Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Đứa Con Phố Arbat - Anatoli Rybakov

Anatoly Naumovich Rybakov (Anatoli Rybakov) sinh ngày 14.1.1911 trong một gia đình gốc Do Thái ở Chernygov, từ năm 1919 chuyển về Moskva sống tại phố cổ Arbat. Tốt nghiệp phổ thông, nhà văn tương lai phải làm nhiều nghề kiếm sống: công nhân xưởng hóa chất, bốc vác, lái xe… nên hai mươi chín tuổi mới bước chân vào trường đại học Giao thông vận tải. Thế nhưng, học được ba năm, ngày 5 -11.1933, A. Rybakov bị bắt và lĩnh án tù giam ba năm vì tội “tuyên truyền phản cách mạng”. Mãn hạn tù, không được phép cư trú trong thành phố, anh lang thang hầu khắp nước Nga, nhận làm tất cả các công việc kiếm sống miễn là không phải khai báo, cho đến năm 1938 mới được vào biên chế chính thức, làm kỹ sư trưởng phòng quản lý vận tải đường bộ khu vực Riazan. Năm 1941, chiến tranh bùng nổ, A. Rybakov vào phục vụ trong các đơn vị vận tải quân đội, tham gia chiến đấu ở hầu khắp các mặt trận từ Moskva đến Berlin, năm 1946 làm đến chức trưởng ban cơ giới của quân đoàn, mang hàm kỹ sư thiếu tá. Do những thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống quân phát xít, Rybakov được sửa lý lịch, thành “không có tiền sự, tiền án” và đến năm 1960 thì được khôi phục danh dự hoàn toàn. Một trường đời như thế mà để ngoài văn chương thì thậm vô lý - và năm 1947, Rybakov bắt đầu hướng vào hoạt động văn học, mở đầu là thiên truyện phiêu lưu li kỳ dành cho tuổi thiếu niên Thanh đoản kiếm (1948, được đưa lên màn ảnh hai lần, vào năm 1954, 1973) rồi hai phần tiếp theo: Con chim đồng (1956, thành phim năm 1974) và Tiếng súng (1975, trước đó, năm 1974 đã được dựng thành phim Mùa hè cuối cùng của tuổi thơ). Thành công của hai cuốn sách đầu tay giúp nhà văn tự tin đi tiếp mạch truyện viết cho thiếu niên: từ Những cuộc phiêu lưu của Krosh (1960, thành phim năm 1961) ông viết hai cuốn tiếp theo Những kỳ nghỉ của Krosh (1966, thành phim năm 1979), Người lính vô danh (1970, hai lần lên màn ảnh - Phút mặc niệm, 1971 và Người lính vô danh, 1984).  Ở thể loại tiểu thuyết dành cho người lớn, Rybakov thử sức bằng cuốn Những người cầm lái (1950, về những chiến sĩ lái xe vận tải, cựu đồng nghiệp của mình), và năm sau được giải thưởng Stalin hạng nhì. Khi Stalin thấy trong danh sách những nhà văn được đề nghị tặng giải thưởng mang tên mình có Rybakov, ông bèn bảo A. Fadeev, người đứng đầu Hội Nhà văn Liên Xô hồi ấy: “Thế đồng chí có biết người này đã bị khai trừ đảng và ba lần bị tòa xử về tội phản cách mạng?” Và Rybakov đã giải trình được: ông chưa hề được kết nạp nên không có chuyện khai trừ, còn án tù thì đã được hủy từ khi ông đang ở chiến trường. Tiếp đó, Rybakov thành công lớn với Ekaterina Voronina (1955, về đường đời một cô gái mồ côi trở thành nhà quản lý giao thông đường sông với những thăng trầm theo thời cuộc, được dựng thành phim năm 1957) rồi cho ra đời Mùa hè ở Sosnyaky (1964, về nhân tình thế thái tại công trường xây dựng một khu liên hợp hóa chất bên bờ hồ Baikal). Năm 1978, cuốn Cát nặng ra đời. Tiểu thuyết này kể về chặng đời 1910 - 1950 của một gia đình người Do Thái tại một địa phương có nhiều dân tộc chung sống ở miền bắc Ukraina, về mối tình sâu nặng bất chấp mọi rào cản qua hàng chục năm, về thảm kịch lò thiêu người của bọn phát xít làm thiệt mạng hàng triệu người dân tộc thiểu số thuộc những quốc gia khác và xóa sổ gần 1/3 tổng số người Do Thái trên toàn cầu, đồng thời kể lại gương chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ du kích chống phát xít. Tác phẩm đỉnh cao này kết hợp được cả vẻ đẹp văn chương, cả chiều sâu triết học, vừa có sự phân tích lý giải những sự kiện lịch sử, vừa có tính biểu tượng cao: hình tượng nữ nhân vật chính trong mối tình kể trên, và sau đó, ở phần cuối tiểu thuyết, là người mẹ, người vợ của Rakhile đầy tính ẩn dụ về lòng căm thù của dân Do Thái đối với phát xít Đức. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập năm 2008. Chịu số phận lận đận hơn cả là tiểu thuyết Những đứa con của phố Arbat: được tác giả viết xong từ những năm 1960, thời Khrutshov, nhưng đến năm 1987 thời Gorbachov phát động cuộc cải tổ mới có thể đến với độc giả và năm 2005 thành phim truyền hình nhiều tập. Trong lứa thiếu niên ở phố Arbat đầu thế kỷ XX khá nhiều người tài, trong đó có nhà thơ - nhạc sĩ Bulat Okudjava và nhà văn Anatoli Rybakov cùng sống ở dãy nhà đánh số lẻ. Cả hai nhà văn bậc thầy này đều đã ra mặt trận chiến đấu: Okudjava - con trai của một tù nhân - tình nguyện nhập ngũ khi mới mười bảy tuổi, còn Rybakov – cựu tù nhân về tội “tuyên truyền phản cách mạng” – sung vào đơn vị vận tải quân sự và được phục hồi danh dự khi Okudjava đã có năm năm tuổi Đảng. Những đứa con của phố Arbat là tác phẩm sớm nhất viết về số phận lứa thanh niên mới lớn vào những năm 1930 và được dịch giả Lê Khánh Trường nhanh chóng chuyển sang tiếng Việt. Cốt truyện tự nhiên dựa trên những biến cố có thật trong đời tác giả, với nhãn quan đúng đắn của nhà văn, nhìn nhận chuyện quá khứ tuy vương nỗi buồn thương, nhưng bao trùm là một thái độ khoan dung, không oán thán, Những đứa con của phố Arbat được coi như một “quả bom tấn trong văn học”, mang lại vinh quang thực thụ cho nhà văn. Được đà, tác giả sau đó viết tiếp cả một chùm ba tiểu thuyết nữa: 1935 và những năm khác (1989), Kinh hoàng (1990), Bụi và tro (1994).  Cũng như đối với nhiều tác phẩm trước đó, Rybakov thường đi tiếp mạch của cuốn truyện thành công để làm thành những cuốn sách trọn bộ. Đặc biệt, giữa bộ truyện này với bộ truyện kia vẫn có mối liên quan gắn bó: nhân vật chính trong Những đứa con của phố Arbat là Sasha Pankratov từng xuất hiện thấp thoáng trong cuốn Tiếng súng. Người đọc có thể thấy nét đặc sắc này khi có trong tay bộ Tuyển tập tác phẩm Anatoli Rybakov gồm bảy cuốn, xuất bản năm 1995.  Anatoli Rybakov mất ngày 23.12.1998 tại New York, được đưa về an táng tại Moskva. Những đứa con phố Arbat NXB văn học 198x Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Phố Arbat của tác giả Anatoli Rybakov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Người Lạ Trong Nhà - Leila Slimani
Tác phẩm "Người lạ trong nhà" đề cập về những mối quan hệ trong gia đình, đặc biệt là đời sống vợ chồng thị dân trẻ với nhiều thay đổi trong xã hội hiện đại. Nhu cầu được sống cho bản thân luôn là nỗi trăn trở của những người phụ nữ đã lập gia đình. Ngoài công việc và các mối quan hệ xã hội là những lo toan vun vén cho gia đình chồng con. Đó là những điều khiến bất kỳ người vợ, người mẹ nào cũng từng một lần cần đến bàn tay của "người lạ" để giúp đỡ công việc gia đình - một người chẳng hề quen thân nhưng lại phải tin tưởng.  Hiểu được điều đó, tác giả Leila Slimani với nỗi đồng cảm chân thành và ngòi bút tinh tế đậm chất phụ nữ đã cho ra mắt tác phẩm Người lạ trong nhà. Cuốn sách phản ánh hết sức sâu sắc và tinh tế cuộc sống hiện đại của những cặp vợ chồng trẻ thị dân, không chỉ ở Pháp mà còn rất gần gũi với bối cảnh Việt Nam hiện nay. Lối kể chuyện thông minh và am hiểu xã hội đã giúp Người lạ trong nhà trở thành một trong những câu chuyện tiêu biểu và xứng đáng giành giải Goncourt - một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất nước Pháp. *** Đứa con trai bé hơn đã chết. Chỉ sau vài giây. Bác sĩ khẳng định nó không bị đau đớn gì. Người ta đặt nó vào trong cái túi vải màu xám rồi kéo khóa che kín thân hình mềm nhũn bập bềnh giữa đống đồ chơi. Còn đứa bé gái, nó vẫn sống khi đội cứu hộ tới nơi. Nó đã chiến đấu như một con thú hoang. Người ta tìm thấy nhiều dấu vết vật lộn, những mẩu da bên dưới móng tay mềm xèo của nó. Trong xe cứu thương chở nó đến bệnh viện, con bé bứt rứt, bị những cơn co giật giày vò. Hai mắt lồi ra, như thể nó đang cố hớp lấy không khí, cổ họng nó đầy máu. Phổi nó bị đâm thủng và đầu nó bị va rất mạnh vào chiếc tủ màu xanh. Người ta đã chụp ảnh hiện trường. Cảnh sát đã lấy dấu vân tay và đo diện tích phòng tắm cũng như phòng trẻ. Trên sàn nhà, tấm thảm in hình công chúa đẫm máu. Chiếc bàn thay tã bị lật nghiêng. Đồ chơi được bỏ vào những chiếc túi nhựa trong suốt, được niêm phong rồi mang đi. Kể cả chiếc tủ màu xanh cũng sẽ được dùng trong phiên tòa. Người mẹ vẫn đang sốc nặng. Nhân viên cứu hộ nói vậy, cảnh sát nhắc lại như thế và báo chí đưa tin tương tự. Khi bước vào căn phòng nơi hai đứa con nằm bất động, cô đã hét lên một tiếng, tiếng hét như dội về từ âm phủ, tiếng hú của một con sói cái. Mấy bức tường rung lên. Màn đêm như đổ ập xuống cái ngày tháng Năm đó. Cô nôn mửa, cảnh sát phát hiện ra cô trong bộ quần áo bẩn thỉu, ngồi thu lu trong phòng ngủ, nấc cụt như một người điên. Cô la hét tưởng đến rách phổi. Nhân viên cứu thương kín đáo gật đầu ra hiệu, đỡ cô dậy, mặc cho cô chống cự, mặc cho cô giãy đạp. Họ từ từ kéo cô lên và cô sinh viên y khoa nội trú thuộc SAMU[1] đã tiêm cho cô một mũi an thần. Cô gái đang thực tập tháng đầu tiên. ... Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trong Nhà của tác giả Leila Slimani.
Công Viên Cứu Hộ Loài Người - Y Ban
Tôi gặp Y Ban vào một ngày không mưa, không nắng. Trái hẳn với sự đồn thổi và cái vẻ táo tợn bên ngoài là sự dịu dàng, tốt bụng của một người đàn bà. Ở cái đất nước quỷ quái này muốn tìm một nơi tĩnh lặng hòng cho tâm hồn thư thái một chút cũng khó. Chúng tôi chẳng biết đi đâu đành rủ nhau sang đền Đô. Muốn tiêu cho hết thời giờ cũng không phải dễ. Tôi định đưa cô bạn dịch giả mới từ Nga về Nguyễn Thị Kim Hiền và Y Ban sang thăm nhà lưu niệm Văn học Nga bên Phù Lưu mà không thành. Nói không thành cũng không đúng. Chỉ là không làm cách nào liên lạc được với dịch giả Thuý Toàn. Hơn chục cuộc gọi đều rơi vào hư vô. May mà cuối cùng nhờ người hàng xóm tốt bụng mở cửa cho chúng tôi vào xem. Chắc ông thấy chúng tôi đứng bần thần khá lâu bên tấm biển đồng nên mủi lòng. Thật ra tôi đã sáng kiến đặt máy ảnh chế độ tự động, chụp cả bọn bên tấm biển. Nó là bằng chứng, rằng chúng tôi đã có mặt như đã hẹn trước từ chiều qua với bác Thuý Toàn. Còn khối thì giờ, chúng tôi kéo lên đê sông Hồng chụp vài bức hình làm kỷ niệm. Chỗ chúng tôi chụp ảnh vắng tanh, vắng ngắt, nghe rõ cả tiếng gió thì thào lướt trên mặt sông. Yên tĩnh quá. Tôi cứ có cảm giác mình đang ở đâu đó thâm sơn cùng cốc, chứ không phải chỉ cách cái ồn ào náo nhiệt có nửa bước chân... **** Vẫn còn thì giờ. Y Ban kéo chúng tôi về nhà cô. Sau một hồi uốn lượn xe chúng tôi cũng dừng lại trên một vạt đất của nhà ai bỏ quên, chưa kịp xây. Cỏ lún phún xanh.  Tổ ấm của Y Ban rất đáng yêu. Chồng cô là nhà điêu khắc có biệt danh "Cơ Điên" - vì quá yêu mến mà anh em trong giới đã tặng cho. Cơ dùng luôn tầng một làm xưởng. Chân dung đàn ông, đàn bà, cao thấp, to nhỏ bày la liệt. Những cái đầu bằng đất với đôi mắt hoắm sâu chả gợi cho tôi điều gì. Có chăng là sự dư thừa tiền bạc. Cậu con trai cao vổng, thừa hưởng những gì ưu việt nhất từ bố mẹ. Trần Đăng Khoa thốt lên: - Nhà thím quá tuyệt vời. Rộng rãi, yên tĩnh. Không khí gần sông trong lành. - Nhà em sắp phải chuyển đi chỗ khác rồi đấy. Nằm trong diện giải tỏa mà anh.  - Thím sống ở đây được mấy năm rồi mà phải chuyển thì tiếc thật. Giá mà dinh tê cả nhà cửa, cây cối, vườn tược đi theo thì tốt quá... - Chỗ họ đền bù cho nhà em xa lắm. Mà chả được rộng như thế này, chỉ mấy chục mét vuông thôi. **** Y Ban pha trà mời khách. Cô mang ra một nải chuối, một đĩa hoa quả gọt sẵn. Cô còn cho chúng tôi thưởng thức món su hào mà cô tự tay muối. Trần Đăng Khoa nắc nỏm khen ngon. Y Ban cười rất tươi nói lúc về sẽ tặng chúng tôi mỗi người một túi. Chúng tôi theo Y Ban dạo một vòng xem cơ ngơi của cô. Nhìn cái góc xinh xinh nơi mà từ đó những trang viết theo nhau nằm dưới tay bạn đọc, tôi tự nhủ: "Thì ra, mọi cái to tát, sóng gió của cuộc đời, mọi cái nhỏ nhoi, tinh tế của người đàn bà đâu cần nhiều không gian lắm. Tất cả được dồn nén, chất chứa trong cái đầu xem ra chả có gì khác thường của người đàn bà kia." Cái tên Y Ban lâu nay gợi cho tôi nhớ về một mùa hoa ban nơi góc rừng Tây Bắc của một thời xa xưa. Những cuốn truyện dưới bút danh Y Ban từng làm tôi, làm bạn đọc tưởng cô là người dân tộc. Trong một lần vui chuyện cô kể mới té ngửa ra cái bút danh Y Ban chả có gì bí hiểm. Chỉ đơn giản là cô làm trong ngành Y tên Ban, khi viết truyện cô bèn lấy luôn "Y Ban" cho tiện. Y Ban kéo chúng tôi lên sân thượng, chỉ cho chúng tôi con sông đang nhoà đi trong cái nắng heo hắt. Mấy cây hoa cô trồng mọc hồn nhiên như nó vốn có. Tôi thích điều này. Những thứ được tỉa tót, chăm bón kỹ nơi dinh thự của những dân ăn chơi, sành điệu, lắm tiền làm tôi khó chịu. Nó cứ giả giả như chủ nhân của nó vậy. Của đáng tội, nhiều người bạn của tôi cũng từng đã có lúc mơ giấc mơ về chúng. Giấc mơ no đủ. Chồng Y Ban là một ông chủ hiếu khách. Ngoài dịch giả Kim Hiền đã quen, Trần Đăng Khoa, tôi và nhà thơ Hoàng Xuân Tuyền đều lần đầu tiên đến đây. Chủ nhà kể cho chúng tôi câu chuyện anh chứng kiến trên máy bay trong một lần công tác từ nước ngoài về. Say rượu. Tây ta đều như nhau cả. Trong cơn say, người ta thường khó mà kiềm chế được những hành động khiếm nhã, những cử chỉ thô tục. Và để kết thúc câu chuyện "Cơ Điên" nở một nụ cười hiền. Nhìn Cơ cười, ai dám bảo anh là người có cá tính bạo liệt, có lúc như điên điên cơ chứ.  **** Ngoài những lúc viết sách, Y Ban luôn bận rộn. Ngoài trách nhiệm chăm lo phần hồn cho thiên hạ, cô còn là người mẹ chỉn chu trong công việc nội trợ, chăm lo con cái, chăm sóc gia đình. Tôi cũng từng biết có những cặp vợ chồng văn nghệ sĩ khác. Họ, mỗi người mơ giấc mơ của mình. Con cái thả phóng. Hồn nhiên chơi, hồn nhiên lớn.  Chia tay bà chủ ngôi nhà, chúng tôi ra về với lời hẹn, lần sau gặp lại. Dẫu biết rằng cái lần sau ấy lâu lắm. Ai cũng bận rộn. Cái hẹn bị chìm lấp bởi cái bề bộn mưu sinh thường ngày. Hồi đi Trại sáng tác trên Tam Đảo, tôi nhận lời mời đến chơi nhà của họa sĩ Nguyễn Quốc Thái, vậy là phải mười ba năm sau tôi mới thực hiện được. Tôi thực sự may mắn và hạnh phúc khi có được những người bạn. Dẫu không thường xuyên gặp nhau nhưng đâu đó trong một góc khuất, nhỏ nhoi của tâm hồn, luôn có hình bóng của nhau. Với tôi, điều này là quá đủ. Mùa thu 2017. LÊ THANH MINH *** Câu chuyện xuyên rừng cứu em của Minh được cả bản trong bản ngoài, cả xã trong xã ngoài, cả huyện đều biết đến. Hôm đến trường Minh được cô giáo trao cho một tấm giấy khen. Cả trường vỗ tay hoan hô Minh. Có mấy đứa con gái xinh cứ liếc mắt nhìn Minh khâm phục. Thi thoảng nhà Minh lại đón khách. Có người từ một bản rất xa mang theo xôi và gà đến tặng Minh. Sau khi thăm Minh rồi mọi người muốn thăm Lém Lỉnh, Tom, An và Lành. Bốn người bạn đó không quay về rừng nữa mà sống chung cùng với gia đình Minh. Em Thu rất thân với An nhưng nó không thể hiểu được An nói gì. Cha thưng sàn dưới thành căn phòng ấm áp để cho An và Lành. Lém Lỉnh và Tom được lăng xăng chạy lên chạy xuống. Mẹ và cha nói với Minh: - Từ khi loài người xuất hiện thì loài người và loài vật không bao giờ hiểu được tiếng nói của nhau nữa. Nay con lại biết nói và hiểu được tiếng nói của loài vật quả là một sự bất thường. Cha mẹ rất lo lắng về điều đó. Nếu có người xấu biết việc này thì họ sẽ bắt cóc con và các bạn con mất. Bây giờ không có việc gì mà bọn người xấu không dám làm. - Cha mẹ ơi, con chỉ biết nói chuyện với các bạn của con thôi mà. - Vì thế nên cha mẹ càng lo lắng hơn, cha mẹ cũng yêu các bạn của con như con, chẳng may một bạn nào bị bắt cóc thì cha mẹ cũng đau buồn lắm. - Vậy chúng ta phải làm gì, cha mẹ ơi? - Cha mẹ đã nghĩ kỹ việc này, bây giờ tuyệt đối con không để cho ai biết con có thể nói chuyện được với các bạn. Hãy làm như các bạn ấy chỉ như những con vật khác mà chúng ta nuôi trong nhà thôi. Minh bật khóc khi nghe cha mẹ nói như thế: - Không thể, các bạn ấy là bạn của con chứ không phải con vật. Lém Lỉnh và Tom đã hóng ngoài cửa từ khi nào, thấy Minh khóc các bạn liền nhảy bổ vào lòng Minh. Tom nói: - Ẳng ẳng ẳng, đừng khóc thế Minh ơi, cha mẹ nói đúng mà. Chúng mình vẫn là bạn thân của nhau, chúng mình chỉ vờ như là không phải bạn bè thôi. Thi thoảng bạn nên quát tớ hoặc đá vào bụng tớ một cái cũng được, tớ không đau đâu. Minh ôm chặt Tom vào lòng: - Tớ mà lại đá vào bụng cậu ư? Chân tớ sẽ rụng đấy. Lém Lỉnh nhảy lên vai Minh kêu rống lên: - Khẹc khẹc khẹc, thi thoảng bạn cũng nên nhốt tớ vào lồng. Hoặc bạn có thể chơi xỏ tớ một chút, bạn nắm cơm trộn với mắm tôm đưa cho tớ, khiến tớ phát khiếp lên được. - Tớ không bao giờ chơi xỏ cậu như thế đâu Lém Lỉnh ơi. Nếu sống giữa loài người mà cứ phải phòng bị thế này thì chúng ta cùng vào rừng sâu để sống với nhau. Cha hắng giọng mấy cái rồi buồn buồn nói với Minh: - Con trai ơi, con không hiểu lòng của cha mẹ rồi. Cha mẹ chỉ lường trước các tình huống xấu có thể xảy ra với con và các bạn con thôi mà. Mẹ tiếp lời cha: - Căn nhà của cha mẹ luôn luôn là nơi bình yên con trai ơi. Con và các bạn của con sẽ được ăn no và ấm áp, không có nơi nào trên thế giời này bình yên hơn ngôi nhà của cha mẹ. Cha mẹ lo là lo ở ngoài thế giới rộng lớn kia, khi cha mẹ không đi theo các con từng bước được. An và Lành cũng đứng hóng tự lúc nào. An nói với Minh: - Cha mẹ nói rất hay. Minh nghe lời cha mẹ đi. Lành tiếp lời An: - Chúng ta cùng nhau đi làm. Tom ở nhà trông nhà. Lém Lỉnh đi học cùng bạn Minh và em Thu. Tớ sẽ đi cày nương với mẹ. An đi xuống suối bắt cá và lấy mật ong rừng. Như thế có được không các bạn. Lém Lỉnh sung sướng kêu toáng lên: - Khẹc khẹc khẹc. Được đi học, được đi học. Tom dỗi nằm bẹp dí bụng xuống sàn: - Suốt ngày phải ở nhà trông nhà không được đi đâu à. Minh nâng Tom đứng lên: - Bạn đừng buồn, tớ chỉ phải đi học 5 ngày một tuần, hai ngày cuối tuần tớ sẽ đi cùng với bạn vào rừng săn dúi nhé. Lém Lỉnh ơi, bạn không đi học với tớ được đâu. Bạn mà đến trường thì tất cả các bạn chỉ thích chơi với bạn thôi không chịu học đâu, bạn ở nhà với Tom nhé hoặc là đi rẫy với mẹ. - Tớ thích đi học cơ. ... Mời các bạn đón đọc Công Viên Cứu Hộ Loài Người của tác giả Y Ban.
Cội Rễ - Alex Haley
“Cội rễ” đoạt giải Pulitzer và giải Sách toàn quốc (National Book Award, 1977), khi chuyển thể thành phim truyền hình lại đoạt giải Emmy. Trộn lẫn giữa sử liệu và hư cấu, “Cội rễ” không những đưa Haley vào hàng ngũ các nhà văn rất nổi tiếng mà còn gợi hứng cho người Mỹ quan tâm tới gia phả học (genealogy). Và kết quả cuộc tìm kiếm lâu dài ấy đã dẫn đến sự ra đời của “Cội rễ”. Chỉ hai tháng sau, gần một triệu bản đã hết ngay. Và bộ phim vô tuyến truyền hình dựng theo tác phẩm ấy đã vượt cả bộ phim nổi tiếng “Cuốn theo chiều gió” về kỷ lục người xem. Cuốn sách ra đời như một sự kiện làm chấn động cả nước Mỹ. Đó là sự tái tạo một quá khứ, khi mà những người da đen bị bắt cóc và bị bán làm nô lệ, bị tước đoạt. “Cội rễ” đã làm dấy lên ở Mỹ, kể cả trong những người da trắng một trào lưu sôi nổi tìm lại gốc gác tổ tiên của mình. “Cội rễ” của Alex Haley, một tiểu thuyết viết về hành trình đi tìm nguồn cội của một nhà văn Mỹ gốc Phi đã đột nhiên xuất hiện “như một niềm kinh dị” trong xã hội Mỹ, kể cả những vùng thôn quê bình lặng, lẫn chốn phồn hoa đô hội; cả ở những đám người bình dân lẫn trong các tầng lớp quý tộc.  Cuốn sách gây chấn động tới mức đã có hai vụ tố tụng nhằm hạ uy tín tác giả. Nhưng điều quan trọng là nó đã đánh thức ở những người da màu Mỹ nỗi niềm hoài cổ tổ tiên, và ý thức đó từ nay sẽ không bao giờ tắt trong họ. Đối với Haley, đó cũng là phần thưởng tinh thần, sự đền bù xứng đáng cho công sức bền bỉ mười lăm năm trời mò mẫm trong hầu hết các thư viện, kho lưu trữ tư liệu khắp nước Mỹ, từ bang này sang bang khác, để cuối cùng tìm đến tận làng Jufure hẻo lánh của Zambia (châu Phi), nơi cách đây hơn 230 năm, Kunta Kinte, ông tổ 7 đời của tác giả đã bị bắt xuống con tàu buôn nô lệ da đen chở sang Mỹ. Với “Cội rễ” có thể nói Alex Haley đã dựng một tượng đài cho nỗi đau hàng thế kỷ của bao thế hệ người Phi bị trốc rễ, để biến thành những mớ hàng đem bán đấu giá ở các chợ buôn người. *** Alex Haley (bút danh của Alexander Palmer Haley) sinh ngày 11-8-1921 tại thành phố Ithaca, bang New York; mất ngày 10-02-1992. Ông học trường đại học Canh nông và Cơ khí bang Alcorn (Alcorn Agricultural and Mechanical College) và đại học Sư phạm thành phố Elizabeth (Elizabeth City Teachers College). Sau 20 năm làm ký giả chính (chief journalist) trong đội quân bảo vệ bờ biển (US Coast Guard), Haley dọn đến thành phố New York để đeo đuổi nghề văn, và xuất bản The Autobiography of Malcolm X (tự truyện Malcolm X, 1965). Sau đó, Haley bắt đầu nghiên cứu và viết Roots: The Saga of an American Family (Cội rễ). Được dịch ra gần 30 ngôn ngữ và bản tiếng Việt đã in ở Việt Nam nhiều năm trước đây. Điều đáng nói hơn, là niềm khắc khoải khôn nguôi về cội nguồn đã thôi thúc ông bỏ ra mười lăm năm để tìm lại gốc gác tổ tông mà ông biết chắc không phải ở trên đất Mỹ. *** Vậy đó, đứa cháu bảy đời của Kunta Kintê ra đời. Năm mươi năm sau, đứa cháu đó, lúc này là nhà báo Elicx Hêili (ALEX HALEY), tác giả cuốn "Tự truyện của Malcôm X" lãnh tụ của những người Hồi giáo da đen ở Mỹ, mà như Malcôm đã tiên đoán, chính ông cũng không được đọc, vì ông bị ám sát khoảng hai tuần sau khi hoàn thành bản thảo, bắt đầu cuộc hành trình mười lăm năm trở ngược về quá khứ tìm nguồn cội, với trang bị còm cõi đôi ba tiếng thổ âm lạ tai - "Cô" (cái đàn) "Kămbi Bôlônggô" (con sông)... - còn lưu truyền lại nhờ cái lệ đã thành truyền thống gia đình là ôn lại câu chuyện ông tổ người Phi trước đông đủ các thành viên của gia đình, mỗi khi có thêm một đứa bé ra đời, dù trai dù gái. Khui hàng núi tài liệu ở hàng trăm cơ quan lưu trữ tư liệu, thư viện; gặp gỡ phỏng vấn hàng trăm chuyên gia các ngành nghiên cứu khác nhau: sử học, khảo cổ, Đông Phương học... có khi bỏ hàng tuần lảng vảng quanh trụ sở Liên Hợp Quốc ở Niu Yoóc rình đón các đại biểu Phi để chỉ gặt hái được những cái nhìn câm lặng, hoài nghi, khi mở miệng hỏi về những âm Phi kỳ lạ nọ bằng cái giọng lơ lớ miền Tennexi; bay qua bay lại từ bang này sang bang khác, hết Niu Yoóc đến Oasinhtơn tại Uytconxin, cuối cùng sang tận Gămbia lần mò tới tận làng Jufurê heo hút của bộ tộc Manđinka (tất cả những lặn lội lên rừng xuống biển ấy về sau đều được kể lại trong cuốn "Đi tìm" (Search), điều mà Hêili tìm kiếm đã được xác nhận từ miệng một trong những ông già "graiốt", bộ nhớ lịch sử của các bộ lạc Phi: "Vào cái đận lính của nhà Vua đến, Kunta vào rừng đẵn gỗ và không bao giờ thấy trở lại nữa...". ... Mời các bạn đón đọc Cội Rễ của tác giả Alex Haley.
Khu Rừng Hoang Vu - Từ Kế Tường
Từ Kế Tường là một nhà văn tại miền Nam Việt Nam và hiện là nhà báo. Từ Kế Tường tên thật là Võ Tấn Tước, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1946; quê quán tại xã Phú Vang, Bình Đại,Bến Tre. Ông là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Từ Kế Tường sống ở Sài Gòn trước 1975. Từ 1969 đã bắt đầu viết văn, làm báo. Tính đến 1975, ông đã xuất bản nhiều sách gồm: Thơ, tập truyện ngắn, tiểu thuyết, trong đó có các sách viết cho thiếu niên và nhi đồng. Tháng 5 năm 1975, gia nhập Hội Văn nghệ Giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Từ 1979 đến 1986: làm việc trong ngành Văn hóa thông tin. Từ 1986 đến 2003: Thư ký tòa soạn báo Công an TP Hồ Chí Minh. Hiện nay, ông làm việc tại tuần báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh. Từ Kế Tường viết tác phẩm "Đường phượng bay" trước 1975; sau 1975 lại viết thêm đoạn cuối rồi sửa thành "Bờ vai nghiêng nắng". Nhiều người cứ tưởng lầm đây là truyện của Nguyễn Nhật Ánh - có lẽ vì bút pháp hai nhà văn này có phần giống nhau; tuy vậy tác phẩm "Đường phượng bay" mang dáng dấp bút pháp riêng của Từ Kế Tường, bút pháp khá quen thuộc với thanh thiếu niên từ trước. Từ Kế Tường đã xuất bản khoảng 50 đầu sách gồm tiểu thuyết, tập thơ và truyện cho thiếu nhi. Những tác phẩm nổi tiếng khác: Áo vàng qua ngõ. Hoa lưu ly không về. Mùa áo vàng Một mình tôi bước đi Từ Kế Tường là nhà tiểu thuyết, nhà thơ được thanh thiếu niên trước và sau 1975 yêu thích. *** Phiến đang giũ những chiếc áo ngắn và xả xong lượt nước cuối cùng phơi lên sào kẽm giăng chếch một góc sân thì Hài đạp xe tới, chiếc xe đạp của Hài mới được ráp trên tỉnh mang về tuần trước. Đó là phần thưởng của chú Truy cho Hìa khi biết tin Hài đã đậu Tiểu học. Chiếc xe sơn màu xanh lá cây, phụ tùng toàn nhôm, mỗi lần đi ra nắng thì lấp lánh. Hài có một tật kỳ cục là bất cứ lúc nào ở đâu, khi thắng xe lại cũng bóp chuông inh ỏi. Phiến vốn không thích nghe tiếng chuông xe đạp. Mỗi ngày khi tan học Phiến đã phải khó chịu đứng nép sát vào lề đường tránh cho bọn con trai đi qua. Bọn con trai đã thi nhau bóp chuông và vù xe đạp qua mặt con gái. Hình như họ cố ý bóp to để chọc tức, và đạp xe vù vù khiến người khác phải lé mắt. Phiến đã tức anh ách trong lòng khi nghe tiếng chuông xe đạp của Hậu. Nhưng không lé mắt gì hết khi Hậu biểu diễn chạy xe lòn từ đòn gánh để lên yên rồi lại lái bằng hai chân. Hai bàn tay Hậu lúc đó kẹp hai bên màng tang. Chiếc xe sẵn chớn chạy vo vo không hề ngã. Nhiều đứa bạn của Phiến đã thầm phục tài lái xe đạp của Hậu. Chúng nó đã lé mắt, bặm môi hít hà mỗi lần con nhà Hậu biểu diễn lái xe bằng hai chân. Nhưng Phiến vẫn tỉnh bơ, chẳng them để ý lại thầm mong cho Hậu vấp phải cục gạch nào đó ở giữa đường lăn cu lơ một lần cho bõ ghét. Hài vừa đạp xe vào tưới sân đã bóp chuông ầm ĩ. Phiến mắc xong chiếc áo cuối cùng lên sào kẽm quay lại lườm bạn gắt: - Hài vào im lặng không được sao mà ầm ĩ thế. Nhức óc quá chừng. ... Mời các bạn đón đọc Khu Rừng Hoang Vu của tác giả Từ Kế Tường.