Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

13.67

Lần đầu tiên, trinh thám Hồng Kông đến Việt Nam! Hồng Kông Hồng Kông. Vùng đất nổi tiếng với Cửu Long Trại Thành, nơi từng có mật độ dân cư cao nhất thế giới, nhà cửa san sát đến mức nắng không len nổi xuống đất, có thể đuổi bắt cả ngày bên trên không cần xuống đường, nơi nhung nhúc cô hồn các đảng, nghiện hút, mại dâm, thịt chó trốn thuế và bác sĩ không giấy phép hành nghề… Hồng Kông, vùng đất nổi tiếng với nhũng nhiễu tham ô, có thời cứ vài chục cảnh sát lại lọt một người do xã hội đen bao nuôi, quá đông đảo đến mức không thể đưa ra tòa, chỉ còn cách đặc xá. Hồng Kông, vùng đất nổi tiếng vì phong trào tự phát, chút xích mích nhỏ cũng có thể bùng ra thành bạo động. Có những năm mìn tự làm cài cắm khắp nơi, và sẵn sàng gửi đến tận nhà cho bất cứ ai dám công khai phản đối. Kim Dung cũng là một trường hợp như vậy. Sau quả bom gửi đến tận nhà và phát nổ ngay ở sân, ông đành phải đưa cả gia đình sang Singapore lánh nạn… Hồng Kông, vùng đất chơ vơ ngoài khơi cùng lối sống bản năng chỉ cốt sinh tồn ấy, đã vun xới một thể loại trinh thám dị thường, mà ta sẽ thấy ở 13.67 này. Từ nền tảng trinh thám cổ điển đậm chất suy luận, Chan Ho Kei đã lồng vào quan điểm phá án riêng của anh: cách thức có thể đen, nhưng mục đích phải trắng. Cũng có nghĩa, miễn là lôi được tội phạm đích thực ra ánh sáng, còn thì dùng thủ đoạn ngóc ngách thậm chí lừa phỉnh thế nào cũng được. Quan điểm đó càng trở nên quái lạ và mạo hiểm, khi nhân vật thám tử ở đây lại là một cảnh sát, đại diện cho tinh thần thượng tôn chính nghĩa và pháp luật. Cả quá trình phá án, anh ta luôn đi trên một con đường rất mong manh giữa chính và tà, không cẩn thận thì chính bản thân lại biến thành kẻ phạm pháp. Cũng vì quái lạ và mạo hiểm, nên 13.67 chứa đựng sức hút riêng có ta chưa từng thấy ở trinh thám bất cứ nơi đâu. Kết hợp với lối kể đảo ngược, câu chuyện thành ra sâu hun hút với một sự thật bất ngờ giấu kín dưới đáy, khiến ta vừa đọc xong lại phải hộc tốc giở ngay về phần đầu. 13.67… *** Tác giả Chan Ho Kei:  Tốt nghiệp khoa Khoa học máy tính trường Đại học Trung văn Hồng Kông, thành viên Hiệp hội Trinh thám Đài Loan (MWT). Nhà văn trinh thám và khoa học viễn tưởng Hồng Kông, đã được vinh danh và đoạt rất nhiều giải thưởng chuyên môn trong thế giới Hoa ngữ. Năm 2008, lọt vào chung kết Viết văn lần 6 của MWT với truyện thiếu nhi Jack và hạt đậu thần. Năm 2009, giải nhất Viết văn lần 7 của MWT với truyện thiếu nhi Căn phòng bí mật của Lão Râu Xanh. Năm 2010, giải ba Comic Ritz Million Novel với Suy luận hợp lý. Giải ba Tiểu thuyết Khoa học Viễn tưởng Nghê Khuông với Thời gian là vàng bạc. Năm 2011, giải nhất Tiểu thuyết Trinh thám Soji Shimada với Hình cảnh mất trí. Năm 2014 Chan Ho Kei bắt đầu bước ra khỏi thế giới Hoa ngữ nhờ tác phẩm đỉnh cao 13.67, trước tiên đoạt giải tại Triển lãm Sách Quốc tế Đài Bắc 2014, lập tức được nhượng quyền xuất bản ở Hàn, Mỹ, Pháp, sau đó một cơn bùng nổ nho nhỏ về sức chiếm đóng trên bảng xếp hạng trinh thám bán chạy ở các nước này đã mau chóng đẩy 13.67 đến Thái, Nhật, Anh, Canada, Ý, Hà Lan, Việt Nam… Chan Ho Kei cũng khá sung sức trong mảng khoa học viễn tưởng. Đến giờ đã xuất bản: Mật sứ hắc ám (đồng sáng tác với Cao Phổ), Kẻ may mắn sống sót, Người bong bóng, Bọ ma và light novel Theo dấu pháp thuật. Năm 2015 anh hợp tác với Sủng Vật Tiên Sinh, người từng đoạt giải nhất Tiểu thuyết Trinh thám Soji Shimada 2001, để cùng viết nên tác phẩm mới có tên S.T.E.P. *** Tác phẩm kể về cuộc đời nghề nghiệp của một tranh tra cảnh sát Hồng Kông, đồng thời dắt chúng ta đi qua một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước này. Nhân vật chính là Quan Chấn Đạc, được miêu tả như người hùng của cảnh sát Hồng Kông, với tỉ lệ phá án thành công lên tới 100%. Truyện gồm 6 chương, 6 vụ án, kể theo dòng thời gian ngược, từ năm 2013, khi Quan là một ông lão mất ý thức trên giường bệnh, lần về năm 1967, khi Quan còn là cảnh sát tuần tra quèn (tên truyện 13.67 là kết hợp của 2 mốc thời gian này).  Về nhân vật, Quan, nhân vật trung tâm được xây dựng rất tốt. Ấn tượng qua những lời giới thiệu ở chương đầu, thán phục qua những màn suy luận "đi trước cả 10 bước", và kính nể qua lý tưởng nghề nghiệp mà ông thể hiện xuyên suốt cuốn sách. Là một người làm công việc trị an, Quan tuy phải chịu áp lực rất lớn từ dư luận và cấp trên, nhưng ông không bao giờ quên lý tưởng "phải bảo vệ người dân vô tội" của mình. Dù xét từ góc độ quản lý, kết quả của đại cục mới là quan trọng nhất, dù phải hi sinh một vài dân thường, thì đó vẫn được coi như "thiệt hại ở mức chấp nhận được". Quan, là thanh tra cao cấp, tất nhiên, ông phải ưu tiên phá án lên hàng đầu, nhưng song song đó, ông vẫn luôn để mắt tới từng chi tiết nhỏ nhất để đảm bảo không một dân thường nào bị liên luỵ. Một anh hùng của cả chính phủ và nhân dân. Bên cạnh Quan là đệ tử Lạc Tiểu Minh. Tôi thấy hơi tiếc cho nhân vật này, khi anh chỉ toả sáng ở chương đầu tiên, mờ nhạt dần ở 3 chương tiếp theo và... mất hút ở 2 chương cuối. Cũng phải thôi, truyện kể theo hướng lùi dần về quá khứ, nên khi Quan mới vào nghề thì Lạc không có mặt là đương nhiên. Và vì thế, yếu tố kế thừa di sản và tư tưởng của người thầy trở nên kém nổi bật. Thời lượng cho Lạc khá ít, và chỉ tập trung ở 2 chương đầu, nên ta mới chỉ thấy được sự sắc xảo trong suy luận của anh, chứ chưa kịp hiểu rõ về lập trường và cá tính của anh lắm. Nếu coi đây là màn giới thiệu nhân vật, để anh thực sự bung lụa ở phần tiếp theo (nếu có) thì tôi hoàn toàn đồng ý, nhưng nếu chỉ xuất hiện kiểu đầu voi đuôi chuột, nửa thứ chính nửa phụ như vầy, tôi thấy hơi phí phạm.  Về chất trinh thám, thì đây là đúng là một đại tiệc. 6 vụ án độc lập, tính chất, thủ đoạn, động cơ, bối cảnh đều khác nhau. Giàu tình tiết, logic cao, lật mở liên tục. Hiếm có cuốn nào mà sự gay cấn lại đa dạng và được duy trì với mật độ cao như vậy. Nếu chỉ tính riêng chất trinh thám thôi thì tôi cho 4/5. Tuy hấp dẫn nhưng không thể cho cao hơn được vì vai phản diện không nổi bật. Phải gọi là "các" phản diện mới đúng. Cuốn sách 550 trang, chia cho 6 vụ án là mỗi cuốn khoảng 90 trang, chỉ vừa đủ để khắc hoạ vai chính diện và tình tiết vụ án, nên đã không thể đi quá sâu vào quá khứ hay nội tâm kẻ gây án được. Có động cơ rõ ràng đấy, nhưng để đồng cảm được thì cần nhiều thời gian xây dựng nhân vật hơn.  Về cách kể, thì đây là điểm yếu nhất. Việc chia thành các câu chuyện nhỏ và đi theo hướng kể ngược về quá khứ, thì dĩ nhiên, điều tôi mong muốn (và tôi tin mọi người cũng vậy) là một cái kết bất ngờ và có tính liên kết các câu chuyện lại làm một. Nhưng 13.67 đã không làm được.  Cái kết có bất ngờ không? Có. Nhưng có kết nối các phần trước thành mội câu chuyện lớn không? Thì không!  Điều duy nhất mà plot cuối truyện làm được là khiến tôi phải giở lại chương đầu một chút, còn thứ mà tôi mong chờ là lật lại TOÀN BỘ cuốn sách cơ. Có thể tôi tham lam hay kì vọng quá cao, nhưng sự hấp dẫn trong từng câu chuyện và cách kể đã gieo vào đầu tôi sự trông chờ cho một cái kết thuyết phục hơn vậy. Hoá ra 6 câu chuyện tưởng như độc lập lại... thật sự độc lập. Sợi dây duy nhất là nhân vật chính Quan, nhưng bản thân ông ở 6 giai đoạn cũng không có sự liên kết nào hết, không có 1 chuỗi nhân-quả hay biến chuyển nào hết, không có một câu chuyện lớn xuyên suốt khiến tôi hơi có cảm giác bị phản bội.  Về bối cảnh, tác giả chọn 2 mốc là 30 năm trước và 16 năm sau của năm 1997 - năm mà Anh Quốc trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc. Nói như vậy không có nghĩa truyện xoáy sâu vào vấn đề chính trị (ban đầu tôi cũng tưởng như vậy), mà truyện tập trung vào sự "kém ổn định" của an ninh, biến Hồng Kông giai đoạn này trở thành thiên đường của tội phạm. Qua đó nhấn mạnh chủ đề chính là lòng tin và kì vọng của nhân dân với lực lượng trị an và chính quyền. Các vấn đề xã hội khác như tranh giành quyền lực, báo thù, đạo nghĩa giang hồ, tham ô, hối lội, tình yêu, gia đình... cũng xuất hiện rất phong phú, tuy không đi quá sâu nhưng tô điểm được cho bức tranh xã hội phức tạp và đầy rẫy những vấn đề, tạo nên bối cảnh chất lượng cho các vụ án.  Tóm lại, so với mặt bằng chung thì đây là cuốn trinh thám HAY, (các) vụ án chất lượng, tính logic cao, duy trì được sự kịch tính, bối cảnh thú vị. Tuy không có phản diện ấn tượng và tính liên kết giữa các chương khá yếu, nhưng đó là do tôi kì vọng cao quá mà thôi. Sài Gòn , ngày 18 tháng 7, 2020 Phúc *** 13.67 là 6 truyện ngắn được kể theo trình tự ngược thời gian, từ thời điểm năm 2013 đến 1967, chính là nguồn gốc khai sinh ra cái tên 13.67, xoay quanh hai thầy trò cảnh sát Quan Chấn Đạc, Lạc Tiểu Minh và những sự kiện lịch sử có thật ở Hongkong trong chính giai đoạn này. Chỉ 6 câu chuyện mà án gì cũng đủ cả, giết người, bắt cóc, buôn ma tuý, vượt ngục, đánh bom, tưởng như rời rạc không liên quan, nhưng lại tạo thành một xâu chuỗi hoàn hảo tất cả các sự kiện, con người, ân oán của mấy mươi năm lịch sử. Mình sẽ không bao giờ nhấn mạnh đủ tầm quan trọng của một cái đầu lạnh tập trung cao độ khi đọc quyển sách này. Ngay từ vụ 1 tác giả đã cho độc giả vào những khúc cua khét lẹt đến sợ hãi, sợ là vụ đỉnh như thế này cho lên đầu rồi về sau không còn chiêu bài nào hay nữa. Nhưng mình vẫn bị tác giả lừa phút một. Chỉ cần mình vừa khinh thường nghĩ đã “bắt bài” được tác giả thì giây sau đã ngớ ra tác giả cầm ba đôi thông. Tóm lại, phải critical thinking đến dấu chấm câu cuối cùng, còn thở là còn gỡ.  Nếu 13.67 đơn giản là một cuốn trinh thám mình thích, thì mình thức xuyên đêm đọc một lèo là xong. Nhưng với 13.67, mình lại phải chia ra đọc chậm rãi từng vụ một, thậm chí dừng đọc ngay trước khoảnh khắc vạch trần hung thủ. Bởi giống như rượu ngon không ai tu cả chai, sách hay là phải nhâm nhi để thấm.  Chắc bạn đang đặt ra câu hỏi là “Mình sẽ học được gì từ mấy tay thanh tra hình sự già cỗi ở Hongkong?” nhỉ Mình cũng từng nghĩ thế đấy, ấy vậy mà tổ nghề đọc trinh thám quật cho không kịp trở tay, cứ phải đánh dấu trang lia lịa. Thú thực là nghiệp đọc trinh thám của mình chưa bao giờ phải highlight sách nhiều như thế.  Không chỉ về cách lập luận, tư duy logic (như thầy Quan hay mắng anh Lạc là cứ nhầm lẫn nguyên nhân với kết quả) mà mình còn được học về cách nhìn người, cách áp dụng những thứ tưởng chừng rất lý thuyết vào thực tế như “song đề tù nhân”.  Và quan trọng hơn tất thảy, quyển sách này đã củng cố niềm tin vào một trăn trở bấy lâu của mình: Tại sao ta cần đọc sách? Và quan trọng hơn nữa, tại sao ta cần đọc tiểu thuyết hư cấu? Ngoài những lý do sáo rỗng đã nghe mòn tai như đọc sách để sống nhiều hơn một cuộc đời, hay đơn giản là một thú vui, đọc 13.67 bắt mình phải đặt ra câu hỏi cho bản thân: nếu mình là Quan Chấn Đạc hay Lạc Tiểu Minh, trong tình huống éo le như thế, mình sẽ hành xử ra sao? Mình có dám theo đuổi công lý và nguyên tắc của bản thân đến cùng hay không? Chỉ có tiểu thuyết mới mang lại cho chúng ta những câu hỏi ta không biết mình đang tìm kiếm, cần ta phải thực sự soi chiếu chính mình để trả lời.  Gấp quyển sách lại,  mình lại về làm một cô sinh viên bình thường, không còn băng đảng lăm le, cảnh sát trắng đen lẫn lộn, chỉ còn niềm tin rằng “chính nghĩa thì không nói bằng lời”. an nhi 27/02/2021 *** Thanh tra Lạc căm ghét mùi bệnh viện, nhất là thứ mùi hăng hắc của nước khử trùng lẩn quất trong không khí. Chẳng phải vì có kí ức đau buồn gì ở đây, mà chỉ đơn giản là thứ mùi đó gợi nhớ đến nhà xác. Dù đã làm cảnh sát hai mươi bảy năm, nhìn thấy biết bao thi thể, anh vẫn khó lòng quen với mùi này. Nói chung, ngoài những kẻ biến thái đam mê tử thi ra, chắc không ai trông thấy người chết mà vui cho được. Lạc thở mạnh, nỗi bất an vẫn không vợi bớt, tâm trạng còn nặng nề hơn cả khi theo dõi khám nghiệm tử thi trong nhà xác. Anh mặc bộ vest màu lam chỉnh tề, buồn bã nhìn người đang nằm trên giường bệnh. Bệnh nhân trong căn phòng đơn này là một ông lão tóc pha sương, gương mặt đầy nếp nhăn lấp ló dưới mặt nạ thở oxy, hai mắt nhắm nghiền, làn da tái nhợt, cánh tay lấm tấm đồi mồi cắm những ống nhỏ nối với mấy cái máy trị liệu đang hoạt động. Màn hình 17 inch gắn trên đầu giường hiển thị các số liệu như mạch đập, huyết áp, lượng oxy trong máu... Đường đo nhịp tim chạy chầm chậm từ phải qua trái thỉnh thoảng nhấp nhô, nếu không thì chắc ai cũng nghĩ ông lão này chết rồi, và nằm trên giường chỉ là một thi thể được bảo quản tốt mà thôi. Ông lão là sư phụ của Lạc, ông đã dạy anh điều tra, thu thập chứng cứ, lập luận phá án bao nhiêu năm nay, nhưng chính ông lại thường không hành động theo một quy tắc cố định nào. “Tiểu Minh à, phá án không thể chỉ biết chăm chăm làm theo nguyên tắc. Ngành này đã có quá nhiều thành phần bảo thủ máy móc rồi. Mặc dù phục tùng mệnh lệnh cấp trên là lẽ đương nhiên, nhưng con phải nhớ, bảo vệ người dân mới là nhiệm vụ thực sự của cảnh sát. Nếu chế độ đẩy người vô tội vào hiểm nguy, chính nghĩa không rõ ràng, bấy giờ chúng ta có lý do chống lại chế độ trì trệ đó.” Nhớ lại câu cửa miệng của thầy, Lạc không khỏi gượng cười. Tên đầy đủ của anh là Lạc Tiểu Minh. Mười bốn năm nay, kể từ ngày lên chức quyền thanh tra, hầu như không còn đồng nghiệp nào gọi thẳng cái tên mộc mạc đó nữa. Chỉ có thầy vẫn kêu anh là “Tiểu Minh”. Đối với chỉ huy Quan Chấn Đạc, Lạc cũng như con đẻ của ông. Trước lúc nghỉ hưu, Quan là tổ trưởng tổ B Phòng Tình báo Hình sự tại Bộ chỉ huy. Phòng Tình báo hình sự, gọi tắt CIB, là cơ quan tình báo trung ương của ngành cảnh sát, phụ trách thu thập, phân tích và nghiên cứu tin tức tội phạm của các khu vực, rồi phối hợp với các phòng ban khác lập kế hoạch hành động. Nếu coi CIB là não bộ của ngành cảnh sát, thì tổ B chính là thùy trước trán, làm nhiệm vụ phân tích, tổng hợp và tìm ra sự thật từ muôn vàn manh mối rối như tơ vò. Quan bắt đầu dẫn dắt tổ hạt nhân này từ năm 1989 và trở thành linh hồn của CIB. Năm 1997 chuẩn bị về hưu, ông nhận Lạc Tiểu Minh, điều tra viên mới được thuyên chuyển về tổ B làm đệ tử cuối cùng. Chỉ huy Quan chính thức làm cấp trên của Lạc chỉ trong nửa năm, nhưng sau khi nghỉ hưu, ông làm cố vấn hợp đồng cho ngành cảnh sát nên vẫn có nhiều dịp chỉ bảo cậu hậu bối kém mình hai mươi hai tuổi này. Đối với người không có con cái như chỉ huy Quan, Lạc chẳng khác nào con đẻ. “Tiểu Minh à, đấu trí với nghi phạm giống như đánh bài, phải để đối thủ đoán sai át chủ bài của mình. Dù con cầm đôi át cũng phải khiến đối thủ nghĩ con chỉ có quân 2, quân 3 tép riu. Kể cả khi thấy mình không có cửa thắng, con vẫn phải giả bộ đặt cược thêm, lung lạc đối thủ. Như thế mới khiến nghi phạm để lộ sơ hở.” ... Mời các bạn đón đọc 13.67 của tác giả Chan Ho Kei & Minh Thu (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tháng Tám Không Vua - Kiutzo Kobayasi
Phóng viên Iximôri trên đường đi công tác từ Fukuoka về Tokyo. Tại ga Hacata anh đọc báo và biết tấm vé tàu của mình mua qua hệ thống bán vé tự động đã bị bán nhầm, nghĩa là có một người khác cũng mua tấm vé với chỗ ngồi của anh. Nhưng vì nghĩ lên tàu sẽ có nhân viên tàu sắp xếp nên anh bỏ qua, không đổi lại. Cùng lúc đó, anh có cảm giác mình bị theo dõi, và sau đó là 2 nhân vật bặm trợn tiếp cận anh để đòi mua lại vé. Cảm thấy có gì bất ổn, anh nhất định không nhượng lại. Anh không biết rằng, tấm vé định mệnh ấy đã đưa anh gặp lại người yêu cũ trên cùng chuyến tàu, đồng thời rơi vào một âm mưu đảo chính tồi tệ của Lực lượng phòng vệ... *** Trong biển sương mù dày đặc, hoàn toàn không thể trông thấy gì cả. Sinh ra không biết ở đâu, từng đám hơi nước nặng nề và xám xịt như những đợt sóng đập vào tấm kính chắn gió, chảy tụ thành từng dòng và chậm chạp tan dọc theo hai bên thành xe. Một sự chuyển động đơn điệu, tẻ ngắt... Đèn pha chiếu không xa hơn một mét đường, những luồng ánh sáng vấp phải bức tường dày của bóng tối, phản chiếu lại rồi tan biến đi trong sương mù. Tầm nhìn xa gần như bằng không. Nếu như đây không phải là xe hơi, mà là máy bay, chắc từ lâu đã phải chuyển sang bay bằng thiết bị thăm dò tự động. Còn về tốc độ thì không cần phải nói. Thậm chí chỉ với hai mươi cây số một giờ, cũng không thể bảo đảm an toàn được. “Đã lâu không có sương mù như thế này...” - Mitiô Ximauti, cảnh sát trưởng khu Trung tâm của quận Aômôri, nhìn qua tấm kính chắn gió của chiếc xe tuần tra và nghĩ thầm. Chốc chốc, trong ánh đèn pha, những chiếc xe hơi ngược chiều, giống như những cái bóng đột ngột xuất hiện và chạy vụt ngang qua. Sự đột ngột đó làm cho Ximauti lo lắng. Hơi nhổm người lên, anh quay sang phía viên cảnh sát trẻ tuổi Muracami đang ngồi sau tay lái ở bên cạnh: - Hay là ta giảm bớt tốc độ đi ? - Để làm gì ? - Muracami hỏi lại. - Đi thế này cũng đã chậm lắm rồi. Không hơn hai mươi kilômét giờ. - Ừ, thôi được, - Ximauti lẩm bẩm và ngồi lại cho thoải mái hơn. Chỉ còn một quãng nữa là đến chỗ rẽ từ quốc lộ số Bốn vào thành phố. Anh nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm. “Hừ, tìm ra được tên giết người trong sương mù thế này thật không phải dễ, - Ximauti nghĩ. - Có lẽ, bóng tối đã giúp tên tội phạm đi lọt qua các bót kiểm soát của cảnh sát”. Từ một nơi nào đó trong đáy sâu của ý thức chợt hiện lên những đặc điểm của tên tội phạm đã được thông báo cho tất cả các đồn, trạm cảnh sát. Gần hai mươi lăm tuổi. Cao một mét bảy mươi, gầy. Áo khoác màu sáng. Tóc dài. Qua hình dáng bên ngoài có thể đoán được là làm ở quán bar hay khách sạn. Một vụ trấn lột tắcxi bình thường. Vào hồi hai mươi ba giờ, một viên cảnh sát, trong khi đi tuần quanh khu vực của mình trên phố Hasucamati, thấy bên vệ đường, cạnh công viên, một chiếc xe tắcxi đứng tại chỗ nhưng đèn hiệu trên nóc nhấp nháy liên hồi. Khi viên cảnh sát đi đến, một thanh niên từ trong xe nhảy bổ ra, bỏ chạy. Viên cảnh sát đuổi theo, nhưng chỉ thoáng sau tên kia đã mất hút. Lái xe tắcxi, một người đàn ông đứng tuổi, nằm trên ghế, cổ bị thắt bằng sợi dây thừng nilông, đã tắt thở. Tiền thu được trong ngày cũng đã biến mất. Trực ban ra lệnh báo động, các trạm kiểm soát lập tức được đặt khắp mọi ngả đường thành phố. Mười phút sau sự kiện xảy ra, hai chục chiếc xe tuần tra phóng vào màn đêm dày đặc sương mù để truy tìm thủ phạm. -  Chúng ta loanh quanh đã gần hai tiếng đồng hồ rồi đấy. - Không hiểu sao, Ximauti cứ có linh cảm rằng cuộc truy lùng sẽ thất bại. Hình ảnh tưởng tượng của tên giết người bị truy lùng bỗng đột nhiên nhòa mờ đi; thay vào đó, khuôn mặt vợ và đứa con trai của anh hiện ra, mỗi lúc một rõ nét hơn. Mới hôm qua con anh vừa chẵn hai tuổi - cái tuổi tuyệt diệu nhất của đứa trẻ. Bây giờ có lẽ nó đang ngủ. Và Ximauti hình dung ra khuôn mặt say sưa của con anh đang áp vào bộ ngực trần của mẹ nó. Anh lắc mạnh đầu, cho tay vào túi lấy thuốc. Bao thuốc rỗng không. -  Này, Muracami, cho xin điếu thuốc. Tớ hết mất rồi. -  Chờ một tí. - Muracami rời tay khỏi cần lái và hơi nghiêng người, rút bao thuốc từ trong túi đưa cho Ximauti. Đúng vào khoảnh khắc đó, Ximauti trông thấy trước mặt mình hiện lên một bóng đen khổng lồ. Khối thép lớn, từ trong màn sương bay vụt ra, chắn ngang đường của họ. -  Cẩn thận !  - Nhưng tiếng phanh đã rít lên, trước cả khi Ximauti kịp mở miệng kêu. Trong luồng ánh sáng của hai ngọn đèn pha, một khối đen lao tới, như sắp đè cả sức nặng đáng sợ của nó lên chiếc xe tuần tra cảnh sát. Ximauti nghe ớn lạnh toàn thân. Ngay bên cạnh, một luồng ánh sáng chói chang quét vụt qua. Và liền đó, tiếng rú của động cơ đập vào tai. -  Qua rồi !  Chỉ cần một phần mấy giây nữa là... - Cùng với cảm giác nhẹ nhõm, một đợt máu nóng dồn lên mặt Ximauti. Quay đầu lại, anh chỉ kịp nhận ra thùng xe của một chiếc ô tô vận tải rất lớn. Với tiếng gầm nhức óc, nó phóng vụt qua và biến mất trong màn sương tối. -  Đuổi theo !  - Ximauti đập tay lên vai Muracami, ra lệnh. - Nhanh lên ! -  Có ngay !  - Sau một giây lúng túng, viên cảnh sát trẻ đáp. Cuộc chạm trán với chiếc xe tải điên rồ kia đã làm cho anh mất bình tĩnh. -  Nhanh lên !  - Ximauti quát. Bây giờ tất cả mọi nghi ngờ của anh đều tập trung vào chiếc xe khổng lồ vừa chạy lướt qua. Điều này gần như là một linh cảm được sinh ra bởi kinh nghiệm của mười năm làm nghề điều tra. -  Đồ mất dạy !  - Cuối cùng Muracami đã bình tĩnh lại. Anh mở máy, quay gấp tay lái và phóng xe vụt đi. Ximauti chẳng còn nhận ra đồng đội của mình nữa. Nét mặt Muracami - anh đang dồn hết sức dấn ga - biểu lộ một sự tập trung căng thẳng. Tiếng còi rú dài. Cứ mỗi lần trên đường xuất hiện và lớn vụt lên ánh đèn pha của những chiếc xe ngược chiều, Ximauti cảm thấy mồ hôi trên tay mình rịn ra vì sợ hãi. - Chiếc xe kì quái, - Muracami căng mắt nhìn về phía trước, lẩm bẩm. - Hình như chột mắt. “Một đèn pha trước bị vỡ”, - Ximauti giải mã trong đầu lời của Muracami. Chiếc xe tải nặng với một bên đèn pha bị vỡ phóng trong đêm sương mù dày đặc với tốc độ mà họa chăng chỉ những kẻ điên mới dám. Không thể xác định được chính xác, nhưng chắc phải đến bảy-tám mươi kilômét một giờ. Phóng xuyên qua đêm tối, không chọn đường. Một thằng muốn tự tử ngồi sau tay lái chắc ? “Không biết nó vội đi đâu thế nhỉ ? - Ximauti lẩm bẩm, cố nhìn cho được một cái gì đó trong bóng tối. - Đến Môriôca, Xendai hay Tôkiô ?” Đột nhiên ngay trước mũi Ximauti hiện ra thành sau của chiếc xe tải. Trong lần gặp gỡ thứ nhất, Ximauti bị bất ngờ đến nỗi ngoài khối vỏ thép, anh không kịp nhìn ra gì hết. Bây giờ anh mới thấy rõ chiếc thùng xe vận tải có mui rất lớn màu bạc trắng. Ô tô kéo moóc mười tấn bịt kín. Muracami mở còi hết công suất, ra lệnh cho người lái chiếc xe tải phải dừng lại. Nhưng nó vẫn cứ tăng thêm tốc độ, rõ ràng là muốn tìm cách tẩu. - Nó đang cố chạy trốn, - Muracami nói giọng khàn khàn và lại nhấn mạnh thêm chân ga. -  Đuổi nhanh lên !  - Ximauti nghiến chặt hai hàm răng. Ý nghĩ về sự nguy hiểm của cuộc đuổi bắt trong đêm sương mù không còn làm anh sợ nữa. Đuổi kịp !  Đuổi kịp bọn chạy trốn !  Cái máu say mê săn đuổi đã hoàn toàn xâm chiếm Ximauti, nó lây sang cả Muracami đang ngồi bên cạnh, sau tay lái. Động cơ rú mạnh, chiếc xe rung lên trước luồng không khí ngược chiều. Thậm chí cả sương mù cũng bắt đầu loãng ra, để lộ dải sơn trắng giữa tâm đường. Chiếc xe tải phía trước chạy ngoằn ngoèo, từ bên này sang bên kia trên toàn bộ nửa bề mặt rộng của con đường, cố tìm cách chặn không cho những người đuổi theo vượt lên. Đúng là tiết mục của dân Tôkiô. Muracami chúi người về phía trước chờ thời điểm thuận lợi. Cần phải biết chắc rằng phía trước không có xe ngược chiều, và lúc đó có thể vòng sang phía bên kia tâm đường, phóng vượt qua chiếc ô tô vận tải. Nhưng để nhận ra những chiếc xe ngược chiều trong bóng tối dày đặc này đâu phải dễ, nhất là khi phía trước lại còn cả một cỗ xe khổng lồ hết lượn sang phải lại sang trái để tìm cách chặn đường. -  Hừ, cứ đợi đấy, - Muracami khẽ lẩm bẩm và đột ngột đánh quặt tay lái sang phải. Ximauti bị hất đổ nghiêng sang một bên, dải sơn trắng giữa lòng đường như treo trong không khí ở phía trên con đường. Tiếng bánh xe cọ lên mặt nhựa kêu rít, mùi cao su cháy xộc vào mũi. Khi Ximauti lấy lại được thăng bằng, phía bên phải anh hiện lên một bức tường trắng bạc. Chiếc xe của họ đang chạy song song với cỗ xe vận tải. Ximauti có cảm giác như đã qua rất nhiều thời gian, nhưng thực ra tất cả chỉ mới có năm - sáu giây đồng hồ. Chiếc xe tuần tra dồn hết sức lao như tên bắn về phía trước. Bức tường màu trắng bạc nằm lại sau và bắt đầu lùi nhanh ra xa. Sau khi vượt được cỗ xe vận tải, chiếc xe cảnh sát quay trở về bên trái của đường, chạy thêm một quãng rồi bắt đầu phanh lại. Ximauti nhảy vụt xuống đường - chiếc xe ô tô vận tải đang lao tới như một con voi điên có thể đè nát xe của họ như đè một vỏ trứng mỏng manh. Muracami cũng nhảy theo ra. Đường của chiếc xe tải đã bị chặn. Và nó, dường như đành chịu thuần phục, dần dần giảm tốc độ và dừng lại, thanh chắn trước thiếu tý nữa thì đâm vào chiếc xe cảnh sát. Ximauti chạy bổ tới bên cabin chiếc xe tải. Anh đã nổi điên đến mức sẵn sàng bắn chết lái xe. Cần phải biết điều khi nói chuyện với cảnh sát chứ ! Viên cảnh sát trưởng leo lên bậc lên xuống và nhìn vào cabin. Sau tay lái là một thanh niên còn trẻ. Tóc cắt ngắn - theo mốt mới bây giờ, trông hơi là lạ. Qua tấm cửa kính của cabin, Ximauti bắt gặp ánh mắt nhìn sắc nhọn và thù địch. Người ngồi bên cạnh lái xe có vẻ già hơn nhiều. Tóc cũng cắt ngắn, cái nhìn cũng như thế - lạnh lùng và sắc nhọn. Muracami leo lên đứng bên cạnh Ximauti, lấy tay gõ vào kính. Chiếc cửa sổ nhỏ hé mở ra. -  Bằng lái của anh đâu ? - Ximauti ra lệnh. Lái xe lấy bằng lái từ trong túi ra và đưa cho Ximauti, đôi mắt cảnh giác theo dõi từng cử chỉ của hai viên cảnh sát. “Chẳng lẽ bọn này giấu tên giết người lái xe tắcxi hay sao ?” - Ximauti vừa xem xét kĩ lưỡng bằng lái vừa căng thẳng nghĩ. Tên: Côiti Tatzima, thành phố Murôman, phố Vanixi, số... Anh nhìn ảnh, rồi nhìn lái xe. Vừa giống vừa không giống... Nỗi nghi ngờ càng tăng thêm. Cần phải xem xét xe kĩ lưỡng. -  Các anh chở gì ? - Ximauti hỏi. -  Máy móc... về nhà máy, ở Tôkiô, - lái xe ấp úng đáp. -  Để rồi xem !  - Không trả lại bằng, Ximauti ra hiệu bảo người lái ra khỏi cabin. Mặt lái xe lập tức sầm lại. Anh ta quay sang phía người nhiều tuổi hơn ngồi bên cạnh - từ lúc đầu tới giờ người này chưa hề thốt lên một lời nào - và nhận được một tín hiệu gì đó bằng mắt. Lái xe ngoan ngoãn mở cửa cabin. Hai viên cảnh sát nhảy xuống đường. Lái xe cũng bước xuống, để cánh cửa cabin hé mở. Và lúc đó Ximauti, đang chuẩn bị nhổm vào thùng xe, chợt trông thấy một vật mà anh không thể nào ngờ tới - đó là nòng súng đen ngòm đang chĩa thẳng vào anh từ phía trong cánh cửa không đóng kín. Ngay trong khoảnh khắc ấy, lái xe xô mạnh hai viên cảnh sát rồi nhảy lên cabin. Bị bất ngờ, Ximauti và Muracami bắn ra giữa đường. Theo bản năng, Ximauti liếc nhìn về phía cabin. Nòng súng trường !  Ximauti không thể nào hiểu được cái người già hơn kia đang làm gì. Một ánh lửa lóe lên đầu nòng súng. Một tiếng kêu ngắn đập mạnh vào mang tai. Thân người Muracami nhảy dựng lên, ngã vật xuống đất. Mấy giọt chất lỏng ấm dính bắn vào mặt Ximauti. Chúng đã bắn chết Muracami ! Chỉ vừa mới nhận thức ra điều đó, Ximauti đã trông thấy nòng súng trường quay sang chĩa vào anh. Ánh thép lạnh lấp lánh. Và bộ mặt lầm lì của người đang ngắm bắn. Ximauti vụt nhảy tránh sang một bên và bỏ chạy, người cúi rạp xuống sát đất. Ở một nơi nào đó, dường như xa lắm, vang lên tiếng nổ khô khốc, giống như tiếng roi quất mạnh. Và có một cái gì đó đánh vào thắt lưng anh. Ximauti cảm thấy hơi lạnh của thần chết làm cứng đờ cả người mình. Anh không thể bước đi thêm bước nào nữa. Một cơn đau co giật lan truyền khắp thân thể. Quằn quại vì đau đớn khủng khiếp, anh đổ vật xuống mặt đất. Tất cả nhòa đi trước mắt. Thấp thoáng bóng tên lái xe nhảy vội vào cabin. Tiếng động cơ rú lên. Chiếc ô tô vận tải rời chỗ. Cần phải báo động !  Ý nghĩ đó khoan sâu vào ý thức đã bắt đầu tắt của viên cảnh sát. Nhưng thân thể anh không còn tuân lệnh nữa. Phải hết sức vất vả, đau đớn, anh mới trở mình nằm úp lại được. Ximauti đưa mắt nhìn theo cỗ xe đang chìm dần trong màn sương mù, cố đoán ra hướng đi của nó. Chiếc ô tô vận tải vòng qua xe kiểm tra của cảnh sát, đi chệch sang phía phải của vạch tâm đường. Vừa lúc đó, một chiếc xe tải khác đi ngược chiều phóng tới. Một ngọn lửa khổng lồ lao vụt lên trời, xé tan màn sương dày đặc. Khối hàng chở trên chiếc ô tô vận tải thứ nhất đã bốc nổ. - Cháy !  - Ximauti thì thào, anh không còn nghe thấy những tiếng nổ nữa. "Chúng mang gì thế nhỉ ?” - Ximauti vật vã cố sức hiểu, nhưng một màn đen đã trùm lên đôi mắt anh. Bằng sự cố gắng cuối cùng của ý chí, Ximauti ngẩng đầu lên nhìn. Ý thức của anh đang run rẩy trên điểm cuối cùng của sự sống. Và anh bỗng cảm thấy như có một trận mưa vũ khí đang rơi xuống quãng đường nhựa - đó là những thứ chở trong thùng xe bị bắn lên không: súng cacbin, súng máy M.1, súng phóng lựu M79. - Một sự điên rồ thế nào ấy !  - Ximauti rên rỉ. Sương mù trên quốc lô số Bốn lại bắt đầu trở nên dày đặc.  ... Mời các bạn đón đọc Tháng Tám Không Vua của tác giả Kiutzo Kobayasi.
Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn - Thomas A. Bass
Cuốn này đã được Nhã Nam xuất bản với tựa đề Điệp Viên Z.21 Kẻ Thù Tuyệt Vời Của Nước Mỹ “Đây là câu chuyện xuất sắc về một con người và thời đại của ông. Nó càng củng cố thêm cho cảm giác của tôi khi gặp ông trong giai đoạn cuối đời của ông rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong những người ấn tượng nhất mà tôi từng gặp. Ông là con người của trí tuệ, lòng can đảm và tình yêu đất nước nồng nàn. Ông cũng là - mặc dù có vẻ thật trớ trêu khi nói ra điều này trong hoàn cảnh hiện nay - một con người của sự chính trực phi thường. Ông yêu chúng ta ở khía cạnh tốt đẹp nhất trong khi lại đối đầu với chúng ta ở khía cạnh tồi tệ nhất.” - Daniel Ellsberg, tác giả của Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers (Những bí mật: hồi ức về Việt Nam và tài liệu mật của Lầu Năm Góc) “Thomas Bass kể một câu chuyện tuyệt vời về mưu mô[1], nghề gián điệp và tình bạn. Cuốn sách của ông được viết như thể nó đến từ những bến bờ xa xôi nhất của sự hư cấu, và hẳn tôi sẽ không bao giờ tin nổi lấy một từ nào nếu như chính tôi không gặp rất nhiều nhân vật trong đó và không biết câu chuyện để tin rằng nó có thực và không biết câu chuyện đó có thực hay không.” - H. D. S. Greenway, biên tập viên, The Boston Globe, và là phóng viên chiến tranh Việt Nam cho tạp chí Time và báo Washington Post “Mỗi cựu binh, mỗi học giả, mỗi sinh viên, bất kỳ ai từng sống qua cuộc chiến tranh Việt Nam đều được khuyên đọc cuốn sách này và suy ngẫm về thông điệp của nó. Trong cuốn tiểu sử rất sâu sắc và kích thích này về một trong những điệp viên thành công nhất trong lịch sử, Thomas Bass thách thức một vài giả định cơ bản nhất của chúng ta về những gì đã thực sự xảy ra ở Việt Nam và về ý nghĩa của nó đối với chúng ta trong hiện tại.” - John Laurence, phóng viên chiến tranh Việt Nam cho CBS News và là tác giả cuốn The Cat from Huế: A Vietnam War Story (Con mèo Huế: một câu chuyện chiến tranh Việt Nam). * Gã cảm thấy mình đang vĩnh viễn quay lưng lại với sự thanh thản. Mắt mở to, ý thức rõ hậu quả, gã đi vào lãnh địa của sự dối trá không mang theo tấm hộ chiếu cho ngày quay trở lại. GRAHAM GREENE Cốt lõi của vấn đề (The Heart of Matter) *** “Nước Mỹ chỉ giỏi tiến hành những cuộc thập tự chinh,” tướng David Petraeus viết trong luận án tiến sĩ của mình về đề tài “Quân đội Mỹ và những bài học từ chiến tranh Việt Nam”. Được đưa ra bảo vệ tại Đại học Princeton năm 1987, luận án của Petraeus công kích những gì đã trở thành quan niệm được giới nhà binh chấp nhận một cách rộng rãi về những bài học từ Việt Nam. Ông coi đây là một “lối suy nghĩ kiểu được ăn cả ngã về không”, mà chung quy là xuất phát từ học thuyết cho rằng nước Mỹ chỉ nên tiến hành những cuộc chiến tranh thông thường với sự ủng hộ áp đảo của một công chúng mang tinh thần thập tự chinh. Petraeus bác bỏ quan điểm “làm ăn như lối suy nghĩ bình thường” này. Thay vào đó, ông lập luận rằng nước Mỹ có nhiều khả năng là thấy mình sa vào những cuộc chiến tranh phi chính quy khác, đôi khi phải chống trả hai, ba, hay nhiều trận chiến kiểu Việt Nam. Sau này Petraeus tiếp tục biên soạn cẩm nang tác chiến cho lục quân về chống nổi dậy được ban hành ấn hành năm 2006. Năm sau, được trao cơ hội tiến hành công tác thực địa về chuyên ngành học thuật của mình, ông được bổ nhiệm vào vị trí tư lệnh lực lượng Mỹ tại Iraq. Chiến tranh không chỉ là những cuộc thập tự chinh; chúng còn là những cuộc dan díu của con tim. Chiến tranh được phát động vì tình yêu, điều này thì chúng ta đã biết từ thời nàng Helen của thành Troy[2] khiến cho cả nghìn chiến thuyền chở đầy những chàng trai mê mẩn sẵn sàng chết vì nàng xung trận. Nhà văn hài hước người Mỹ P. J. O’Rourke đã nhận ra chân lý này trong một bài tiểu luận ông viết về Việt Nam năm 1992. “Ở Huế, cứ chiều đến, những nữ sinh trung học trở về nhà sau khi tan học, từng đoàn nữ sinh đạp xe trên con phố, tất cả đều tha thướt trong những tà áo dài trắng tinh, một kiểu trang phục gồm áo dài may ôm sát người mặc trùm lên quần rộng. Không phải vô cớ mà những nhà thờ Công giáo còn lại gióng lên hồi chuông cầu kinh Đức Bà vào thời điểm này trong ngày. Tôi không hiểu ở một nơi mà cái đẹp đã trở nên quá đỗi bình dị như thế có thể thay đổi được bản chất của một xã hội hay không.” Sau khi trầm trồ trước “tỷ lệ khổng lồ những mỹ nhân ngư và giai nhân tuyệt sắc” ở cái đất nước Địa đàng này, O’Rourke viết: “Giờ thì tôi hiểu tại sao chúng ta lại can dự vào Việt Nam. Chúng ta đã phải lòng… [Chúng ta] đã ngây ngất bởi nơi này. Tất cả mọi người, từ những cố vấn đầu tiên mà Ike3 gửi tới đây năm 1955 cho đến Henry Kissinger ở bàn đàm phán hòa bình Paris, thảy đều mê mệt đến phát cuồng vì Việt Nam. Nó làm tan vỡ trái tim họ. Họ cứ tiếp tục đến thăm và gửi hoa mãi không thôi. Họ không thể tin nổi rằng đây là lần chia tay cuối cùng.” Trước khi bắt đầu câu chuyện của mình về Việt Nam và nước Mỹ (với đôi nét điểm qua về nước Pháp và những khu vực khác trên thế giới), tôi xin phép được nói rằng cuốn sách này nói về chiến tranh và tình yêu, về những bài học Việt Nam, tác chiến chống nổi dậy và những cuộc xung đột khác bị gọi là phi chính quy. Nó cũng nói về những điệp viên và phóng viên cùng sự lẫn lộn giữa hai nghề này. Một số người sẽ cho rằng các phóng viên góp phần làm cuộc chiến (của chúng ta) tại Việt Nam thất bại. Trong trường hợp này, tôi xin khẳng định rằng có một phóng viên đã góp phần mang đến chiến thắng trong cuộc chiến - cho phía người Việt. Cuốn sách phiền muộn này nói về thông tin và hỏa mù cùng sự mơ hồ không thể tránh khỏi trong việc xác định ranh giới nơi hai yếu tố này hòa nhập vào nhau. Cuốn sách không đưa ra thêm chân lý nào có thể được đúc rút thành những bài học mới về chiến tranh Việt Nam. Nó nói về cuộc sống đơn giản của một con người phức tạp. Sự thật nằm trong các chi tiết. Chúng ta hãy bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn của tác giả Thomas A. Bass.
Vượn Cáo - Benjamin Black
John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mullholland, hay còn gọi là Bill lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mullholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ về quãng đời trước, nhưng nói chung John Glass hài lòng với hiện tại.   Để hoàn thành cuốn tiểu sử, John Glass thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là “Vượn Cáo” thu thập thông tin về người bố vợ. Từ lúc ấy cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, “Vượn Cáo” bị sát hại, ông quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Người cung cấp thông tin là một chàng trai trẻ cao lêu đêu và gầy đét. Đầu hắn quá nhỏ so với khung xương, còn cục yết hầu to bằng trái banh gôn. Mắt kính hắn đeo không có gọng viền quanh và gần như vô hình, chỉ làm tăng thêm độ bóng cho đôi mắt đen, tròn, to tướng và hơi bị trố. Một túm râu màu vàng ngắn ngủn, cứng quèo mọc thẳng từ cằm hắn. Cặp lông mày cong, rất xa mắt lấm tấm sẹo mụn trứng cá cũ. Hắn có đôi bàn tay mảnh mai, trắng trẻo, các ngón dài búp măng hệt như tay con gái, hay ít nhất là giống những gì người ta ca ngợi về bàn tay của phụ nữ khuê các. Dù đang ngồi, đũng quần jeans thụng của hắn vẫn thõng xuống ngang đùi. Ngực áo phông màu cháo lòng không của ai ngoài hắn mang dòng chữ: “Đời bi đát tiễn ta về cõi âm”. Thoạt nhìn, hắn mới chỉ mười bảy nhưng John Glass đoán tên này chí ít cũng phải gần ba mươi, cổ dài, đầu nhỏ và cặp mắt tròn đen láy khiến hắn cực kỳ giống một loài gặm nhấm quý hiếm mà nhất thời Glass chưa nhớ ra là con gì. Tên hắn là Dylan Riley. Glass thầm mỉa mai: cái tên Dylan nghe quý phái gớm. Hắn nói: - Vậy ra ông là con rể của Bill Lớn? Hắn ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế xoay bọc da đen trong văn phòng mà bố vợ Glass cho mượn nằm ở mé phía bắc của tòa nhà Mulholland Tower. Sau lưng hắn, bên kia bức tường kính trong suốt là một Manhattan ẩm ướt, ảm đạm dưới màn mưa phùn tháng tư. - Sao? Cậu thấy ngộ nghĩnh lắm ư? Glass vặn vẹo. Ông đặc biệt ghét loại người thích mặc áo phông in đủ thứ triết lý lên đó. Dylan Riley cười khẩy: - Ngộ nghĩnh gì đâu. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi thấy ông không giống người nhà Bill Lớn chút nào. Glass vờ như không nghe thấy gì. Hơi thở của ông bắt đầu nặng nề, thậm chí phát ra tiếng phì phò. Đó luôn là dấu hiệu cảnh báo sự căng thẳng đang gia tăng. Glass nhấn mạnh như muốn nhắc Riley phải lễ phép hơn: - Ngài Mulholland muốn tôi thu thập mọi dữ liệu và dùng chúng một cách đúng đắn nhất. Riley cười toe toét, gật lia lịa, xoay xoay trên ghế vẻ khoái chí: - Phải, nhất định dữ liệu phải đầy đủ rồi. Glass lạnh lùng nhắc lại: - Điều tiên quyết là phải đủ thông tin chính xác. Chính vì thế tôi mới thuê cậu. Glass đến bên chiếc bàn làm việc vuông vức bằng kim loại cỡ lớn kê trong góc phòng và thận trọng ngồi xuống ghế phía sau nó. Tư thế ngồi luôn giúp Glass bớt bấn loạn. Phòng ông ở tầng ba mươi chín. Trông đợi ông làm ăn được gì ở độ cao như vậy quả là ngớ ngẩn. Hôm đầu tiên vào phòng này, Glass sợ sệt nhích từng chút đến sát tường kính ngó xuống. Dưới chân ông chừng hai tầng nhà, những cụm mây trắng xốp trông như tảng băng lững thững trôi ngang qua, che khuất thành phố phía dưới. Giờ ông bíu hai tay lên mặt bàn trước mặt như người sắp chết đuối cố bám mép chiếc bè nan. Glass thèm thuốc không thể tả. Dylan Riley xoay chiếc ghế quanh bàn. Chắc chắn hắn biết ông chóng mặt, buồn nôn cỡ nào khi ngồi trong cái lồng kính làm bằng thép và thủy tinh ngất ngưởng giữa lưng chừng trời như thế này. Bàn tay Glass vuốt thành hình vòng cung trên mặt bàn, như thể muốn gạt vật gì đó vô hình xuống đất. Động tác ấy khiến ông nhớ đến cái cảnh Tổng thống Richard Nixon khổ sở, toát mồ hôi hột trong một bản tin chiều phát mấy năm trước, cố phân bua rằng mình không phải kẻ dối trá. Trong thời kỳ dân chúng hoang mang vì chứng kiến quá nhiều cáo buộc lẫn nhau ấy, ánh sáng ở trường quay quá gắt khiến ai trông cũng giống nhân vật phản diện trong bộ phim dùng hệ màu Eastmancolor giai đoạn đầu. ... Mời các bạn đón đọc Vượn Cáo của tác giả Benjamin Black.
Truyện Ngắn Trinh Thám
Tập Truyện Ngắn Trinh Thám này gồm có: Kẻ đội lốt Hai chàng thợ săn và một cô gái Chiếc hộp bí mật Không có cánh bay Bà góa Ephese Nhân chứng có ba bộ mặt Cây cầu bằng thủy tinh Một vạn đô-la Được ăn cả, ngã về không Tiếng còi trong sương đêm Không thương tiếc Hai cái chết *** Bốn giờ sáng, hai viên cảnh sát mặc đồng phục áp giải hắn vào văn phòng của nhà giam trung tâm. Ở đây, người ta kiểm tra người hắn, tịch thu mọi đồ dùng cá nhân của hắn, trừ gói thuốc lá, chiếc khăn tay và đưa cho hắn một tờ giấy biên nhận. Sau đó người ta lấy dấu vân tay của hắn và dán vào khẩu súng lục mà người ta tìm thấy trong người hắn một mẩu giấy có chữ “vật chứng”. Viên đội trưởng hỏi tên họ và hắn trả lời mình là George Carter. Với những câu hỏi tiếp theo như tiền án, tiền sự... thì hắn trả lời là không. Cảnh sát còn hỏi trên một chục câu hỏi khác rồi ghi vào sổ nói rõ hắn bị bắt về tội ăn cướp trong tay có vũ khí. Cuối cùng người ta giam hắn trong một xà lim chưa có người. Khi còn lại một mình, việc làm đầu tiên của hắn là châm một điếu thuốc lá rồi nằm dài trên một trong bốn chiếc nệm. Rủi ro làm sao! Hắn cay đắng nghĩ. Số phận mới đen đủi làm sao! Hai tiếng đồng hồ trước đây, theo một kế hoạch đã lập ra một cách tỉ mỉ trong một tuần lễ liền, hắn đã đột nhập vào một quán rượu ở giữa thành phố trước giờ đóng cửa để ăn cướp. Hắn đợi cho chủ quán đóng cửa hàng trong khi hắn vẫn ở trong nơi ẩn nấp, sau đó hắn nhốt ông chủ khốn khổ vào trong toa-lét còn hắn thì đi lục lọi trong quán. Kết quả thật là bất ngờ: hai hoặc ba ngàn đô-la trong két sắt ở văn phòng. Trước khi tẩu thoát, hắn còn nhặt thêm bốn chai úych-ky hảo hạng thêm vào món chiến lợi phẩm ấy. Cho đến lúc ấy, mọi việc diễn ra êm đẹp. Hắn đã nghĩ đến những cuộc đi nghỉ thú vị mà hắn có thể thực hiện được bằng cách tính toán lưng vốn của mình: khoảng trên một ngàn năm trăm đô-la để dành đặt ở một nơi an toàn. Tổng cộng là năm ngàn đô-la đủ để nghỉ ở Mê-hi-cô ba hoặc bốn tháng, nếu hắn không hoang phí. Nhưng hắn sẽ không làm như vậy vì hắn không phải là kẻ không biết sử dụng tiền bạc. Một căn hộ khiêm tốn ở thành phố, một tủ quần áo hiện đại và về mặt giải trí, buổi chiều hắn sẽ đi dạo, nói chuyện về các cuộc chơi bóng pơ-lốt, các cuộc đua chó và đi uống một cốc vào buổi tối; dự những trận đầu bò tót vào ngày Chủ nhật ở Acapulco; thỉnh thoảng cho các cô thu tiền hoặc các cô phục vụ xinh đẹp một khoản tiền boa hào phóng... Đó là tất cả. Những nhu cầu của hắn rất đơn giản, không tốn kém, giống như những người làm công có thu nhập ở mức trung bình trong mỗi kỳ đi nghỉ. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hắn và người những ấy, vì người ăn lương phải tiết kiệm cả một năm trời để đi nghỉ, còn hắn, hắn chỉ cần ba hoặc bốn phi vụ trong một năm, mỗi phi vụ chỉ cần bốn năm phút đồng hồ thôi. Và hai ba năm nay mọi việc đều diễn ra một cách trôi chảy. Nhưng bây giờ tất cả đã kết thúc - hắn nghĩ. Chuyện đó diễn ra một cách khá bất ngờ: khi hắn ra khỏi kho rượu thì va phải người em trai chủ quán đánh xe đến để đón anh về. Nếu cuộc đụng độ ấy không quá đột ngột, nếu trong một hoàn cảnh khác, hắn chỉ cần hạ gục người đàn ông ấy rồi lủi cho nhanh. Nhưng tình hình lại không phải như vậy vì người em chủ quán lại là một cảnh sát trong đội chống nạn mại dâm, tuy không phải đang trong giờ làm việc nhưng anh ta vẫn còn đeo súng bên người. Rất vô ích mà nói rằng viên cảnh sát không nghi ngờ gì khi thấy hắn với hai chiếc túi căng phồng và bốn chai rượu trên tay tuy đèn lúc này chỉ lờ mờ sáng. Anh ta chỉ giơ súng lên và thế là George bị tóm gọn. Đúng hai tiếng đồng hồ sau đó, George bị kết tội ăn cướp có vũ khí và bị tống giam. Việc khai tên giả của hắn cũng sẽ chẳng kết quả gì vì sau đây bốn mươi tám tiếng nữa, với những dấu vân tay, FBI sẽ biết rõ cái tên George Carter mà hắn đã khai là giả mạo mà chính George Maxwell mới là tên thật của hắn. Mà George Maxwell đã bị ngồi tù hai lần vì tội trộm cướp: lần đầu, hai năm vì tội ăn cắp, thời ấy hắn mới vào nghề, và lần thứ hai, năm năm vì tội ăn cướp có vũ khí, việc này xảy ra cách đây ba năm. Như vậy hắn được tự do mới có ba mươi sáu tháng. Lần này, với những tiền án ấy, chắc chắn án hai mươi năm tù sẽ treo trước mũi hắn. Năm nay ba mươi nhăm tuổi... Hai mươi năm ngồi bóc lịch, thế là kết thúc cuộc đời... Thật là đen đủi - hắn lại nghĩ với tiếng thở dài não nề khi thấy giấc mộng đi nghỉ ở Mê-hi-cô đã tan thành mây khói. Hắn ném điếu thuốc đi để mặc nó tiếp tục cháy. Sau đó, quay mặt vào tường, nghĩ đến tương lai ảm đạm của mình. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trinh Thám.