Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PR Là Sống

NGƯỜI TA NÓI VỀ PR Từ xưa đến nay, loài người đã biết giao tiếp với nhau bằng nhiều cách như biểu tượng, hình ảnh, cử động thân thể, âm thanh hay là từ ngữ. Bên cạnh việc sơn, khắc, chạm, vẽ trên tường; nói trước đám đông, gửi thư tay; viết trên lá, da động vật, hay trên giấy; chuyển tải thông tin qua truyền thanh, truyền hình và internet, thì các hoạt động lễ hội, gặp gỡ, giao lưu cũng là những ví dụ mà một người hay một nhóm thường dùng để trao đổi thông tin và hiểu nhau. Những cách khác nhau của việc giao tiếp để hiểu nhau có thể được xem là quan hệ thông tin, giao tiếp hay là quan hệ công chúng. PR là viết tắt của từ public relations. PR không chỉ được hiểu như là một chức năng của việc phát triển thương hiệu, nó còn được sử dụng như là một danh từ chỉ người, ví dụ: anh ta là PR. Nó có thể được sử dụng như một động từ: Tôi sẽ PR cho anh. Theo một số người, PR đã từng được hiểu đơn giản là Quan hệ báo chí – Media relation. Một vài người thì bỏ qua từ này và sử dụng thuật ngữ Communication – Truyền thông, trong khi đó một số người khác lại chuộng từ Reputation management - Quản Trị Danh Hiệu. Thỉnh thoảng chúng ta đề cập PR như là nhân viên quan hệ công chúng, người chuyển tải thông tin đến giới truyền thông hoặc trực tiếp đến công chúng để chuyển tải thông điệp đến với họ ở diện rộng, hoặc theo phân khúc nhân khẩu học riêng biệt bên trong công chúng, được gọi là đối tượng mục tiêu. Vì để chia sẻ những quan điểm tương đồng cho một nhóm người hơn là toàn bộ xã hội, nên việc nghiên cứu có thể được thực hiện để xác định một loạt những điều như đối tượng mục tiêu, sở thích, cũng như chiến lược trình bày thông điệp đã hoạch định. PR có thể nhắm đến thính giả mục tiêu khác nhau với những thông điệp khác nhau để đạt được mục tiêu cuối cùng. PR đẩy mạnh hiệu quả mở rộng ý kiến và thay đổi hành vi. “PR là một chức năng quản trị định hướng thái độ của công chúng, xác định chính sách, thực hiện và làm cho quan tâm một tổ chức, được thực hiện theo một chương trình hành động tìm kiếm sự thông hiểu và chấp nhận của công chúng.” theo lời một nữ chuyên gia PR định nghĩa. Theo hai chuyên gia PR người Mỹ Scott M.Cutlips và Allen H.Center, “PR là một nỗ lực có kế hoạch để ảnh hưởng tư tưởng thông qua phẩm chất tốt và hành động có trách nhiệm dựa trên sự hài lòng hợp lý của sự giao tiếp hai chiều.” PR là nghệ thuật và khoa học về quản trị giao tế giữa một tổ chức với chính đối tượng công chúng có chọn lọc để xây dựng, kiểm soát và duy trì hình ảnh tích cực. PR bao gồm việc đánh giá thái độ và ý kiến công chúng, hình thành và thực hiện những quy trình và chính sách của tổ chức liên quan đến sự giao tiếp với chính những nhóm công chúng, những chương trình truyền thông hợp tác, phát triển vẻ đẹp và sự nổi bật thông qua quá trình giao tiếp hai chiều, và thúc đẩy mối quan hệ khách quan giữa một tổ chức và những nhóm công chúng mục tiêu. Có một số công ty sử dụng Tiếp Thị Quan hệ công chúng (Marketing Public Relation – MPR) để định hướng thông tin về sản phẩm mà họ sản xuất hay phục vụ cho khách hàng tiềm năng nhằm hỗ trợ những mãi lực bán hàng trực tiếp của họ. Tiêu biểu là họ hỗ trợ bán hàng trong một thời gian dài hoặc ngắn, thiết lập và đẩy mạnh thương hiệu của tổ chức vì một thị trường mạnh và liên tục. Các công ty này cũng sử dụng PR như là một phương tiện tiếp cận những nhà làm luật và chính trị gia khác, nhằm kiếm ưu đãi về thuế, luật và những cái khác, và họ cũng dùng PR để hoàn thiện bản thân như những nhà tuyển dụng sáng giá, trong sự hỗ trợ những chương trình tuyển dụng nhân sự. Những tổ chức phi lợi nhuận gồm trường học, bệnh viện và các trung tâm dịch vụ xã hội và con người sử dụng PR trong việc hỗ trợ các chương trình nhận thức, gây quỹ từ thiện, tuyển dụng nhân viên và gia tăng lòng trung thành về công việc của họ. Bên cạnh đó, những nhà làm luật cũng sử dụng PR để kêu gọi bầu cử và quyên tiền. Khi bần cử thành công, hiệu ứng của PR sẽ xúc tiến và bảo vệ các hoạt động trong thời kỳ đương nhiệm. Đồng thời sẽ tạo một hình ảnh đẹp cho các cuộc bầu cử kế tiếp, hoặc lúc chấm dứt sự nghiệp hay chính sách của họ, điều luật ban hành. Ngày nay trong bất cứ ngành nào, PR vẫn rất quan trọng. PR thể hiện tầm quan trọng trong giao tiếp của một tổ chức hay một cá nhân và đối tượng của họ như là nhân viên, đối tác, nhóm cần quan tâm. Đặc biệt, chúng ta có thể thấy sức mạnh của PR trong lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng, tài chính, vận tải, du lịch, nhà hàng, khách sạn mà các hoạt động của con người cần sự giao tiếp tốt để có hiệu quả công việc cao. Khi bạn thực hiện PR, điều đó có nghĩa là bạn biết bạn là ai, tổ chức bạn thế nào, nơi đâu bạn sẽ bắt đầu công việc. Nó cũng có nghĩa là kiến thức và sự am hiểu về các đối tượng và ngay tại chính cấu trúc của nó. Xác định đối tượng mục tiêu, nghiên cứu và đánh giá đối tượng phân khúc, nhận diện tầm nhìn của công chúng về bạn hay tổ chức bạn, hoặc tìm kiếm và chọn lọc lời khuyên giá trị từ các chuyên gia làm trong các lĩnh vực liên quan đến công việc của bạn thì thật sự quan trọng khi nói về PR. PR hiện đại dùng những kỹ thuật hiện đại gồm khảo sát ý kiến, quan tâm đánh giá nhận định của nhóm công chúng, kết hợp với hàng loạt kỹ thuật cao trong việc phân phối thông tin nổi bật cho khách hàng như truyền hình vệ tinh, cáp, fax, ngân hàng dữ liệu điện thoại và thuê các công cụ hỗ trợ khác vì mục tiêu khách hàng. Những ví dụ về kiến thức mà yêu cầu chuyên gia làm PR là nghệ thuật giao tiếp, tâm lý học, xã hội học, khoa học chính trị, kinh tế, và những nguyên tắc về quản trị và đạo đức .v.v. Kiến thức, những kỹ năng và kỹ thuật thì cũng được yêu cầu cho việc nghiên cứu tâm lý, phân tích chủ đề công chúng, quan hệ truyền thông, gởi mail, quảng cáo phi thương mại, xuất bản, sản xuất film hay video, sự kiện đặc biệt, phát ngôn và thuyết trình v.v. Việc giao tiếp và hiểu nhau giữa người với người có thể không hoàn hảo bởi vì không chỉ khác nhau về vùng đất, địa lý, văn hóa, độ tuổi, sắc tộc, vị trí xã hội mà còn khác tính cách, niềm tin, giai cấp hay trình độ v.v. Vì vậy PR xuất hiện và giải quyết điều này. Trong khi một phần công chúng nghĩ đó là một vài điều như tuyên truyền, dân vận, quan hệ đầu tư, hội nghị báo chí, sự kiện truyền thông, giao tiếp nội bộ, giao tiếp khủng hoảng, nó còn gồm hàng loạt hoạt động phía sau như viết thông cáo báo chí, tiếp xúc giới truyền thông cho một sự kiện hay hội nghị, giải quyết các vấn đề an toàn, vận động hành lang cho một vị trí đắc địa v.v. Ý nghĩa của thuật ngữ PR thì rất rộng. Ngành PR muốn diễn tả nó như là những phương tiện và là ngành của sự ảnh hưởng tư tưởng công chúng hướng về một tổ chức và chính những sản phẩm dịch vụ của nó. Đối với việc bình phẩm ngành PR, nó cũng là những phương tiện và ngành nghề được sử dụng bởi những công ty để khuyến khích công chúng và để hướng họ đến mục tiêu kinh tế và lợi thế chính trị. PR khác biệt với quảng cáo vì nó không nhắm đến việc bán một sản phẩm đặc biệt của một ngành riêng biệt, và nó cũng khác với tuyên truyền, cái thường được sử dụng vì mục đích chính trị bởi chính phủ. Nhiều kỹ thuật PR có thể được thực hiện trong nhiều lĩnh vực. Hãy tưởng tượng một công ty cung cấp một sản phẩm hay dịch vụ; tạm gác sự quan tâm đến tính chuyên nghiệp của công ty về sản phẩm, giá cá, tài chính và hệ thống quản trị; thì điều gì khiến người ta mua chính những sản phẩm – dịch vụ đó? Điều gì thúc đẩy khách hàng đầu tư những đồng tiền khó khăn kiếm được vào những tờ cổ phiếu của công ty đó? Điều gì thúc dục các công ty khác hợp kinh doanh với công ty hay những dự án của họ? v.v. Đúng vậy, tất cả những điều này xảy ra, đơn giản vì hình ảnh của công ty này trên thị trường hay trong tâm trí của khách hàng mục tiêu, cái mà không đáng nghi ngờ, được quán triệt từ những kế hoạch đã và đang thực hiện từ hoạt động PR của tổ chức hay người làm PR. PR một công cụ quản trị chiến lược mà nó giúp đạt được sự quan tâm và định hình ý kiến công chúng hiệu quả. Ngày nay, nghề PR đã phát triển như là một công cụ chính yếu trong việc hình thành ý kiến công chúng nhằm đáp ứng những nhu cầu về sức mạnh nhóm cho mục đích chung. Đôi khi người ta nói PR có thể vẫy đôi cánh thiên thần và giải quyết bất cứ vấn đề khủng hoảng truyền thông nào. Người ta tin rằng hoạt động của thế giới PR cho thiên niên kỷ mới này là “PR là người tự do, là công cụ không thể thiếu và là người bạn tri kỷ.” Dù có ai quan tâm hay không thì mặc định PR luôn tồn tại. Không gì tốt hơn việc đầu tư và sử dụng PR để xây dựng, duy trì, hay phát triển thương hiệu trong tầm nhìn của công chúng. Việc định nghĩa cái gì là PR, cái gì không là PR, thì không có gì là chắc chắn lắm, nhưng PR thì luôn luôn quan trọng đối với bất cứ tổ chức nào và với bất cứ ai. PR LÀ SỐNG Thế kỷ 21, thế kỷ của PR Bạn sống Bạn là duy nhất Bạn được sinh ra Bạn là một đứa trẻ Bạn là một thanh niên Bạn là người lớn Bạn là một người có tuổi Bạn bước tiếp vào một thế giới Mới hay không, dựa vào bạn! Thật là may mắn cho những ai đang sống trên cõi đời này, và thật là hạnh phúc cho những ai đang đọc, nghe, thấy và cảm nhận những dòng chữ này. Tại sao lại vậy? Vì bạn đã được trọn vẹn các giác quan, bạn hãy tự mình suy nghĩ xem… Bạn đã thật sự hiểu và có câu trả lời cho riêng bạn rồi đó! Sống nghĩa là chuyển động. Mọi điều đã đang hoạt động và thay đổi trên cõi đời này có thể được gọi là sống. Nó có thể đến từ thế giới loài vật, vật chất hay con người. Sự sống, sự chuyển động nó luôn có vô số mối quan hệ phức tạp, đan xen nhau. Từ đó, nó tạo ra một bức tranh sống động không có điểm dừng. Trong chủ đề của cuốn sách này, chúng ta đề cập PR như là một đối tượng của thế giới loài người bởi vì PR được gọi, hiểu và sử dụng bởi con người. Tất cả mọi người biết rằng sống không là một điều đơn giản trên đời này. Để đạt được mục đích này thật là khó. Cuộc đời thì rất đa dạng và phức tạp. Cuộc đời được hình thành từ nhiều điều và đối tượng khác nhau. Con người sống ở khắp nơi trên thế giới với màu da, tầng lớp, khu vực, dân tộc, văn hóa, chính trị, lối sống hay tư tưởng khác nhau. Sự tương tác giữa chính con người và thế giới vật chất cũng rất lớn. Thiên tai, thời tiết, khí hậu, bệnh tật, hay nhu cầu vật chất (thực phẩm, nước uống, nguyên vật liệu tự nhiên v.v) để sống hàng ngày chẳng hạn. Hơn nữa, mỗi người lại chịu ảnh hưởng bởi những nguồn quan hệ khác nhau được gây nên bởi xã hội loài người như gia đình, bè bạn hay cộng đồng. Vì vậy, PR không những được xem như một đối tượng vật chất mà còn như một con người. Nó phải được trang bị những phương tiện cơ bản hay những thành tố chính yếu để phòng vệ, đối mặt và giải quyết bất cứ vấn đề gì xảy ra trong cuộc đời của nó. Nói cách khác, chúng ta cần hiểu những tính chất của PR, những yếu tố cần thiết cho sự sống, duy trì và phát triển. Cuối cùng, Con người (Anyone ) hay bất cứ đối tượng nào thì nên được luôn quan tâm nghiêm túc trong suốt quá trình đạt mục tiêu tồn tại. Xác định những gì, cái nào, ai chính là đối tượng chịu ảnh hưởng và sự tác động sẽ hướng cho con người có tầm nhìn tốt hơn để lựa chọn con đường đi đúng để thực hiện công việc. Bất cứ ai cũng có thể trở thành đối tượng tiềm năng và thực thụ mà bạn sẽ làm việc hay hợp tác trong quãng đời của mình hay của tổ chức. PR luôn hướng con người cầu tiến và đến với chân thiện mỹ. Để sống và có một cuộc sống tốt hơn, mỗi người cần có nhiều yếu tố cần thiết hỗ trợ khác nhau. Để là một thương hiệu mạnh và ấn tượng, ANGEL STARS, 10 yếu tố chính yếu được nói trên nên được quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó, PR phải luôn tuân thủ nguyên tắc CAR để hành động, NCNS và 3S để làm động cơ, và 3PR để làm con đường đi cho mình. Những nguyên tắc đó sẽ hỗ trợ PR có những phương pháp hành động tốt cho các mục tiêu kinh doanh hay cuộc sống một cách ý nghĩa. Ý tưởng chính là: PR là con người. PR là sự giao thoa giữa mối quan hệ con người và những ảnh hưởng của môi trường với nhau. Nếu ai đó trở thành một PR thực sự, cuộc đời sẽ thay đổi và cảm thấy hạnh phúc hơn. Nếu trong xã hội này thực hiện PR tốt, chiến tranh, khủng hoảng, hay xung đột sẽ không còn. Thế giới con người sẽ bình an và thịnh vượng. Tất cả mọi người sẽ có những mối quan hệ tốt đẹp. Con người sẽ luôn quan tâm đến hành động của chính họ vì những lợi ích xã hội lâu dài và danh dự của họ. PR là sống. Người làm PR sẽ làm PR trở nên sống và tồn tại lâu hơn vì chính mục tiêu của tổ chức và cho chính họ. Vậy, con người có mục tiêu, sức mạnh, linh hồn, tình yêu và uy tín phải lưu ý nghệ thuật và sự trao đổi . Mời các bạn đón đọc PR Là Sống của tác giả Phạm Quốc Hưng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Quản Lý Tài Giỏi - Craig Nathanson
Thật đáng buồn là thế giới ngày nay đang phải trải qua cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng nhất trong nhiều năm. Trong khi rất nhiều lời chỉ trích nhằm vào sự tham lam về mặt tài chính, sự tham nhũng và những thứ có liên quan khác, thì sự phân tích của tôi lại nhằm vào trình độ quản lý yếu kém. Phản ứng tức thời của hầu hết các công ty là sa thải hàng ngàn người, những người được xem là sáng giá khi được tuyển dụng. Nếu lịch sử đi đúng qui luật của nó thì chỉ một năm sau thôi, những vị trí như thế này sẽ được… tái tuyển dụng với mức lương gấp đôi! Quyển sách này là sự đáp trả trước cuộc khủng hoảng quản lý. Từ kết quả của các chương trình đào tạo quản lý yếu kém, của các hệ thống tổ chức yếu ớt, và của việc tập trung thái quá vào vấn đề thưởng phạt, các nhà quản lý hiện đại ngày nay đang trở thành con tin trong các hệ thống mà họ quản lý. Niềm hy vọng duy nhất là một thời kỳ khai sáng mới cũng được tạo ra bởi những nhà quản lý này hoặc một chương trình đào tạo tốt hơn cho những nhà quản lý mới. Quyển sách này là một nỗ lực nhằm cung cấp các công cụ và các phương pháp hữu ích, thực tiễn, đơn giản, nhưng hiệu quả, giúp cho công tác quản lý trở nên tốt hơn. Quản lý vừa là nghệ thuật vừa là khoa học. Những nhà quản lý giỏi quan tâm đến việc phát triển nhân viên mà họ quản lý cũng như việc phát triển tổ chức mà họ quản lý. Họ cũng biết cách làm thế nào để hoàn tất những công việc quan trọng nhất. Chìa khóa để tránh một cuộc khủng hoảng quản lý tiếp theo là phải đào tạo và phát triển những nhà quản lý giỏi hơn. Sách sẽ cung cấp những ý tưởng thực tiễn và hữu dụng cho những nhà quản lý trẻ mới vào nghề, cho những người đang học ngành quản lý ở trường, và dĩ nhiên, cho cả những nhà quản lý đương nhiệm, những người đang cần đến một vài ý tưởng mới mẻ.   Craig Nathanson Tháng 5/2010 *** Tủ Sách Doanh Trí gồm có: Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào? 23 Vấn Đề Họ Không Nói Với Bạn Về Chủ Nghĩa Tư Bản Cách Nghĩ Để Thành Công Nói Vậy Mà Không Phải Vậy  Quảng Cáo Và Tâm Trí Người Tiêu Dùng Thay Đổi Tư Duy - Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và người khác Vận Hành Toàn Cầu Hóa Đặt Tên Cho Thương Hiệu! Nguyên Lý Thứ Năm: Nghệ Thuật Và Thực Hành Tổ Chức Học Tập Nhìn Về Toàn Cầu Hóa Yukichi Fukuzawa - Tinh Thần Doanh Nghiệp Của Nước Nhật Hiện Đại 10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh Lãnh Đạo Chuyển Hóa Đạo của Warren Buffett Châu Á Thần Kỳ - Thiên Sử Thi Về Hành Trình Tìm Kiếm Sự Thịnh Vượng Của Châu Á Học làm Lãnh đạo Thế giới cong Rơi Tự Do Quản Trị Dựa Vào Tri Thức Hơn Cả Tiền Tương Lai Của Nghề Quản Trị Nhân Sự Phương Thức Dẫn Đầu Thị Trường Nhà Quản Lý Tài Giỏi Lợi Thế Cạnh tranh Khi Bong Bóng Vỡ Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia ...   Mời các bạn đón đọc Nhà Quản Lý Tài Giỏi của tác giả Craig Nathanson.
Lợi Thế Cạnh Tranh - Michael E. Porter
Xuất bản lần đầu năm 1985, cuốn sách này là sự bổ sung chính yếu cho tác phẩm Chiến lược cạnh tranh (Competitive Strategy). Nếu Chiến lược cạnh tranh tập trung vào các ngành kinh doanh, thì Lợi thế cạnh tranh lại chủ yếu nói về các công ty và doanh nghiệp. Mục tiêu của tôi là khái niệm hóa một công ty, với những nguồn gốc cơ bản của lợi thế cạnh tranh và tính bền vững của lợi thế đó.   Trọng tâm của tác phẩm này là một lý thuyết dựa trên hoạt động (activity-based theory) của công ty. Để cạnh tranh trong bất kỳ ngành nào, các công ty phải thực hiện một loạt những hoạt động riêng rẽ như thực hiện đơn hàng, tiếp xúc khách hàng, lắp ráp sản phẩm, đào tạo nhân viên v.v… Chính các hoạt động này, vốn ở tầm nhỏ hẹp hơn các chức năng như marketing hay R&D, mới là nơi phát sinh chi phí và tạo ra giá trị cho người mua. Chính chúng mới là các đơn vị cơ bản (basic units) của lợi thế cạnh tranh [1] . Lợi thế cạnh tranh đưa ra khái niệm về Chuỗi giá trị (value chain) – là khung mẫu cơ sở để tư duy một cách chiến lược về các hoạt động trong doanh nghiệp; đồng thời đánh giá chi phí và vai trò tương đối của chúng trong việc khác biệt hóa. Khác biệt giữa giá trị (mức mà người mua sẵn sàng thanh toán cho một sản phẩm hay dịch vụ) với chi phí thực hiện các hoạt động cần thiết để tạo ra sản phẩm/dịch vụ ấy sẽ quyết định mức lợi nhuận. Chuỗi giá trị giúp ta hiểu rõ các nguồn gốc của giá trị cho người mua (buyer value) đảm bảo một mức giá cao hơn cho sản phẩm, cũng như lý do tại sao sản phẩm này có thể thay thế sản phẩm khác. Chiến lược là một cách sắp xếp và kết hợp nội tại các hoạt động một cách nhất quán, cách thức này phân biệt rõ ràng doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.   Cũng chính cái nhìn dựa trên hoạt động này cho ta cơ sở để suy nghĩ về chiến lược tại các doanh nghiệp đa ngành. Lợi thế cạnh tranh đi sâu khám phá vai trò của sản phẩm /dịch vụ thay thế trong cạnh tranh, cũng như phân tích lợi thế cạnh tranh trong một số ngành cụ thể [2] . Các hoạt động cũng là công cụ cơ bản để kiểm tra lợi thế hay bất lợi của việc đa dạng hóa. Khả năng tạo ra giá trị gia tăng thông qua cạnh tranh ở các doanh nghiệp đa ngành có thể được lý giải qua việc chia sẻ các hoạt động hoặc chuyển các kỹ năng độc nhất giữa các hoạt động khác nhau trong doanh nghiệp. Điều đó cho phép khái niệm “tổng lực” (synergy) trở nên rõ ràng và nhất quán. Lợi thế cạnh tranh nghiên cứu những vấn đề này, cũng như những thách thức về mặt tổ chức của sự cộng tác giữa các chức năng kinh doanh (cross-business collaboration) [3] . Với làn sóng mới của sự sáp nhập, các giá trị cạnh tranh bị đặt dấu hỏi, thì các vấn đề này tiếp tục gây ra nhiều sự quan tâm mới.   Cuối cùng, cách nhìn doanh nghiệp dựa trên các hoạt động của nó cũng tạo điều kiện cho việc đánh giá các chiến lược quốc tế, hay nói cách khác, cho sự cạnh tranh giữa những địa phương và quốc gia khác nhau. Khi tham gia cạnh tranh quốc tế, một doanh nghiệp có thể “trải rộng” các hoạt động của nó lên nhiều địa điểm, quốc gia khác nhau (tôi đặt tên cho khái niệm này là configuration – cấu hình, cấu trúc của doanh nghiệp), nhưng vẫn hoàn toàn có thể đạt được lợi thế cạnh tranh bằng việc phối kết hợp các hoạt động này. Tuy nhiên, do Lợi thế cạnh tranh đã quá dày và phức tạp, tôi quyết định sẽ phát triển các vấn đề “quốc tế” này ở trong một cuốn sách khác [4] . Tiếp đó, một cách tự nhiên, tôi lại nghiên cứu vai trò riêng của địa điểm đối với lợi thế cạnh tranh. Đó chính là chủ đề của cuốn sách thứ ba trong bộ sách này, mang tên Lợi thế cạnh tranh quốc gia [5] .   13 năm sau khi Lợi thế cạnh tranh được xuất bản lần đầu tiên, hồi tưởng lại, tôi cảm thấy hạnh phúc nhất khi các khái niệm chính yếu của nó được sự chấp nhận của mọi người. Những cụm từ như lợi thế cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh bền vững giờ đây đã trở nên phổ biến. Khái niệm “hoạt động” không chỉ phổ biến trong khi nói về cạnh tranh và chiến lược, mà còn quan trọng trong việc nghiên cứu các vấn đề về chức năng như quản trị dịch vụ, hay vai trò của công nghệ thông tin trong cạnh tranh. Tính toán chi phí dựa trên hoạt động trở thành một tiêu chuẩn mới trong kế toán quản trị, ngay cả khi đây chưa thể là một công cụ chiến lược.   Ngoài ra, khi hồi tưởng lại, Lợi thế cạnh tranh còn là một sự hài lòng đặc biệt cho cá nhân tôi với tư cách một học giả. Trong khi Chiến lược cạnh tranh là sự phát triển các lý thuyết trong kinh tế học công nghiệp, Lợi thế cạnh tranh dường như là tác phẩm mang tính khai phá trong lĩnh vực này, cả trong quản trị học và kinh tế học. Thực ra, tác phẩm này là kết quả của sự nỗ lực giải một câu đố của tôi. Câu đố như sau: bằng cách nào chúng ta có thể tìm ra một cách thức có hệ thống để kiểm tra nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh, gắn liền với chi phí và khác biệt hóa, đồng thời vạch ra sự khác biệt căn bản giữa các công ty? Hiện nay tôi hoàn toàn tin rằng chính các hoạt động đã cho chúng ta công cụ cần thiết đó. Càng nghiên cứu, tôi càng thấy khái niệm này được chứng minh rõ ràng và hùng hồn hơn nhiều so với dự tính ban đầu.   Tại sao vậy? Bởi cuốn sách này đưa ra phương pháp vượt ra ngoài những kiểu mô tả đặc điểm một chiều hoặc đơn nhất của lợi thế cạnh tranh. Đa số các công trình nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực này gắn lợi thế với quy mô và thị phần, và điều này thực ra đã quá đơn giản hóa vấn đề. Một là, tại một số bộ phận của doanh nghiệp, quy mô và thị phần quan trọng hơn nhiều so với chi phí và khác biệt hóa. Hai là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường hoạt động tốt hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn trong nhiều ngành kinh doanh. Cuối cùng, ngay cả khi quy mô và thị phần gắn liền với hiệu quả của sản xuất kinh doanh, thì chúng thường chỉ là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của lợi thế cạnh tranh.   Một số nỗ lực khác nhằm giải thích lợi thế cạnh tranh - chẳng hạn như điểm mạnh và điểm yếu, các yếu tố thành công, hay các khả năng riêng biệt - đều đúng khi thừa nhận rằng một doanh nghiệp là đa dạng và có nhiều sự tương tác. Song những nỗ lực ấy lại thất bại trong việc giải thích nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh một cách có hệ thống và sâu sắc, cũng như không gắn chúng với khả năng sinh lời. Cuốn sách Lợi thế cạnh tranh bắt đầu với tiền đề rằng lợi thế cạnh tranh xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau; sau đó đưa ra cách thức gắn lợi thế cạnh tranh với những hoạt động cụ thể cũng như cách liên kết các hoạt động ấy với nhau và với hoạt động của nhà cung cấp, khách hàng. Cuốn sách này cũng nghiên cứu những nguyên nhân tiềm tàng của lợi thế trong một hoạt động cụ thể: lý do tại sao một doanh nghiệp đạt chi phí thấp hơn, bằng cách nào mà các hoạt động tạo ra giá trị hữu hình cho người mua. Nó nhấn mạnh rằng đa số vị thế cạnh tranh tốt bắt nguồn từ các hoạt động khác nhau. Lợi thế dựa trên một số ít các hoạt động dễ bị phát hiện và bắt chước bởi các đối thủ cạnh tranh. Sau hết, hoạt động và chuỗi giá trị cho ta cái nhìn về doanh nghiệp như là một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau (interdependent system), trong đó các bộ phận riêng lẻ phải mang tính nhất quán về nội tại.   Nói rộng hơn, Lợi thế cạnh tranh giúp chiến lược trở nên vững chắc hơn, khả thi hơn. Các hoạt động - tức những gì một doanh nghiệp làm – nói chung là hữu hình, quan sát được, và do đó, có thể quản lý được. Khi đó, chiến lược không chỉ là một tầm nhìn chung chung, nó đã trở thành một sự kết hợp các hoạt động riêng lẻ mà doanh nghiệp lựa chọn, trong sự so sánh với các đối thủ của mình. Chiến lược theo đuổi chi phí thấp, chẳng hạn, sẽ gồm một bộ các lựa chọn về hoạt động không giống với chiến lược khác biệt hóa. Các hoạt động chính là cây cầu nối giữa chiến lược và việc triển khai. Khi chiến lược được định nghĩa trên những khái niệm chung về định vị, thì sự phân biệt rõ ràng giữa chiến lược với cấu trúc là có ý nghĩa và cần thiết. “Là cái gì” và “bằng cách nào” là hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, khi ý thức rằng doanh nghiệp là một tập hợp nhiều hoạt động khác nhau, dường như những phân định trước kia giữa chiến lược, chiến thuật và tổ chức trở nên lu mờ. Chiến lược giờ đây là một loạt các hoạt động nhất định, nhắm đến việc cung cấp một loạt giá trị cho những khách hàng cụ thể nào đó. Đặc điểm của mỗi hoạt động thể hiện cách thức thực hiện hoạt động đó, bao gồm cả nhân lực và vật lực, cũng như các sắp xếp về tổ chức liên quan. Do đó, các khả năng cùng năng lực làm việc trở thành bộ phận của các hoạt động cụ thể, hơn là mang tính trừu tượng, xa rời chi phí và giá trị tạo ra cho người mua.   Các chức năng mà nhiều người cho là mang tính tổ chức (như hệ thống bồi hoàn, đào tạo, quy trình ra quyết định .v.v…) cũng chỉ là những hoạt động. Tôi gọi chúng là những hoạt động hỗ trợ, phân biệt với những hoạt động trực tiếp liên quan tới việc sản xuất, phân phối, marketing sản phẩm, dịch vụ. Ngay các hoạt động hỗ trợ cũng có thể là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh. Việc kết hợp các hoạt động để cạnh tranh theo một cách thức nhất định cũng góp phần hình thành quan hệ trong hợp đồng với nhân viên và các doanh nghiệp khác. Các hoạt động cũng tạo ra một khung mẫu trong việc xác định các biên giới tổ chức.   Các hoạt động cũng làm cho chiến lược trở nên mang tính thực hành. Nói cách khác, coi doanh nghiệp như là tập hợp các hoạt động khác nhau chính là coi mỗi cá nhân là một phần của chiến lược. Điều này cũng giải thích tại sao các nhân viên phải hiểu về chiến lược, sao cho lý lẽ trong các hoạt động của họ cũng như cách thức chúng liên hệ với những hoạt động khác là rõ ràng. Các ý tưởng trong Lợi thế cạnh tranh khi triển khai mang tính thách thức nhiều hơn so với các ý tưởng trong Chiến lược cạnh tranh , vì chúng đòi hỏi một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn đến mọi công việc của doanh nghiệp. Trong một thế giới nơi các nhà quản trị có xu hướng thiên về những chỉ thị đơn giản, việc phân tích hoạt động một cách chi tiết đã và đang mang tính thách thức cao. Việc cố gắng tìm ra những ví dụ để minh họa chuỗi giá trị trong công việc cũng gặp phải những hạn chế thực tế. Tính phức tạp của một doanh nghiệp khiến không thể chỉ đưa ra những ví dụ ngắn; song muốn nghiên cứu tình huống một cách sâu hơn thì lại gặp khó khăn về tiết lộ thông tin. Đa số các công ty thành công đều xem cấu hình hoạt động của họ là thứ gì đó bí mật, độc quyền. Thực ra mà nói, chính sự khó khăn để hiểu được cấu hình hoạt động từ bên ngoài là một lý do quan trọng giải thích tại sao lợi thế cạnh tranh lại trở nên bền vững.   Ngày nay, hơn một thập kỷ sau lần xuất bản đầu tiên của Lợi thế cạnh tranh , các ý tưởng của nó vẫn đang tiếp tục lan tỏa. Trong lĩnh vực cạnh tranh và chiến lược, nơi có xu hướng phân biệt rõ ràng giữa các yếu tố bên ngoài (cấu trúc ngành và định vị) và bên trong (các năng lực cốt lõi, các nguồn lực chủ yếu), một số ý kiến cho rằng yếu tố bên trong là quan trọng hơn. Việc đối lập chiến lược cạnh tranh với các năng lực cốt lõi / các nguồn lực chủ yếu thực chất là đã đi lạc đề, tạo ra một sự phân biệt giả tạo.   Thật quá đơn giản khi suy nghĩ rằng các vị thế cạnh tranh và những kỹ năng bên trong, uy tín, hay năng lực tổ chức, có thể được tách biệt nhau. Thực tế thì các hoạt động kết nối chúng lại với nhau. Rõ ràng doanh nghiệp vừa là một tập hợp các hoạt động, vừa là một tập hợp các nguồn lực và năng lực. Nhưng hoạt động là những gì một doanh nghiệp làm, chúng xác định các nguồn lực và năng lực nào là liên quan. Các hoạt động cung cấp sự liên kết giữa vị thế sản phẩm và vị thế thị trường sản phẩm. Có thể quan sát và thực hiện các hoạt động, chúng liên quan trực tiếp đến chi phí và sự khác biệt. Một chiến lược cụ thể sẽ làm cho đa số nguồn lực và năng lực trở nên có giá trị, trong khi một chiến lược khác lại làm giảm thiểu giá trị của chúng. Nếu các nguồn lực và năng lực bị tách rời khỏi hoạt động, chiến lược và ngành kinh doanh, các doanh nghiệp trở nên có xu hướng hướng nội. Có nhiều điều cần nghiên cứu về tài sản của một doanh nghiệp, song không phải nghiên cứu một cách riêng rẽ.   Lợi thế cạnh tranh tạo cơ sở nền móng cho việc mô tả và đánh giá chiến lược, liên kết nó với hành vi doanh nghiệp, giúp hiểu được nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh. Đồng thời cuốn sách này cũng tạo cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn. Khi nhìn lại, rõ ràng Lợi thế cạnh tranh đã dẫn dắt tôi đến các chủ đề trong những nghiên cứu gần đây của mình: Tại sao những khác biệt về hoạt động đem lại những vị thế cạnh tranh khác nhau lại có thể xảy ra? Khi nào thì diễn ra sự đánh đổi giữa những vị thế? Điều gì khiến cho các hoạt động là khó bắt chước? Bằng cách nào các hoạt động trở nên ăn khớp với nhau? Các vị thế độc nhất đã được hình thành và phát triển như thế nào?   Tất nhiên, một điều rõ ràng nữa là việc cần nghiên cứu tại sao doanh nghiệp này lại hoạt động tốt hơn doanh nghiệp kia. Và cũng còn nhiều việc phải tìm hiểu về quy trình theo đó các doanh nghiệp tìm ra một chiến lược duy nhất, triển khai nó, thay đổi nó khi điều kiện thay đổi. Câu trả lời cho những vấn đề trên đương nhiên là không đơn giản, đòi hỏi những suy nghĩ và nghiên cứu sâu sắc, toàn diện.   Michael E. Porter Brookline, Massachusetts 01/1998       [1] 1 - Các sách về tái cấu trúc (re-engineering) doanh nghiệp sử dụng khái niệm quá trình (process). Đôi khi khái niệm này cũng có thể hiểu là các hoạt động (activities), hoặc một loạt hoạt động xuyên suốt qua nhiều phòng ban chức năng trong một tổ chức. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào thì khái niệm cơ bản vẫn là như nhau – các vấn đề về chiến lược cũng như vận hành đều được hiểu rõ nhất ở tầm mức hoạt động (activity level).   [2] - Các tác giả Adam Brandenburger và Barry Nalebuff trong cuốn sách Co-opetition (NXB Currency/Doubleday, New York, 1996) đã trình bày rất sâu sắc và sống động về vai trò của sản phẩm thay thế.   [3] - Các khái niệm này được phát triển tiếp tục trong bài báo “Từ lợi thế cạnh tranh đến Chiến lược cạnh tranh” của M.E.Porter trên tạp chí Harvard Business Review, số tháng 5&6, 1987.   [4] - M.E.Porter “Competition in Global Industries - Cạnh tranh trong các ngành kinh doanh toàn cầu”, Harvard Business School Press, Boston, 1986.   [5] - M.E.Porter “The competition Advantage of Nations - Lợi thế cạnh tranh quốc gia”, The Free Press, New York, 1990. *** Tủ Sách Doanh Trí gồm có: Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào? 23 Vấn Đề Họ Không Nói Với Bạn Về Chủ Nghĩa Tư Bản Cách Nghĩ Để Thành Công Nói Vậy Mà Không Phải Vậy  Quảng Cáo Và Tâm Trí Người Tiêu Dùng Thay Đổi Tư Duy - Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và người khác Vận Hành Toàn Cầu Hóa Đặt Tên Cho Thương Hiệu! Nguyên Lý Thứ Năm: Nghệ Thuật Và Thực Hành Tổ Chức Học Tập Nhìn Về Toàn Cầu Hóa Yukichi Fukuzawa - Tinh Thần Doanh Nghiệp Của Nước Nhật Hiện Đại 10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh Lãnh Đạo Chuyển Hóa Đạo của Warren Buffett Châu Á Thần Kỳ - Thiên Sử Thi Về Hành Trình Tìm Kiếm Sự Thịnh Vượng Của Châu Á Học làm Lãnh đạo Thế giới cong Rơi Tự Do Quản Trị Dựa Vào Tri Thức Hơn Cả Tiền Tương Lai Của Nghề Quản Trị Nhân Sự Phương Thức Dẫn Đầu Thị Trường Nhà Quản Lý Tài Giỏi Lợi Thế Cạnh tranh Khi Bong Bóng Vỡ Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia ...   Mời các bạn đón đọc Lợi Thế Cạnh Tranh của tác giả Michael E. Porter.
Học làm Lãnh đạo - Warren Bennis & Burt Nanus
Giờ đây, chúng ta cần chuyển hóa nguồn năng lượng và trí tuệ của mình thành những chiến lược có khả năng chuẩn bị cho lớp trẻ trở thành một thế hệ công dân tốt hơn trong thế giới này. Chúng ta phải luôn ghi nhớ cách mà các nước khác đã chìa tay ra giúp đỡ chúng ta trong những lúc khó khăn nhất và tìm cách đáp lại. Chúng ta phải xem sự kiện kinh hoàng ngày 11 tháng 9 như một bài học về cách mà tất cả chúng ta đã gắn kết lại và được chuẩn bị để xiết chặt tay nhau, với tư cách là con người với nhau cũng như các quốc gia với nhau - như những đồng sự, để xác định được rằng sự nghèo đói đã lấy đi của chúng ta quá nhiều hy vọng, cơ hội và sức lực. Và chúng ta phải chủ động tìm hiểu bạn bè láng giềng trên toàn thế giới, để xua tan đi những điều hoang đường và thành kiến, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và bắt đầu tạo ra các mối quan hệ giữa con người với  con người, cũng như mối quan hệ chiến lược có thể giúp tất cả chúng ta phòng ngừa được những gì đã xảy ra với chúng ta và với rất nhiều gia đình ở rất nhiều quốc gia khác trên toàn thế giới – để chúng không tái diễn thêm một lần nào nữa. Peggy Dulany, 23 tháng Chín, 2001.   Chúng tôi viết cuốn sách này với một niềm tin mãnh liệt rằng công việc lãnh đạo đích thực, hiệu quả và hợp đạo lý là một điều vô cùng cần thiết cũng như nằm trong khả năng của mỗi người. Chúng tôi muốn hỗ trợ bạn trên con đường trở thành một nhà lãnh đạo – một vị trí rất có thể sẽ phải đối mặt với những thách thức mà người bạn Peggy Dulany của chúng tôi đã gợi lên một cách hùng hồn khi bà hồi tưởng lại thảm kịch đã xảy ra cho nước Mỹ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Những nhu cầu cấp thiết đối với vai trò lãnh đạo đang hiển hiện trước mắt chúng ta hàng ngày. Các thành phố lớn của chúng ta đang trong cơn khủng hoảng, các cộng đồng dân cư của chúng ta đang đối mặt với những ung nhọt thối nát, ngày càng có nhiều những nhà lãnh đạo chính trị, tôn giáo và tổ chức kinh doanh bị phát hiện đã vi phạm các chuẩn mực đạo lý của xã hội, và còn rất nhiều những vấn đề nhức nhối khác trên thế giới đòi hỏi chúng ta phải lưu tâm đến ngay từ bây giờ. Peggy Dulany đã nói đúng. Với tư cách là một thành viên của gia đình Rockerfelle [1] , bà đã nhận lấy phần trách nhiệm của riêng mình trong việc tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề cấp bách của thế giới này một cách hoàn toàn nghiêm túc. Bà kêu gọi mọi người hãy vươn tay ra và tạo nên những nhịp cầu lãnh đạo tới người khác. Lời kêu gọi này hướng đến mỗi người chúng ta, những người đang phải đối mặt với thách thức dành cho công việc lãnh đạo. Trong thời điểm khó khăn như hiện nay, rõ ràng là sẽ không đủ khi chỉ giới hạn nhu cầu của chúng ta trong phạm vi những nhà lãnh đạo mà ta hiện có. Hơn thế nữa, chúng ta đòi hỏi một mô hình lãnh đạo cao cấp xuất phát từ tất cả các công dân thuộc mọi tầng lớp xã hội. Để đáp ứng được nhu cầu dành cho công việc lãnh đạo này, chúng ta phải đáp ứng được những nhu cầu hàng ngày của gia đình, cộng đồng và xã hội bằng cách sắp xếp lại nguồn sức mạnh nội tại và hoàn thành lời hứa sẽ nắm lấy cương vị lãnh đạo mà chúng ta đã đặt ra cho mình. *** Sự lãnh đạo có thể được học hỏi không?... Khái niệm tất cả những phẩm chất của một nhà lãnh đạo do bẩm sinh mà có là một khái niệm hoàn toàn sai lầm. Dĩ nhiên có những đặc điểm nhất định được xác định theo mặt di truyền – mức độ năng lượng chẳng hạn. Nhưng món quà di truyền của một cá nhân, dù có đáng chú ý đến mức độ nào đi chăng nữa, cũng không thể quyết định được khả năng lãnh đạo của người đó trong tương lai, mà còn tùy thuộc vào những sự kiện và ảnh hưởng đến với anh ta sau này nữa. Những người trẻ tuổi với món quà bẩm sinh đáng kể cho vai trò lãnh đạo thường thất bại trong việc đạt được những gì tồn tại trong chính bản thân họ. Thế nên một phần nhiệm vụ của chúng ta là phát triển cái vốn tự nhiên đã tồn tại nhưng vẫn cần được mở mang ấy. Tài năng là một chuyện, việc thể hiện tài năng đó ra một cách hiệu quả lại là chuyện hoàn toàn khác. Một vài tài năng thể hiện bản thân họ một cách tự do và không cần phải được khuyến khích nhiều. Leopold Mozart không gặp nhiều khó khăn lắm để mở ra món quà được chôn giấu trong đứa con trai Wolfgang bé bỏng của ông. Nhưng, nói chung, độ chín của bất cứ tài năng phức tạp nào đều đòi hỏi một sự kết hợp tốt đẹp giữa động cơ thúc đẩy, tính cách, và cơ hội. Hầu hết những tài năng của con người đều bị bỏ hoang. Quan sát của Gardner về sự hoang phí của chúng ta đối với những tài năng lãnh đạo tiềm tàng là bản cáo trạng của cả một hệ thống giáo dục và những trải nghiệm trưởng thành của chúng ta trong gia đình và cộng đồng. Vì rất nhiều người trong số chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội thời tuổi trẻ để phát triển khả năng lãnh đạo và tài năng của mình, chúng ta có một nhiệm vụ cải thiện bản thân đang chờ trước mắt. Đã đến lúc khám phá ra khả năng lãnh đạo của chúng ta và khám phá ra khả năng lãnh đạo nơi những người khác. Chúng tôi đề xuất với bạn một sự cộng tác giữa đôi bên. Về phần mình, chúng tôi đồng ý mang đến cho bạn một chương trình, qua đây sẽ giúp bạn tìm thấy những khả năng lãnh đạo mà trước đó bạn chưa nhận thấy được ở bản thân mình, để giúp bạn mài sắc những kỹ năng đã bị cùn đi vì ít khi dùng đến, và mang đến lòng dũng cảm sẽ truyền cảm hứng cho bạn để bạn bộc lộ bản thân mình như là nhà lãnh đạo đúng với con người mà bạn có khả năng trở thành. Về phần bạn - trong mối quan hệ cộng tác này - chúng tôi hy vọng bạn đồng ý nắm lấy cơ hội mà chúng tôi đưa ra cùng với một lời cam kết, chân thành, và sẵn lòng kiểm tra những giả định cơ bản nhất về bản thân và cuộc đời bạn. Chúng tôi sẽ vô cùng sung sướng khi bạn đồng ý xây dựng nên mối liên hệ cộng tác này với chúng tôi. Chúng tôi hy vọng bạn sẽ trân trọng nó cũng tương đương như khi chúng tôi đã rất vui thích được tạo ra nó cho bạn. Chúng tôi hy vọng có thể giúp bạn ý thức được sự phức tạp mờ nhạt và nhập nhằng đang nhận chìm chúng ta. Thành công của bạn sẽ phụ thuộc vào việc bạn chuẩn bị cho mình một tầm nhìn tốt nhất có thể, về việc tạo ra niềm tin giữa những người khác, trong việc củng cố những chuẩn mực đạo đức, giá trị, và tính xác thực, và trong việc hiểu được bản thân mình đủ để tiếp tục học hỏi và phát triển tài năng. Xin chào đón bạn đến với chuyến hành trình của công việc lãnh đạo. Warren Bennis - Đại học Nam California. Joan Goldsmith - Santa Monica, California. *** Tủ Sách Doanh Trí gồm có: Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào? 23 Vấn Đề Họ Không Nói Với Bạn Về Chủ Nghĩa Tư Bản Cách Nghĩ Để Thành Công Nói Vậy Mà Không Phải Vậy  Quảng Cáo Và Tâm Trí Người Tiêu Dùng Thay Đổi Tư Duy - Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và người khác Vận Hành Toàn Cầu Hóa Đặt Tên Cho Thương Hiệu! Nguyên Lý Thứ Năm: Nghệ Thuật Và Thực Hành Tổ Chức Học Tập Nhìn Về Toàn Cầu Hóa Yukichi Fukuzawa - Tinh Thần Doanh Nghiệp Của Nước Nhật Hiện Đại 10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh Lãnh Đạo Chuyển Hóa Đạo của Warren Buffett Châu Á Thần Kỳ - Thiên Sử Thi Về Hành Trình Tìm Kiếm Sự Thịnh Vượng Của Châu Á Học làm Lãnh đạo Thế giới cong Rơi Tự Do Quản Trị Dựa Vào Tri Thức Hơn Cả Tiền Tương Lai Của Nghề Quản Trị Nhân Sự Phương Thức Dẫn Đầu Thị Trường Nhà Quản Lý Tài Giỏi Lợi Thế Cạnh tranh Khi Bong Bóng Vỡ Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia ...   Mời các bạn đón đọc Học làm Lãnh đạo của tác giả Warren Bennis & Burt Nanus.
Đạo của Warren Buffett - Mary Buffett & David Clark
Từ năm 1981 đến 1993, trong suốt 12 năm, tôi chính thức là con dâu của Warren Buffett, nhà đầu tư thành công nhất thế giới và đồng thời cũng là nhà hảo tâm lớn nhất thế giới. Không lâu sau khi thành hôn với Peter, con trai của Warren, và rất lâu trước khi phần thế giới bên ngoài Wall Street biết đến Warren, tôi đã được đến thăm gia đình tại Omaha. Tại đây, tôi đã được gặp một nhóm sinh viên tâm huyết với những lời thông thái của bậc thầy về đầu tư, và tự nhận mình là những nhà nghiên cứu Buffett (Buffettology). David Clark là một người trong nhóm này còn lưu giữ những quyển sổ ghi chép những lời khuyên rất chi tiết và thú vị của Warren về đầu tư. Về sau, những quyển sổ này chính là nền tảng giúp chúng tôi viết nhiều quyển sách với chủ đề đầu tư rất được ủng hộ như Buffettology, The Buffettology Workbook, và quyển The New Buffettology, đã được xuất bản bằng mười thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Hoa và tiếng Nga. Trong những quyển sổ này của David, tôi thích nhất một quyển ghi lại những câu cách ngôn sâu sắc của Warren, vì chúng khiến bạn phải suy nghĩ và chiêm nghiệm. Sau này tôi phát hiện ra rằng, đối với những tín đồ nghiên cứu Buffett, những câu cách ngôn này chẳng khác gì những lời giảng đạo của một bậc trưởng lão, nghĩa là càng suy ngẫm thì lại càng nghiệm ra được nhiều điều sâu sắc. Theo thời gian thì chính tôi cũng bắt đầu ghi chép những câu cách ngôn mà Warren hay nói trong gia đình hoặc tại các buổi hội họp với các ngôi sao trong kinh doanh. Những lúc như thế, Warren đôi khi đứng lên để lắng nghe và trả lời các câu hỏi như một thầy giáo, đền đáp cho những sinh viên kiên nhẫn bằng sự thông thái của mình. Càng lắng nghe Warren, tôi càng học hỏi được nhiều điều, không chỉ là trong đầu tư, mà bao quát trong kinh doanh và cuộc sống nói chung. Những câu cách ngôn của ông cứ day dứt mãi trong đầu bạn. Tôi nhận ra mình thường hay trích dẫn lời của ông, hoặc bật lên những suy nghĩ về chúng như một cách để ngăn mình khỏi mắc sai lầm, không bị cuốn vào cơn cuồng phong náo nhiệt của thị trường đang lên. Chúng còn là chiếc kim chỉ nam giúp tôi biết phải tập trung chú ý vào những công ty nào và chọn thời điểm thích hợp nhất để đầu tư. David và tôi cho rằng sẽ rất thú vị nếu cho ra một tập hợp những thuyết giảng của Warren Buffett, bằng những câu mà theo chúng tôi là thật sự khai sáng về đầu tư, quản trị kinh doanh, về cách chọn nghề nghiệp, và xây dựng một cuộc sống thành công. Những câu này thật sự là người bạn đường dẫn lối chúng tôi trong cuộc sống, trong công việc, trong đầu tư khôn ngoan. Chúng tôi cũng đưa vào đây cách giải thích của những người đã dày công nghiên cứu Buffett để làm bối cảnh và mở cánh cửa giúp các bạn khám phá thêm những ẩn ý sâu xa bên dưới ngôn từ. Tôi hy vọng quyển sách này sẽ làm giàu thêm thế giới của bạn, biến cuộc sống thành một chốn thú vị với nhiều lợi ích dành cho đầu tư, làm việc, và sinh sống.   Mary Buffett Tháng 7/2006 *** Tủ Sách Doanh Trí gồm có: Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào? 23 Vấn Đề Họ Không Nói Với Bạn Về Chủ Nghĩa Tư Bản Cách Nghĩ Để Thành Công Nói Vậy Mà Không Phải Vậy  Quảng Cáo Và Tâm Trí Người Tiêu Dùng Thay Đổi Tư Duy - Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và người khác Vận Hành Toàn Cầu Hóa Đặt Tên Cho Thương Hiệu! Nguyên Lý Thứ Năm: Nghệ Thuật Và Thực Hành Tổ Chức Học Tập Nhìn Về Toàn Cầu Hóa Yukichi Fukuzawa - Tinh Thần Doanh Nghiệp Của Nước Nhật Hiện Đại 10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh Lãnh Đạo Chuyển Hóa Đạo của Warren Buffett Châu Á Thần Kỳ - Thiên Sử Thi Về Hành Trình Tìm Kiếm Sự Thịnh Vượng Của Châu Á Học làm Lãnh đạo Thế giới cong Rơi Tự Do Quản Trị Dựa Vào Tri Thức Hơn Cả Tiền Tương Lai Của Nghề Quản Trị Nhân Sự Phương Thức Dẫn Đầu Thị Trường Nhà Quản Lý Tài Giỏi Lợi Thế Cạnh tranh Khi Bong Bóng Vỡ Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia ...   Mời các bạn đón đọc Đạo của Warren Buffett của tác giả Mary Buffett & David Clark.