chuyện đó ta biết rõ mà. Chẳng phải em đã kiên quyết vào ngày chúng ta kết hôn là ta trả tự do cho Janie để Perrin có thể có cô ta như ta có em sao? Em bắt ta làm theo ý muốn của mình một cách dễ dàng mà.” “Anh cũng vui vẻ khi thấy hạnh phúc của họ như em mà,” cô cười cợt. “Chắc vậy,” anh cười. “ Ta vẫn còn tự hỏi là làm sao mà ta đã không nhận thấy hoàn cảnh yêu nhau của họ. Tại sao Perrin không nói với ta về cô ấy? Chúng ta có bất hòa một thời gian, nhưng không hề tồn tại sau khi Selig ra đời mà.” “Anh ấy muốn mua Janie, nhưng lại ngập ngừng khi hỏi anh, sợ là anh sẽ từ chối. Đã rất lâu rồi anh có ở trong tâm trạng dễ chịu đâu.” “Đúng. Thậm chí sau khi Selig ra đời và ta hết sức tự hào và hạnh phúc vì con, ta vẫn tuyệt vọng vì em, khao khát được đến với em trong suốt những tháng đó, nhưng lại sợ hãi em sẽ từ chối ta. Ta có thể thấy tại sao Perrin đã không hề muốn đề cập với ta về vấn đề đó.” “Vậy là anh đặt lỗi lầm lên em hử?” “ Em đã quá sức bướng bỉnh, cô gái!” Brenna mỉm cười và khẽ hôn anh, trêu chọc. “ Em cho là em sẽ luôn như thế. Nhưng sao thì anh cũng yêu em mà.” “Ta có sao?” "Garrick!" Anh cười phá lên và lăn lên người nàng. “ Đừng bao giờ nghi ngờ điều đó, Brenna. Đừng bao giờ. Lúc này em là của ta, dù em có thừa nhận hay không.” “Oh, em thừa nhận – rất vui sướng.” Những cánh cửa ở ban công được mở để đón ánh mặt trời lúc nửa đêm. Những tia sáng vàng cam trải ánh sáng dịu dàng lên cặp đôi đang ôm quấn lấy nhau trên giường. Họ đã kết hôn được bốn tuần. Nghi lễ ngoại đạo thật tuyệt, nhưng Brenna vẫn muốn sự chúc phúc của Chúa và nhất định phải có nghi thức hôn lễ của Công Giáo một ngày nào đó. Brenna không còn những suy nghĩ trở về vùng đất tuổi thơ của mình nữa. Giờ thì đây là quê hương của cô, ở đây với chồng và con trai. Cậu bé mà cô từng luôn cố gắng để trở thành đã biến mất. Lúc này đây, cô là một phụ nữ, trọn vẹn.  Mời các bạn đón đọc Ngọn Lửa Mùa Đông của tác giả Johanna Lindsey.