Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoang Dã - Hành Trình Tìm Lại Mình Trên Đường Mòn Pacific Crest

Hoang dã là cuốn hồi ký của Cheryl Strayed về chuyến hành trình đi bộ 1.770km dọc theo đường mòn Pacific Crest Trail khi cô 26 tuổi. Sau khi trải qua những năm tháng tàn tạ, mất phương hướng, phải chịu đựng cái chết của người mẹ thân yêu và cuộc ly dị đầy đau khổ, cô đã quyết tâm “xách balo lên và đi”. Và trong suốt cuộc hành trình dài hơn 1000 dặm, cô đã gặp được rất nhiều người, vượt qua nhiều thử thách tưởng chừng như không thể, để rồi chiêm nghiệm lại cuộc đời, tìm lại được chính mình. Sau khi được xuất bản vào tháng 3 năm 2013,Wild đã nhanh chóng leo lên vị trí dẫn đầu trong danh sách best-seller ở Mỹ và chiếm giữ vị trí đó trong vòng 7 tuần liên tiếp. Tính đến nay,Wild đã được dịch ra 28 thứ tiếng và được chuyển thể thành phim năm 2014. *** Những cái cây sừng sững cao vút, nhưng tôi còn cao hơn chúng. Tôi đang đứng trên một sườn núi dốc đứng phía bắc California. Tôi vừa tháo đôi giày leo núi ra và để rơi một chiếc xuống tán cây, đầu tiên, nó bật nhào vào không khí khi bị chiếc ba lô khổng lồ của tôi đổ ụp xuống, rồi lăn theo con đường mòn sỏi đá và bay khỏi đỉnh dốc. Chiếc giày rớt xuống một tảng đá trồi phía dưới cách tôi vài mét và nảy lên trước khi biến mất giữa vòm rừng, chẳng thể nào lấy lại được nữa. Tôi há hốc miệng, điếng người. Dù đã ở giữa nơi hoang dã này 38 ngày và thấm thía rằng điều gì cũng có thể xảy ra và sẽ xảy ra; nhưng tôi khi ấy vẫn không khỏi bàng hoàng. Giày của tôi đã mất. Mất thật rồi. Tôi giữ chặt chiếc kia trước ngực như đứa trẻ, dù tất nhiên là chẳng nghĩa lý gì. Một chiếc giày làm được gì khi không có chiếc còn lại chứ? Chẳng gì cả. Nó vô dụng, cô độc mãi mãi, và tôi chẳng hề mảy may thương cảm. Đó là đôi bốt Raichle vừa to vừa nặng bằng da nâu với dây đỏ cùng lỗ xỏ dây kim loại màu bạc. Tôi giơ chiếc giày lên cao, cố sức ném thật xa, nhìn nó rơi xuống những tán cây xum xuê và biến mất khỏi cuộc đời tôi. Tôi cô độc. Chân trần. Tôi 26 tuổi và mồ côi nữa. Một kẻ lạc đường đúng nghĩa, như một người lạ đã nhận xét vào hai tuần trước, khi nghe tên tôi và cái cách tôi đánh mất mọi thứ trong đời. Cha bỏ đi khi tôi lên sáu. Mẹ mất khi tôi 22 tuổi. Sau cái chết của mẹ, cha dượng – người tôi từng coi như cha đẻ – dần trở thành người mà tôi chẳng nhận ra nổi. Chị gái và em trai tôi mỗi người một phương, đắm chìm trong nỗi buồn khổ riêng của họ. Dù tôi đã gắng sức gắn kết cả gia đình lại với nhau, nhưng rốt cuộc vẫn là ly tán. Vài năm trước khi ném đi chiếc giày ấy, tôi cũng đã vứt bỏ chính mình. Tôi vất vưởng, lang thang, bắt tàu – từ Minnesota tới New York, tới Oregon và xuyên qua miền Tây nước Mỹ – để cuối cùng, vào mùa hè năm 1995, tôi thấy mình chân không giày, không tha thiết cũng chẳng thờ ơ với thế giới. Đó là một thế giới tôi chưa từng đặt chân tới, thậm chí chưa từng biết đến sự tồn tại của nó; nơi tôi lê bước trong muộn phiền và bối rối, sợ hãi và hy vọng. Một thế giới mà tôi tin sẽ biến tôi thành người phụ nữ tôi có thể trở thành, đồng thời đưa tôi về với cô gái Cheryl trước kia. Một thế giới rộng chừng 60 cm và dài 4.285 km. Thế giới ấy mang tên đường mòn Pacific Crest. Lần đầu tiên tôi nghe đến nó chỉ chừng bảy tháng trước đó, khi đang sống ở Minneapolis, buồn bã, tuyệt vọng, chuẩn bị ly hôn người đàn ông tôi vẫn yêu say đắm. Tôi với lấy cuốn The Pacific Crest Trail, Volume 1: California (Đường mòn Pacific Crest, tập 1: California) từ giá sách liền kề khi đang đứng xếp hàng, đợi thanh toán một chiếc xẻng. Bìa sách nói: Pacific Crest Trail (PCT) là con đường mòn hoang vu chạy dài từ biên giới Mexico ở California đến sát biên giới Canada, qua chín ngọn núi: Laguna, San Jacinto, San Bernardino, San Gabriel, Liebre, Tehachapi, Sierra Nevada, Klamath và Cascades. Khoảng cách là 1.600 km đường chim bay, nhưng độ dài đường mòn thì gần gấp đôi số ấy. PCT trải dài qua các bang California, Oregon và Washington. Nó đi qua các vườn quốc gia, những vùng hoang dã cũng như nhiều vùng đất thuộc liên bang, bộ lạc và tư nhân; qua hoang mạc, núi đồi và rừng nhiệt đới; qua sông suối và cả những con đường cao tốc. Tôi lật lại, nhìn chăm chăm vào bìa trước – một hồ nước trong đầy sỏi cuội bao quanh bởi những vách đá cheo leo, in bóng bầu trời xanh lồng lộng – rồi đặt lại nó lên giá, trả tiền chiếc xẻng và rời đi. Nhưng sau đó, tôi đã quay trở lại và mua cuốn sách. Khi ấy, đường mòn Pacific Crest chưa phải là một phần cuộc đời tôi. Đó chỉ là một ý tưởng, mơ hồ và lạ lùng, đầy hứa hẹn và bí ẩn. Khi đưa tay miết theo con đường nhấp nhô vẽ trên tấm bản đồ, có điều gì đó như rộn ràng bung nở trong trái tim tôi. Tôi quyết định sẽ chinh phục con đường ấy, hay chí ít là đi xa nhất có thể trong chừng 100 ngày. Tôi sống một mình trong căn hộ studio [1] ở Minneapolis, ly thân chồng, làm phục vụ bàn, và sống những ngày tháng rối bời tệ hại. Mỗi ngày, tôi lại cảm thấy như mình đang ngước lên từ một đáy giếng thẳm sâu. Nhưng từ chính nơi đó, tôi chuẩn bị trở thành một khách bộ hành đơn độc phiêu lãng giữa miền hoang dã. Và tại sao lại không chứ? Đã từng có rất nhiều “tôi” khác. Một người vợ đáng yêu và một phụ nữ ngoại tình. Một cô con gái được yêu thương và kẻ giờ đây phải cô đơn trong những kỳ nghỉ lễ. Một kẻ đầy tham vọng hoài bão và một cây bút tiềm năng liên tiếp nhảy giữa những công việc vô nghĩa trong khi học đòi nghiện ngập và ngủ với vô số đàn ông. Tôi là cháu gái một người thợ mỏ ở Pennsylvania, con gái một nhân viên kinh doanh từng là công nhân ngành thép. Sau khi bố mẹ chia tay, tôi sống cùng mẹ, chị gái và em trai trong một khu chung cư dành cho những bà mẹ đơn thân và con của họ. Thời niên thiếu, tôi từng sống theo kiểu về với tự nhiên trong khu rừng phía Bắc Minnesota, ở một ngôi nhà không có vệ sinh khép kín, không điện, không hệ thống nước. Dù vậy, tôi vẫn trở thành đội trưởng đội cổ vũ trường trung học và hoa khôi học đường. Rồi tôi vào đại học, đứng trong hàng ngũ những người cánh tả cấp tiến về bình đẳng giới. Nhưng trở thành người phụ nữ một mình bước qua gần 1.800 km đường hoang dã ư? Tôi chưa từng có suy nghĩ ấy. Dẫu thế, thử một lần cũng chẳng mất gì. Và giờ đây, đứng chân trần trên ngọn núi ở California này, tôi tưởng như đã vài năm trôi qua, vài năm sống một cuộc đời hoàn toàn khác, kể từ giây phút tôi đưa ra quyết định không tưởng đó: một mình đi bộ đường trường trên PCT để cứu lấy đời mình. Khi đó, tôi tin rằng, mọi điều tôi từng trải qua trước đó sẽ là hành trang tốt cho chuyến đi này. Nhưng không. Mỗi ngày trên con đường mòn chính là chuẩn bị duy nhất cho ngày tiếp theo. Và thậm chí đôi khi còn chẳng có cách nào để chuẩn bị cả. Như việc chiếc giày của tôi đã rớt bên sườn núi và chẳng thể lấy lại. Thực sự thì, tôi không hoàn toàn tiếc nuối khi đánh mất nó. Trong sáu tuần đi đôi giày ấy, tôi đã băng qua những hoang mạc và vùng tuyết phủ, thấy cỏ cây, bụi rậm, lá hoa đủ mọi hình thù, kích cỡ và màu sắc; tôi leo lên rồi lại đi xuống núi đồi, qua những cánh đồng, rừng thưa và những dải đất tôi thậm chí còn chẳng biết tên. Tôi chỉ có thể nói rằng mình đã từng ở đó, vượt qua và bỏ lại chúng sau lưng. Trong suốt quãng thời gian ấy, đôi giày khiến chân tôi phồng rộp, trầy da chảy máu; móng chân tôi đen lại và bốn móng đã tự bong ra, đau đớn vô cùng. Khi để mất đôi giày, cả tôi và chúng đều đã hoàn thành nghĩa vụ với nhau, dẫu từ tận đáy lòng tôi vẫn vô cùng yêu quý chúng. Đôi giày ấy chẳng còn là vật vô tri vô giác như với “tôi” ngày trước nữa; cũng giống chiếc ba lô, lều trại, túi ngủ, bình lọc nước, bếp lò siêu nhẹ và chiếc còi nhỏ màu cam tôi mang theo thay cho khẩu súng trong suốt mùa hè ấy. Chúng đều là những thứ tôi hiểu rõ và tin tưởng; những thứ giúp tôi tiến bước. Phía dưới kia, những ngọn cây cao ngất đang khẽ đu đưa trong làn gió nóng bức. Tôi chăm chú nhìn xuyên qua khoảng mênh mông xanh ngắt ấy, thầm nghĩ hẳn đôi giày của mình nằm dưới đó. Vì khung cảnh tuyệt vời trước mắt, tôi quyết định dừng chân tạm nghỉ. Tôi ở đây, trong một chiều muộn giữa tháng bảy, cách xa thế giới văn minh về mọi mặt, và còn nhiều ngày nữa mới tới được trạm bưu điện hiu quạnh để lấy chiếc hộp tiếp tế tiếp theo. Có thể ai đó đang đi xuống theo con đường mòn này; nhưng khả năng ấy rất mong manh. Thường thường, tôi đi rất nhiều ngày mà không thấy một ai khác. Dù sao thì, có người đi cùng hay không cũng vậy cả. Tôi là kẻ độc hành. Tôi lặng nhìn đôi chân trần dập nát với vài móng chân còn sót lại. Khi tháo đôi tất len tôi vẫn thường mang, từ trên mắt cá trở xuống, chân tôi nhợt nhạt khủng khiếp. Bắp chân gân guốc, sạm nắng và rậm lông; lem luốc bẩn thỉu với đầy vết xước và phồng rộp. Tôi bắt đầu đi bộ từ hoang mạc Mojave và không định dừng lại cho tới khi chạm tay tới cây cầu bắc qua con sông Columbia ở ranh giới giữa Oregon và Washington. Một cây cầu có cái tên hoa mỹ: Cầu của Chúa. Tôi nhìn về phương bắc, chăm chăm hướng tới cây cầu “hoa tiêu” ấy. Tôi ngoảnh lại phương nam, vùng đất hoang dã đã “dạy dỗ” và thiêu đốt tôi; cân nhắc những lựa chọn của mình. Và chỉ có duy nhất một đáp án thôi. Luôn luôn là như vậy. Tiếp tục tiến bước. Mời các bạn đón đọc Hoang Dã - Hành Trình Tìm Lại Mình Trên Đường Mòn Pacific Crest của tác giả Cheryl Strayed.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phương Đông lướt ngoài cửa sổ - Paul Theroux
Tên Ebook: Phương Đông lướt ngoài cửa sổ (full prc, pdf, epub) Tác giả: Paul Theroux   Thể Loại: Du Ký, Sách Hay, Văn học phương Tây   Dịch giả: Trần Xuân Thủy   Công ty phát hành: Nhã Nam    Nhà xuất bản: NXB Thế Giới   Nguồn sách: Chào Buổi Sáng    Chụp pic: kararoxbee    Type: nhinhi77, smilemai, Thảo Đào, narutoquyen, Trường Nghi, silverysnow    Beta: MaiThanh   Làm prc: Dâu Lê   Nguồn: luv-ebook.com   Ebook: www.dtv-ebook.com Ebook Phương Đông lướt ngoài cửa sổ full prc pdf epub Giới thiệu:   Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ là chặng hành trình xuyên Châu Á của Paul Theroux vào năm 1973 và đến rất nhiều năm sau này, chặng hàng trình ấy vẫn đang được hàng triệu bạn đọc trên thế giới biết đến và chia sẻ với tư cách là một cuốn sách du ký hay nhất mọi thời đại. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ nhận được nhiều lời tán thưởng đến thế. Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ ghi lại bốn tháng rưỡi với hơn 30 chuyến tàu từ London đến Trung Đông, qua Ấn Độ, ghé Đông Nam Á, dừng chân ở Nhật Bản rồi xuyên Siberia để về lại Châu Âu. Một Phương đông lộng lẫy và rực rỡ hiện ra trên trang sách với nhiều khía cạnh của cuộc sống. Bangkok ồn ào, nóng nực với những mảng tương phản khủng khiếp như đền chùa và nhà chứa. Calcutta dậy mùi của cái chết còn Bombay dậy mùi tiền. Tehran với dầu mỏ và trở thành thành phố của người nước ngoài. Singapore sạch sẽ và kỷ cương.... Phương đông trong mắt Theroux là những chuyến tàu với đủ thứ phiên bản thể hiện cho đặc trưng mỗi quốc gia. Và rồi trên chặng hàng trình ấy, người với người gặp nhau, trên tàu, tại trạm dừng chân hay chỉ nhìn lướt qua nhau. Những cuộc gặp gỡ ấy sẽ không có ngày tương phùng nên người ta chẳng cần phải dối trá về mình, chân dung con người cũng vì thế mà thực hơn như những cô gái nhỏ quấn xà rông, anh chủ khách sạn cáu kỉnh, một tín đồ cuồng tín, cô gái điểm giữa đêm khuya... Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ là một bức trang toàn cảnh về phương Đông đầy cảm xúc của một con người muốn đi, muốn biết, muốn hiểu. Paul Theroux đã trải nghiệm như một lữ khách cô độc muốn dấn thân chứ không phải một vị khách du lịch cưỡi ngựa xem hoa. Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ: Là một tác phẩm du ký kinh điển. “Một trong 20 cuốn sáchdu ký hay nhất mọi thời đại.”   (Nhật báo Telegraph) Mời các bạn đón đọc Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của tác giả Paul Theroux.  
Em phải đến Harvard học kinh tế - Lưu Vệ Hoa
Tên ebook: Em phải đến Harvard học kinh tế (full prc, pdf, epub)   Tác giả: Lưu Vệ Hoa, Trương Hán Vũ Thể loại:  Tự truyện , Sách hay , Văn học phương Đông  Dịch giả:  Nguyễn Phan Quế Nguồn:  vnthuquan.net Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Em phải đến Harvard học kinh tế - Lưu Vệ Hoa Giới thiệu: Một giọt mực có thể làm vạn người suy nghĩ Một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người! Lord Byron (1878 – 1824)   Ngay sau khi Em phải đến Harvard học kinh tế được công bố, bà Lưu Vệ Hoa và ông Trương Hán Vũ, ba mẹ của em Lưu Diệc Đình nhận được hàng nghìn các cú điện thoại và hàng vạn bức thư hỏi về cách thức nuôi dạy Lưu Diệc Đình, đồng thời đề nghị cho biết tại sao Trường Đại học Harvard lại coi trọng “khả năng nổi trội và năng lực tổng hợp” đến như vậy. Thậm chí có một Công ty lớn ở Thẩm Quyến còn “fax” cho họ đề nghị sau khi tốt nghiệp, Lưu Diệc Đình sẽ đến Công ty đó làm việc…   Không thể trả lời hết các câu hỏi và những bức thư, bà Lưu Vệ Hoa đã cùng chồng là Trương Hân Vũ viết cuốn sách “Em nhất định sẽ học ở Harvard” mà bạn đang có trong tay, kể tỉ mỉ về quá trình nuôi dạy con của mình, do Tác gia Xuất bản xã ấn hành năm 2001, số lượng in tới 1 triệu 60 nghìn bản, chỉ trong vòng 1 năm tái bản với 32 lần.   Em phải đến Harvard học kinh tế cung cấp cho chúng ta một ví dụ sinh động về con đường giáo dục các “thần đồng”. Cuốn sách Em phải đến Harvard học kinh tế   đã tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc giáo dục của Carl Winter “Đối với sự trưởng thành của con trẻ, vấn đề tối quan trọng là ở giáo dục, chứ không phải ở tư chất. Trẻ em cuối cùng trở thành thiên tài hay người thường, không phải di tư chất thông minh nhiều hay ít quyết định, mà điểm mấu chốt là ở việc giáo dục trẻ từ lúc mới sinh cho tới 5 – 6 tuổi”.   Các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ hãy kịp thời nắm lấy giai đoạn phát triển tối quan trọng này, đừng để nó trôi đi không hình không bóng!     Hãy ra sức làm cho trẻ trở thành chính nó ngay từ mốc “số 0”! Mời các bạn đón đọc Em phải đến Harvard học kinh tế của tác giả Lưu Vệ Hoa, Trương Hán Vũ.
Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1 - Lý Quang Diệu
Tên ebook: Hồi ký Lý Quang Diệu Tác giả: Lý Quang Diệu Bộ sách: Hồi ký Lý Quang Diệu Thể loại: Hồi ký, Sách hay, Tự truyện, Văn học phương Đông Dịch giả: Phạm Viêm Phương – Huỳnh Văn Thành Số trang: 687 Xuất bản: tháng 9/2000 Nhà xuất bản: NXB TP Hồ Chí Minh Khổ: 14,5x20,5cm Chụp hình: bodauphong Hiệu đính và đóng sách: bun_oc_girl Nguồn: e–thuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1 Giới thiệu: Trong tập 1 Hồi ký Lý Quang Diệu (được bắt đầu viết từ năm 1994), ông kể lại những ký ức đáng tự hào về thành công của một chàng sinh viên giỏi của các thuộc địa vùng eo biển đến những ngày tháng du học trên đất Anh, từ câu chuyện tình yêu cảm động của ông với người vợ đến những hoài bão của chàng thanh niên trẻ tuổi, những kết giao, những mối quan hệ, từng bước thâm nhập chính trường, đối nhân xử thế, xây dựng đảng, lèo lái đất nước vượt qua những khó khăn cả từ bên trong lẫn bên ngoài.           Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1 kết thúc ở thời điểm Singapore chính thức tuyên bố độc lập năm 1965 sau khi tách ra từ Liên bang Malaysia, cũng là lúc đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình hình thành suy nghĩ, tính cách của ông Lý.            Ngoài ra, trong Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1, qua những bước đi “bươn trải” của một nhà lãnh đạo năng động tới khắp nơi trên thế giới, chúng ta có thể có thêm một góc nhìn về tình hình thế giới thời chiến tranh lạnh, về phong trào không liên kết, Mỹ, Anh, Nga, Trung Quốc và các nước khác thời điểm còn đang “ẩn tàng” ở hai bên bức màn sắt, về Liên minh châu Âu thời kỳ hình thành, về khối Thịnh vượng chung và những liên minh, hiệp ước khác.            Mời các bạn đón đọc Hồi ký Lý Quang Diệu tập 1 của tác giả Lý Quang Diệu.
Hồi ký Lý Quang Diệu tập 2: Bí quyết hóa Rồng - Lý Quang Diệu
Tên ebook: Bí quyết hóa Rồng Tác giả: Lý Quang Diệu Bộ sách: Hồi ký Lý Quang Diệu (tập 2) Thể loại: Hồi ký, Sách hay, Tự truyện, Văn học phương Đông Dịch giả: Thu  SaigonBook Số trang: 688 Xuất bản:  tháng 6/2001 Nhà xuất bản: NXB Trẻ Công ty phát hành: SaigonBook Khổ:  16x24cm Giá tiền:  120.000đ Beta:  lemontree123, ducphuongvn Hiệu đính và đóng sách: bun Nguồn: e–thuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Hồi ký Lý Quang Diệu tập 2   Lời tựa: Tôi viết quyển sách này cho thế hệ trẻ Singapore, những người cho rằng một Singapore ổn định, phát triển và thịnh vượng là hiển nhiên. Tôi muốn họ thấu hiểu được những khó khăn mà một nước nhỏ chỉ rộng 640km2, không có tài nguyên thiên nhiên, phải vươn lên để tồn tại giữa những quốc gia rộng lớn hơn vừa mới độc lập và tất cả đều theo đuổi đường lối dân tộc chủ nghĩa. Những ai đã từng trải qua chiến tranh năm 1942 và sự chiếm đóng của Nhật Bản, đã từng tham gia vào công cuộc xây dựng nền kinh tế mới cho Singapore thì không lạc quan như thế. Chúng tôi không thể quên được rằng việc có được trật tự xã hội, an toàn cá nhân, phát triển kinh tế xã hội và phồn vinh thịnh vượng không phải là quy luật hiển nhiên của sự vật, mà là nhờ vào những nỗ lực không ngừng của toàn xã hội dưới sự dẫn dắt của một chính phủ trung thực và hiệu quả do dân bầu ra. Trong quyển sách trước đây, tôi đã miêu tả những năm định hình tính cách của tôi trong thời tiền chiến ở Singapore, sự chiếm đóng của Nhật Bản và những biến động của chủ nghĩa cộng sản và tiếp theo đó là các vấn đề chủng tộc trong hai năm ở trong Liên bang Malaysia. Việc chiếm đóng của Nhật Bản (1942–1945) làm tôi căm phẫn vì sự tàn bạo, dã man mà họ đã dành cho những người bạn cùng châu Á với họ, làm khơi dậy trong tôi tinh thần dân tộc và lòng tự trọng, cũng như sự căm hờn vì bị đối xử trịch thượng. Bốn năm học đại học ở Anh sau chiến tranh đã củng cố thêm quyết tâm thoát khỏi ách cai trị thuộc địa của thực dân Anh trong tôi. Năm 1950 tôi trở về Singapore, tin tưởng vào mục tiêu của mình nhưng lại không lường hết được những khó khăn hiểm nguy phía trước. Làn sóng chống thực dân đã lôi cuốn tôi và nhiều người cùng thế hệ. Tôi tham gia hoạt động công đoàn và chính trị, lập ra một đảng chính trị và vào năm 1959, ở tuổi 35, tôi đảm nhiệm chức vụ thủ tướng chính phủ đầu tiên, được bầu của Singapore tự trị. Tôi cùng bạn bè thành lập mặt trận thống nhất với những người cộng sản. Ngay từ đầu, chúng tôi biết rằng sẽ phải có lúc đường ai nấy đi và khi có cơ hội là thanh toán lẫn nhau. Khi điều ấy xảy ra, cuộc đấu tranh thật là ác liệt và may thay chúng tôi đã không bị đánh bại. Chúng tôi nghĩ rằng tương lai lâu dài cho Singapore là quay lại với Malaya, vì vậy chúng tôi hợp nhất với Malaya tạo thành Liên bang Malaysia vào tháng 9/1963. Chưa đầy một năm, vào tháng 7/1964, chúng tôi phải chịu đựng những cuộc bạo động phân biệt chủng tộc giữa người Malaya và người Hoa ở Singapore. Chúng tôi bị mắc kẹt trong cuộc đấu tranh nan giải với những người Malay cực đoan trong đảng cầm quyền UMNO (Tổ chức Dân tộc Đoàn kết Malaya) – những người kiên quyết muốn có một Malaysia do người Malay thống trị. Để phản công lại việc họ dùng những cuộc bạo động cộng đồng để đe dọa chúng tôi, chúng tôi tập hợp những người, không phân biệt Malay hay không Malay, trong toàn Malaysia vào Tổ chức Đoàn kết Malaysia nhằm đấu tranh vì một Malaysia của người Malaysia1. Cho đến tháng 8/1965, khi không còn chọn lựa nào khác, chúng tôi đành phải tách ra. Sự ức hiếp và đe dọa dựa trên sắc tộc đã làm cho người dân của chúng tôi sẵn sàng chịu đựng gian khổ để xây dựng một mình. Bên cạnh đó, kinh nghiệm đau thương về các cuộc bạo động chủng tộc càng thôi thúc tôi và các đồng chí của tôi quyết tâm xây dựng một xã hội đa chủng tộc đảm bảo đối xử công bằng với mọi công dân, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Đó là tôn chỉ hướng dẫn các chính sách của chúng tôi. Quyển sách này đề cập đến quá trình làm việc gian khổ, lâu dài để tìm ra cách giữ gìn độc lập và kế sinh nhai mà không có Malaysia làm nội địa. Chúng tôi phải chống lại những bất lợi tưởng chừng như không thể vượt qua để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu tiến đến phồn vinh thịnh vượng trong vòng ba chục năm. Những năm sau 1965 là thời kỳ bề bộn và đầy âu lo bởi vì chúng tôi phải chiến đấu để đứng vững. Chúng tôi nhẹ nhõm khi thấy vào năm 1971, chúng tôi đã tạo đủ công ăn việc làm để thoát khỏi nạn thất nghiệp trầm trọng, mặc dù người Anh đã rút quân đội ra khỏi Singapore. Nhưng chỉ sau khi chúng tôi vượt qua được cơn khủng hoảng dầu lửa quốc tế năm 1973, với giá dầu tăng gấp 4 lần, thì chúng tôi mới tin chắc là chúng tôi có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình. Sau đó, chúng tôi phải làm việc cật lực, hoạch định và ứng biến nhằm củng cố địa vị là một quốc gia độc lập có khả năng liên kết mậu dịch và đầu tư với các nước công nghiệp hàng đầu và là một trung tâm phân phối hàng hóa, dịch vụ và thông tin thành công trong khu vực. Chúng tôi đã đưa thu nhập quốc dân (GDP) bình quân đầu người từ 400USD vào năm 1959 (khi tôi nhậm chức thủ tướng) lên hơn 12.200USD vào năm 1990 (khi tôi từ chức) và 22.000USD vào năm 1999, tại thời điểm có nhiều biến động to lớn về kinh tế và chính trị trên thế giới. Về điều kiện vật chất, chúng tôi đã bỏ lại sau lưng những vấn đề nghèo nàn của Thế giới thứ Ba. Tuy nhiên, phải mất một thế hệ nữa, những tiêu chuẩn xã hội, văn hóa và nghệ thuật của chúng tôi mới sánh được với cơ sở hạ tầng của Thế giới Thứ nhất mà chúng tôi đã thiết lập được. Suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh của thập niên 60 và 70, khi vẫn còn chưa rõ phe nào sẽ chiến thắng, chúng tôi đã liên kết với phương Tây. Sự phân chia trong Chiến tranh Lạnh đã làm cho môi trường quốc tế đơn giản hơn. Vì những nước láng giềng của chúng tôi đều chống lại những người cộng sản nên chúng tôi nhận được tình đoàn kết khu vực lẫn sự ủng hộ quốc tế của Mỹ, phương Tây và Nhật Bản. Vào cuối thập niên 80, rõ ràng chúng tôi đã đứng về phe của những người chiến thắng. Đây không phải là quyển sách chỉ dẫn cách xây dựng một nền kinh tế, một quân đội hoặc quốc gia, mà là sự tường thuật lại những vấn đề mà tôi và đồng sự của tôi đã phải đối mặt và cách giải quyết chúng. Tôi viết cuốn sách trước đây dưới dạng tự thuật theo thứ tự thời gian. Với ý định để cuốn sách này không quá dài, tôi đã viết nó dưới dạng chủ đề, cô đọng 30 năm chỉ trong 700 trang.              Mời các bạn đón đọc Hồi ký Lý Quang Diệu tập 2 của tác giả Lý Quang Diệu.