Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Robin Hood Chúa Trộm Oai Hùng

Alexandre Dumas - một tên tuổi rất thân thuộc với bạn đọc Việt Nam qua các tiểu thuyết : Bá tước Môngto Crixto , Hai mươi nǎm sau, Ba người lính ngự lâm  Robin Hood - Chúa trộm oai hùng, diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử nước Pháp vào những nǎm 1160.  Với ngòi bút linh hoạt và sức tưởng tượng hết sức phong phú, Alexandre Dumas đã hấp dẫn người đọc qua những tình tiết hết sức bất ngờ, hồi hộp, hấp dẫn, lý thú, pha chút châm biếm khi miêu tả nhân vật chính - người anh hùng Robin Hood.  *** Dưới triều đại vua Henry đệ nhị, vào năm Gia-tô kỷ nguyên 1162: một buổi chiều, hai khách du hành, quần áo vấy bẩn vì đường trường, vẻ mặt tiều tuỵ vì mệt mỏi, đi qua những lối nhỏ của khu rừng Sherwood, trong lãnh địa bá tước Nottingham. Không khí giá lạnh; cây cối mới bắt đầu trổ lá xanh phớt tháng Ba, rung nhẹ trong làn gió bấc cuối cùng của mùa đông, một lớp sương mù ảm đạm tràn lan khắp vùng trong lúc những tia nắng tà tắt lịm trong những đám mây đỏ tím ở chân trời. Chẳng bao lâu bầu trời mù mịt tối tăm, những cơn gió lạnh lướt qua khu rừng, báo trước một đêm dông tố. Người tuổi tác hơn trong hai khách du hành trùm kín mình trong chiếc áo choàng, nói: — Này Ritson, gió thổi dữ lắm, mi có sợ rằng ta sẽ gặp bão trước khi tới nơi không? Chúng ta có thực đi đúng đường không? Ritson đáp: — Thưa các hạ, chúng ta đang tiến thẳng tới đích: nếu tôi không nhớ sai, thì một tiếng nữa chúng ta sẽ gõ cổng nhà người gác rừng. Hai người khách lạ im lặng bước đi trong ba khắc đồng hồ. Người mà bạn đồng hành xưng là các hạ bồn chồn lớn tiếng hỏi: — Chúng ta sắp tới nơi chứ? — Thưa các hạ, mười phút nữa thôi. — Được, nhưng cái người gác rừng mà mi gọi là Head đó có đáng để ta tin cậy không? — Hoàn toàn đáng tin, thưa các hạ, Head, anh rể tôi, là người thô lỗ, thực thà, ngay thẳng; anh ta sẽ kính cẩn lắng nghe cái câu chuyện kỳ lạ do Đức Ông bày đặt ra, anh ta sẽ tin ngay; anh ta chẳng biết thế nào là nói dối, cũng chẳng biết ngay cả ngờ vực là gì nữa. Kìa, thưa các hạ, - Ritson ngừng khen ngợi người gác rừng vui vẻ kêu lên, - xin hãy trông phía dưới kia làn ánh sáng phản chiếu nhuộm màu cây cối, nó tỏa ra từ căn nhà của Gilbert Head đấy! Hồi còn trẻ, mỗi buổi chiều khi chúng tôi đi săn mệt mỏi trở về, biết bao lần tôi đã sung sướng vui chào vì tinh tú này của gia đình! Ritson đứng im lặng mơ màng, mắt đăm đăm cảm động nhìn làn ánh sáng chập chờn, nhắc nhở y những kỷ niệm dĩ vãng. Nhà quí tộc chẳng để ý gì đến nỗi xúc động của tên đầy tớ, cất tiếng hỏi: — Thằng bé ngủ à? Ritson, vẻ mặt tức thời trở lại hoàn toàn hờ hững, trả lời: — Dạ, thưa các hạ, nó ngủ say lắm. Tôi thực không hiểu sao Đức Ông lại phải nhọc lòng giữ gìn mạng sống của một đứa bé có hại cho quyền lợi của ngài đến thế. Nếu ngài muốn dứt bỏ hẳn thằng bé đó đi, thì tại sao ngài lại không đâm cho nó một nhát dao vào tim? Tôi xin tuân lệnh ngài, xin ngài cứ nói đi. Để thưởng tôi, xin ngài hãy hứa viết tên tôi vào tờ di chúc của ngài, và thế là thằng bé ngủ khì kia sẽ chẳng bao giờ thức dậy nữa. — Mi im đi, - nhà quí tộc bỗng nhiên nói tiếp, - ta không thích cái chết của thằng bé vô tội này. Ta có thể sợ sau này sẽ có ngày bị tiết lộ ra, nhưng ta thà phải lo âu về nỗi sợ hãi đó còn hơn là phải ăn năn cắn rứt vì tội ác. Vả chăng, ta có lý do để hy vọng và ngay cả tin tưởng rằng tấm màn bí mật bao trùm lên sự ra đời của đứa bé này sẽ chẳng bao giờ bị vén lên cả. Nếu như có sự xảy ra khác thế, thì đó chỉ có thể là công trình của mi thôi, Ritson ạ; ta đoán chắc với mi rằng suốt đời ta lúc nào cũng nghiêm ngặt canh chừng các hành vi, cử động của mi. Dù được nuôi nấng như một gã quê mùa, thằng bé này sẽ không phải chịu cảnh tầm thường của thân phận mình, trong thân phận này nó sẽ tự tạo cho mình một hạnh phúc hợp với các sở thích và thói quen của nó, và nó sẽ chẳng bao giờ phải tiếc cái tên họ và tài sản mà nay nó bị mất đi mà không hề biết. — Mong sao các hạ được toại nguyện! - Ritson lạnh lùng đáp; - nhưng thực ra thì mạng sống của một đứa bé oắt như thế này chẳng đáng để ta phải nhọc nhằn đi từ Huntingdonshire đến Nottinghamshire. Cuối cùng hai khách du hành đặt chân xuống đất trước một ngôi nhà xinh đẹp giống như một cái tổ chim ẩn náu trong đám rừng rậm. — Anh ơi! Anh Head ơi! - Ritson kêu to bằng một giọng vui vẻ, sang sảng, - anh ơi! Mở cửa mau lên; mưa dữ quá, đứng đây tôi trông thấy ánh lửa cháy hồng trong lò sưởi của anh. Mở cửa ra, có người bà con xin được tiếp đãi đây. Bầy chó sủa vang ở phía trong nhà, người gác rừng thận trọng thoạt tiên đáp: — Ai gõ đó? — Một người bạn. — Bạn nào? — Roland Ritson, em anh đây. Mở cửa ra, anh Gilbert. — Cậu đấy à, có phải Roland Ritson, ở Mansfeld không? — Phải, phải, chính em đây, em của chị Marguerite. Nào, anh mở ra chứ? - Ritson bồn chồn nói thêm; - anh em mình sẽ trò chuyện ở bàn ăn. Sau cùng cửa mở ra, hai người khách bước vào. Gilbert Head thân mật bắt tay em rể, rồi lễ phép chào nhà quí tộc: — Thưa ngài kỵ sĩ, tôi rất hân hạnh được tiếp đón ngài. Xin ngài thứ lỗi cho: vừa đây tôi đã thất lễ, để cho cửa đóng giữa ngài và gia đình tôi. Chỗ này hẻo lánh, lại thêm bọn đạo tặc lảng vảng trong rừng, bắt buộc tôi phải thận trọng, bởi vì muốn thoát khỏi hiểm nghèo mà chỉ có dũng cảm và sức mạnh thôi thì không đủ. Thưa quí khách, ngài hãy nhận cho lời tạ lỗi của tôi, và hãy xem nhà tôi đây như nhà của ngài vậy. Mời ngài đến ngồi bên lò sưởi cho khô quần áo, tôi bảo người đi chăm lo cho ngựa của ngài. Lincoln ơi! - Gilbert mở hé cửa phòng bên nói to, - hãy dắt ngựa của quí ngài đây đến nhà kho, vì chuồng nhỏ quá không đủ chỗ tiếp nhận, đừng để chúng thiếu gì cả nhé: bỏ cỏ khô cho đầy máng, chất rơm cho thật nhiều vào. Một gã quê bận y phục kiểm lâm tức thì xuất hiện, bước qua phòng, rồi đi ra ngoài chẳng hề tò mò đưa mắt nhìn các người mới tới; sau đó một phụ nữ xinh đẹp, trạc ba mươi tuổi, đến đưa tay và trán cho Ritson hôn. — Chi Marguerite! Chị thân yêu! - Ritson kêu to, vừa vuốt ve vừa trông ngắm người chị với một niềm thán phục hồn nhiên pha lẫn kinh ngạc; - chị chẳng có chi thay đổi cả, vẫn vầng trán thanh khiết, vẫn cặp mắt sáng chói, môi và má vẫn tươi hồng như độ nào anh Gilbert theo tán tỉnh vậy. — Đó là vì chị sung sướng đấy, - Marguerite đưa mắt dịu dàng nhìn chồng đáp lời. — Em có thể nói: chúng tôi sung sướng, em Maggie ạ, - người gác rừng trung thực nói thêm. - Nhờ em vui tính, nên nhà ta chưa hề có dỗi hờn, cãi lộn. Nhưng về chuyện đó nói thế là đủ rồi, ta phải nghĩ đến khách chứ… Nào! Cậu em, hãy cởi áo choàng ra, còn ngài kỵ sĩ, xin hãy giữ hết nước mưa đầm đìa trên y phục giống như giũ hạt sương mai đọng trên lá cây. Rồi chúng ta dùng bữa tối. Lẹ lên, em Maggie, bỏ vào lò một hai bó củi, bày lên bàn những món ăn ngon, trải lên giường những tấm khăn trắng nhất; lẹ lên, em. Trong khi người thiếu phụ mau mắn làm theo lời chồng, Ritson hất áo choàng xuống phía sau, để lộ ra một đứa bé xinh đẹp bọc trong một chiếc áo lông xanh. Đứa bé mới mười lăm tháng, khuôn mặt tròn trăn, đỏ tươi, báo trước một sức khỏe hoàn toàn và một thể chất tráng kiện. Khi Ritson đã cẩn thận vuốt thẳng những nếp nhàu trên mũ của đứa bé, y đặt cái đầu nhỏ xinh của nó xuống dưới một tia ánh sáng, làm nổi bật lên tất cả vẻ đẹp, rồi nhẹ nhàng gọi chị. Marguerite chạy mau đến. — Chị Maggie, - Ritson nói, - em có một món quà tặng chị, để chị khỏi trách em là trở về với hai bàn tay trống không sau tám năm trời vắng mặt… Nào, chị hãy nhìn xem cái em đem tới cho chị đây. — Lạy thánh bà Marie! - Người thiếu phụ chắp tay lại kêu lên, - lạy thánh bà Marie, một thằng bé! Nhưng mà, cậu Roland, có phải chú thiên thần xinh đẹp này là của cậu không? Anh Gilbert, anh Gilbert, hãy lại đây mà xem một thằng bé đáng yêu quá.. — Một thằng bé! Một thằng bé trong tay Ritson à! - Không phấn khởi như vợ, Gilbert đưa mắt nghiêm khắc nhìn về phía em vợ, trầm giọng nói. - Này cậu, từ khi hết làm lính cậu đã thành người nuôi con nít ư? Sao mà kỳ cục vậy, chạy rông khắp đồng quê với đứa bé bọc trong tấm áo choàng! Thế là nghĩa lý gì kia chứ? Tại sao cậu lại đến đây? Thằng bé này là thế nào? Cậu hãy nói đi, hãy nói thực, tôi muốn biết tất cả mọi chuyện. — Thằng bé này không thuộc về tôi, anh Gilbert ạ; nó mồ côi, vị quí tộc đây mới là người bảo hộ nó. Đức Ông quen biết gia đình chú thiên thần này, ngài sẽ nói anh biết vì sao, chúng tôi tới đây. Này chị Maggie, trong lúc chờ đợi, xin chị hãy nhận cho cái của báu này, nó trĩu nặng trên cánh tay em từ hai ngày… tức là hai giờ. Em chán cái vai trò vú em này lắm rồi. Marguerite hăm hở giật lấy thằng bé đang ngủ, đem vào phòng mình, đặt lên giường, hôn tới tấp lên tay và cổ, bọc ấm trong tấm áo choàng đẹp mặc trong dịp lễ, rồi trở lại chỗ khách ngồi. Bữa ăn tối trôi qua vui vẻ; lúc cuối bữa, nhà quí tộc nói với người gác rừng: — Bà nhà rất khả ái, tỏ ra quan tâm tới thằng bé này, vì vậy tôi quyết định đưa ra với ông một đề nghị dính dáng với hạnh phúc tương lai của ông. Nhưng trước hết, xin cho phép tôi được trình bày ông rõ một số chi tiết đặc biệt về gia đình, sự sinh ra và thân phận hiện nay của đứa trẻ mồ côi khốn khổ mà tôi là người bảo hộ độc nhất. Cha nó là bạn đồng ngũ cũ của tôi trong thời niên thiếu, giữa nơi doanh trại; ông là bạn tốt và thân nhất của tôi. Khoảng đầu triều đại đức vua Henry đệ nhị, chúng tôi cùng đóng với nhau tại Pháp, khi thì ở Normandie, khi thì ở Aquitaine, khi thì ở Poiton; sau mấy năm cách biệt, chúng tôi gặp lại nhau trong xứ Galles. Anh bạn tôi, trước khi rời Pháp, có yêu say đắm một thiếu nữ, đã cưới rồi đem cô ta về Anh ở với gia đình mình. Chẳng may gia đình này lại thuộc một chi phái của một nhà vương giả, vốn tự hào, kiêu hãnh, đây óc thành kiến, không chịu thâu nhận người thiếu phụ đó, cô ta thì nghèo, chỉ có sự cao quí về tình cảm mà thôi. Sự sỉ nhục đó đập mạnh vào tim cô ta, cô ta chết tám ngày sau khi cho ra đời đứa bé mà tôi muốn cậy ông coi sóc; nó không còn cha nữa, vì anh bạn khốn khổ của tôi đã bị thương vong trong một trận chiến ở Normandie, nay đã mười tháng. Những ý nghĩ của bạn tôi lúc sắp chết là hướng về đứa con trai, anh ta kêu tôi đến, vội vàng cho tôi biết tên và địa chỉ của bà vú nuôi đứa bé, rồi yêu cầu tôi nhân danh tình thâm giao của chúng tôi mà nhận làm chỗ nương tựa, người bảo hộ cho đứa con côi. Tôi thề và tôi giữ lời thề, nhưng sứ mạng của tôi thực khó nhà làm trọn vẹn, thưa ông Gilbert, tôi còn là quân nhân, sống trong doanh trại hoặc ngoài chiến trường, không thể tự mình trông nom đứa bé yếu ớt này được. Về mặt khác, tôi không có bà con, bè bạn nào để có thể gửi gắm báu vật này mà không sợ cả. Tôi không còn biết khấn vái thần thánh nào nữa, thì một ý nghĩ chợt đến với tôi là nên hỏi Roland Ritson, là em vợ ông: anh ta tức thì nghĩ ngay đến ông, anh ta nói với tôi rằng, đã tám năm rồi xe duyên với một người vợ đức hạnh, đáng kính, ông vẫn chưa có được hạnh phúc làm cha, chắc chắn ông sẽ vui lòng đón nhận vào dưới mái nhà một trẻ mồ côi khốn khổ, con trai của một quân nhân dũng cảm. Nếu như Chúa ban cho đứa bé này mạng sống và sức khỏe, nó sẽ là người sống kề cận tôi trong lúc tuổi già; tôi sẽ kể lại cho nó nghe câu chuyện đau buồn và vẻ vang của đấng sinh thành ra nó; tôi sẽ dạy nó bước đi vững chắc trong cùng những nẻo đường mà chúng tôi, người cha oai dũng của nó và tôi, đã bước đi. Trong khi chờ đợi, xin ông nuôi nấng thằng bé giống như nó là con ông, mà ông sẽ chẳng phải nuôi nấng không công đâu, tôi xin đoan quyết với ông như vậy. Thưa ông Gilbert, xin ông hãy trả lời: ông có chấp nhận đề nghị của tôi không? Nhà quí tộc lo âu chờ đợi lời đáp của người gác rừng. Người gác, trước khi giao ước, đưa mắt nhìn vợ dò hỏi; nhưng bà Marguerite xinh đẹp ngoảnh đầu đi rồi, nghiêng cổ hướng về phía phòng bên, bà tươi cười lắng nghe tiếng đứa bé thở thì thào nhỏ nhẹ. Ritson, lén liếc mắt nhận xét về mặt của đôi vợ chồng, biết rằng chị mình đã sẵn lòng giữ đứa bé, mặc dầu Gilbert còn do dự, liền nói bằng giọng thuyết phục: — Tiếng cười của chú thiên thần này sẽ tạo nên niềm vui của gia đình chị, chị Maggie hiền hòa ạ. Lạy thánh Pierre! Tôi đoan chắc với chị như vậy, chị sẽ còn được nghe một thứ tiếng nữa cũng chẳng kém vui đâu, đó là tiếng những đồng ghi-nê mà Đức Ông đây hàng năm sẽ rót vào tay chị. Chà! Tôi trông thấy chị đã giàu có và luôn luôn sung sướng, dắt tay thằng bé xinh đẹp này trong các cuộc hội hè trong vùng, nó sẽ gọi chị là mẹ: nó sẽ ăn vận giống như một ông hoàng, sáng chói như vầng thái dương, còn chị thì rạng rỡ vì vui thú và kiêu hãnh. Marguerite không trả lời gì cả, nhưng nhìn Gilbert mà cười. Gilbert thì lặng lẽ, khiến cho nhà quí tộc hiểu lầm. Ông chau mày nói: — Thế nào, ông Gilbert, ông do dự sao? Đề nghị của tôi không vui lòng ông ư? — Xin lỗi ngài, đề nghị của ngài khiến tôi rất vui, chúng tôi sẽ giữ chú bé này, nếu như Maggie không thấy có chi trở ngại. Mình ơi, em nghĩ gì cứ nói ra, ý em sẽ là ý anh. — Vị quân nhân dũng cảm này có lý lắm, - thiếu phụ đáp; - ngài không thể nào nuôi nấng chú bé này được. — Thế thì sao? — Thì sao ư? Em sẽ là mẹ nó, chứ còn sao nữa. - Rồi hướng về phía nhà quí tộc, bà nói thêm: - Nếu một ngày nào đó ngài muốn lấy lại cậu con nuôi này, chúng tôi sẽ đau lòng mà trả lại ngài, nhưng chúng tôi sẽ tự an ủi dẫu rằng mất nó, vì nghĩ rằng từ đây được gần ngài, nó sẽ sung sướng hơn là ở dưới mái nhà tầm thường của một kẻ gác rừng nghèo khổ. — Lời của vợ tôi là một cam kết, - Gilbert nói tiếp, - còn về phần tôi, tôi thề coi sóc chú bé này và làm cha của nó. Thưa ngài kỵ sĩ, đây là bảo chứng cho lòng thành tín của tôi. Ông rút một chiếc bao tay ở thắt lưng ra, ném lên mặt bàn. Nhà quí tộc cũng ném một chiếc bao tay lên bàn, trả lời: — Thành tín đáp lại thành tín, bao tay đền lại bao tay. Bây giờ cần phải thỏa thuận về khoản tiền ăn ở của thằng bé. Nào, ông hãy cầm lấy số tiền này; hàng năm ông sẽ nhận được bằng ngần ấy. Rút từ phía dưới tấm áo ngắn ra một túi da nhỏ đựng đầy tiền vàng, nhà quí tộc cố gắng đặt túi đó vào tay người gác rừng. Nhưng ông ta từ chối không nhận. — Xin ngài hãy giữ lại số vàng này; bánh mì và những cái vuốt ve của Marguerite thì không bán đâu. Một lát lâu sau cái túi da nhỏ từ tay Gilbert được đưa trả lại nhà quí tộc. Cuối cùng người ta điều đình rồi đồng ý, theo đề nghị của Marguerite, là số tiền ăn ở được trả hàng năm cho đứa bé sẽ được để vào một nơi chắc chắn, để rồi sẽ trao lại cho nó khi đến tuổi trưởng thành. Sự việc đã được dàn xếp vừa lòng tất cả, mọi người chia tay nhau, đi ngủ. Rạng sáng hôm sau, Gilbert trở dậy, thèm thuồng ngắm những con ngựa của khách; Lincoln đang bận chải ngựa. Gilbert nói với người đầy tớ: — Con vật đẹp ơi là đẹp! Chẳng ai tin là chúng vừa mới rong ruổi suốt hai ngày trời, vì chúng tỏ ra còn mạnh mẽ lắm. Lạy Chúa! Chỉ có các ông hoàng mới được cưỡi những con tuấn mã như thế này, hẳn là chúng phải đáng giá cả khối bạc to sụ như hai con ngựa của ta. Nhưng mà ta đã quên khuấy mất chúng, những bạn đồng hành khốn khổ này! Máng cỏ của chúng chắc là trống không. Thế rồi Gilbert bước vào chuồng ngựa. Chuồng vắng tanh vắng ngắt. — Sao thế này, chúng không còn ở đây. Ôi! Lincoln ơi, mày đã dắt ngựa ra đồng cho ăn cỏ phải không? — Thưa ông chủ, không. — Thực lạ lùng quá, - Gilbert nói lẩm bẩm; rồi xúc động vì một dự cảm thầm kín, ông chạy xông vào phòng của Ritson. Ritson không có mặt tại đây. Nhưng có lẽ cậu ta đã đi đánh thức ngài quí tộc, Gilbert bụng bảo dạ như vậy trong khi bước sang phòng của vị kỵ sĩ. Phòng này vắng tanh. Marguerite bế thằng bé mồ côi xuất hiện. Gilbert , kêu lên: — Mình ơi, ngựa của ta biến mất rồi! — Làm sao lại có thể thế được! … — Họ đã cưỡi ngựa của ta đi, mà bỏ ngựa họ lại cho chúng ta. — Nhưng vì sao họ lại bỏ ta mà ra đi như vậy kia chứ? — Hãy đoán xem, Maggie ạ, anh chẳng biết gì cả về chuyện này. — Có lẽ họ muốn giấu không cho ai biết họ đi hướng nào. — Thế thì có lẽ họ đã làm điều chi xấu xa phải tự trách mình chăng? — Họ không muốn cho ta biết trước họ lấy ngựa ta thế cho ngựa mệt lử của họ. — Không phải thế đâu: không ai cho là ngựa của họ đã đi tám ngày, vì sáng nay chúng còn tỏ ra lanh lẹ, mạnh mẽ lắm. — Kỳ lạ quá! Thôi đừng nghĩ đến nữa! Nào, hãy ngắm xem thằng bé xinh đẹp biết bao, đang cười kia kìa. Hãy hôn nó đi. — Rất có thể là vị quí tộc không quen biết đó vì muốn đền ơn ta nên đã đổi hai con ngựa đáng giá của ông ta lấy hai con ngựa già khọm của mình. — Có lẽ thế; vì sợ mình từ chối, ông ta đã ra đi trong lúc mình còn ngủ. — Ừ! Nếu quả là như vậy, tôi xin hết lòng cảm tạ ông ta; nhưng tôi chẳng hài lòng về cậu Ritson chút nào, cậu ta phải chào mình mới phải. — Ồ! Thế ra anh không biết, từ khi cô Annette, em gái khốn khổ của anh, vợ chưa cưới của cậu ta, chết đi, Ritson xa lánh vùng này hay sao? Cái cảnh hạnh phúc của vợ chồng mình sẽ gợi lại nỗi khổ của cậu ta. Gilbert thở dài thườn thượt đáp: — Em nói đúng. Annette đáng thương! Marguerite nói tiếp: — Trong vụ này phiền nhất là chúng ta không có cả họ tên, lẫn địa chỉ của vị bảo hộ thằng bé đó. Nếu nó bệnh, thì ta biết báo cho ai? Còn nó nữa, chúng ta sẽ gọi làm sao đây? — Hãy chọn tên cho nó, Marguerite ạ. — Anh hãy tự mình chọn lấy đi, Gilbert; nó là con trai, thì việc này là thuộc phần anh. — Ừ! Nếu em thích, chúng ta sẽ cho nó tên của người anh mà anh đã rất yêu mến; anh không thể nghĩ đến Annette mà không tưởng nhớ đến anh Robin bất hạnh. — Được rồi, thế là nó được đặt tên, và đây là thằng Robin dễ thương của chúng mình! Marguerite vừa nói to vừa phủ đầy những nụ hôn lên mặt đứa bé, nó cười với bà ta như thể bà Marguerite hiền hòa kia là mẹ sinh ra nó. Như vậy là đứa trẻ mồ côi ấy được đặt tên là Robin Head. Sau này, không hiểu vì sao, tiếng Head được đổi thành Hood, và đứa bé xa lạ này lừng lẫy tiếng tăm dưới cái tên Robin Hood. Một thứ tiền tệ xưa của nước Anh. Mời các bạn đón đọc Robin Hood Chúa Trộm Oai Hùng của tác giả Alexandre Dumas & Cao Xuân Hạo (dịch) & Trần Hoàng Ly (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đứa Con Người Yêu - Pearl S. Buck
Một phong thư mang một con tem lạ - con tem Triều Tiên - với tên người gửi là Kim, đã đến với thượng nghị sĩ Christoper Winters vào lúc ông đang tranh cử chức Thống Đốc tiểu bang tại Hoa Kỳ. Ông vội chuồi nó xuống dưới đống thư tín để che mắt vợ. Quá khứ đột nhiên hiện ra trong tâm trí ông. Kim là đứa con của ông và cô Kim Sương, một cô gái Triều Tiên mà ông thực sự yêu một cách nào đó... trong chiến tranh. Đứa bé vừa tròn một tháng tuổi thì Trung úy Chris được gọi về Mỹ. Kể từ đó, với Laura, vợ ông, Chris đã sống một cuộc sống vô cùng hạnh phúc và hầu như quên hết... Ban đầu Chris có ý đinh giấu vợ, nhưng sau nhiều đêm suy nghĩ ông đã thú thật với bà. Vô cùng hốt hoảng, Laura bay đi Séoul để tìm đứa bé và bà đã gặp nó cùng với Kim Sương trong một phòng trà. Bé Kim, con trai một quân nhân Mỹ, đã bị cộng đồng người Triều Tiên ruồng bỏ và nó đang hát tại một phòng trà. Với sự đồng ý của Kim Sương Laura đã đưa thằng bé về Mỹ... *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Chris đợi Laura và bé Kim tại phi trường Los Angeles. Chàng xinh trai biết bao! Laura thầm nghĩ. Không phải bà đã quên điều đó, nhưng vì bà đã quen nhìn một loại đàn ông xinh trai khác mà ông Chu là tiêu biểu. Bây giờ bà có cảm tưởng rằng thế giới này chia thành hai loại đàn ông và đàn bà mà Kim Christopher thì đứng một mình ở giữa cô độc. Không, nó không cô độc vì bà đã chấp nhận nó kể từ khi nó cất tiếng đầu tiên gọi bà bằng mẹ. Nó đã dứt bỏ mọi quá khứ để theo bà, Sương là một người đàn bà tế nhị và có giáo dục: cái chi phiếu mà bà đã đưa cho nàng, khoảng năm Rgàn đô la, nàng chỉ liếc mắt trông qua và để xuống bàn mà không gấp lại bỏ ngay vào túi. Tại phi trường, nàng đã dặn dò bé Kim từng li từng tí, chẳng sót điều gì. Nàng nói : - Con hãy vâng lời cha con. Con cũng phải vâng lời bà Winters bởi vì bà là vợ yêu quý của cha con. Con ráng nhớ lời mẹ dặn. Khi cha con bước vào phòng, con phải lễ phép đứng dậy. Con hãy chăm lo học hành hằng ngày để cha con được vui lòng. Ban sáng, con hãy mang trà lại cho cha con trước tiên. Trong bữa ăn, con phải đợi cha con bắt đầu ăn trước. Con hãy nhớ tất cả những gì mẹ đã dặn con nhé! Nàng tỏ cho Laura biết, nàng là một người khéo dạy con. Kim Christopher chăm chú nghe, không nói gi. Hơn nữa nó đã lẳng lặng mãi cho đến khi phi cơ cất cánh. Chi khi đó mới quay sang Laura và cất tiếng gọi "Mẹ!". Bà đã mỉm cười cùng nó, nhưng hai mắt bà rưng rưng ngấn lệ. Bây giờ đã về đến Mỹ quốc, Kim Christopher nhìn cha nó. Nó nghiêng mình chào và im lặng chờ đợi. Cha nó nói : - À con. Có vẻ ngượng nghịu, ông ngắm nhìn đứa bé - đích thực là con trai của ông, không nghi ngờ gì nữa - với những đường nét giống nhau đến thế thì làm sao chối cãi được? Tim ông bắt đầu đập mạnh hơn. Ông ngắm nhìn Kim Christopher và thương yêu nói : - Con cao lớn lắm! ... Mời các bạn đón đọc Đứa Con Người Yêu của tác giả Pearl S. Buck.
Đôi Bạn Chân Tình - Hermann Hesse
Đôi bạn chân tình (nguyên tác Narcissus and Goldmund) là một câu chuyện kể về một thanh niên tên là Goldmund. Anh đã từng theo học trong trường học của tu viện dòng Thiên Chúa giáo để tìm hiểu và nghiên cứu xem cái gì được diễn tả như là “ý nghĩa của cuộc sống”, hay cụ thể hơn, là tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của chính bản thân anh. Nhưng rồi, anh đã rời bỏ trường và đi lang thang khắp miền trung nước Đức mà không có mục đích gì cụ thể. Narcissus, một thầy giáo trẻ có năng khiếu trong trường học của tu viện đã nhanh chóng kết bạn với Goldmund, vì hai người chỉ chênh nhau có vài tuổi và Goldmund vốn là sáng dạ. Goldmund kính trọng Narcissus, còn Narcissus thì lại rất yêu mến Goldmund. Một hôm, với ý định hái lượm thảo mộc, Goldmund đã thơ thẩn trên cánh đồng quá xa và anh tình cờ gặp một phụ nữ xinh đẹp. Cô hôn anh và đề nghị anh chung giường với mình. Cuộc gặp mặt này trở thành sự kiện Chúa hiển linh đối với Goldmund, và rồi anh nhận biết được rằng anh không thể nào đi tu được. Goldmund ôm trong mình khát vọng trải nghiệm mọi thứ, học hiểu về cuộc sống, về thiên nhiên theo lối thực hành của chính anh. Với sự ủng hộ của Narcissus, anh rời tu viện và lang thang khắp các miền quê, vẽ nên một câu chuyện về sự tương phản giữa nghệ sĩ và nhà tư tưởng. Câu chuyện kéo dài nhiều năm, mô tả chi tiết những sự việc cụ thể có liên quan đến những địa điểm mà ở đó Goldmund đã học được những điều hết sức có ý nghĩa, và anh thường xuyên trầm ngâm suy tưởng đến những trải nghiệm cũng như những lối sống này.   Đôi bạn chân tình của Hermann Hesse xoay quanh những cuộc đối thoại giữa Narcissus (Tri giác) và Goldmund (Trực giác): Con đường tiếp cận chân lý của tôi và anh có thể hòa hợp không? và Chúng ta bổ sung cho nhau những gì? Cuộc hành trình đi tìm bản ngã của Goldmund bắt đầu từ những lời khai minh của Narcissus. Điều này ngụ ý rằng Trực giác luôn cần sự hướng dẫn của Tri giác, đó cũng là khác biệt quyết định giữa Trực giác và Bản năng. Khi cái chết và những trải nghiệm đã bóc tách những lớp vỏ phù phiếm, họ đã gặp nhau ở cuối con đường và cùng bắt đầu một hành trình mới. *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Mùa hạ đã qua, hoa ruối hoa bìm đã tàn lụi, ao chuôm nín tiếng ếch kêu, hạc tung cánh bay đi. Goldmund trở về! Y trở về vào một buổi quá trưa âm u mưa bụi, y không vào tu viện mà đến ngay xưởng họa. Y đi chân, không có ngựa. Erich trông thấy y vào thì lo sợ. Thoáng nhìn nó biết ngay và chạy vội ra đón, nhưng hình như nó gặp một người khác: một Goldmund giả, già đi đến vài năm, mặt bơ phờ, ủ rũ, đầy cát bụi, nét mặt nhăn nhúm như người đau đớn bệnh nặng; tuy nhiên y không tỏ vẻ đau đớn mà mỉm miệng cười, một cái cười quen thuộc, bình tĩnh và nhẫn nại, Hai chân kéo lê một cách nhọc nhằn, người ra bộ mệt mỏi thiểu não. Chàng Goldmund đã biến ra người lạ ấy nhìn cậu thợ bạn với cặp mắt kỳ dị. Y trở về một cách kín đáo, làm như ở phòng bên cạnh bước sang, làm như mới hồi nãy vẫn ở đấy. Y giơ tay bắt tay Erỉch, không nói gì cả, không chào hỏi, không chuyện trò. “Tôi phải ngủ một giấc,” y chỉ nói vậy, ra bộ mỏi mệt vô cùng. Y bảo Erich đi chỗ khác và bước vào phòng mình ngay cạnh xưởng. Vào đến nơi y bỏ mũ ra quăng xuống đất, tháo giầy và lại gần giường. Phía trong là tượng Đức Mẹ phủ tấm màn, y tỏ vẻ thân mật nhưng không vén màn lên chào. Trái lại, y bước tới gần cửa sổ, trông thấy Erich sốt ruột đứng đợi ở ngoài, y nói lớn: “Erich, chú đừng nói cho ai biết tôi về nhé. Tôi mệt lắm. Để đến mai hãy hay.” Rồi y để nguyên quần áo mà đi nằm. Nằm một lúc lâu không ngủ được, y trở dậy lê bước nặng nề đến cái gương soi treo tường, nhìn vào thấy một chàng Goldmund nữa nhìn lại; một khuôn mặt quen thuộc nhưng đã thành ra người lạ, hình như không có mặt đối với mình, không có liên lạc gì với mình. Người ấy chỉ làm y nghĩ đến một người mà y biết: nhang nhác thầy Niklaus, nhang nhác nhà quý tộc ngày xưa đã tặng y một bộ quần áo cậu ấm, nhang nhác Thánh Jacques ở nhà thờ, một ông thánh râu ria, đội mũ hành hương, nom già nua lụ khụ, nhưng có vẻ vui vẻ nhân từ. Y nhận kỹ khuôn mặt trong gương như để biết rõ người lạ mặt. Khi đã nhận ra, y vội tỏ dấu thân mật: phải rồi, chính là mình, khuôn mặt đúng là những nét y tưởng tượng ra là nét mặt mình. Đó là một ông già mệt mỏi, đờ đẫn, mới đi xa về, một nhân vật để chọc cười, chẳng đáng đếm xỉa đến; nhưng ông ta chẳng có gì giận y, y còn khoái ông ta là đằng khác, y khám phá ra ông ta có cái gì mà chàng Goldmund xinh trai ngày xưa không có: ông già mỏi mệt và xuống dốc này có vẻ bằng lòng, đúng hơn, vẻ trai lỳ, trơ trơ. Y khẽ mỉm cười, ông già cũng mỉm cười đáp lễ. Chà! Y đi xa về đã dẫn về nhà một người như thế đó! Sau chuyến đi này y trở về, mỏi mệt và lụn bại như vậy đó! Không những y mất cả ngựa, tay nải lẫn tiền nong, y còn mất nhiều cái khác: tuổi trẻ, sức khoẻ, lòng tự tin, cặp má hồng hào, cặp mắt sáng nảy lửa. Tuy nhiên y cũng thích chí: ông già lẩm cẩm và hết gân này lại hợp sở thích của y hơn chàng Goldmund thuở trước. Ông ta có tuổi, yếu đuối và héo hon thật, nhưng chất phác hơn, an phận hơn, người ta dễ thỏa thuận với ông. Y cười, hạ một mi mắt nhăn nheo xuống, rồi vào gường ngủ. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Bạn Chân Tình của tác giả Hermann Hesse.
Người Đi Dây - Colum McCann
"Người đi dây" là cuốn tiểu thuyết cảm động, phản ánh cuộc sống người dân nước Mỹ trong thời chiến tranh với Việt Nam và những chuyển biến xã hội thập niên 70.   Người đi dây là cuốn sách viết theo thủ pháp tiểu thuyết mới của tác giả Column McCann. Tác phẩm đã nhận được giải thưởng Văn học quốc tế Impac Dublin 2011 và là cuốn sách bán chạy theo New York Times Tiểu thuyết gồm nhiều truyện dạng trọn vẹn và độc lập, nhưng các nhân vật và tình tiết đều có mối liên hệ với nhau. Tác giả mượn sự kiện có thực là nghệ sĩ đi dây qua hai tòa tháp trung tâm Thương mại thế giới tại New York để nói về những cuộc đời, phản ánh nước Mỹ thập niên 70 trong không khí xáo động vì chiến tranh Việt Nam lẫn những chuyển biến trong xã hội. Trong ánh rạng đông của một buổi sớm cuối mùa hè, người dân ở Manhattan đứng nín lặng, chằm chằm nhìn lên điều không thể tin nổi ở tòa tháp đôi. Đó là tháng 8, năm 1974, và một người biểu diễn bí ẩn hết chạy lại nhảy trên sợi dây chăng giữa những tòa tháp, lơ lửng cách mặt đất một phần tư dặm. Dưới đường phố, biết bao nhiêu những cuộc đời bình dị đã trở nên phi thường trong bức chân dung lộng lẫy về một thành phố và những con người của nó, được phác họa bởi ngòi bút tiểu thuyết gia xuất sắc Colum McCann, những con người ấy được liên hệ với nhau theo những cách mà chính họ cũng không hề hay  biết. Người đi dây đã nắm bắt được cái hồn của nước Mỹ trong buổi giao thời, với triển vọng phi thường, và ẩn sau là một sự vô tội đến xé ruột. Góc nhìn tinh tế của tác giả khai thác được những khía cạnh rất đời thường mà gây cảm động sâu sắc. *** Colum McCann sinh ngày 28/02/1965 tại Dublin, Ireland. Hiện sống cùng vợ và ba con ở New York và đang giảng dạy tại chương trình Viết Sáng tạo, trường Hunter College. McCann được xem là một người nghệ sĩ quốc tế, sinh ra tại Ireland nhưng ông đã đi du lịch hầu như khắp thế giới. Đến Hoa Kỳ năm 1986, trong hai năm trên chiếc xe đạp ông đã đi khắp nước Mỹ với quãng đường 12.000 km. Rồi cùng vợ Allison sống ở Nhật 18 tháng trước khi đến New York. Trong một bài phỏng vấn, McCann đã chia sẻ "Tôi tin vào sự bình đẳng của những câu chuyện. Tôi yêu sự thật rằng những câu chuyện của chúng ta có thể vượt qua tất cả các loại biên giới và ranh giới. Tôi cảm thấy khiêm nhường khi biết rằng mình chỉ là một phần nhỏ bé của nền tri thức văn chương. Tôi lớn lên trong một ngôi nhà, ở một thành phố, trong một quốc gia được hình thành từ những quyển sách. Tôi không biết còn có đặc ân nào lớn hơn việc được kể lại những câu chuyện hay lắng nghe chúng. Đó là điều làm cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn." Colum McCann là tác giả của 6 tiểu thuyết và 2 tập truyện. Tác phẩm của ông đã được xuất bản với hơn 35 ngôn ngữ, và đã xuất hiện trên các tờ New Yorker, Esquire, Paris Review, Granta, The Atlantic Monthly, GQ, Tin House, Bomb,... Ông là người nhận được nhiều danh hiệu quốc tế, giải thưởng Sách quốc gia Mỹ (The National Book Award) năm 2009, tiểu thuyết nước ngoài hay nhất năm 2010 ở Trung Quốc, giải Impac Dublin (2011), Hiệp sĩ Văn học Nghệ thuật từ chính phủ Pháp và một đề cử Oscar. Tiểu thuyết Let the great world spin (Người đi dây, NXB Trẻ) đã mang về cho Colum McCann rất nhiều giải thưởng lớn và dành được sự ca ngợi trên toàn thế giới. Trở thành tác giả sách bán chạy nhất trên 4 lục địa. Bản quyền phim Let the great world spin đã được mua bởi J.J Abrams đang trong quá trình bấm máy. Tiểu thuyết mới nhất của Colum McCann Transtalantic được xuất bản vào mùa hè 2013 bởi Random House (U.S), Blomsbury (U. K) và muộn hơn trên các nhà xuất bản nước ngoài khác như Belfond (Pháp) và Rowholt (Đức). Mời các bạn đón đọc Người Đi Dây của tác giả Colum McCann.
Lâu Đài Cát - Magdalena Witkiewicz
Bằng ngôn ngữ của nhà văn và sự nhạy cảm của phụ nữ, Magdalena Witkiewicz đem tới những cảm xúc hỗn độn của một người đàn bà trước vực thẳm hôn nhân. Veronika và Marek quen nhau khi còn là học sinh trung học. Sáu năm hẹn hò của họ kết thúc bằng một đám cưới hạnh phúc. Với Veronika, được kết hôn với mối tình đầu là một điều tuyệt vời. Mặc kệ những lời trêu chọc của cô bạn thân lẳng lơ Dominika: "Sẽ chán chết nếu chỉ kè kè với một người đàn ông", Veronika vẫn mỉm cười hạnh phúc, bởi người chồng Marek là quá đủ với cô. Họ luôn ở bên nhau, tận hưởng những cảm xúc ngọt ngào của tình yêu cho đến khi những bất ổn xuất hiện. Khi những cặp tình nhân xung quanh đã làm cha mẹ, Veronika và Marek vẫn là vợ chồng son. Veronika rất yêu trẻ con và luôn mơ ước sẽ sinh cho Marek những đứa con xinh xắn. Nhìn con gái đáng yêu của cô bạn thân Eva, ước mơ đó càng mãnh liệt. Cô bắt đầu bàn bạc nghiêm túc với chồng về chuyện sinh con. Cô bắt chồng ăn uống và sinh hoạt điều độ để khả năng thụ thai cao hơn. Điều này làm Marek không thoải mái và mâu thuẫn dần nảy sinh giữa hai người. Nhưng mọi thứ vẫn không như ý muốn. Cuối cùng, cả hai quyết định tìm đến bác sĩ. Kết quả kiểm tra sức khỏe như một lưỡi dao chĩa thẳng vào cuộc hôn nhân của họ. Mọi vấn đề đến từ phía Marek. Tinh trùng của anh quá yếu để thụ thai. Để tình hình được cải thiện anh buộc phải điều trị bằng thuốc. Marek bắt đầu thấy ngột ngạt khi Veronika lúc nào cũng đề cập đến vấn đề con cái. Ngược lại, Veronika bực bội khi thấy chồng hút thuốc và uống bia. Cô còn có cảm giác như chính Marek đã cướp đi cơ hội làm mẹ của mình. Đúng lúc đó Kuba xuất hiện. Bằng sự tinh tế và nhạy cảm của một người đàn ông từng trải, anh mang đến cho Veronika những lời khuyên hữu ích, làm tâm trạng của cô nhẹ nhàng hơn. Họ bắt đầu gọi điện và gửi email cho nhau. Cùng thời gian này, Veronika nghi ngờ Marek gian díu với Dominika. Cộng thêm việc anh suốt ngày vắng nhà và lấy lý do bận bịu công việc khiến khoảng cách giữa hai vợ chồng ngày một lớn. Marek quyết định ra đi để cho cả anh và Veronika có thời gian suy nghĩ thông suốt mọi chuyện. Ban đầu, tình cảm giữa Veronika và Kuba chỉ là tình bạn thuần túy. Nhưng khi Marek ra đi, họ đã trở thành bạn tình của nhau. Veronika hoàn toàn hài lòng với mối quan hệ này. Chỉ đến khi biết mình có thể đã mang thai với Kuba, cô mới nhận ra mọi khúc mắc trong lòng bấy lâu. Cô rất mong mỏi có con, nhưng khi biết mình có thể đang mang thai, Veronika lại không cảm thấy hạnh phúc như cô vẫn nghĩ. Cô nhận ra, cô yêu chồng nhiều hơn cả việc cô muốn có một đứa con. Bao lâu nay khát khao có con đã làm cô quên đi điều đó... Lần đầu tiên trong đời, Veronika cảm thấy may mắn khi mình không mang thai. Cô quyết định cắt đứt với Kuba và cho cuộc hôn nhân của mình thêm một cơ hội. Cuốn tiểu thuyết khép lại với cái kết hạnh phúc dành cho Veronika và Marek. Họ trở về bên nhau và có một cô con gái xinh xắn. "Hôn nhân không chỉ là sống cùng nhau và đeo nhẫn cưới mà là phải thấu hiểu và thông cảm cho đối phương" là ý nghĩa Veronika tìm được cũng là thông điệp của câu chuyện. Bằng bút pháp tinh tế của một nhà văn và sự từng trải của một người phụ nữ có gia đình, Magdalena Witkiewicz đã vẽ nên một bức tranh sống động và chân thực về tình yêu và hôn nhân. Tác giả không cho rằng tình yêu là vĩnh cửu. Bằng câu chuyện đầy thực tế, tác giả cho người đọc thấy, dẫu có là tình yêu đích thực vẫn luôn có một đặc tính: mong manh dễ vỡ. Giữ gìn một tình yêu cũng giống như xây một lâu đài cát, ta phải luôn để mắt đến nó để giữ không cho sóng cuốn đi. Lâu đài cát không chỉ là câu chuyện về một về một người phụ nữ đau khổ trước hôn nhân tan vỡ. Đó còn là câu chuyện của niềm khát khao làm mẹ đến vô bờ. Chính nỗi khát khao đó khiến con người ta đứng trước nhiều lựa chọn khó khăn. Magdalena Witkiewicz đã rất khéo léo khi xây dựng tính cách các nhân vật. Một Veronika với vẻ ngoài cứng cỏi nhưng bên trong lại rất yếu mềm. Cô là một người phụ nữ trưởng thành nhưng đôi lúc lại ngây thơ như một thiếu nữ.  Đó là Marek - một người chồng vừa cứng rắn, vừa cương quyết, nhưng vẫn tràn đầy yêu thương và luôn điềm tĩnh. Còn Kuba - người đàn ông tinh tế và mạnh mẽ - tưởng chừng rất tuyệt vời hóa ra lại là một người đàn ông nhu nhược và chỉ biết trốn chạy. *** Magdalena Witkiewicz là một cái tên quen thuộc trong dòng văn học lãng mạn Ba Lan. Ngoài Lâu đài cát, tác giả có một số cuốn tiểu thuyết khá nổi tiếng về đề tài phụ nữ và gia đình, đã ra mắt độc giả Việt Nam như: Trường học dành cho các bà vợ, Chuyện kể của người đàn bà không chung thủy... Lâu đài cát do Nguyễn Thị Thanh Thư chuyển ngữ, vừa được Nhà xuất bản Trẻ phát hành tại Việt Nam. *** “Lâu đài cát” – chúng tôi đã suy nghĩ rất lâu về tựa đề này. Tôi đã khăng khăng đòi cuốn sách phải có tên là “Trên khúc ngoặt”. Bởi nó nói về chuyện đó. Về những khúc ngoặt của cuộc đời, mà đôi khi chúng xảy ra hoàn toàn bất ngờ. Và đôi khi tưởng như sẽ dẫn đến một con đường thẳng. Nhưng lúc này, khi đọc lại một lần nữa toàn bộ cuốn sách, tôi hiểu rằng sự mong manh của lâu đài cát là phù hợp hơn cả... Tất nhiên là có một số người mà tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn vì sự ủng hộ trong quá trình viết. Nếu không có các bạn, thì cuốn sách sẽ không giống như cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay. Trước hết, xin cám ơn các bạn đọc nữ của tôi, nhưng người rất hiểu về chủ đề của cuốn sách và đã viết cho tôi. Tôi không thể kể hết tên các bạn ra đây được. Cám ơn Kasia Drywa vì sự giúp đỡ và Cô gái trên chiếc tàu xoáy cao tốc (có thể cuối cùng thì bạn ấy đã rời khỏi chiếc tàu cao tốc) vì cuốn nhật ký. Cám ơn cô bạn gái thân thiết của tôi, Gosia Lorek vì sự ủng hộ không ngừng nghỉ trong tất cả các giai đoạn hình thành nên tiểu thuyết này. Vì điều đó, tôi cũng cám ơn Ola Kucewicz-Nastaly – nhờ bạn mà những cái thai trong sách không đến nỗi quá hiển nhiên... Và như vậy sẽ hay hơn. Và nhờ bạn mà những calo được sử dụng trong phạm vi sáng tạo đã không bị phí phạm... Xin cám ơn! Cám ơn Ania Jarmolovska và Monika Borovska vì cuộc nói chuyện của chúng ta ở khu vui chơi. Nhờ các bạn mà tôi đã nảy ra những ý tưởng rất rối rắm... Và còn nữa Ania – cám ơn vì những tư vấn về tâm lý đối với các nhân vật của tôi. Tôi cũng xin cám ơn chuyên gia lớn nhất trong lĩnh vực thần thoại – cô gái hai mươi tuổi Sonia Domaradzka, người mà khi nghe tôi hỏi rằng, trong thần thoại Hy Lạp có nhân vật nào muốn có con nhưng không thể, đã suy nghĩ chỉ trong ba giây và trầm ngâm trả lời: “trong thần thoại Hy Lạp thì em không biết, nhưng trong thần thoại Ai Cập thì có Neftyda, người...” – và ở đây tôi đã biết đến mọi mối liên kết giữa Neftyda với các vị thần Hy Lạp... Cám ơn em, Sonia!!! Michalina Malczewska, xin cám ơn vì phần âm nhạc tuyệt vời và sự thể hiện ca khúc do tôi viết lời cho riêng tiểu thuyết này. Michalina đã đưa vào âm nhạc chính xác cái không khí của cuốn sách. Mời các bạn nghe ca khúc này trên trang web của tôi www.magdalenawitkiewicz.pl. Cám ơn Ania Grzyb vì sự ủng hộ trong từng giai đoạn viết cuốn sách này; Slawek – vì những tư vấn liên quan đến xe máy và không chỉ có vậy. Cám ơn Ivona Grodzka-Górnik, vì điều này: trên bảng của chị ấy tôi đã nhìn thấy sơ đồ cuốn sách của chị được viết ra rất tuyệt vời và tôi đã bỏ qua ý tưởng ấy. Cám ơn Kasia Bondz vì đã dạy Ivonka lập bảng kế hoạch. Các bạn có biết rằng đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi được viết theo sơ đồ dựng sẵn? Cám ơn mẹ tôi vì đã quán xuyến mọi việc (nhất là các con tôi), khi deadline hối thúc. Và Mai Witkiewicz, người đã trông nom các con tôi một cách kiên cường khi tôi ở Amalka để viết cuốn sách này. Kamilia Wyroślak, vì những bức ảnh đẹp, như mọi lần! Cám ơn ông xã tôi vì hình như anh đã nhất trí với việc tôi sẽ là nhà văn. Và cám ơn các con tôi – đơn giản vì sự hiện hữu. Vô cùng cám ơn Olga và Marysia. Vì sự tận tâm và vì các bạn yêu những gì mình làm. Hay ít ra cũng có vẻ như vậy. Và các bạn, NHỮNG BẠN ĐỌC YÊU QUÍ CỦA TÔI! Không có các bạn chắc sẽ không có tôi. Như thường lệ, tôi hết sức muốn biết nhận xét của các bạn về cuốn sách của tôi, về đứa con tinh thần thứ bảy này. Tôi chờ mail của các bạn ([email protected]) và xin mời các bạn đến với những cập nhật mới nhất trên Facebook www.facebook.com/witkiewicz. Magdalena Witkiewicz Mời các bạn đón đọc Lâu Đài Cát của tác giả Magdalena Witkiewicz.