Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông

Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Rồng Trong Bể Kính
Một chàng trai trẻ bị đâm đến chết vì những con cá quý giá của mình. Một ông trùm châu Á mua con cá rồng độc nhất vô nhị với giá 150.000 đô la. Một thám tử đuổi theo những kẻ buôn lậu thú cưng qua đường phố New York... Cuốn sách Con rồng sau bể kính kể chuyện lại những câu chuyện phi thường về nỗi ám ảnh, sự hoang tưởng và những tên tội phạm liên quan đến một loài cá không giống bất kì loài vật nào khác: một động vật ăn thịt hung dữ xuất hiện từ thời kỳ khủng long còn tồn tại trên trái đất.  "Một cuốn sách có tính khai mở lạ kì." - The New York Times  "Mang màu sắc căng thẳng của một tiểu thuyết trinh thám, Voigt đã vẽ nên một thế giới sống động của những vụ giết người, buôn bán chợ đen và việc hủy hoại môi trường sinh tồn của một loài cá mà trớ trêu thay, nó lại được coi là biểu tượng của may mắn và sức cuốn hút." - Discover "Một câu chuyện vô cùng ấn tượng, đầy bất ngờ và hồi hộp... Mọi thứ bỗng trở nên kì dị." - The Wall Street Journal (Con rồng sau bể kính kể về hành trình nữ nhà báo Emily Voigt đi tìm cá rồng hoang dã - loài cá cảnh đắt nhất thế giới. Hành trình này đã đưa cô đi khắp toàn cầu, theo chân những người nuôi cá cảnh kì lạ đến các khu rừng xa xôi nhất hành tinh để lần theo dấu vết của cá rồng tự nhiên.)  *** Một pho kiến thức sâu rộng và đồ sộ đến đáng sợ! Tác giả Emily Voigt đã phải tham khảo và tìm tòi rất lâu để có tư liệu viết lên cuốn sách này, chỉ nhìn vào phần Lời kết và Lưu ý tham khảo cuối sách là đủ thuyết phục người đọc, đặc biệt là những người thích tìm hiểu một thế giới nửa thực nửa hư - săn tìm loài cá còn tồn tại từ thời khủng long với "chức năng" mà người châu Á vẫn hay nói - gánh "hạn" cho chủ nhân, điều truyền tai nhau này đã đẩy giá cá rồng lên cao và kéo theo đó là những tay thợ săn bậc nhất. Điều đặc biệt là Emily đã viết truyện này theo hơi hướng trinh thám, nghĩa là các chương truyện được đặt tên và triển khai như một cuốn trinh thám bí ẩn thực thụ. Từng bước tìm kiếm loài cá này đều rất cuốn hút người đọc không kém gì theo đuổi những vụ án của Sherlock Holmes! *** Thực ra chúng ta chưa bao giờ chinh phục được thế giới, chưa bao giờ hiểu rõ; chỉ là chúng ta nghĩ chúng ta có quyền kiểm soát thế giới. Thậm chí ta còn không biết vì sao mình lại phản ứng theo một cách nhất định trước các tổ chức sinh vật khác, và tha thiết cần chúng theo nhiều cách khác nhau đến thế. - Edward O. Wilson, Biophilia* Nhà sinh vật học, tác giả cuốn sách BIOPHILIA xuất bản năm 1984. Thuật ngữ biophilia được ông giới thiệu mang ý nghĩa “thúc đẩy mối liên kết với các dạng sống khác.” *** TAIPING, MALAYSIA, THÁNG 11 NĂM 2004 Chan Kok Kuan vẫn chưa về. Lo lắng đến mất ngủ, cha anh - ông Chan Ah Chai - đứng bên cửa sổ nhìn đăm đăm ra bên ngoài, mong thấy một dấu hiệu của cậu con trai qua màn mưa trắng xóa. Cơn mưa bắt đầu từ lúc nửa đêm và đến bốn giờ sáng vẫn còn đang trút ào ào xuống mặt đất - làm nước ngập hết đường phố và tràn ngập các hồ trong các vườn hoa công cộng, nơi những cây còng* trăm tuổi tỏa tán lá khổng lồ trên đường Residency. Còn gọi là cây muồng tím, muồng ngủ, me tây…, ở các nước khác được biết đến là cây saman, rain tree, monkey pod.v.v… Chàng thanh niên Chan ba mươi mốt tuổi, thân hình dẻo dai và tính tình cởi mở vốn không phải kiểu người ra ngoài lúc tối muộn mà không gọi về. Anh đã về nhà ăn tối như thường lệ sau khi làm việc cả ngày ở cửa hàng cá cảnh do anh tự mở từ mấy năm trước. Ngay từ khi còn nhỏ anh đã luôn yêu thích những thứ có vây. Giờ thì anh đã trở thành chuyên gia về một giống loài cụ thể: cá rồng châu Á, loài cá nhiệt đới đắt đỏ nhất thế giới. Ở Trung Quốc sinh vật này được gọi là long ngư - cá rồng, vì thân hình dài uốn lượn với những cái vẩy lớn lấp lánh và tròn như đồng xu của nó. Vào độ trưởng thành, loài cá ăn thịt này có thể dài bằng một thanh gươm của samurai, khoảng sáu mươi đến chín mươi centimet, với đủ loại ánh màu. Cặp râu mọc ra từ môi dưới và hai cái vây ngực mỏng tang khỏa nước từ hai bên thân gợi dáng hình của một chú rồng đang bay lượn. Sự tương đồng này khiến người ta tin tưởng rằng loài cá này sẽ mang lại thịnh vượng và may mắn, đồng thời đóng vai trò như một thứ bùa bảo vệ để xua đuổi tà ma và tai ương. Tiếng tăm của giống cá này nổi lên vào cùng khoảng thời gian Chan Kok Kuan từ bỏ công việc thợ hàn để theo đuổi ước mơ bán cá cảnh của mình. Thiên hạ đồn rằng một chú cá rồng quý hiếm đã được người mua Nhật Bản trả tới 150 ngàn đô la. Tuy Chan không phục vụ nhóm khách quý tộc đó, nhưng anh có tài chọn những con cá khỏe mạnh không bệnh tật, với màu ánh kim được yêu thích và dữ tướng. Cửa hàng của anh lúc nào cũng duy trì tới năm mươi cá thể, được nhốt trong những cái bể riêng để ngăn chúng khỏi đánh nhau đến chết. Hầu hết chúng là cá non, chỉ to bằng cỡ lòng bàn tay hay đế giày của Chan là cùng, và được bán với giá tới 1.500 đô một con cho những tay chơi ở địa phương và các đại lý phân phối sẽ mang chúng đi khắp thế giới. Một trong những doanh nhân kiểu đó đã gọi tới đây hồi chiều nay, hỏi mua hết chỗ cá còn lại trong cửa hàng. Cha anh, lúc đó cũng đang phụ giúp ở cửa hàng như mọi ngày, đã nghe lỏm được cuộc trò chuyện và cảnh báo con trai chỉ nên chấp nhận tiền mặt. Bây giờ, trong lúc nhìn ra ngoài cửa sổ vào màn mưa như thác đổ, ông già Chan tự hỏi có phải con trai mình đã trở lại cửa hàng sau bữa tối để gặp người mua này và quyết định ở lại tránh bão luôn hay không. Khoảng gần sáu giờ sáng, ngay khi cơn mưa tạnh hẳn, người cha liền trèo lên chiếc xe máy và lái vào thị trấn. Sáng hôm ấy trời rất đẹp. Bầu không khí mang mùi đất ẩm và đường phố đều đen bóng và trơn trượt, những vũng nước nhỏ lấp lóa ánh vầng dương vừa nhô ra khỏi các đám mây. Vẻ bình yên của thị trấn làm ông Chan Ah Chai trấn tĩnh lại. Ông đã sống ở Taiping suốt sáu mươi tư năm cuộc đời mình, quê hương ông trước đây từng là một điểm nghỉ dưỡng trong chế độ thực dân còn ngày nay nổi tiếng trong giới những người về hưu muốn tìm kiếm một cuộc sống bình lặng. Sau ba thập kỉ làm việc quần quật trong một nhà máy cao su, giờ đây ông dành hết những tháng ngày còn lại của cuộc đời với việc cho cá ăn, thay nước và đóng gói các đơn hàng cùng con trai. Rẽ vào một dãy các cửa hàng quen thuộc trên Jalan Medan Bersatu, ông trông thấy ngay cửa hàng cá cảnh Kuan vẫn còn đang đóng cửa. Nhưng ngay khi xuống khỏi xe máy và tiến lại gần cửa, ông phát hiện ổ khóa đã biến mất. Nâng tấm phên cửa lên, ông thận trọng bước vào không gian nhỏ hẹp, tối om với nhiều bể cá đang hắt ra ánh sáng mờ mờ từ những ngọn đèn neon. Khi mắt đã làm quen với bóng tối, ông trông thấy cửa hàng vẫn gọn gàng ngăn nắp, cá vàng và cá bảy màu vẫn lờ lững bơi trong bể của chúng. Thế nhưng khi bước tiếp, giày của ông giẫm lên lớp kính vỡ lạo xạo. Ông nhìn xuống và trông thấy một vệt thẫm đỏ trên sàn bê tông. Vệt máu này lại dẫn tới những vệt máu to hơn, dường như có một con thú bị thương đang cố trốn thoát bằng cả bốn chi. Điều mà người cha này tìm thấy ở cuối con đường ghê sợ này sẽ in dấu trong tâm trí ông và làm ông giật mình tỉnh giấc giữa đêm trong suốt phần đời còn lại: Cậu con trai yêu quý của ông đang nằm nát bấy trên mặt đất, bị đâm đến mười nhát. Anh đã chết - do bị chém một cách tàn bạo, cổ anh bị cứa đứt sâu đến nỗi đầu gần lìa hẳn ra. Ông già bắt đầu run rẩy không kiểm soát nổi trong lúc lảo đảo lao ra ngoài cầu cứu. Nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Cảnh sát chẳng tìm thấy hung khí hay một dấu vân tay nào. Ví của nạn nhân vẫn còn nguyên trong túi quần, không mảy may mất gì. Chỉ duy nhất một thứ đã bị mất. Phía trên thân thể vô hồn của Chan Kok Kuan, những bể cá rồng trống trơn. Hơn hai mươi con cá rồng đã biến mất. Mời các bạn mượn đọc sách Con Rồng Trong Bể Kính của tác giả Emily Voigt & Orkid (dịch).
Bạc Mệnh
Lần đầu tiên sáng tác với bút danh Benjamin Black, John Banville – tác giả từng đoạt giải thưởng Man Booker Prize – giới thiệu với bạn đọc nhân vật Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học hay cáu kỉnh đồng thời là một thám tử khó quên của thế giới tiểu thuyết trinh thám. Khoa nghiên cứu bệnh học của Quirke nằm ở tầng hầm của một bệnh viện ngay trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày, giữa đêm hôm khuya khoắt, ông tình cờ bắt gặp một xác chết lạ ngay trong khoa của mình. Hơn thế nữa, chính người anh “cột chèo” của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân… *** Christine Falls (Bạc mệnh) là một cuốn tiểu thuyết pha trộn các thể loại: trinh thám, hình sự, phân tâm học... với những án mạng, ma túy, tình dục... Nhưng đó chỉ là bề mặt, mạch ngầm của tác phẩm là nỗi ưu tư, suy tưởng trước sự xô dạt của thời đại và sự lạnh lùng của con người. Cô y tá Brenad Ruttledge đang chuẩn bị lên đường tới Boston làm việc, một công việc hứa hẹn khiến cho túi tiền của cô rủng rỉnh thì đột nhiên nhận được lời đề nghị hết sức kỳ quái nhưng không thể từ chối từ bà y tá trưởng Moran đáng sợ. Bà ta muốn cô mang theo một đứa trể lên tàu cùng tất cả giấy tờ liên quan đến nó và giao lại cho viên quản lý tàu khi cô tới Southampton. Nhưng ngay cả Brenda cũng không ngờ rằng, cái gật đầu đó đã khiến cô phải sống trong sợ hãi suốt cuộc hành trình. Trong khi đó, tại khoa nghiên cứu bệnh học của Quirket nằm ở tầng hầm một bệnh viện ngay trung tâm thành phố, lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông. Cho đến một ngày, bữa tiệc chia tay y tá Breanda đã khiến Quirke ghé thăm phòng làm việc của mình giữa đêm hôm khuya khoắt. Tại đó, Quirke tình cờ bắt gặp ông anh cột chèo, người làm việc cùng khoa với ông, đang ở đó với một xác chết lạ, xác chết với bệnh án mang tên Christine Falls. Hơn thế nữa, chính người anh này đang cố tình xuyên tạc và giấu diếm nguyên nhân tử vong của nạn nhân. Sự tò mò đã thôi thúc nhà nghiên cứu bệnh học Quirke tìm hiểu và vô tình bị đẩy vào một thế giới ngầm của ma túy, tình dục, những sự sống bị coi rẻ... thế giới khác xa với thế giới ông đang sống. Có thể nói, Bạc Mệnh là cuốn tiểu thuyết trinh thám đầy tham vọng, mô tả cõi u ám của những bí ẩn và tính cách con người. *** Tài năng của tiểu thuyết gia Benjamin Black trong tiểu thuyết trinh thám 'Bạc mệnh' lại một lần nữa được giới chuyên môn đánh giá là đã phơi bày tội ác đến tận cùng, có thể sánh với mọi bi kịch cổ điển Hy Lạp. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là Quirke. Ông làm việc tại Khoa nghiên cứu bệnh học nằm ở tầng hầm của một bệnh viện ngay trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn và tưởng như quá đỗi thân quen và chưa bao giờ vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày ông bắt gặp một xác chết lạ có tên Christine Falls, một xác chết có nhiều dấu hiệu bất thường ngay trong khoa của mình. Nhưng điều khiến Quirke bất bình hơn khi Mal (Malachy) - người anh em "cột chèo" của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân bằng cách kết luận vào biên bản khám nghiệm tử thi: "Chết do tắc mạch phổi". Quirke là người làm việc trong ngành y nhiều năm, ông thừa biết rằng đây là căn bệnh rất khó xảy ra ở những người trẻ. Vậy cái chết này rõ ràng có nhiều uẩn khúc. Cuối cùng, Quirke đã hoá thân thành thám tử bất đắc dĩ. Cũng tại thời điểm Quirke đang đau đầu truy tìm thủ phạm thì bà Mogan đã bị sát hại. Thủ phạm muốn giết người bịt đầu mối? Câu chuyện với những "nút thắt" bất ngờ làm cho cuộc truy tìm trở nên hấp dẫn. Khả năng phơi bày đến chân tơ kẽ tóc động cơ u ám và sự bí ẩn của kẻ phạm tội không chỉ cho người đọc thấy tài viết văn trinh thám của Benjamin mà còn cho độc giả thấy tội ác đến tận cùng của kẻ thủ ác. Bạc mệnh là câu chuyện trinh thám viết cuộc sống của con người ở Dublin vào thập niên 1950, nhờ cách xây dựng và cảm thụ cốt truyện thông minh, sâu sắc mà Benjamin đã tái hiện đời sống con người ở cùng đất này với những trải nghiệm và cảm xúc sôi nổi, dữ dội và đầy tham vọng. Nhờ đó, tấn bi kịch trong cuốn tiểu thuyết này đã được bạn đọc... giải mã và đón nhận như một tác phẩm mang tầm cao mới trong văn chương. *** Tác giả Benjamin Black là bút danh của John Banville, nhà văn nổi tiếng người Ailen. Các tác phẩm của ông đã giành được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Man Booker Prize 2005 cho cuốn Biển Cả (The Sea). Hiện ông sống ở Dublin. Bộ 3 tác phẩm: Bạc Mệnh, Thiên Nga Bạc, Vượn Cáo *** Bạc Mệnh Lần đầu sáng tác với bút danh Benjamin Black, John Banville - tác giả từng đoạt giải thưởng Man Booker Prize - giới thiệu với bạn đọc nhân vật Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học hay cáu kỉnh đồng thời là một thám tử khó quên của thế giới tiểu thuyết trinh thám. Khoa nghiên cứu bệnh học của Quirke nằm ở tầng hầm một bệnh viện giữa trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày, giữa đêm hôm khuya khoắt, ông tình cờ bắt gặp một xác chết lạ xuất hiện ngay trong khoa của mình. Hơn thế nữa, chính người anh "cột chèo" của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân... *** Thiên Nga Bạc Với Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học người Dublin từng xuất hiện trong tiểu thuyết Bạc Mệnh, thời thế đã thay đổi. Khi Billy Hunt, người quen từ hồi học đại học, tìm đến nhờ Quirke đừng mổ xác khám nghiệm tử thi người vợ đã chết của gã, ông biết có điều bất ổn. Cũng như mọi khi, ông nhất định phải tìm cho ra nguyên nhân bất ổn ấy. Dần dà, ông dấn sâu vào một thế giới đen tối của tệ nạn ma túy, của ám ảnh tình dục, của tống tiền vài chết chóc, một thế giới mà ngay cả thanh tra Hackett đáng gờm cũng chỉ có thể cho ông một dúm manh mối. *** Vượn cáo John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mulholland hay còn gọi là Bill Lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mulholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ quãng đời trước, nhưng nói chung Glass hài lòng với hiện tại. Để có được thông tin về người bố vợ, Glass đã thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là "Vượn Cáo". Từ lúc ấy, cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, "Vượn Cáo" bị sát hại, Glass quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** May mà cô đi tàu chở thư lúc chập tối. Với cô, khởi hành lúc sáng sớm chẳng khác cực hình. Trong bữa tiệc tối qua, khi tìm thấy hũ rượu nặng, một sinh viên trường y bèn pha với nước cam ép. Vì uống hai ly nước ấy nên giờ miệng cô khô đắng, đầu nhức như búa bổ. Suốt buổi sáng, cô nằm bẹp trên giường, người vẫn còn ngầy ngật. Cô chỉ muốn thiếp đi một lát nhưng không được, chỉ nằm khóc với chiếc khăn tay nhét đầy miệng ngăn tiếng nức nở vang xa. Nghĩ đến việc buộc phải làm hôm nay, cô run sợ. Không, phải nói là khiếp đảm mới đúng. Đến cầu tàu ở Dun Laoghaire, cô quá kích động, không thể đứng yên một chỗ nên cứ đi tới đi lui hoài. Nghe lời họ dặn, cô cất hành lý trên khoang tàu thủy rồi trở xuống bến tàu đứng đợi. Chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà cô lại nhận lời đề nghị của người ta. Trước đó, cô đã nhận được lời mời đến Boston làm việc và bây giờ thêm cả viễn cảnh sẽ có tiền tiêu rủng rỉnh. Tuy nhiên, cô biết trên tất cả là vì cô sợ bà y tá trưởng nên đã không dám chối từ khi bà đề nghị cô mang theo đứa bé. Kiểu nói chuyện của bà khiến người ta phải khiếp hãi, thậm chí ngay cả lúc tiếng bà khẽ khàng nhất. Hôm đó, bà trợn cặp mắt lồi nhìn cô và bảo: - Brenda này, ta muốn cô cân nhắc thật kỹ vì đây là một trọng trách to lớn. Cô gái như lạc vào một thế giới khác: lòng dạ nôn nao, mồm miệng khô đắng... Còn nữa, thứ cô đang mặc không phải bộ đồng phục y tá mà là bộ váy áo bằng len màu hồng cô mua để dành cho chuyến đi xa đặc biệt này. Bộ quần áo mặc lúc khởi hành, nhưng không phải để mặc sau đám cưới. Đồng thời, thay vì đi hưởng tuần trăng mật, cô sẽ dành hẳn một tuần chăm sóc hài nhi, trong lúc bên cạnh không hề có bóng dáng đức lang quân. Nghe cô nhận lời, nữ y tá trưởng cười nửa miệng trông còn kinh khiếp hơn cả cặp mắt như sắp nhảy khỏi tròng của bà. - Cô thật tốt bụng, Brenda ạ. Cầu Chúa phù hộ cho cô. Phải, cô chỉ còn biết cầu khẩn Đấng Tối Cao che chở. Cô thiểu não nhủ thầm: Tối nay, cô cùng đứa bé lênh đênh trên thuyền. Suốt ngày mai, họ sẽ rong ruổi đường trường, đi xe lửa đến tận Southampton. Tiếp theo là năm ngày vượt biển và sau đó, có trời biết còn những gì nữa. Cô chưa bao giờ xa nơi chôn nhau cắt rốn, đến một xứ sở hoàn toàn xa lạ, ngoại trừ có một lần, hồi cô còn bé tí, cha cô có đưa cả nhà đi chơi một ngày tại đảo Man. Chiếc xe hơi đen bóng loáng nhích từng chút giữa đám đông hành khách đang chuẩn bị xuống con tàu nhỏ. Khi còn cách chỗ cô đứng khoảng mười bước chân, xe dừng bánh. Cánh cửa hàng ghế sau bật mở. Một bà tay xách túi bằng vải bạt, tay kia ôm một bọc cuốn chăn kín. Bà không còn trẻ, khoảng sáu mươi tuổi nhưng ăn mặc như người bằng nửa tuổi bà: bộ vest xám bó sát, váy ôm chỉ dài ngang ống chân, chiếc thắt lưng siết chặt ngang eo khiến mỡ bụng phồng lên ngay phía dưới bản rộng của dây lưng. Bà đội chiếc nón nhỏ xíu có mạng màu xanh dương sẫm buông ngang sống mũi. Ngất ngưởng đi ngang qua vỉa hè lát đá trên đôi giày gót nhọn hoắt, bà mím cặp môi tô son đỏ choét trông như đang cố nặn một nụ cười. Cặp mắt đen của người này nhỏ xíu, ánh mắt sắc như dao. Bà mở lời: - Cô là Ruttledge phải không? Tôi là Moran đây. Giọng nói ỏn ẻn cũng giả tạo, y hệt mọi thứ còn lại thuộc về bà. Bà ta trao túi cho cô và nói: - Trong này có đầy đủ tã lót và vật dụng cho đứa nhỏ, kèm cả giấy tờ của nó. Khi lên tàu ở Southampton, cô hãy đưa cho viên quản lý tàu. Ông ta sẽ biết ngay thôi. Bà nheo mắt soi mới nhìn Brenda, biến cặp mắt đen thành hai đường kẻ nhỏ. - Cô làm sao thế? Trông cô xanh lắm. Brenda bèn chống chế, bảo rằng cô khỏe, chỉ tại đêm qua cô thức khuya. Bà Moran cười nhạt, chìa bọc chăn. - Chắc tại "ly sầu tiễn đưa" nên mới ra nông nỗi? Đây, bồng đi. Cẩn thận, kẻo tuột tay đánh rơi nó thì mang họa. (Bà cười sợ sệt, đoạn nhíu mày như tự trách mình đùa quá trớn). Tôi xin lỗi. Điều đầu tiên khiến Brenda ngạc nhiên là cái bọc kia nóng sực, như thể người ta bọc cục than cháy đỏ trong chăn. Chỉ có điều “cục than” này mềm và động đậy. Khi ôm chiếc bọc trước ngực, lòng dạ cô gái nôn nao. - Ôi! Cô kêu lên vì ngạc nhiên, vui sướng. Bà Moran vẫn chưa ngừng nói nhưng cô không còn nghe thấy gì nữa. Có con mắt nhỏ xíu, ươn ướt từ mép chăn nhìn ra với vẻ thờ ơ, không thèm quan tâm chuyện gì đang diễn ra quanh mình. Brenda nghẹn ngào, nước mắt chỉ chực trào tuôn. - Cảm ơn ạ. Cô chỉ nói được có thế dù không biết mình đang cảm ơn ai và vì cái gì. Bà Moran nhún vai, cười nửa miệng. - Chúc may mắn đấy. Đoạn bà bươn bả trở lại xe, gót giày cao gót nện mạnh như muốn chọc thủng mặt đường. Vào xe, sập mạnh cửa xong, bà lẩm bẩm: - Thế là xong việc. Nhìn qua cửa kính, bà thấy Brenda Ruttledge vẫn đứng nguyên chỗ cũ, mê mẩn nhìn xuống bọc chăn, quên hẳn chiếc túi du lịch chơ vơ dưới chân. Bà cay đắng: - Gớm! Cô ta tưởng mình là Đức Mẹ Đồng Trinh chắc! Không bình luận gì thêm, bác tài chỉ khởi động xe trước khi phóng vọt đi. Mời các bạn mượn đọc sách Bạc Mệnh của tác giả Benjamin Black & Vũ Kim Dung (dịch).
Dòng Sông Hắc Ám
“Một ngày nào đó cô sẽ hiểu được thứ gì đang đến với cô. Nó không đến từ tôi đâu. Mà từ một trong số chúng, một trong những người mà cô tin tưởng… Sẽ thú vị lắm đây.” Đó là lời cảnh báo trước khi chết của kẻ sát nhân bệnh hoạn Melvin Royal dành cho Gwen Proctor. Có lẽ hắn nói đúng, nhưng chỉ một phần… Melvin đã nằm sâu dưới nấm mồ, còn Gwen phải tiếp tục đấu tranh để chữa lành những vết sẹo của quá khứ, giải quyết những mối đe dọa ở hiện tại và sẵn sàng cho một tương lai đầy bấp bênh. Liệu những thử thách mới, những âm mưu mới có thể đánh gục được người mẹ giàu lòng trắc ẩn và dũng cảm như sắt đá? Ở thế giới bên kia, liệu Melvin có thể có cơ hội chứng kiến Gwen sụp đổ và vụn vỡ hay không? Tiếp nối thành công của hai tập trước trong series ăn khách Stillhouse - Dòng sông hắc ám không chỉ đem tới cho độc giả những khoảnh khắc hồi hộp, gay cấn, mà còn cả những phút giây lắng đọng, xúc động và giàu chiêm nghiệm. ----- “Và tôi cần phải đối phó với hắn, bởi hắn đang đe dọa đến tính mạng của con tôi. Con tôi. Tôi chưa bao giờ có cảm giác mạnh mẽ như thế này trước đây - cảm giác muốn được bảo vệ Connor bằng mọi giá. Cảm giác ấy, ước muốn ấy, nó không hề mất đi, vẫn luôn chôn sâu bám rễ vào trong máu thịt của tôi.” ----- Tác giả Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** Bốn ngày trước Khi giáo viên của Ellie White, cô Willingham, nói với cô bé rằng tài xế sẽ đến trường học sớm hơn thường lệ để đón cô bé, Ellie biết đó không phải toàn bộ sự thật. Bác Lou chưa bao giờ đến sớm như vậy cả, trừ khi cô bé bị ốm. “Tại sao ạ?” Cô bé hỏi. Cô bé thích đưa ra những câu hỏi mỗi khi có điều chưa rõ. Có thể cô bé chỉ mới sáu tuổi, nhưng bố đã dạy cô bé phải hỏi nếu không hiểu. Mẹ lúc nào cũng có chút xấu hổ bởi cô bé cứ làm theo lời dặn của bố một cách máy móc như vậy. “Cô e rằng… Cô e rằng đó là vì bố con đã nhờ bác ấy làm vậy.” Cô Willingham nói. Cô ấy là một phụ nữ da trắng tử tế với một lọn tóc màu bạc điểm xuyết trên mái tóc nâu, và cô là một giáo viên tốt. Mặc dù bố Ellie rất giàu có, cô chưa bao giờ đối xử với Ellie khác biệt so với những học sinh trong lớp. Kể cả khi Ellie có làn da màu nâu đậm, đậm hơn bất cứ bé gái nào khác ở đây - những cô bé có làn da trắng như những trang giấy. “Bố sẽ không làm vậy…” Ellie nói. “Có điều gì đó không ổn.” Cô Willingham đưa mắt về phía Ellie, nhưng không nhìn thẳng vào cô bé: “Ừ thì, mẹ con bị ốm…” Cô nói. “Vậy nên ông ấy mới điều xe đến đón và đưa con tới bệnh viện nơi ông ấy đang ở cùng với mẹ con. Như vậy được rồi chứ?” Cô giúp Ellie mặc chiếc áo len dài tay. Chiếc áo này Ellie không thích, nhưng cũng không muốn bỏ lại. Tiếp đến là chiếc cặp sách. “Cô Willingham?” Ellie hỏi, ngước lên nhìn cô giáo của mình. “Cô đang khóc đấy ạ?” “Không, bé con ạ. Cô ổn mà. Đi nào. Ra khỏi đây thôi, bác ấy đang đợi.” “Nhưng bố có nhắc đến mật mã nữa chứ ạ?” “Ông ấy có nhắc đến mật mã…” Cô Willingham nói. “Mật mã của hôm nay là chim hét đen, phải không nào?” Ellie gật đầu. Thứ Năm là chim hét đen. Mỗi ngày sẽ là một loài chim nào đó, bởi vì cô bé rất thích chim và mẹ luôn luôn gọi cô bé là chim ruồi nhỏ do cô bé luôn phóng đi rất nhanh. Nhưng Chủ nhật mới là chim ruồi. Trước tiên, cô Willingham bước xuống bậc thềm của trường học để nói chuyện với bác Lou, bác đang đợi trong chiếc xe đậu ở khúc quành nằm giữa những bậc thềm và đài phun nước lớn làm bằng đá cẩm thạch. Nguyên tắc là Ellie không bao giờ được tới chỗ chiếc xe cho đến khi cô Willingham xác nhận rằng mọi thứ đều ổn. Cô và bác Lou nói chuyện rất lâu. Cô Willingham cứ khóc mãi không ngừng. Hôm nay thời tiết nóng và ẩm, nhưng đài phun nước trông rất mát mẻ và đẹp đẽ. Tia nước bắn ra từ những chiếc vỏ sò làm bằng bê tông, rơi vào một chiếc vỏ sò lớn hơn nằm ở chính giữa. Mẹ từng nói với Ellie rằng đã từng có một nàng tiên rất xinh đẹp sống ở trong vỏ sò, nhưng một vài bậc phụ huynh đã buộc nhà trường phải đưa nàng ấy ra ngoài, và giờ đây nàng ấy phải ở trong kho chứa đồ, điều này thật đáng buồn làm sao. Cô Willingham bước trở lại bậc thềm để đón lấy tay cô bé. Ellie ngước lên nhìn cô. “Mọi thứ sẽ ổn thôi…” Cô nói, nhưng giọng cô lạc đi. Đôi mắt cô đỏ lên. “Cô xin lỗi, bé con. Nhưng cô phải làm điều này. Cô cũng có gia đình của mình.” Ellie cảm thấy lo lắng cho gia đình của cô giáo. “Goa đình của cô ổn cả chứ, cô Willingham?” Cô bé không có ý định làm cho người phụ nữ phải khóc. “Ừ, Ellie ạ, họ sẽ ổn thôi. Con có thể giúp cô đảm bảo rằng họ sẽ ổn chứ?” Ellie không rõ mình phải làm điều đó như thế nào, nhưng cô bé vẫn gật đầu. Cô bé thích giúp đỡ mọi người, ngay cả khi cô bé không thực sự chắc chắn tại sao cô Willingham lại nghĩ rằng cô bé có thể giúp. Cô Willingham mở cửa xe và nâng Ellie lên. Đây vốn là công việc của bác Lou. Sau đó, người phụ nữ ôm lấy cô bé. “Hãy mạnh mẽ, Ellie. Con sẽ ổn cả thôi.” “Nhưng còn gia đình của cô thì sao ạ?” Ellie hỏi. “Cô không định đi với con để cùng giúp họ sao?” Cô Willingham bụm miệng, những giọt nước mắt lăn dài trên má, và cô chỉ còn biết lắc đầu. Cô đóng sầm cánh cửa xe, và đó là khi Ellie biết rằng có điều gì đó thực sự không ổn. Cô giáo Willingham đã nói dối, nhưng cô bé không biết tại sao cô phải làm vậy. Và rồi Ellie nhận ra rằng điều này còn tồi tệ hơn những gì cô bé nghĩ, bởi mặc dù chiếc xe trông giống với chiếc xe vẫn thường đưa đón cô bé, nó không hề có mùi dừa mà cô bé vẫn yêu thích. “Bác Lou?” Cô bé cất tiếng gọi người tài xế. Tiếng chốt cửa xe vang lên nặng trịch. Cô bé có thể nhìn thấy người đàn ông đang ngồi ở ghế trước, đó là một người to lớn đội chiếc mũ lưỡi trai. Ngồi ở băng ghế sau, Ellie cảm thấy mình nhỏ bé hơn bình thường, và khi chiếc xe bắt đầu di chuyển, cô bé nhanh chóng thắt dây an toàn; bác Lou không bao giờ cho xe chạy cho đến khi cô bé thắt dây an toàn xong xuôi. “Bác Lou? Có chuyện gì với mẹ cháu vậy? Cô Willingham nói rằng…” Cô bé ngừng lại câu hỏi bởi lẽ người đàn ông đang lái xe không phải bác Lou. Đôi mắt nhìn vào cô bé trong gương chiếu hậu không phải là của bác ấy. “Thắt dây an toàn vào.” Ông ta nói. Còn bác Lou sẽ luôn nói xin hãy. “Cháu đã thắt rồi…” Cô bé nói. Cô bé cảm thấy sợ hãi, nhưng cô bé sẽ không thể hiện điều đó ra ngoài. “Bác có biết mật mã không?” “Chim hét đen.” Ông ta nói. “Phải không?” “Bác là ai?” “Tôi là người sẽ đưa cháu đến một nơi nào đó thật an toàn…” Ông ta nói. “Cũng giống như mong muốn của bác Lou vậy. Được rồi chứ?” “Cháu sẽ gọi cho bố.” Ellie nói, và rồi mở khóa cặp sách để lấy chiếc điện thoại di động. Nó không có ở đó. Cô bé biết rằng mình không được để điện thoại lung tung. Chiếc điện thoại rất đắt tiền, quan trọng, và cô bé luôn luôn để nó ở trong chiếc túi đó. Cô bé cảm nhận được nước mắt đang chực trào ra, nhưng cô bé sẽ không để mình khóc. Họ muốn cô bé phải khóc, bất kỳ ai đã lấy mất chiếc điện thoại. Bất kỳ ai đang chơi trò chơi đểu cáng này. “Bác là ai?” “Không ai cả.” Người lái xe nói. “Giờ thì ngồi im và yên lặng đi.” Ông ta lái chiếc SUV vào trục đường chính. Cô bé cố gắng nhìn xem họ đang đi đâu, nhưng nhanh chóng bị mất phương hướng; cô bé chưa bao giờ phải chú ý đến những điều như thế này trước đây. Ngôi trường đã khuất sau quả đồi, và ông ta rẽ ngoặt nhiều hơn, cô bé hoàn toàn không biết họ đang ở đâu. Cô bé không biết phải làm gì. Bố luôn nói với cô bé rằng có rất nhiều người xấu ở ngoài kia, và cô bé không nên đi với họ nếu họ không biết mật mã. Thế nhưng, ông ta biết nó, và cô bé cũng không thể nhấn nút “cuộc gọi khẩn cấp” nếu không có chiếc điện thoại nào ở đây. “Để cháu đi.” Cô bé nói. Cô bé cố gắng để giọng mình nghe giống với giọng của mẹ: lạnh lùng và tự tin. “Bác có thể dừng xe ở đây.” “Im mồm.” Người lái xe nói. “Giữ yên lặng. Nếu còn ồn ào, tao sẽ dán miệng mày lại.” Điều đó thậm chí còn khiến cô bé hoảng sợ hơn việc phải ngồi trên một chiếc xe lạ hoắc và không có điện thoại ở bên, nhưng cô bé sẽ không để người đàn ông này biết được điều đó. Cô bé sẽ không khóc. Cô bé nhìn xung quanh và cố gắng nghĩ ra việc khác để làm. Cánh cửa không thể mở. Phần kính cũng thế. Chiếc SUV được gắn kính tối màu, cũng giống như chiếc xe của bác Lou; nó có tác dụng chống nắng. Nhưng nó cũng được tạo ra để mọi người không thể nhìn được vào bên trong. Ellie nhận ra một điều cực kỳ tồi tệ. Cô bé là cái bóng ngồi bên trong một chiếc xe màu đen, đằng sau những ô cửa tối màu, không ai có thể nhìn thấy, và cô bé không biết phải làm gì tiếp theo. Khi cô bé bắt đầu gào thét để tìm kiếm sự giúp đỡ từ những chiếc xe chạy qua, người lái xe rẽ vào đường nhánh, đỗ xe dưới một cây cầu nằm giữa những tán cây xanh rì, dán băng dính quanh miệng cũng như quanh tay và chân cô bé. Ông ta đưa cô bé vòng ra phía sau chiếc SUV. Phía sau trống trơn, chỉ có một chiếc túi ngủ có in hình các công chúa Disney. Cô bé hét lên dưới lớp băng dính, ngọ nguậy và cố gắng để thoát ra, nhưng ông ta đặt cô bé lên chiếc túi ngủ và lắc đầu. “Đi ngủ đi…” Ông ta nói với cô bé, rồi quệt mồ hôi trên mặt. “Chúng ta còn một quãng đường dài phía trước. Mày chú ý cách cư xử và tao sẽ cho mày ăn trong một vài giờ tới. Mấy ngày nữa mày sẽ trở về nhà cùng một câu chuyện thật hay ho để kể.” Bố đã luôn dặn cô bé rằng: “Nếu rơi vào tay kẻ xấu, đừng bao giờ tin lời chúng nói.” Cô bé hoàn toàn không tin rằng chúng sẽ đưa mình trở về nhà. Cô bé thật sự sợ hãi khi thấy mình bắt đầu sổ mũi và khó thở với băng dính dán kín miệng. Vì vậy, cô bé nằm yên hít thở, chậm rãi, đều đặn. Cô bé vẫn còn hoảng sợ, lại thêm kiệt sức nữa, và cuối cùng, cô bé nhắm mắt lại và cố gắng giả vờ như mình đang ở một nơi nào đó khác, được trở về nhà với mẹ. Một cách khó nhọc, cô bé giả vờ rằng mình đang ngủ thiếp đi và cuộn người lại trên đùi của mẹ. Khi tỉnh lại, cô bé rất muốn nói với người đàn ông rằng mình muốn đi vệ sinh, nhưng ông ta thì lại đang nói chuyện điện thoại, và họ đang ở trong một khu rừng, vào giữa đêm tối. Ông ta thấy cô bé ngồi dậy. Ông ta quay đầu lại. Và rồi qua tấm kính chắn gió ô tô, cô bé trông thấy tấm biển báo “phía trước có lối ngoặt” cùng với luồng ánh sáng bừng lên xung quanh nó. Luồng ánh sáng đang chiếu thẳng về phía bọn họ. Cô bé cố hét lên về phía ông ta, nhắc ông ta coi chừng chiếc xe, nhưng ông ta chỉ cau mày và nói: “Tao đã nói là im…” Và rồi chiếc xe kia đâm sầm vào họ, tất cả lộn nhào và vỡ vụn; cô bé nghĩ mình đã nghe thấy người đàn ông hét lên. Cứu với, Ellie muốn nói điều đó, nhưng cô bé quá sợ hãi và quá đau đớn, rồi người đàn ông ngưng la hét, mọi thứ đều trở nên im bặt. Mời các bạn mượn đọc sách Dòng Sông Hắc Ám của tác giả Rachel Caine & Yến Nhi (dịch).