Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

7 Chiến lược Thịnh Vượng và Hạnh Phúc - Jim Rohn
Năm 25 tuổi, Jim Rohn tổng kết lại chặng đường đã qua và hoảng hốt nhận ra rằng cuộc sống của ông khác xa với những mục tiêu mà ông tự đặt ra cho mình. Giữa lúc tuyệt vọng đó, ông gặp Earl Shoaff, và học được từ người thầy tinh thần này những bài học cuộc sống vô cùng quý báu. Jim Rohn đã áp dụng những bài học này vào thực tế và gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống, một cuộc sống giàu có và hạnh phúc. Qua cuốn sách này, Jim Rohn muốn truyền thông với người đọc một cách đơn giản và trực tiếp về những ý tưởng sẽ tạo nên sự khác biệt trong cách thức thay đổi cuộc sống của mỗi người. Bạn không cần phải lựa chọn giữa thịnh vượng và hạnh phúc – cả hai đều xuất phát từ một dòng chảy vô cùng phong phú. Với cuốn sách này, bạn sẽ khám phá ra bảy chiến lược đặc biệt mà bạn cần để thành công: - Khám phá sức mạnh của những mục tiêu. - Học hỏi kiến thức. - Khám phá điều kỳ diệu của sự phát triển cá nhân. - Kiểm soát tài chính của chính bạn. - Làm chủ thời gian. - Ở giữa những người chiến thắng. - Học nghệ thuật sống tốt. Những triết lý của Jim Rohn đã giúp hàng triệu người thay đổi cuộc sống của họ theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Hãy xem nó có thể làm gì cho bạn. “Khi đọc cuốn sách này, bạn hãy tưởng tượng mình đang mua hàng. Bạn chỉ nên mua và sử dụng những ý tưởng nào có thể áp dụng ngay cho mình. Bạn chắc chắc không cần phải tin mọi thứ mà người khác nói nhưng cũng phải thật sự dành cho mình một cơ hội. Hãy đọc những trang tiếp theo với tâm trí rộng mở. Nếu có điều gì phù hợp thì bạn hãy thử nghiệm, nếu điều gì không phù hợp thì hãy loại bỏ. Hãy nhớ rằng dù là học viên của bất kỳ môn học nào thì bạn cũng không chỉ đơn thuần là người đi theo. Thông tin về tác giả: Jim Rohn là một trong những diễn giả biết cách truyền động lực nhất. Đến thời điểm hiện tại, sự nghiệp phát triển bản thân và mang lại động lực cho mọi người của ông đã được 40 năm. Thêm vào đó, ông còn được biết đến như một nhà tư tưởng và một triết gia vĩ đại. Ông đã làm việc với hàng triệu người và đã giúp họ đạt được thành công. Một trong số đó phải kể đến là Anthony Robins và Zig Ziglar. Mời các bạn đón đọc 7 Chiến lược Thịnh Vượng và Hạnh Phúc của tác giả Jim Rohn.
Cho Là Nhận - Ken Blanchard & S. Truett Cathy
"Cho là nhận" Cho nỗi hận nhận niềm đau, Cho cay đắng ắt nhận đắng cay, Gieo nỗi sầu lòng đâu thanh thản... Hãy cho đi những điều tốt đẹp Cho sự tha thứ lòng thanh thản Cho sự đồng cảm nhận sẻ chia Cho một nụ cười nhận niềm vui... Cho đi cái gì... Nhận lại cái đó. Cho đi chính là nhận được "Cho là nhận", một triết lí sống cao đẹp mà ít người thực sự có được, đó cũng là tên của một cuốn sách vô cùng hay và ý nghĩa "Cho là nhận" của tác giả Ken Blanchard & S.Truett Cathy. Tôi đã đọc đi đọc lại gần chục lần tất cả nội dung bên trong cuốn sách ấy trong giờ sinh hoạt đầu giờ của lớp, nhưng mà...thật buồn vì tôi vẫn chưa hiểu hết được ý nghĩa của việc cho đi chính là nhận được. Nôm na tôi chỉ hiểu được, sống là phải biết cho đi mà không cần nhận lại, đã cho đi thì cái mà bạn nhận được là sự hạnh phúc, đôi khi còn là sự thanh thản trong tâm hồn. Bạn cho đi không nhất thiết phải là thứ hiện hữu trước mắt, cũng không nhất thiết là của cải vật chất, mà bạn phải thêm vào đó tình cảm của mình... Đó mới là cho đi. Đấy, tôi hiểu nó như thế... Muốn hiểu sâu hơn thì các bạn hãy tìm cuốn sách "Cho là nhận" về đọc nhé. Còn giờ hãy đọc phần cảm nhận của riêng tôi về cuốn sách đó trước. Cuốn sách này không dày, kích thước chỉ bằng một cuốn sổ ghi chép cỡ vừa, cũng chỉ có khoảng một trăm hơn trang nhưng cái mà người đọc (nghe) nhận được lại là cả một triết lí sống cao đẹp khiến cả người nhận và cho đều cảm thấy hạnh phúc. Anh chàng môi giới chứng khoán trẻ tuổi thành đạt nhưng sống vô tình, có phần lạnh nhạt và vô tâm với những người xung quanh, vì vậy cuộc sống của nhà môi giới trẻ trôi qua tẻ nhạt... Chỉ luôn kiếm tiền mặc dù anh ta đã có rất nhiều tiền. Tình cờ nhà môi giới trẻ đã đọc được bài phóng sự về một người thành đạt khác, nói về sự hào hiệp và cho đi không cần nhận lại của ông ta. Nhà môi giới trẻ không tin nên đã tìm cách liên lạc với người "kì quặc" đó. Nhà môi giới đã gặp, nói chuyện với người đó và cảm thấy cuộc sống của bản thân thật vô vị. Sau đó mỗi ngày anh ta bắt đầu "tìm hiểu" về triết lí sống này.  Hơi xấu hổ một chút khi chia sẻ với các bạn điều này, nhưng tôi đã phê bình và thậm chí là cảm thấy cuốn sách này nhảm nhí khi vừa đọc nó lần đầu tiên. Tôi nghĩ mình cảm thấy như vậy khi đọc lần đầu tiên là vì tư duy của tôi còn khá non nớt, hơn nữa...các bạn biết đấy, đa phần giới trẻ như tôi (tôi mới 16 tuổi thôi) thường thích đọc những câu triết lí, châm ngôn hay status về tình bạn và tình yêu hơn là những chuyện trong lĩnh vực quản trị đời sống như thế này... Nếu bạn đọc lần đầu mà cảm thấy như tôi thì hãy thử đọc lại thật kĩ nhé, chắc chắn bạn sẽ nhận thấy điều kì diệu trong cuốn sách đó Nhà môi giới trẻ nghĩ nhà điều hành là kẻ "kì quặc" từ lần đầu nói chuyện, chính tôi cũng cảm thấy như vậy vì nhà điều hành luôn giúp đỡ người khác mà không cần nhận lại một thứ gì từ họ, nhà điều hành có những đứa con nuôi, giúp đỡ người khác khi họ cần giúp đỡ... Và còn nhiều hành động của ông ấy tôi cũng thấy "kì quặc" lắm cơ. Mấy việc cho đi tình cảm và vật chất của ông ấy cho tôi thấy một con người rất tốt, giàu lòng thương người, hiểu nhiều điều về cuộc sống nhấp nhô này, đó không phải việc làm tôi cảm thấy ông ấy rất "kì quặc" mà là việc ông ấy nói nhà môi giới về lập "bản danh sách hạnh phúc", bạn có ngờ được không? Sự hạnh phúc còn có thể lập ra được bản danh sách sao? Tôi đã choáng khi đọc xong chương đó đấy, thực sự phải dùng từ choáng cho chương 12 mang tên "bản danh sách hạnh phúc". Vừa choáng tôi lại vừa suy nghĩ, nếu tôi là nhà môi giới thì chắc tôi sẽ chẳng viết nổi chữ nào vào bản danh sách đó, có chăng cũng chỉ viết được hai từ hạnh phúc mà thôi!  Có vẻ tôi hơi lan man rồi thì phải!!! Cuốn sách chỉ đơn giản có từ ngữ và đa phần lời đối thoại, chẳng có hình ảnh gì như những cuốn sách khác, đấy là trừ bìa sách nhé, bìa nó có hai màu chủ đạo là trắng và đỏ, tôi thích nó - cái bìa ấy. Những trang đầu chỉ kể lại chuyện của nhà môi giới trẻ với người tài xế, về sự lạnh nhạt với mọi người xung quanh và cả việc nhà môi giới trẻ ăn vận chỉnh tề, ngày ngày đi làm có xe riêng đưa đón, người tài xế luôn tận tuỵ với công việc luôn luôn giúp ông chủ của mình dù những việc nhỏ nhặt nhất vậy mà nhà môi giới trẻ chưa từng để ý hay quan tâm đến người tài xế, cũng chẳng có hỏi han người tài xế một câu. Đơn giản vì nhà môi giới trẻ luôn nghĩ đó là việc đương nhiên, anh ta trả tiền cho người tài xế làm những việc như thế này mà! Tôi không hề cảm thấy bất bình cho người tài xế, tôi chỉ cảm thấy buồn cho nhà môi giới vì không hoà nhập với những người xung quanh thôi. Ý tôi không phải nhà môi giới bị cô lập hay khác người đâu, ý tôi là nhà môi giới tự cô lập tình cảm của mình với người tài xế, dĩ nhiên nhà môi giới và người tài xế còn chưa cười với nhau lấy một lần ấy chứ, mỗi chuyến đi của họ thật ngột nhạt trong khi họ có thể bắt chuyện với nhau và kể về ngày hôm qua của bản thân chẳng hạn... Tôi cá là nhà môi giới sẽ cảm thấy đến nơi nhanh hơn mọi ngày đấy, còn có thể tạo sự thoải mái bắt đầy một ngày mới hay bắt đầu công việc... Sau đó nhà môi giới trẻ còn cảm thấy khó chịu và thậm chí yêu cầu cảnh sát đến bắt một người đàn bà ăn mặc rách rưới muốn gặp nhà môi giới và hay "lảng vảng" trước toà văn phòng của nhà môi giới vì lí do là bà ấy gây ảnh hưởng đến an ninh.  Lần này thì tôi thực sự phê bình nhà môi giới trẻ giàu có này, thậm chí nhà môi giới vô tâm đến mức chẳng chịu gặp người đàn bà và yêu cầu cảnh sát bắt bà ta khi thấy bà ta cứ "lảng vảng". Tôi nghĩ nhà môi giới trẻ làm vậy là vì cách ăn mặc rách rưới của người đàn bà, nếu thay vào đó là một người ăn mặc sang trọng hay đại loại như thế thì nhà môi giới chắc chắn đã ra gặp. Tiếp đó nhà môi giới gặp và nói chuyện với nhà điều hành, nhà môi giới cảm thấy cuộc sống của mình thật vô vị, chưa thực sự hạnh phúc dù đã có rất nhiều tiền, cũng như phần tôi lan man ở trên đấy, sau đó nhà môi giới bắt đầu đi "tìm hiểu" về triết lí sống "cho là nhận". Nhà môi giới tìm thấy "những cánh cửa mở" và "bốn yếu tố quan trọng của lòng chia sẻ", còn bốn yếu tố đó là gì tôi sẽ không tiết lộ đâu, nếu tiết lộ cho các bạn biết hết thì các bạn chỉ cảm nhận được cái mà tôi cảm nhận, vậy nên bạn nào tò mò thì tìm đọc cuốn sách đó nhé. Nó có bán ở các nhà sách trên toàn quốc đấy! Nhà môi giới trẻ đã từng ngày thay đổi trong suy nghĩ và hành động. Biết quan tâm đến người tài xế và giúp đỡ khi người tài xế lâm vào tình cảnh khó khăn. Nhà môi giới còn gặp lại người đàn bà ăn mặc rách rưới lần trước, lần này bà ấy ăn mặc trang trọng đúng chất một quý bà. Nhà môi giới đã chẳng nhận ra người đàn bà ăn mặc rách rưới và quý bà này là cùng một người, rồi quý bà cũng nói cho nhà môi giới biết điều đó, nhà môi giới đã sửng sốt và hỏi tại sao bà ấy làm vậy. Bà ấy đã nói trước kia (trước khi giàu có ấy) bà ấy cũng chỉ là một người ăn mặc rách rưới trong những khu tàn tạ, phải đi xin ăn... Hiện tại bà ấy giàu có là nhờ người chồng. Bà ấy muốn chia sẻ với những người nghèo khó, giúp đỡ họ và ăn mặc như họ để họ không cảm thấy bà ấy do thương hại mà làm vậy, cho họ cảm thấy bà ấy đồng cảm và thực sự muốn giúp đỡ họ... Nhà môi giới đã nghiệm ra thêm nhiều điều từ cuộc nói chuyện với quý bà đó, biết đồng cảm và chia sẻ với những người xung quanh, biết rằng cho đi vật chất hay hành động giúp đỡ phải thêm vào cả sự chân thành, tình cảm... Nhưng mà nhà môi giới vẫn chưa cảm thấy bản thân đã thay đổi mặc dù anh ta thật sự đã có những thay đổi rõ rệt, mỗi ngày trôi qua đều là một cơ hội cho nhà môi giới cũng như mọi người hiểu thêm về việc cho và nhận và tương lai của nhà môi giới trẻ sẽ mở rộng tươi đẹp... Đọc và bị cuốn sâu vào trong những vần chữ... Bạn biết không? "Cho là nhận" - cuốn sách tôi yêu Ban đầu nhà môi giới có rất nhiều thắc mắc về việc nhà điều hành quan tâm nhân viên... Nhà điều hành đưa nhà môi giới đến ngôi nhà hạnh phúc, một ngôi nhà và trái tim, ở đó có những đứa trẻ nhà điều hành nhận nuôi và nuôi dưỡng tâm hồn chúng... Sau nhiều câu chuyện khác nhau nhà điều hành đã giúp nhà môi giới trẻ hiểu ra chân lí sống. Tôi đã khá "ngấm" những điều nghiệm ra từ những câu chuyện của nhà môi giới trẻ và nhà điều hành, đương nhiên cuối cùng nhà môi giới trẻ đã hiểu rõ "cho là nhận", cảm nhận được cuộc sống không hề tẻ nhạt khi biết chia sẻ vơi những người khác. Tôi cảm thấy thế giới cần những người như nhà điều hành, cần những phẩm chất tốt. Bạn đã bao giờ nghĩ tới: - Những đứa trẻ mồ côi vô gia cư? - Những đứa bé vô tội bị cha mẹ chúng ruồng bỏ? - Sinh viên không đủ tiền để vào đại học? - Những con người phải hứng chịu hạn hán, không có nước uống đang chết dần chết mòn? ... Còn nhiều người rất cần giúp đỡ của xã hội, rất cần những người thấu hiểu "cho là nhận". Dĩ nhiên những thứ bạn có mới có thể cho đi.... Đã bao giờ bạn vui vẻ cho những người quen và những người xa lạ dù chỉ là: - Một ổ bánh mì? - Một tấm lòng đồng cảm sẻ chia? - Một hành động giúp đỡ ai đó? - Thời gian của bạn? ... Một trong số đó, bạn đã từng cho đi và cảm thấy thoải mái, vui vẻ hay hạnh phúc chưa? Những người nhận được sẽ cho bạn thứ gì: - Một nụ cười? - Giọt nước mắt hạnh phúc? - Lời cảm ơn? - Một cái ôm? - Cho bạn cảm thấy cuộc sống của bản thân không tẻ nhạt? - Cho bạn thấy xã hội cần bạn? - Cho bạn thấy bạn không phải người dư thừa như bạn từng nghĩ? - Bạn là một người tốt? ... Bạn đã từng cho đi thứ gì hay chưa? Nếu chưa thì hãy thử cho đi một lần nhé! Rồi bạn tìm thấy một triết lí quý báu "cho là nhận".  Bạn có biết? chúng ta có thể cho đi: - Một lời oán trách nặng nề? - Một nỗi hận? - một lời giận vô cớ? - Một sự khinh bỉ? ...  Nhưng bạn cho đi những thứ đó thì bạn nhận được gì: - Sự suy nghĩ và hối hận? - Bạn đau khổ? - Bạn tự trách? - Bạn nhận được sự xa lánh từ những người bạn từng khinh bỉ? ... Tôi nghĩ bạn cần biết phải cho đi cái gì, cái gì có thể nhẫn thì cố nhẫn, hãy tha thứ cho một lỗi lầm người ta gây ra cho bạn.... Khi đó bạn sẽ nhận được nhiều thứ bổ ích, sẽ cảm thấy yêu cuộc sống hơn... Mời các bạn đón đọc Cho Là Nhận của hai tác giả Ken Blanchard & S. Truett Cathy.
15 Kỹ Năng Sinh Tồn Trong Công Sở - Debra Fine
Debra Fine khuyên bạn hãy học cách: Xác định thông điệp Phân tích ngôn ngữ cơ thể muốn truyền đạt điều gì Thành thục kĩ năng đàm phán Đề nghị nhân viên hoặc sếp đưa ra phản hồi tích cực và hiệu quả Theo dõi các cuộc họp và xem xét kĩ chương trình họp Khắc phục nỗi sợ hãi nói trước đám đông Hạn chế mâu thuẫn với đồng nghiệp và khách hàng Sa thải hoặc từ chối thăng cấp cho một nhân viên Nắm vững nguyên tắc giao tiếp xã giao qua e-mail, tin nhắn thoại và tạo ấn tượng tích cực mọi nơi mọi lúc... và còn hơn thế nữa. 15 Kỹ Năng Sinh Tồn Trong Công Sở là cuốn sách hoàn hảo dành cho giám đốc điều hành, nhà quản lý cũng như đội ngũ nhân viên - những người muốn đạt được kĩ năng tạo ra môi trường làm việc hiệu quả, doanh thu tăng và có ảnh hưởng tích cực nơi công sở. Mời các bạn đón đọc 15 Kỹ Năng Sinh Tồn Trong Công Sở của tác giả Debra Fine.
Trí Tuệ Đám Đông: Vì Sao Đa Số Thông Minh Hơn Thiểu Số - James Surowiecki
Trí tuệ đám đông nhằm cungcấp cho bạn đọc cái nhìn đa chiều về một vấn đề rất lý thú, liên quan trực tiếp đến cách kiến giải sự vận hành thực sự của thế giới này, đó làTâm lý - Trí tuệ của tập thể. Trí tuệ đám đông đưa ra một giả thuyết đơn giản đến mức dễ gây lầm tưởng, thậm chí có phần kì quặc: Để đưa ra một quyết định đúng đắn hay giải quyết một vấn đề nào đó thì những đám đông luôn tỏ ra thông minh hơn một vài chuyên gia riêng lẻ. Đây là cuốn sách đưa ra một cách kiến giải hoàn toàn mới về sự vận hành thực sự của thế giới. Trí tuệ đám đông trình bày lịch sử của một ý niệm hàm chứa trong nó những bài học sâu sắc đối với việc điều hành kinh doanh, tổ chức xã hội, cơ cấu hệ thống chính trị, chống chủ nghĩa khủng bố và suy nghĩ về tương lai của chúng ta. Các nguyên tắc được James Surowiecki trình bày đa dạng và phong phú đến mức đáng ngạc nhiên: từ những hành vi trong kinh tế đến cơ chế hoạt động của loài ong và cả sự cập nhật trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Những ví dụ được đưa ra trong cuốn sách đều rất sống động, bất ngờ và dí dỏm. Từ đó, Surowiecki rút ra những kết luận thông minh và gây sốc về xã hội, thị trường tự do, nghiên cứu khoa học, môi trường và thậm chí cả giá trị của hình thái chính phủ dân chủ. Trí tuệ đám đông chắc chắn sẽ hấp dẫn nhiều độc giả bởi James Surowiecki đã chỉ ra, theo một cách thức hoàn toàn mới, sự vận hành thực sự của thế giới này. Mời các bạn đón đọc Trí Tuệ Đám Đông: Vì Sao Đa Số Thông Minh Hơn Thiểu Số của tác giả James Surowiecki.