Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tâm Lý Tội Phạm (Lôi Mễ)

Hầu hết các nhà văn nổi tiếng thế giới thành danh ở thể loại trinh thám hình sự đều không xuất thân từ ngành công an. Lôi Mễ là một hiện tượng đặc biệt. Ở tuổi ngoài 30, anh là sĩ quan cảnh sát cấp phòng (sở), giảng dạy bộ môn Hình pháp học tại một trường cảnh sát trực thuộc Bộ Công an Trung Quốc. Lôi Mễ vào làng văn trinh thám hình sự hơi muộn so với nguyện vọng của mình. Ngay từ thuở nhỏ, anh đã tập tành viết sách nhưng phải đến năm 2006, anh mới xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên mang tên Độc giả thứ 7 và ngay sau đó là liên tiếp 3 tác phẩm: Đề thi đẫm máu, Cuồng vọng phi nhân tính và Sông ngầm. Dù số lượng chưa nhiều, chỉ với những tác phẩm trên, Lôi Mễ đã được xếp hạng trong số những nhà văn trinh thám hình sự nổi tiếng của Trung Quốc.

Nếu như phần lớn tác giả trinh thám trên thế giới nói chung và Trung Quốc nói riêng đều là dân ngoại đạo, không phải là người trong ngành an ninh thì Lôi Mễ là một trong những trường hợp hiếm hoi ngược lại. Anh chẳng những có thâm niên trong công tác điều tra hình sự mà còn tham gia giảng dạy chuyên ngành này trong một trường cảnh sát. Chính vì thế, ngay từ tác phẩm đầu tay của mình, Lôi Mễ đã chứng tỏ khả năng vượt trội so với những tác giả viết truyện trinh thám hình sự khác. Đọc Lôi Mễ, người ta không tìm thấy sự rùng rợn, ly kỳ mang bóng dáng của ma quỷ nhưng lại bắt gặp hình ảnh của những tội phạm còn ghê tởm rùng rợn hơn.

Với sức hấp dẫn của hơn 1 vạn bản được bán chóng vánh sau khi phát hành tại Việt Nam của cuốn “Đề thi đẫm máu”, nhà văn viết truyện trinh thám hình sự nổi tiếng Lôi Mễ tiếp tục trình làng phần hai trong seri tâm lý tội phạm “Cuồng Vọng Phi Nhân Tính”.

Lôi Mễ là giảng viên một trường Đại học Cảnh sát của Trung Quốc. Do đặc thù nghề nghiệp, tác phẩm của anh rất chuyên nghiệp, cẩn mật, rất đáng để tìm đọc. Seri Tâm lý tội phạm khiến anh nổi danh như cồn, được độc giả đón nhận nồng nhiệt, các fan đều gọi anh là “thầy”.

Các tác phẩm trong Series Tâm lý tội phạm của Lôi Mễ: Tìm mua: Tâm Lý Tội Phạm TiKi Lazada Shopee

- Độc Giả Thứ 7

- Đề thi đẫm máu

- Cuồng vọng phi nhân tính

- Sông ngầm

- Ánh sáng thành phố

Lưu Hà xin phép được đăng bài Tạp đàm của Lôi Mễ, bài này được đăng sau khi tác giả viết xong cuốn "Giáo hóa trường" bài viết nói lên suy tư sâu sắc của tác giả về hệ tư tưởng cũng như đường hướng cho tác phẩm của mình, những nội dung này có ảnh hưởng rất lớn tới các tác phẩm về sau này của Lôi Mễ.

Sau khi viết xong cuốn “Chân dung” (Đề thi đẫm máu), tôi bị lâm vào một cuộc khủng hoảng sáng tác không lớn cũng không nhỏ. Vấn đề đau đầu nhất với tôi là: Tiếp theo tôi sẽ viết cái gì đây.

Cố sự của Phương Mộc vẫn chưa đến hồi kết, cậu ta vẫn phải tiếp tục đi. Nhưng cậu ta đã không còn là nhân vật mà tôi vô tình sáng tạo ra nữa. Trên một phương diện nào đó Phương Mộc đã hoàn toàn muốn bứt ra khỏi tôi. Hay nói cách khác tôi đã không thể tự do an bài vận mệnh của cậu ta nữa. Cậu ta giống như đang đứng dậy từ trong trang sách, bước qua cánh cửa hòa vào dòng ngựa xe tấp nập bên ngoài thành phố. Thỉnh thoảng cậu ta sẽ vô tình ghé lại, chỉ bảo tôi: Lôi Mễ ông phải thế nào, viết ra sao.

Vì thế, tôi chợt nghĩ tới một câu của Lưu Ngọc Phổ tiên sinh “Khi tác giả đạt đến một trình độ nhất định, thì tác giả không cần phải dẫn dắt tình tiết mà tình tiết sẽ tự dẫn dắt trước tác đi”. Đứng trên góc độ này mà xem xét, tôi hẳn là phải cảm thấy thỏa mãn vì tôi đã đạt đến “Trình độ nhất định” kia của một tác giả. Nhưng có điều Phương Mộc, cậu ta sẽ đi như thế nào đây?.

Vì thế cần phải quay trở lại căn nguyên của vấn đề: Anh, rốt cuộc muốn biểu đạt cái gì?

Một ngàn người Trung Quốc thì có một ngàn William Shakespeare (nhà văn nổi tiếng người Anh). Cũng vì thế tác phẩm của tôi ở trong mắt những người khác nhau, về loại hình cũng trở thành hoàn toàn khác nhau: Tiểu thuyết huyền nghi, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết kinh dị hay là loại khác. Nói thật, đối mặt với vấn đề này ngay chính bản thân tôi cũng cảm thấy có chút mơ hồ. Thậm chí có thể nói, ngay từ đầu tôi đã hoàn toàn không đặt ra vấn đề này. Chỉ có điều đối với một người viết nghiệp dư như tôi mà nói, cái gọi là kỹ xảo, kết cấu, bày ra rồi đan chéo các manh mối, tất cả tôi cũng chưa từng nghĩ qua. Ý nghĩ của tôi rất đơn giản: Viết cho xong, cố gắng hết sức viết cho thật hay.

Nếu có thể cho phép tôi tự lựa chọn thể loại tiểu thuyết cho tác phẩm của mình, tôi xin phép gọi nó là: “Tiểu thuyết phạm tội”

“Phạm tội”, vô cùng hấp dẫn lại vô cùng tà ác

Xác định có tội hay không có tội và tội danh cụ thể là công việc hàng ngày của tôi, cho nên từ cổ chí kim, hiện tượng xã hội này đối với tôi mà nói cũng không xa lạ gì. Chỉ có điều tôi muốn dùng văn chương bắt nó phải hiển hiện ra bên ngoài, không đơn giản chỉ vì muốn đem nó ra triển lãm, mà thực lòng cũng muốn qua nó để biểu đạt một cái gì đó. Nhưng “là cái gì”, rốt cuộc là cái gì, tôi cũng không biết. Loại cảm giác này nếu nói theo nghĩa rộng thì là sứ mệnh của tác giả với xã hôi, nói theo nghĩa hẹp thì là cái hồn của tác phẩm. Nhưng cho tới nay, tôi vẫn thực sự chưa bắt được loại cảm giác này, mà chính bản thân tôi lại đang bị nó bắt. Tỉnh tỉnh, mê mê tiến lên phía trước, đắp nặn bao nhiêu nhân vật, giảng giải bao nhiêu chuyện xưa, sau đó chỉ vào bọn họ nói “Này, được rồi, đây là tiểu thuyết phạm tội”

Vì thế tôi cũng thấp thỏm lo âu đôi chút, tôi bắt đầu hoài nghi những điều tôi viết, tôi thử theo chân bọn họ thăm dò: “Các người đến đây, rốt cuộc là vì cái gì?”

Sau khi “Chân dung” ra mắt, nhiều độc giả đã rất nhiệt tình và tâm huyết đưa ra các bình luận tại trang mà Ban biên tập đã ưu ái lập cho tôi. Xin chân thành cảm tạ các bạn đã không quản ngại công việc bận rộn, bớt chút thời gian phát biểu cảm tưởng với bộ tiểu thuyết thô thiển này. Những cảm tưởng đó đã mang lại cho tôi niềm vui thật lớn, đọc chúng, tôi vô cùng vui sướng, tự đắc, niềm vui đó cứ bám theo tôi mãi.

Có một đoạn như thế này đã thực sự khiến tôi rung động:

Lôi Mễ muốn kiến giải về cuộc sống đô thị, đem cốt truyện huyền nghi xa xưa xâm nhập vào đô thị. Dùng cái tốt và xấu, thiện và ác, thật và giả để giải thích về xã hội hiện đại. Có điều vấn đề lớn nhất là: Người chiến đấu cùng quái thú cũng cần đề phòng một ngày chính mình lại biến thành quái thú. Nếu suốt một thời gian dài bạn luôn luôn nhìn xuống vực sâu, và như vậy vực sâu cũng nhìn lên bạn. Thần thám cũng không thể đi sắm vai thượng đế, và rồi hắn cũng sẽ bị đô thị này, quái thú được thả ra từ chiếc hộp Pandora * (Trong thần thoại Hy Lạp, sự tích về chiếc hộp Pandora kì bí đã để lại cho nhân gian những điều thú vị và hấp dẫn. Theo truyền thuyết, đó là một chiếc hộp mà các vị thần trên đỉnh núi Olympus đã tặng cho nàng Pandora - người phụ nữ đầu tiên đến thế giới loài người. Nàng Pandora đã được các vị thần dặn kĩ rằng không được mở chiếc hộp đó ra. Nhưng với sự tò mò cua mình, Pandora đã mở chiếc hộp ra và tất cả những gì trong chiếc hộp kì bí đó đã khiến cho tất cả những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh… và chiếc hộp chỉ còn sót lại một chút “ hy vọng” mang tên Pandora cho loài người để có thể tiếp tục sống.) hấp dẫn. Cho nên Phương Mộc và Tôn Phổ đôi khi giống nhau như huynh đệ, lại cũng có khi lại giống như một người bắc cực, một người nam cực.

Vì người biên tập đã cắt đi một số trang của Cố sự này nên đã vô cùng ảnh hưởng (nguyên gốc là: đặc biệt tổn hại) tới khả năng nắm bắt tâm lý Tôn Phổ của độc giả. Điều này đối với các độc giả có tâm chắc có thể bù đắp bằng sách báo. Thế nhưng đối với Phương Mộc từ bản gốc “Độc giả thứ bảy” tới huyền nghi cố sự “Chân dung” đã hoàn toàn trở thành con người mới, từng trải và kinh nghiệm hơn. Đó chính là con người mà chúng tôi cần, Holmes của chúng tôi, người có thể cởi những nút thắt của xã hội, mở những nút thắt trong lòng chúng ta. Sau đó dùng trí tuệ cao minh của mình cho chúng ta nhìn rõ con quái thú mang tên “Đô thị”. Nhìn rõ rồi mới có bình an, mới có dũng khí và trí tuệ, mở cửa chống trộm ra, đi qua vô số camera theo dõi ở các tiểu khu, đi thẳng tới những khu huyên náo, ồn ã tại ngã tư đường.

Tôi đọc đoạn văy này trong máy tính cá nhân hết lần này đến lần khác, không khoa trương một chút nào- lúc đó tôi đã “Lệ nóng lưng tròng”.

Tôi nghĩ đến một số việc kỳ quái ở văn phòng, rất nhiều buổi chiều, tôi thường núp đằng sau cửa sổ đọc sách. Bên này cửa kính là căn phòng kính màu trà trong suốt. Qua cánh cửa kính nhìn ra ngoài, thành phố buổi chiều bày ra một màu xám. Tôi thường ngóng nhìn lên ngọn pháp cao phía xa xa, cây cối và dòng người đi lại tấp nập, đoán thử xem thành phố có phải giống như tôi đã nhìn thấy hay không?

Đúng vậy, thành phố, trong mắt tôi thành phố, màu xám.

Rốt cục tôi cũng hiểu vì sao tôi thường ngồi trong xe taxi nhìn những gương mặt người lướt qua cửa kính. Xem trên mặt họ là sự bình tĩnh, vui sướng, kích động hay phẫn nộ.

Rốt cục tôi cũng hiểu được vì sao tôi thường dừng chân trên đường quan sát bọn trẻ con đuổi nhau dưới tán cây, chú ý lắng nghe từng tiếng hét chói tai của bọn chúng.

Rốt cục tôi cũng hiểu được vì sao tôi lại có thể cảm thụ được tỷ mỷ cảm giác mưa xối vào tóc, cảm thụ gió luồn qua tay áo thổi khô làn da, cmar thụ băng tuyết chậm rãi hòa tan trong tay.

Rốt cục tôi cũng hiểu được vì sao tôi lại có thể bình tĩnh đối diện với những điều không bình thường của nhân loại, lật giở và phân loại từng tội ác.

Có thể cò kè mặc cả với tiểu thương ở chợ, có thể ngồi buôn chuyện với vợ bình phẩm một người nào đó từ đầu đến chân, có thể dưa lê với bất kỳ ai về bóng đá hay thời tiết, có thể cho phép mình thoải mái chìm vào giấc ngủ về đêm.

Bởi vì tao đã sớm quen thuộc mày, thậm chí muốn dung nhập mày thật sâu.

Bây giờ tao thực lòng muốn nói với mày: “Thành phố của ta”

Tôi nghĩ, chúng ta còn sống lâu trên cuộc đời này, đôi khi có lẽ chính là để chờ đợi một lần gặp nhau, một câu nói, một ánh mắt cũng giống như khi nàng gặp một thanh kẹo, nàng nói “tao thích mày”. Như khi tôi gặp được Lưu Ngọc Phổ tiên sinh, ông ta nghiêm túc nhìn tôi nói: Cậu, rất có thiên phú. Hay như khi tôi gặp Trịnh Bảo Khiết tiên sinh, cậu ta nói với tôi: Rémi, (Lôi Mễ) thành phố này sẽ là của cậu.

Vì thế tôi phải cám ơn Trịnh Bảo Khiết tiên sinh, cậu ta đã nhìn rõ hết thảy để khiến tôi phải hạ quyết tâm thay đổi kế hoạch sáng tác của mình, quyết định viết bộ “Sông ngầm” là bộ thứ tư của Phương Mộc hệ liệt. Giúp cho tôi có thêm nhiệt huyết để hoàn thành bộ tiểu thuyết về thành thị “Giáo hóa trường”. Xét trên một góc độ nào đó mà nói thì không có Trịnh Bảo Khiết tiên sinh sẽ không có “Giáo hóa trường”.

Có một buổi chiều câu đầu tiên tôi nghe được từ miệng của Trịnh Bảo Khiết tiên sinh là cậu ta cho tôi biết cậu ta đang sắp chết cóng trong bồn tắm đọc xong cuốn “Giáo hóa trường”. Nhắc đến đoạn này tôi lại Ha ha..

Chẳng nói được gì nữa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Lôi Mễ":Tâm Lý Tội PhạmSông NgầmTâm Nguyện Cuối CùngĐề Thi Đẫm Máu

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tâm Lý Tội Phạm PDF của tác giả Lôi Mễ nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định - Tập 3 (Phan Dũng)
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. Tìm mua: Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định - Tập 3 TiKi Lazada Shopee *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện-từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định - Tập 3 PDF của tác giả Phan Dũng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định - Tập 2 (Phan Dũng)
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”.*** Tìm mua: Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định - Tập 2 TiKi Lazada Shopee Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa.***Chương 5: Từ nhu cầu đến hành động và ngược lại trình bày những yếu tố tương đối độc lập, cần lưu ý nhất, như nhu cầu, xúc cảm, các thói quen tự nguyện, tư duy thuộc thế giới bên trong và hành động của mỗi cá nhân, cùng các mối liên kết giữa chúng. Chương 6: Tư duy sáng tạo: Nhìn theo góc độ thông tin - tâm lý tập trung chi tiết hóa quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định của cá nhân. Các hiện tượng thông tin - tâm lý đóng vai trò chủ đạo trong tư duy sáng tạo được trình bày cùng với các lời khuyên về cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả. Không ít người hiện nay để cho suy nghĩ nói riêng, các hoạt động của thế giới bên trong con nguời mình nói chung, diễn ra một cách tự nhiên và không để ý đến chúng. Do vậy, nhiều phép thử sai như là kết quả của các hành động cá nhân đã không được những người đó tìm hiểu, giải thích theo quan hệ nguyên nhân-kết quả một cách khoa học. Những kiến thức của Chương 5 và 6 giúp cá nhân không chỉ có ý thức một cách tương đối đầy đủ về các hoạt động thuộc thế giới bên trong mà còn giúp cá nhân “lắng nghe” và “suy nghĩ” về chúng, tức là, về chính bản thân mình. Điều này có nghĩa, cá nhân cần dành thời gian, công sức tự hỏi, tự quan sát, tự theo dõi, tự trả lời và tự rút kinh nghiệm để phát huy các mặt mạnh, hạn chế các mặt yếu của các hiện tượng thuộc thế giới bên trong con người. Chương 7 này có mục đích phát triển tiếp những gì đã trình bày, theo hướng thảo luận nhằm trả lời câu hỏi: “Cần làm những gì và làm như thế nào để có thể điều khiển được hành động và thế giới bên trong của con người sáng tạo?”. Ở đây, người viết không có tham vọng trả lời trọn vẹn câu hỏi nói trên vì đấy là công việc phức tạp và của rất nhiều người. Do vậy, bạn đọc nên quan niệm Chương 7 này giống như sự cung cấp các thông tin, chia sẻ các kiến thức để chúng ta còn quay trở lại thảo luận tiếp trong tương lai, khi có dịp thuận tiện. Đi vào cụ thể, Chương 7 sẽ trình bày một số ý tưởng cơ bản chung của một bộ môn khoa học, gọi là điều khiển học. Có một loạt từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với “điều khiển” như quản lý, quản trị, điều hành, lãnh đạo, dẫn dắt, điều chỉnh, lái, lèo lái, kiểm soát... Trừ những trường hợp cần nhấn mạnh, nói chung, người viết sẽ dùng từ “điều khiển”. Tiếp theo, Chương 7 sẽ trình bày mối quan hệ, tác động qua lại của cá nhân và môi trường (hiểu theo nghĩa rộng nhất), có tính đến những kế thừa lịch sử phát triển tự nhiên, xã hội. Để đối phó với những thách thức đến từ môi trường, con người hiện đại có nhu cầu thay đổi thế giới bên trong của chính mình, hiểu theo nghĩa, phải chủ động điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong, một mặt, cho phù hợp với các thay đổi môi trường. Mặt khác, điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong để điều khiển quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định, tạo ra các hành động biến đổi môi trường, phù hợp với các quy luật phát triển khách quan.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định - Tập 2 PDF của tác giả Phan Dũng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định - Tập 1 (Phan Dũng)
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”.*** Tìm mua: Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định - Tập 1 TiKi Lazada Shopee Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (viết tắt là PPLSTVĐM, tiếng Anh là Creativity and Innovation Methodologies) là phần ứng dụng của Khoa học về sáng tạo (Sáng tạo học, tên cổ điển - Heuristics, tên hiện đại - Creatology), gồm hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể giúp nâng cao năng suất và hiệu quả, về lâu dài tiến tới điều khiển tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định) của người sử dụng. Suốt cuộc đời, mỗi người chúng ta dùng suy nghĩ rất nhiều, nếu không nói là hàng ngày. Từ việc trả lời những câu hỏi bình thường như "Hôm nay ăn gì? mặc gì? làm gì? mua gì? xem gì? đi đâu?…" đến làm các bài tập thầy, cô cho khi đi học; chọn ngành nghề đào tạo; lo sức khỏe, việc làm, thu nhập, hôn nhân, nhà ở; giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong quan hệ xã hội, gia đình, nuôi dạy con cái…, tất tần tật đều đòi hỏi phải suy nghĩ và chắc rằng ai cũng muốn mình suy nghĩ tốt, ra những quyết định đúng để "đời là bể khổ" trở thành "bể sướng". Chúng ta tuy được đào tạo và làm những nghề khác nhau nhưng có lẽ có một nghề chung, giữ nguyên suốt cuộc đời, cần cho tất cả mọi người. Đó là "nghề" suy nghĩ và hành động giải quyết các vấn đề gặp phải trong suốt cuộc đời nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của cá nhân mình, đồng thời thỏa mãn các nhu cầu để xã hội tồn tại và phát triển. Nhìn dưới góc độ này, PPLSTVĐM giúp trang bị loại nghề chung nói trên, bổ sung cho giáo dục, đào tạo hiện nay, chủ yếu, chỉ đào tạo các nhà chuyên môn. Nhà chuyên môn có thể giải quyết tốt các vấn đề chuyên môn nhưng nhiều khi không giải quyết tốt các vấn đề ngoài chuyên môn, do vậy, không thực sự hạnh phúc như ý. Các nghiên cứu cho thấy, phần lớn mọi người thường suy nghĩ một cách tự nhiên như đi lại, ăn uống, hít thở mà ít khi suy nghĩ về chính suy nghĩ của mình xem nó hoạt động ra sao để cải tiến, làm suy nghĩ của mình trở nên tốt hơn, như người ta thường chú ý cải tiến các dụng cụ, máy móc dùng trong sinh hoạt và công việc. Cách suy nghĩ tự nhiên nói trên có năng suất, hiệu quả rất thấp và nhiều khi trả giá đắt cho các quyết định sai. Nói một cách nôm na, cách suy nghĩ tự nhiên ứng với việc lao động bằng xẻng thì PPLSTVĐM là máy xúc với năng suất và hiệu quả cao hơn nhiều. Nếu xem bộ não của mỗi người là máy tính tinh xảo - đỉnh cao tiến hóa và phát triển của tự nhiên thì phần mềm (cách suy nghĩ) tự nhiên đi kèm với nó chỉ khai thác một phần rất nhỏ tiềm năng của bộ não. PPLSTVĐM là phần mềm tiên tiến giúp máy tính - bộ não hoạt động tốt hơn nhiều. Nếu như cần "học ăn, học nói, học gói, học mở" thì "học suy nghĩ" cũng cần thiết cho tất cả mọi người. PPLSTVĐM dạy và học được như các môn học truyền thống: Toán, lý, hóa, sinh, tin học, quản trị kinh doanh… Trên thế giới, nhiều trường và công ty đã bắt đầu từ lâu và đang làm điều đó một cách bình thường. Dưới đây là vài thông tin về PPLSTVĐM trên thế giới và ở nước ta. Từ những năm 1950, ở Mỹ và Liên Xô đã có những lớp học dạy thử nghiệm PPLSTVĐM. Dưới ảnh hưởng của A.F. Osborn, phó chủ tịch công ty quảng cáo BBD & O và là tác giả của phương pháp não công (Brainstorming) nổi tiếng, Trung tâm nghiên cứu sáng tạo (Center for Studies in Creativity) được thành lập năm 1967 tại Đại học Buffalo, bang New York. Năm 1974, Trung tâm nói trên bắt đầu đào tạo cử nhân khoa học và năm 1975 - thạc sỹ khoa học về sáng tạo và đổi mới (BS, MS in Creativity and Innovation). Ở Liên Xô, G.S. Altshuller, nhà sáng chế, nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng và là tác giả của Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (viết tắt theo tiếng Nga và chuyển sang ký tự Latinh - TRIZ) cộng tác với “Hiệp hội toàn liên bang các nhà sáng chế và hợp lý hóa” (VOIR) thành lập Phòng thí nghiệm các phương pháp sáng chế năm 1968 và Học viện công cộng về sáng tạo sáng chế (Public Institute of Inventive Creativity) năm 1971. Người viết, lúc đó đang học ngành vật lý bán dẫn thực nghiệm tại Liên Xô, có may mắn học thêm được khóa đầu tiên của Học viện sáng tạo nói trên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy G.S. Altshuller. Chịu ấn tượng rất sâu sắc do những ích lợi PPLSTVĐM đem lại cho cá nhân mình, bản thân lại mong muốn chia sẻ những gì học được với mọi người, cùng với sự khuyến khích của thầy G.S. Altshuller, năm 1977 người viết đã tổ chức dạy dưới dạng ngoại khóa cho sinh viên các khoa tự nhiên thuộc Đại học tổng hợp TpHCM (nay là Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM). Những khóa PPLSTVĐM tiếp theo là kết quả của sự cộng tác giữa người viết và Câu lạc bộ thanh niên (nay là Nhà văn hóa thanh niên TpHCM), Ủy ban khoa học và kỹ thuật TpHCM (nay là Sở khoa học và công nghệ TpHCM)… Năm 1991, được sự chấp thuận của lãnh đạo Đại học tổng hợp TpHCM, Trung tâm Sáng tạo Khoa học - kỹ thuật (TSK) hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải ra đời và trở thành cơ sở chính thức đầu tiên ở nước ta giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu PPLSTVĐM.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định - Tập 1 PDF của tác giả Phan Dũng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ếch (Mạc Ngôn)
“ẾCH” do NXB Văn nghệ Thượng Hải xuất bản, vừa phát hành tại Trung Quốc vào những ngày cuối tháng 12 này, đã nhanh chóng thu hút đông đảo độc giả Trung Quốc và dấy lên làn sóng tò mò háo hức của độc giả nhiều nước vốn mê thích truyện của Mạc Ngôn. Cuốn sách xoay quanh cuộc đời và công việc của nhân vật chính - một nữ bác sĩ chuyên đỡ đẻ ở khắp nông thôn Cao Mật, phải chuyển sang nghề thắt ống dẫn tinh cho nam giới và nạo phá thai. Đây là một đề tài cực kỳ hiếm hoi trong văn học, được nhà văn Mạc Ngôn miêu tả vô cùng khéo léo và đầy kịch tính. Cuốn sách như một bức tranh xã hội sâu sắc ở Trung Quốc, phản ánh được những tác động của chính sách kế hoạch hóa gia đình kéo dài hơn 30 năm tới cuộc sống của người dân nước này.*** Mạc Ngôn, nhà văn giành giải Nobel Văn học 2012, đã sáng tác cuốn “Ếch” như một lời xin lỗi gửi tới vợ vì từng yêu cầu vợ phá thai. Mạc Ngôn đã chia sẻ câu chuyện này trong một cuộc phỏng vấn tại Bắc Kinh với tờ tạp chí của Đức - Der Spiegel. Ngay trước khi cuốn tiểu thuyết “Ếch” được xuất bản tại Đức, đại diện tạp chí Der Spiegel đã tới phỏng vấn Mạc Ngôn để biết thêm thông tin về sự ra đời của cuốn sách. “Ếch” được coi là cuốn sách dữ dội nhất của Mạc Ngôn trong việc khắc họa hình ảnh quan chức Trung Quốc ở vùng nông thôn. Trong quá trình thực thi triệt để chính sách một con tại địa phương mình, họ hiện lên thật đáng sợ. Tác giả cho biết ông đã dùng chính những trải nghiệm của dì ruột (người dì này của ông sinh tới 4 người con) cũng như trải nghiệm của chính vợ chồng ông để viết nên tác phẩm “Ếch”: Tìm mua: Ếch TiKi Lazada Shopee “Trung Quốc đã trải qua những thay đổi dữ dội trong vài thập kỷ qua, thay đổi đến nỗi nhiều người cảm thấy mình như thể nạn nhân của thời cuộc xoay vần. Tuy vậy, rất ít người quan tâm và tự hỏi: Trong cuộc xoay vần đó, có bao giờ vì những khó khăn của bản thân mà mình đã làm tổn thương người khác. Tác phẩm “Ếch” trả lời cho câu hỏi đó, nó nói về trách nhiệm của mỗi con người trong cuộc sống. Tôi đã có lúc bảo vợ đi phá thai vì tương lai của mình. Hành động đó cho tới nay vẫn khiến tôi cảm thấy mình có lỗi.” Mạc Ngôn cho biết ông viết tác phẩm “Ếch” như một cách để tự dằn vặt, trách cứ mình và xin lỗi vợ. Tuy vậy, vợ Mạc Ngôn chưa từng đọc cuốn sách. “Tôi đã dặn cô ấy đừng đọc bởi nếu thử đọc, cô ấy sẽ lại phát điên lên với tôi vì những gì tôi viết trong đó. Không phải tất cả mọi điều tôi viết trong truyện đều xảy ra trong gia đình nhà dì và nhà tôi. Tôi thêm cả những câu chuyện được nghe chính các bác sĩ kể lại nữa.” Mạc Ngôn đã gián tiếp chỉ trích chính sách một con của Trung Quốc trong tác phẩm này: “Là một người cha, tôi luôn nghĩ rằng mọi người được quyền tự quyết định mình sinh bao nhiêu con. Nhưng là một công chức, tôi phải tuân thủ luật định, chỉ sinh một con thôi, không thể nhiều hơn. Vấn đề dân số của Trung Quốc không dễ gì mà giải quyết được. Và tôi cũng chắc chắn một điều rằng: Không ai được phép sử dụng bạo lực để ngăn một người nào đó sinh thêm con.”*** Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật tỉnh Sơn Đông. Là tác giả tạo nên cơn sốt văn học Trung Quốc tại Việt Nam thông qua một loạt các tiểu thuyết được chuyển ngữ và xuất bản từ thập kỷ trước như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận… Mạc Ngôn đã để lại dấn ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi tài năng văn chương không thể phủ nhận. Giải thưởng Nobel Văn học năm 2012 một lần nữa khẳng định địa vị quan trọng của Mạc Ngôn trong nền văn học thế kỷ 20 của Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Tác phẩm chính Báu vật của đời, nguyên tác: Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀), (1995) Cao lương đỏ, nguyên tác: Hồng cao lương gia tộc (红高粱家族), (1998) Đàn hương hình (檀香刑). Cây tỏi nổi giận (Bài ca củ tỏi Thiên Đường) Củ cải đỏ trong suốt. Rừng xanh lá đỏ (Rừng vẹt) Tửu quốc (Rượu chảy như suối) Châu chấu đỏ. Tổ tiên có màng chân Con Đường Nước Mắt Hoan Lạc Bạch Miên Hoa Trâu Thiến Sống Đọa Thác Đày Người Tỉnh Nói Chuyện Mộng Du Khác Ma chiến hữu, nguyên tác: Chiến hữu trùng phùng (战友重逢), (2004), một tác phẩm đề cập đến lính Trung Quốc hy sinh trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979[2][3]. Giải thưởng Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc, tháng 12/1995 cho truyện "Báu vật của đời". Giải Mao Thuẫn cho tác phẩm Đàn hương hình Giải Nobel Văn học năm 2012.[4] Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Mạc Ngôn":Châu Chấu ĐỏBáu Vật Của ĐờiCao Lương ĐỏĐàn Hương HìnhẾchNgười Tỉnh Nói Chuyện Mộng DuSống Đọa Thác ĐàyTrâu ThiếnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ếch PDF của tác giả Mạc Ngôn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.