Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tấn Bi Kịch Z - Ellery Queen

10 năm sau thành công rực rỡ của  Tấn bi kịch X  và  Tấn bi kịch Y ,  Tấn bi kịch Z  ra đời! Thanh tra Thumm đã trở lại với cô con gái thông minh, có khả năng quan sát và liên kết các sự việc. Thượng Nghị sĩ tham nhũng Joel Fawcett – một người có vô vàn kẻ thù, bị sát hại! Bác sĩ Ira Fawcett, cũng bị sát hại! Hung thủ là một! Aaron Dow – tên tù nhân mới phóng thích vô tình trở thành kẻ tình nghi. Với quyết tâm tìm kiếm bằng chứng để minh oan cho Aaron Dow, bố con thanh tra Thumm đã đạt mình vàomột cuộc chiến công lý với tia hy vọng chỉ bằng 1%. Một lần nữa, Thumm lại phải nhờ đến sự minh mẫn của người bạn già Drury Lane Câu hỏi cuối cùng sẽ được giải quyết ra sao mang tên Z? *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** Vì sự tham gia của riêng tôi vào các sự kiện lịch sử này chẳng khơi gợi được gì hơn sự quan tâm lịch thiệp và ngắn ngủi từ những ai theo dõi vận mệnh của ngài Drury Lane, nên tự tôi sẽ kể qua bằng một ghi chép, cũng ngắn ngủi như thói đỏng đảnh của phụ nữ. Tôi trẻ trung, điều này phần nhiều được những nhà phê bình nghiêm khắc nhất thừa nhận. Tôi được trời phú cho đôi mắt to, xanh và trong veo - mà nhiều quý ngài thích làm thơ từng bảo - trông như cả một vì tinh tú ngự trên chín tầng mây. Một nam sinh trẻ măng, tốt bụng tại Heidelberg có lần từng ví màu tóc tôi với mật ong. Một quý bà người Mỹ thích đả kích sâu cay tại Cap d’Antibes mà tôi từng gặp gỡ đã ví mái tóc ấy phần nào giống cọng rơm khô. Gần đây khi đứng trong tiệm làm đẹp Clarisse tại Paris bên cạnh bộ đầm béo* bà ta bồ kết nhất, tôi phát hiện ra phom người mình thực sự gần đạt được những số đo hình thể quyến rũ của mụ đàn bà hay khinh người ấy. Thực ra, ngoài đôi bàn tay, bàn chân tôi đạt chuẩn hình thể - điều này theo đánh giá cỡ chuyên gia của chính ngài Drury Lane - tôi còn sở hữu bộ não làm việc theo trật tự tuyệt hảo. Cũng có người nói rằng một trong những nét quyến rũ chết người của tôi nằm ở chỗ “thiếu khiêm tốn một cách tinh tế,” một lời chém gió mà tôi cảm thấy chắc chắn sẽ gây họa cho tôi trong quá trình viết bài này. Các chi tiết thô thiển nhiêu đó đã đủ. Phần còn lại tôi có thể tự đặt tên cho nó là Chuyến Du Ngoạn Bắc Âu. Tôi đã từng đi chu du, có thể nói như vậy, kể từ những tháng ngày tóc thắt bím và mặc đồ thủy thủ. Các chuyến du ngoạn của tôi xen kẽ những lần dừng chân dài hạn: Ví như chẳng hạn tôi mất hai năm tại một ngôi trường tư thục đáng sợ ở London, nán lại trên Bờ Trái* trong mười bốn tháng trước khi tự thuyết phục mình rằng cái tên Patience Thumm sẽ chẳng được nói đến một cách kính cẩn như những cái tên Ganguin và Matisse. Giống Marco Polo tiến về phương Đông, tôi đi khắp các dải đất phương Đông; như Hannibal tấn công những cánh cổng thành Rome, tôi khám phá nền văn hóa châu Âu. Hơn nữa, tôi là người có tâm hồn khoa học: Tôi đã thử tinh dầu ngải absinthe tại Tunis, vườn nho Clos Vougeot tại Lyon và rượu aguardiente tại Lisbon. Tôi bị bật móng chân khi trèo lên ngôi thành cổ Acropolis tại Athens, cảm thấy vui sướng đầy dâm đãng khi đắm mình trong bầu không khí mê hoặc của hòn đảo Sappho. Chẳng cần phải nói thêm, tất cả những chuyến đi này dựa vào khoản tiền trợ cấp hào phóng với cái đuôi là một sinh vật bất tử hiếm hoi bậc nhất - một bà vú tiện cái là mắc chứng loạn thị và có khiếu hài hước. Du ngoạn giống như món kem sữa béo, nó cứ lan rộng mãi ra; tuy nhiên, sẽ chẳng ai chịu nổi nếu cứ ăn hoài một món. Và người đi du ngoạn, cũng như kẻ háu ăn, sẽ quay về nhà và hài lòng với chế độ ăn có kiểm soát hơn. Thế nên, với sự kiên quyết dịu dàng như một trinh nữ, tôi bỏ mặc bà vú đáng yêu tội nghiệp tại Algiers và giong buồm về nhà. Món thịt bò nướng tuyệt hảo của bố chào mừng tôi vẫn đang nằm yên trong bụng. Nói thật là ông thấy khiếp đảm khi thấy tôi cố tuồn vào New York bản tiếng Pháp cuốn Người Tình Của Phu Nhân Chatterley đáng yêu, rách tơi tả, cuốn sách khiến tôi phải hy sinh bao nhiêu buổi tối tuyệt đẹp tự giam mình trong phòng riêng tại trường tư thục nữ sinh. Nhưng khi giải quyết xong vấn đề nhỏ này, trước sự vui sướng của tôi, ông nhanh chóng đẩy tôi len qua cửa hải quan. Sau đó, chúng tôi yên vị trong sự tĩnh lặng êm dịu ở căn hộ của ông tại thành phố, hai con bồ câu đưa thư hoàn toàn xa lạ. Lúc này, khi đọc Tấn Bi Kịch X và Tấn Bi Kịch Y, tôi nhận thấy rằng ông bố già xấu xí, to lớn, vụng về và vĩ đại của tôi, thanh tra Thumm, chưa một lần giới thiệu những trang sách sinh động, sôi nổi này cho cô con gái thích xê dịch. Không phải vì ông không yêu mến tôi: Tôi hiểu được điều ấy từ ánh mắt ngỡ ngàng, phần nào đó đến kinh ngạc của ông khi chúng tôi hôn tạm biệt nhau trên cầu tàu. Chúng tôi chỉ đơn giản là ngày càng xa nhau. Mẹ đã tống cổ tôi sang châu Âu cho bà vú chăm sóc khi tôi còn quá nhỏ, không thể phản kháng. Tôi nghi ngờ sự thay đổi trong tình cảm luôn là điều đáng quý, đến lượt bà cũng ham mê tìm hiểu những nét thanh lịch, tao nhã ướt át của cuộc sống Lục địa già qua các lá thư tôi viết. Trong khi đó, người bố tội nghiệp chẳng có cơ hội nào, việc chúng tôi dần xa cách không phải hoàn toàn do lỗi của mẹ. Tôi nhớ lại hồi mình là con bé yếu ớt bò lổm ngổm dưới chân bố, quấy rối ông với những chi tiết đẫm máu nhất của những tội ác ông đang điều tra, đọc hết tất cả các tin tức vụ án với sự thích thú và không ngừng tấn công ông trên Phố Centre với những gợi ý ngớ ngẩn. Ông chẳng bao giờ mắng tôi nhưng tôi chắc chắn ông thấy nhẹ nhõm khi tôi bị tống sang Châu Âu. Dẫu sao đi nữa, bố con tôi phải mất vài tuần để nuôi dưỡng tình cảm trở lại mối quan hệ bình thường. Ông chưa sẵn sàng về tâm lý trước những lần viếng thăm chớp nhoáng của tôi trong thời gian lang thang, nào là ăn trưa mỗi ngày với một thiếu nữ trẻ đẹp, những nụ hôn chúc ngủ ngon, và trải qua tất cả những vui vẻ khi ông đóng vai một ông bố gia trưởng. Một thời gian ông thực sự hốc hác, mệt mỏi. Ông thấy sợ tôi hơn vô số tội phạm liều lĩnh từng săn đuổi suốt cuộc đời thanh tra. •   •   • Tất cả những đoạn này là phần mở đầu cần thiết cho câu chuyện của tôi về ngài Drury Lane, và vụ án lớn về Aaron Dow, tù nhân trong nhà tù Algonquin. Vì điều này giải thích được làm sao kẻ lang thang như Patience Thumm lại có liên quan đến một vụ án mạng. Trong những năm tháng lang thang và thư từ với bố - đặc biệt sau khi mẹ qua đời - tôi thấy tò mò trước những bóng gió thường xuyên, tình cảm của ông với thiên tài già cả lạ lùng ấy, ngài Drury Lane, người đã xuất hiện một cách hoành tráng trong cuộc đời ông. Dĩ nhiên, tôi không xa lạ với tên tuổi quý ông già nua này, với lý do tôi là độc giả trung thành của các truyện trinh thám có thật lẫn hư cấu. Lý do nữa là vì quý ông hưu trí hấp dẫn này không ngừng được giới báo chí, tại cả Mỹ lẫn châu Âu, tung hô như một siêu nhân. Đâu đâu cũng nhắc đến những kỳ tích ông đạt được trong các vụ án với tư cách là điều tra viên. Sau tai nạn bất ngờ khiến ông bị điếc, sự nghiệp diễn viên kịch của ông cũng chấm dứt. Nhiều lần những dư âm của chúng vẫn còn vẳng đến tai tôi tận Châu Âu. Sau khi quay về nhà, tôi bất ngờ nhận ra mình chẳng còn mong muốn gì hơn được gặp gỡ con người phi thường, sống trong một lâu đài tuyệt đẹp nhưng đầy mê hoặc nhìn ra sông Hudson. Nhưng tôi lại thấy mình quan tâm hơn đến đôi tai của ông khi phá án. Sau khi nghỉ hưu ở phòng Thám tử New York, bố tôi bỏ lại sau lưng bao nhiêu năm tháng phá án là món ăn giấc ngủ, sự tồn tại kiểu này khiến ông buồn chán đến không chịu nổi. Thế nên, điều không tránh khỏi là ông mở văn phòng thám tử tư, danh tiếng của riêng ông mang lại thành công cho ông ngay từ đầu. Về phần tôi, vì chẳng có việc gì để làm và cảm thấy rằng cuộc đời mình cũng như những kinh nghiệm từ chuyến du học vừa đủ giúp tôi kiếm sống một cách nghiêm túc, có lẽ điều không tránh khỏi là tôi phải đứng dậy từ nơi tôi đã từ bỏ nhiều năm về trước. Tôi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn tại văn phòng của bố, quấy rầy ông như ngày xưa và lắng nghe tiếng càu nhàu bực bội của ông. Dường như ông nghĩ rằng một đứa con gái thì phải có sức hấp dẫn giống như một bông hoa cài áo. Nhưng vì được thừa hưởng cái cằm bướng bỉnh của ông, sự kiên trì của tôi đã khiến ông nản lòng. Có vài dịp thậm chí ông còn cho phép tôi theo đuổi một cuộc điều tra khiêm tốn. Nhờ đó tôi học được nhiều thuật ngữ và môn tâm lý học của hình sự hiện đại - một khóa học thô sơ rất có ích giúp tôi thấu hiểu vụ án liên quan đến Dow. Nhưng có một chuyện dường như hữu ích hơn nhiều. Kinh ngạc không kém gì bố, tôi thấy rằng mình sở hữu một bản năng quan sát và suy luận phi thường. Tôi bất ngờ nhận ra mình có một tài năng rất đặc biệt, có lẽ được nuôi dưỡng bởi môi trường làm việc ban đầu, và sự quan tâm không thay đổi của tôi đối với tội phạm. Bố tôi rên rỉ, “Patty, con cứ như ả hầu bàn trơ trẽn trong bữa tiệc vậy. Con sẽ khiến quý ông già ngượng chết mất. Có Chúa mới biết, như những ngày xưa với Drury Lane ấy!” Và tôi đáp: “Ngài thanh tra đáng yêu ơi, đó là một lời khen tuyệt vời. Khi nào thì ngài định giới thiệu con với ông ấy đây?” Cơ hội đã đến một cách bất ngờ ba tháng sau khi tôi về nước. Giống như mọi cơ hội khác - nó bắt đầu hoàn toàn bình thường - sau đó biến thành một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Đúng như những gì trái tim một cô nàng luôn thèm khát và háo hức như tôi có thể mơ tới. Một hôm, một người đàn ông cao lớn, tóc xám ăn mặc trang nhã xuất hiện tại văn phòng của bố tôi. Sắc mặt ông ta lo lắng khiến tôi liên hệ với tất cả những ai từng tìm đến. Qua tấm thẻ rập nổi, tên ông ta là Elihu Clay. Dò xét tôi bằng đôi mắt sắc lạnh, ông ta ngồi xuống, hai bàn tay khum lại trên đầu gậy chống. Với thái độ khô khan, thận trọng của một chủ ngân hàng nguời Pháp, ông ta tự giới thiệu bản thân. Ông ta là chủ sở hữu Clay Marble Quarries - những mỏ đá chính tại hạt Tilden, vùng Thượng New York; văn phòng và nhà riêng ở thành phố Leeds, Anh quốc. Cuộc điều tra ông ta muốn nhờ bố tôi tiến hành có tính riêng tư và bảo mật. Đây là lý do chính của ông ta khi đến đây ngoài việc tìm kiếm một nhà điều tra. Ông ta một mực đòi phải thận trọng mọi nhẽ… “Tôi hiểu,” bố tôi cười toét. “Hút xì gà đi. Ai đó đang ăn cắp tiền mặt trong két à?” “Thực ra là không! Tôi có… à… một hội viên hùn vốn ẩn danh.” “Ha,” bố tôi nói. “Cho tôi biết đi.” Tên hùn vốn ẩn danh này - có vẻ giờ đây, sự ẩn danh này đã chuyển sang khía cạnh đáng lo ngại nhất - là Fawcett, bác sỹ Ira Fawcett. Người này là em trai của thượng nghị sĩ hạt Tilden, Joel Fawcett. Một ngài thượng nghị sĩ không ít thì nhiều cũng “chính trực”. Theo cái nhíu mày của bố, tôi nghĩ đây chắc chắn là một quý ông không trung thực và không có trái tim trong sáng. Là người không do dự tự phong mình là ‘thương nhân trung thực nhất của phái cựu trào’ giờ đây có vẻ Clay thấy hối hận khi hợp tác cùng bác sỹ Fawcett. Tôi đồ rằng bác sỹ Fawcett là một nhân vật khá đáng sợ. Ông ta khiến công ty dính líu đến các hợp đồng mà Clay nghi ngờ rằng có nguồn gốc bốc mùi. Ngành kinh doanh này rất thịnh vượng - quá thịnh vượng. Quá nhiều hợp đồng trong hạt và bang đều liên quan đến Clay Marble Quarries, cần thiết phải kiên quyết tiến hành một cuộc khảo sát tình hình. “Không có bằng chứng à?” bố tôi hỏi. “Chẳng có chút nào, thưa thanh tra. Rõ ràng hắn quá thông minh. Tất cả những gì tôi có chỉ là những nghi ngờ. Ông sẽ nhận vụ này chứ?” Nói rồi Elihu Clay đặt ba tờ giấy bạc giá trị cao nhất lên bàn. Bố liếc nhìn tôi. “Chúng ta nhận vụ này được không, Patty?” Nét mặt tôi băn khoăn. “Chúng ta bận lắm. Nếu thế phải hủy tất cả các vụ kia…” Elihu Clay nhìn tôi chằm chằm một lúc. “Tôi có ý kiến,” ông đột ngột nói. “Tôi không muốn Fawcett nghi ngờ ngài, ngài Thanh Tra. Cùng lúc đó ngài sẽ phải làm việc với tôi. Tại sao ngài không cùng cô Thumm đây đến các nhà khách của tôi tại Leeds? Cô Thumm đây có thể tới - chẳng phải tiện hay sao?” Tôi đoán rằng bác sỹ Ira Fawcett không phải là người trơ như gỗ đá trước sức quyến rũ nữ tính. Khỏi cần nói, ngay lập tức tôi cảm thấy thú vị. “Chúng ta xoay xở được mà bố,” tôi mạnh mẽ nói, và như thế mọi việc được thu xếp. •   •   • Chúng tôi mất hai ngày chuẩn bị mọi thứ, có thể nói như vậy. Đến tối Chủ nhật chúng tôi đã hoàn tất gói ghém đồ đạc cho chuyến đi tới Leeds. Elihu Clay đã đi trước chúng tôi, quay về vùng nông thôn cùng ngày ông đến thăm New York. Tôi còn nhớ mình đang duỗi dài chân trước đống lửa, nhấm nháp rượu brandy đào - chai rượu tôi đã trót lọt tuồn qua mặt anh sĩ quan hải quan trẻ tuổi tốt nhất - thì nhận được điện tín của thị trưởng Bruno - chính là ngài Walter Xavier đã từng làm công tố viên hạt New York khi bố tôi còn là một viên thanh tra tích cực. Còn bây giờ ông ta là một thống đốc nổi tiếng, hiếu chiến của bang New York. Bố tôi đập tay vào hông cười khúc khích, “vẫn là lão Bruno này! Chà, Patty, đây đúng là cơ hội con đang mong. Bố đoán rằng chúng ta có thể thực hiện được?” ... Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch Z của tác giả Ellery Queen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vòng Đu Quay Đêm
“Sự thật chỉ có một. Đối tượng để khóc thương, đối tượng để chỉ trích, đối tượng để an ủi, tất cả đều là gia đình, chỉ vậy mà thôi.” Khu dân cư cao cấp Hibarigaoka rúng động bởi vụ án mạng xảy ra trong một gia đình hạnh phúc như tranh vẽ. Cha là nạn nhân, mẹ là nghi phạm, ba đứa trẻ nhà Takahashi đột ngột đối diện với một tương lai tàn khốc mà chúng chưa từng tưởng tượng ra. Trong quá trình bóc tách từng lớp bóng tối hòng tìm ra sự thật, chúng nhận ra những uẩn khúc của vụ án dần được phơi bày từ câu chuyện của chính những người sống ở nhà đối diện. Cuốn tiểu thuyết gây sốc lấy đề tài “gia đình” đến từ Minato Kanae – tác giả của kiệt tác “Thú tội”. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Minato Kanae là tiểu thuyết gia Nhật Bản, sinh năm 1973 tại Hiroshima. Năm 2007, với truyện ngắn Kẻ truyền đạo bà đã giành được giải Tác giả tiểu thuyết trinh thám mới lần thứ 29. Năm 2008 bà viết tác phẩm đầu tay Thú tội với chương đầu chính là truyện ngắn Kẻ truyền đạo, đứng vị trí thứ nhất trong Bảng xếp hạng top 10 truyện trinh thám năm 2008 của tuần báo Bunshun, sau đó giành được giải Booksellers’ Award lần thứ 6. Đến năm 2014, Thú tội lại được tờ Wall Street Journal của Mỹ chọn làm một trong 10 tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất. Năm 2012, truyện ngắn Sao trên mặt biển trong tập truyện Vọng hương của bà đã nhận giải Hiệp hội tác giả truyện trinh thám Nhật Bản lần thứ 65 trong hạng mục truyện ngắn. Năm 2016, tiểu thuyết Utopia của bà nhận giải Yamamoto Shugoro lần thứ 29. Những tác phẩm khác của Minato Kanae đã được xuất bản:   Thú Tội - Minato Kanae Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt Chuộc Tội Cảnh Ngộ Tất Cả Vì N Án Mạng Bạch Tuyết *** Một câu chuyện xảy ra tại 1 khu dân cư được coi là cao cấp, nằm trên 1 con dốc cao của 1 thành phố nào đó tại Nhật….những gia đình sống ở đó dường như có 1 cuộc sống đáng mơ ước, đáng ghen tỵ đối với người ngoài, nhưng sự thật thì không hẳn như vậy….ngay tại gia đình được cho là kiểu mẫu nhất tại khu dân cư này, lại xảy ra 1 vụ án mạng….và câu chuyện sau đó xoay quanh những người trong gia đình đó, và cả những gia đình khác trong khu dân cư….khi xảy ra biến cố, những ngóc ngách sâu thẳm và tối tăm nhất trong đời sống tưởng chừng lấp lánh như kim sa kia mới dần phơi bày, và nó ko tốt đẹp và yên bình như ngta từng tưởng!…. Trong Vòng đu quay đêm, Minato đã kể 1 câu chuyện nhiều tính người chân thật hơn so với những truyện trước đây (theo quan điểm cá nhân t)….dù rằng thực tế là t vẫn ko hoàn toàn đồng cảm được với tâm lý của những nhân vật trong truyện, nhưng ít ra t nhìn ra đâu đó bóng dáng của 1 xã hội thu nhỏ nơi đây….chúng ta vẫn nói: người giàu cũng khóc – hay đúng hơn là bất cứ ai, bất cứ gia đình nào cũng có những vấn đề riêng, nỗi đau riêng và người ngoài thì không hiểu đc….gia đình của Mayumi có những vấn đề mà ai cũng thấy rõ, như sự hỗn láo của đứa con gái, sự kìm nén của người mẹ và sự trốn tránh trách nhiệm, nhu nhược của người bố, nhưng bi kịch lại ko xảy ra ở gia đình cô, mà lại xảy ra với gia đình Takahashi, vì sao?….vì tâm lý con người thì thường mù quáng và chủ quan, thế nên ai cũng ko tránh khỏi việc đánh giá người khác bằng cái nhìn phiến diện của bản thân, thế nên cái vẻ hạnh phúc, êm ấm của nhà Takahashi có chăng chỉ là lớp vỏ ngoài, mà giấu bên trong đó là áp lực của người mẹ lên cậu con trai chỉ vì muốn ganh đua với người vợ quá cố của chồng, sự thiếu quan tâm của mẹ đến cô con gái và sự vô tư, vô tâm trong hành xử của ông bố….thật khó để đem lên bàn cân vấn đề của gia đình nào là nặng nề hơn, nhưng có lẽ việc cố duy trì lớp vỏ hạnh phúc khó khăn hơn, hoặc khả năng kìm nén của 2 người phụ nữ là khác nhau, nên cuối cùng bi kịch đã ko may xảy ra với nhà Takahashi!…. Minato cũng vẫn ko quên nói về vấn đề môi trường giáo dục của xã hội Nhật Bản, nơi sự cạnh tranh về thành tích học tập, về sự thành công là gánh nặng lên những đứa trẻ, và tạo ra những hệ lụy nặng nề…. Cá nhân t thích truyện này hơn Tất cả vì N hay Những đứa trẻ bị mắc kẹt, vì tính biểu tượng thể hiện khá rõ nét, như cái cách các nhân vật giải quyết vấn đề của mình….3 anh em nhà Takahashi, Keisuke – người chồng nhu nhược hay Ayumi, bạn thân của Hinako, họ là những người thuộc thế hệ trẻ hơn, nhưng trong những thời khắc phải đưa ra quyết định họ đã chọn cách trực tiếp có mặt, chứ ko tìm hiểu thông qua tin nhắn, gọi điện (Yoshiyuki bị bạn gái thu điện thoại, nên cậu chọn cách trực tiếp trở về gặp các em, Shinji ko mang điện thoại, và Hinako thì thường để điện thoại trong túi vì sợ hết pin, và thật may mắn do đó họ tình cờ đoàn tụ và giải quyết chuyện gia đình…. Keisuke trong thời khắc quyết định đã ko gọi điện về cho gia đình, thay vì thế anh chọn cách hành động có ích để giải tỏa tâm lý bản thân…. Ayumi ko nhắn tin cho Hinako mà chọn cách giúp Keisuke tháo gỡ đi những kỳ thị dành cho gia đình người bạn của mình….cuối cùng thì những hành động thiết thực đó đã mang lại kết quả tốt đẹp)…. Trong khi đó, bà Satoko – vốn dĩ là 1 bà già luôn ra sức bảo vệ truyền thống, thì lại chỉ có thể tìm cách an ủi sự cô đơn và tuyệt vọng của bản thân bằng cách duy nhất là gọi điện cho người con trai ở xa – người mà ngay việc nghe điện thoại từ mẹ cũng ko tha thiết gì!….với t, đó là 1 thông điệp rõ ràng rằng: trong 1 xã hội mà khoảng cách kết nối tâm hồn con người càng ngày càng xa nhau tỉ lệ nghịch với khoảng cách truyền đi của sóng điện thoại di động, thì trực tiếp tìm đến nhau là cách duy nhất để kéo những con người lại gần nhau hơn…. Một hình tượng nữa khá hay, đó là hình ảnh về vòng đu quay đêm!….tựa đề của truyện là Vòng đu quay đêm, xuất phát từ 1 công trình vòng đu quay khổng lồ (sắp) được khởi công gần khu dân cư Hibarigaoka, và công trình (chưa tồn tại) này thu hút sự mong chờ của mọi người, mong chờ cảm giác được lên vòng đu quay để ngắm nhìn thành phố….nhưng ko ai trong khu Hibarigaoka nhận ra, bấy lâu nay họ vẫn sống ở 1 nơi giống như vòng đu quay khổng lồ kia….khu dân cư nằm trên dốc cao, có thể nhìn trọn vẹn cảnh thành phố bên dưới…. vì vậy mỗi lần lên xuống dốc, chả phải cũng giống như quá trình lên xuống của vòng đu quay hay sao!?….thế nên, thay vì tưởng tượng đến niềm vui, niềm hạnh phúc chưa xảy đến, chi bằng hãy trân trọng và nâng niu cuộc sống mình đang có, và hạnh phúc với nó!…. Truyện của Minato nhìn chung là buồn….nhưng ít ra với Vòng đu quay đêm, điểm sáng đã le lói lên ở cuối con dốc đêm tưởng như dài vô tận ấy!….   Nguyễn Thành Tiến *** Cuộc sống quá mệt mỏi và đáng ghét vậy sao? Đọc xong quyển này mình thấy cuộc sống quả thật có quá nhiều áp lực. Nếu rơi vào hoàn cảnh vừa là nạn nhân cũng vừa là đối tượng công kích của dư luận khi bỗng dưng cha bị chết, mẹ là hung thủ giết người không biết sẽ phải đối mặt ra sao. Review VÒNG ĐU QUAY ĐÊM Tác phẩm không hoàn toàn là trinh thám mà nó là tâm lý xã hội thì đúng hơn. Và chủ đề của Vòng đu quay đêm là chủ đề về gia đình, những vấn đề về gia đình trong xã hội hiện đại. Gia đình là nền tảng của xã hội nhưng quả thật trong một gia đình cũng có quá nhiều áp lực và khủng hoảng. Cha mẹ thì áp lực trong việc nuôi dạy con cái, mong muốn những điều tốt đẹp tới cho con cái, đặt kỳ vọng, mong muốn vào con cái. Nhưng chính những kỳ vọng, mong muốn quá cao đó lại vô tình gây nên những áp lực không đáng có cho con cái khi cha mẹ thật sự không hiểu khả năng của con tới đâu. Mà nhiều khi họ không lắng nghe hay đối thoại cùng con để hiểu nhau, để cùng giải quyết vấn đề. Điều quan trọng là cách đối mặt, giải quyết những vấn đề gặp phải như thế nào để nó không gây ra những hậu quả đáng tiếc khi phải chịu đựng stress trong một thời gian quá dài rồi bùng phát ra. Mình không thể chấp nhận được bất cứ cách giải quyết nào của các nhân vật trong Vòng đu quay đêm. Người con thì quá hỗn láo và vô lý. Việc bị thi trượt vào trường danh tiếng dẫn tới xấu hổ, tự ti, tự tạo ra áp lực cho chính mình không thể là lý do để biện hộ cho sự hỗn láo, xấc xược với cha mẹ sinh ra mình như vậy được. (con cái mà gọi cha mẹ là ông nọ, bà kia, đòi hỏi này nọ, cãi lại nhem nhẻm nhem nhẻm một cách vô lý rồi lên cơn phá phách, ném đồ đạc trước mặt cha mẹ như vậy là không thể chấp nhận được). Người mẹ thì nuông chiều, coi đó là việc hiển nhiên, cứ thế chấp nhận rồi cho qua, không có biện pháp gì hiệu quả. Người cha thì theo chủ nghĩa “im lặng là vàng, nhẫn nhịn là bạc, lẩn tránh là thượng sách”, gặp vấn đề chỉ biết lảng tránh cho im chuyện không hề có biện pháp giải quyết nào cả, không có tiếng nói của một người cha trong gia đình một cách đúng nghĩa. Không biết có phải đó là chủ ý của tác giả khi xây dựng nên các tuyến nhân vật như vậy để người đọc có thể nhìn nhận, soi chiếu vào chính gia đình, cộng đồng mình đang sống hay không? Không dám nói nhiều sợ spoil nhưng cái kết của tác phẩm làm mình không thoả mãn. Trong tác phẩm cũng có một vài điểm sáng về tình người chứ không quá u ám như các tác phẩm mà mình đã đọc trước đó của Minato Kanae. Tác phẩm vẫn mang phong cách của Minato Kanae khi được nhìn dưới nhiều góc độ của các tuyến nhân vật. Tác phẩm không phải là không để lại suy ngẫm nhưng Vòng đu quay đêm không phải là tác phẩm xuất sắc của Minato Kanae. Binh Boog Mời các bạn mượn đọc sách Vòng Đu Quay Đêm của tác giả Minato Kanae & Nguyễn Hải Anh (dịch).
Hội Chứng E
"Franck Thilliez đã khéo léo đưa khoa học và thần kinh học vào những tình tiết trinh thám xuất sắc trong Hội chứng E, từ đó dẫn dắt người đọc vào mê cung lắt léo của bộ não con người cùng tất cả những lệch lạc mà bộ não đó có thể nảy sinh..." - Tạp chí Elle Một bộ phim ngắn bí ẩn và độc hại khiến người xem đột ngột bị mù... Vậy là đủ để đi tong toàn bộ kỳ nghỉ hè của trung úy cảnh sát Lucie Hennebelle. Năm xác chết bị cắt xẻ tàn bạo được tìm thấy trong tình trạng mất não, mất mắt, và phân hủy đến khó lòng nhận dạng... Chẳng cần gì hơn thế để mời gọi thanh tra trưởng Franck Sharko đang trong kỳ nghỉ cưỡng chế phải quay trở lại đội Hình sự. Hai hướng điều tra cho cùng một vụ án duy nhấ sẽ kết hợp Hennebelle và Sharko, đưa họ đi từ những khu ổ chuột nhơ nhớp ở Cairo đến các trại trẻ mồ côi ở Canada, để rồi đối mặt với một tội ác có một không hai, một thực tế tàn bạo, hé lộ sự thật rằng tất cả chúng ta ai cũng đều có thể phạm phải điều tồi tệ nhất. Với Hội chứng E, Franck Thilliez thêm một lần nữa giúp chúng ta hiểu thế nào là kinh hoàng khi đưa chúng ta vào tâm hồn con người, vào cội rễ của bạo lực và cái ác. *** Thực ra nói tôi thích trinh thám cũng đúng, nhưng nếu chính xác hơn thì tôi thích Trinh thám, kinh dị có hòa trộn hoặc được lấy cảm hứng hay đan xen, thậm chí đào sâu các vấn đề về tâm lý xã hội, tâm lý con người, và bởi vậy nên tôi không thể bỏ qua cuốn Hội Chứng E, một cuốn trinh thám đáp ứng đủ mọi yêu cầu của tôi ngay từ trang giới thiệu. Truyện lấy bối cảnh chính ở nước Pháp, năm cái xác được tìm thấy bị chôn sâu dưới lớp đất, kinh khủng hơn là các nạn nhân đã bị khoét sạch nhãn cầu, não bị lấy đi, răng bị nhổ sạch, bàn tay bị chặt đứt. Thực ra khá là dễ đoán lý do vì sao các nạn nhân bị lấy đi những bộ phận đó, là răng và bàn tay thì để tránh bị nhận ra danh tính, còn não và mắt thì chắc chắn là để nghiên cứu rồi, vấn đề là nghiên cứu điều gì, và kẻ nào có thể tỉnh táo và bệnh hoạn đến mức làm những việc như vậy mà không run tay? Đó chính là vấn đề mà thanh tra Sharko phải tìm ra. Song song đó thì thông tin về một đoạn phim ma quái làm mù mắt người xem cũng được nữ cảnh sát Lucie tiếp nhận và điều tra. Hai người, hai hướng điều tra hoàn toàn khác nhau, lại dẫn đến một con đường chung nhất về câu trả lời cho tất cả mọi thứ. Cá nhân tôi rất thích quá trình điều tra của vụ án này, cảm giác rất thực tế, rõ ràng, và có một quy trình cụ thể, được sự hỗ trợ và liên kết của rất nhiều thành phần, từ cảnh sát, chuyên gia tâm lý học tội phạm, bác sĩ, nhà nghiên cứu… tất cả đều có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tìm ra những miếng ghép và đặt nó đúng chỗ, để từ đó hiện lên bức tranh kẻ thủ ác. Giống như đang chơi CoC vậy ;)). Một số truyện thì đề cao cảnh sát, một số khác thì lại đề cao vai trò thám tử, nhưng ở đây, mọi nhân vật từ chính đến phụ đều có vai trò quan trọng như nhau, không quá dìm hay quá nâng một bên nào, đó là điều khiến tôi hài lòng. Không có ai là thần thánh hay thông minh tài giỏi đến mức khiến người đọc khó chịu. Liên quan đến đoạn phim ma quái kia thì có chuyên gia phân tích phim, phục chế phim, liên quan đến não bộ và mắt nhìn của con người thì có những nhà nghiên cứu chuyên sâu, còn quá trình điều tra, những lý giải về tâm lý tội phạm thì đó là việc của hai nhân vật chính của chúng ta, Sharko và Lucie. Mọi thứ đều theo đúng logic và quy trình thực tế, giúp người đọc không bị ngợp và không có cảm giác khó chịu khi bị qua mặt hay đùa giỡn, kiểu như nhân vật chính là hiện thân của Superman hay vị thánh nào đó vậy! Quá trình điều tra vụ án này cũng đưa người đọc phiêu lưu qua không gian và thời gian, từ Pháp, đến Bỉ, rồi đến vùng đất xa lạ Ai Cập, hay Canada, từ vụ án ngày hôm nay mà lật giở lại những vụ án từ nhiều năm trước, rồi các vụ thảm án có thật trong lịch sử, những sự kiện tác động trực tiếp đến xã hội, rất nhiều rất nhiều chuyến phiêu lưu, mà đích đến chung nhất của tất cả những đường nhánh này đều là vụ án của hiện tại. Không dừng lại ở đó, mức độ đồ sộ của vụ án này còn nằm ở những lý giải và phân tích liên quan đến kỹ thuật làm phim, đến mắt và não bộ của con người. Bạn có tin không, có một kỹ thuật gọi là phim chồng phim, nhà làm phim sẽ dùng những thủ thuật về ánh sáng, màu sắc, sự tương phản và tốc độ chạy của cuộn phim mà ẩn giấu ở đó là một đoạn phim thật sự, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, mà chính là Bộ não của chúng ta sẽ nhìn thấy, rất lạ đúng không? Mục đích của họ là khiến bộ não của chúng ta bị tác động trực tiếp từ những đoạn phim như vậy, mắt thì nhìn thấy một cô bé ngồi chơi trên chiếc xích đu thật yên bình, nhưng song song lúc đó, bộ não sẽ nhìn thấy đoạn phim bị ẩn giấu, đó là những đứa trẻ đang dùng tay không đập chết những con thỏ… Chính lúc đó thì não bộ chúng ta sẽ xuất hiện những xung động, khiến bản thân có cảm giác khó chịu mà không thể lý giải nổi. Lý giải sâu xa hơn, kỹ thuật này nếu xuất hiện phổ biến trong đời sống con người hiện nay, những đoạn quảng cáo bạn xem, những đoạn phim tưởng như vô bổ, nhưng rất có thể, có những hình ảnh ẩn giấu đang tác động trực tiếp đến não bộ của bạn, và khi một tác động nào đó đủ, thì nó sẽ khiến bạn có những suy nghĩ và hành vi như họ mong muốn mà chính bạn cũng không ý thức được. Thật sự đáng sợ! Những kẻ thủ ác của truyện đã lợi dụng kỹ thuật này, kết hợp với thuốc, và những âm thanh, giọng nói… để biến những đối tượng thí nghiệm của chúng trở nên bạo lực cực đoan, không biết sợ hãi, những người này sẽ trở thành những kẻ “táng tận lương tâm”, giết người không ghê tay, và không còn lương tri nữa. Nếu điều này được phổ biến và nhân rộng thì hậu quả sẽ như thế nào, cũng dễ đoán thôi… Vậy thì, Hội Chứng E là gì? Có thể nói đơn giản đó là hội chứng điên loạn bạo lực tập thể, mà có thể lân lan qua đường thần kinh, chứ không theo một mô thức cụ thể nào, có vẻ mông lung khó hiểu và khó tin nhỉ? Nhưng quả thật là tác giả có những dẫn chứng từ chính những sự kiện có thật trong lịch sử, quả thật thì tôi chưa tìm hiểu hay đọc sâu hơn về những sự kiện đó, nên cũng không biết là có lý giải nào khác hay không, trước mắt cứ tạm tiếp nhận phương án này của tác giả vậy… Vậy vấn đề đặt ra ở đây thì, nếu có thể tự mình tác động và tạo ra Hội chứng E thì sao? Những con người có Hội Chứng E thì hạch hạnh nhân trong não sẽ bị teo nhỏ, vậy, nếu có thể dùng thuốc, hay kích thích liên quan đến thần kinh để khiến hạch này teo nhỏ như ý mình muốn, vậy có phải là lúc đó mình sẽ tạo ra được một đội quân hiếu chiến, không biết sợ hãi, tàn nhẫn máu lạnh không? 500 trang truyện là sự kết hợp của quá trình điều tra, tìm hiểu sự thật và tất cả những vấn đề này, rất đồ sộ, rất to lớn, hoành tráng, nhưng lại rõ ràng và đáng tin vô cùng. Thực sự thì đọc xong tôi cũng không biết cái nào là thực, cái nào là tác giả hư cấu nữa, một lời khen dành cho tác giả, ông đã khéo léo dùng những điều thực tế để làm tiền đề cho câu chuyện của mình, từ nơi chốn, sự kiện, con người, thậm chí là các tổ chức như CIA, lính lê dương Pháp, chương trình MKUltra… tất cả những điều đó càng khiến cho câu chuyện của Hội Chứng E mang một màu sắc chân thực đến mức khiến người đọc nổi da gà! Đọc đến trang cuối thì điều đọng lại ở độc giả không còn là sự tàn nhẫn hay máu me của những vụ án, mà đó là suy ngẫm về những điều hiện diện ngay xung quanh đời sống có thể đang dần dần biến đổi bộ não của mình mà chính bản thân cũng không hề hay biết. Tôi tin rằng, đây là một thành công lớn của tác giả, không dùng máu me để câu khách, mà lại khiến người đọc phải ấn tượng và suy ngẫm rất nhiều về tác phẩm của mình. Một tác phẩm trinh thám đồ sộ, đáng được trải nghiệm, tôi mong rằng những tác phẩm khác của tác giả này sẽ sớm được xuất bản tại Việt Nam. Tôi thích cách mà ông đào sâu nghiên cứu để đưa đến cho người đọc cái nhìn sâu và kĩ nhất, không phải là cưỡi ngựa xem hoa, mà cẩn thận… cho đi bộ đào đất trồng hoa luôn đấy! Những tác giả đặt cả tâm huyết của mình vào tác phẩm, thật sự rất đáng để trân trọng. *** Chào cả nhà iu lại là mị đây, xin phép repost có chỉnh sửa review và ảnh của cuốn này tại đợt trước hổng có ưng lắm hị hị. . Hà Nội nóng nực và chói chang như màu của cái bìa cuốn sách ấy nên cũng được thể giới thiệu cho các bạn, đặc biệt là các bạn fan trinh thám quyển Hội Chứng E – một tác phẩm mà theo tớ đánh giá là rất đồ sộ về cả mặt hình thức và nội dung. Cảm giác khi đọc xong Hội Chứng E như kiểu khai phá ra cả một miền tri thức kỳ vĩ mới luôn á trời. . Franck Thilliez là một nhà văn trinh thám người Pháp, cuốn Hội Chứng E là phần thứ ba trong nguyên series sách được lấy luôn tên nhân vật chính – Franck Sharko – làm tựa đề. Nói là series nhưng may mắn là cuốn này có thể đọc riêng lẻ được nên khỏi lo vì không hiểu gì hết nhen. Quay trở lại nội dung chính của Hội Chứng E, tác phẩm mở đầu với việc hé lộ với khán giả một bộ phim kỳ quái, bí ẩn và độc hại có khả năng làm người xem đột ngột bị mù. Bộ phim này chính là nguyên nhân phá hỏng kỳ nghỉ của trung úy cảnh sát Lucie, buộc cô phải dấn thân vào điều tra gốc rễ của những thước quay gây ám ảnh đó. Cùng lúc ấy, năm xác chết bị cắt xẻ tàn bạo được tìm thấy trong tình trạng mất não, mất mắt và bị phá hủy một cách dã man để giấu đi thân phận của người xấu số, mời gọi thanh tra Franck Sharko quay trở lại đội Hình sự sau mấy năm tưởng như đã quen với công việc bàn giấy. Hai mạch truyện, hai hướng điều tra khác nhau song cuối cùng đều quy về một mối mang tên Hội Chứng E, hé lộ một thực tế và một trang sử tàn bạo, nơi giới hạn của con người dường như là vô tận, rằng bất cứ ai đều có khả năng thực hiện tội ác. Nội dung nom có vẻ hấp dẫn, nhích lun. Đọc Hội Chứng E của Franck Thilliez tớ liên tưởng ngay đến các tiểu thuyết trinh thámcủa tác giả Jeffery Deaver vì ấn tượng với lượng kiến thức khổng lồ của hai tác giả này quá thể, thật sự luôn ấy. Nếu các bạn muốn đọc một cuốn trinh thám siêu bự về kiến thức lịch sử, thần kinh học, tâm lý học và đặc biệt là muốn tu bổ trí não thêm về cách hoạt động của mắt dẫn truyền lên bộ não hay cách để tạo dựng ra một bộ phim-ẩn-trong-một-bộ-phim với những thuật ngữ chuẩn thì Hội Chứng E có đủ hết, không chê vào đâu được. Cảm giác như tác giả đã dành phần nhiều thời gian tìm tòi, chọn lọc và miệt mài đầu tư chất xám vào cuốn tiểu thuyết trinh thám này. Ban đầu tớ nghĩ là tớ sẽ – theo nghĩa đen – đọc một cách lê lết từng trang ấy nhưng mà không, tôi đã nhầm rồi quý dzị ạ, vì Hội Chứng E siêu siêu siêu cuốn, cứ phải lật lật giở giở để xem hướng điều tra của Lucie và Sharko rồi sẽ đi đến đâu, hé lộ ra những gì và tên tội phạm chủ mưu với bộ óc thông minh đi trước thời đại này là ai. Nghe có vẻ hơi sai sai khi dành cho hung thủ một lời khen ngợi như thế, nhưng quả đúng thật, tên này thông minh thấy gớm luôn không ai đọ được đâu.  Một điểm tớ thích nữa đó là sự vận hành của cốt truyện có tính liêt kết chặt chẽ với nhau với từng chi tiết trải dài từ quá khứ cho đến hiện tại, tất cả đều quy về một mối duy nhất mang tên Hội Chứng E, có những điều tưởng như không liên quan mà lại liên quan không tưởng. Kiểu wow, sao điều này có thể được nhỉ? Nhưng mà trong tác phẩm này thì nó có thể đấy các bạn tôi ơi.  Nhìn chung Hội Chứng E là tác phẩm đồ sộ cả về kiến thức lẫn nội dung. Siêu ấn tượng về khối lượng kiến thức của tác giả, thực sự ấy. Có yếu tố yêu đương trong này (thở dài cái thườn thượt) nhưng may là không nhiều đâu, nếu không máu xéo sắc của mị đã bùng cháy lên rồi. Dù sao đây cũng là trinh thám chứ hổng phải tiểu thuyết tình yêu gì cho cam hén. À có thắc mắc nhỏ không rõ do bản gốc hay do dịch (nhưng mị nghĩ là do bản gốc) mà trong đây nhiều lúc cảm thấy hơi bất hợp lý qua cách gọi một nữ trung úy cảnh sát gần 40 tuổi hai mụn con và góa chồng là “cô gái nhỏ”, cứ thấy hơi… Tóm cái quần lại thì quyển này hay, đoạn kết hẫng chút hơi buồn tí nhưng đừng bỏ qua ẻm vì Hội chứng E ổn lắm. Recommend cho các bạn mình nhớ. neverblossom *** gười đến đầu tiên. Ngay khi biết tin qua quảng cáo, từ sáng sớm, Ludovic Sénéchal đã lên đường và ngốn hết hai trăm ki lô mét ngăn cách vùng ngoại ô thành phố Lille với thành phố Liège trong khoảng thời gian ngắn kỷ lục. “Bán bộ sưu tập phim cũ 16mm, 35mm, câm và có âm thanh. Tất cả các thể loại, phim ngắn, phim dài, từ những năm ba mươi trở đi. Hơn 800 cuộn phim, trong đó có 500 phim tình báo. Trả giá tại chỗ…” Loại quảng cáo này khá hiếm gặp trên một trang mạng đa ngành. Thông thường, các chủ sở hữu vẫn bán qua các hội chợ, kiểu như Argenteuil, hoặc gửi bán đấu giá từng cuộn phim của mình trên eBay. Ở đây, lời quảng cáo chẳng khác nào rao bán một cái tủ lạnh cũ cần bỏ đi. Dấu hiệu tốt. Ở giữa trung tâm thành phố của nước Bỉ, Ludovic chật vật tìm chỗ đỗ xe, liếc mắt nhìn về phía số nhà rồi trình diện trước chủ nhân ngôi nhà, Luc Szpilman. Chừng hai mươi lăm tuổi, đi giày thể thao Converse, đeo kính lướt ván, mặc áo thun hiệu Bulls. Còn xỏ cả mấy chiếc khuyên nữa. - À vâng, anh đến vì mấy bộ phim. Đi theo tôi, chúng ở trên gác thượng. - Tôi là người đến đầu tiên chăng? - Những người khác hẳn cũng sắp đến thôi, tôi đã nhận được rất nhiều cuộc điện thoại. Tôi không nghĩ là mọi chuyện lại nhanh đến thế. Ludovic theo gót anh ta. Căn nhà đặc sệt phong cách vùng Flamand, với những màu sắc ấm áp và gạch lát sẫm màu. Các phòng được gắn kết với nhau xung quanh khoang cầu thang, phòng chính lấy sáng từ giếng trời. - Tại sao cậu lại vứt bỏ những cuốn phim cũ đó? Ludovic lựa chọn từ ngữ rất cẩn thận. Vứt bỏ, cũ… Vụ thương lượng đã bắt đầu. - Bố tôi mất hôm qua rồi. Ông ấy chưa bao giờ nói với ai là sẽ phải làm gì với chúng. Ludovic kinh ngạc: người cha già còn chưa được chôn xuống đất mà người ta đã lột sạch tài sản của ông ta. Vả chăng, đứa con trai ngớ ngẩn này cũng chẳng thấy ích lợi gì trong việc giữ lại những cuộn phim dài nặng đến cả hai mươi lăm cân, bởi ngày nay có thể lưu giữ số lượng hình ảnh nhiều gấp ngàn lần mà trọng lượng lại ngàn lần nhẹ hơn. Thật tội nghiệp cho một thế hệ bị hy sinh… Cầu thang dốc ngược, nhìn lên muốn gãy cổ. Khi đã lên đến gác thượng, Szpilman bật một bóng đèn công suất thấp. Ludovic mỉm cười, trái tim của nhà sưu tầm trong anh nảy lên một nhịp. Chúng nằm đó, được bảo vệ hoàn toàn khỏi ánh sáng tự nhiên… Những chiếc hộp đủ màu sắc xếp chồng lên nhau, hai chục hộp một, tạo thành những tòa tháp nhỏ. Mùi phim thật dễ chịu, gió uốn éo luồn lách giữa các giá. Một cái thang có bánh lăn cho phép lên tới những tầng giá trên cùng. Ludovic lại gần. Một bên là những cuộn phim 35mm, rất đồ sộ, và một bên là loại 16mm, loại khiến anh đặc biệt thích thú. Những chiếc hộp tròn được dán nhãn, sắp xếp một cách hoàn hảo. Những bộ phim câm cổ điển, những bộ phim dài từ thời hoàng kim của điện ảnh Pháp, đặc biệt là phim tình báo, chiếm số đông trên quá nửa các giá… Ludovic đưa tay cầm một cuộn phim. Người đàn ông nguy hiểm nhất thế giới, một công trình của John Lee Thompson về CIA và Trung Hoa cộng sản. Một bản sao đầy đủ, nguyên vẹn, được bảo quản khỏi độ ẩm và ánh sáng, chẳng khác nào một loại rượu nghìn năm. Thậm chí còn có cả những dải băng thể hiện độ pH trong các hộp, nhằm kiểm soát độ axít. Ludovic khó khăn lắm mới kìm được nỗi xúc động. Chỉ riêng kho báu này cũng đáng giá đến năm trăm euro trên thị trường. - Bố cậu rất mê phim tình báo đúng không? - Còn nữa cơ, anh chưa nhìn thấy tủ sách của bố tôi đâu. Thuyết âm mưu và bộ sậu của nó. Gần như ám ảnh ấy. - Cậu bán chúng giá bao nhiêu? - Tôi đã tìm hiểu trên Internet. Tính ước chừng thì khoảng một trăm euro một cuộn phim. Nhưng mục đích của tôi là tất cả mớ này biến mất càng nhanh càng tốt, tôi cần chỗ. Thế nên chúng ta có thể thương lượng. - Tôi rất hy vọng thế. Ludovic tiếp tục lùng sục. - Hẳn là bố cậu phải có một phòng chiếu riêng? - Vâng, sắp tới chúng tôi sẽ cải tạo nó. Vứt bỏ đồ cũ, thay đồ mới vào. Màn hình LCD và rạp hát gia đình công nghệ mới nhất. Tôi sẽ bố trí cho ban nhạc của tôi ở đây. Ngán ngẩm trước thái độ thiếu tôn trọng đó, Ludovic đi vòng sang bên phải, lật đi lật lại các chồng phim, đắm mình trong mùi phim. Anh phát hiện ra phim của Harold Lloyd, Buster Keaton, rồi, xa hơn một chút, là những phim kiểu như Hamlet hoặc Đại úy Fracasse. Anh những muốn mua hết, nhưng mức lương của một nhân viên an sinh xã hội và những khoản phí thuê bao khác nhau - Meetic*, Internet, truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh - chỉ để lại cho anh một khoản eo hẹp để chi tiêu mỗi tháng. Thế nên anh phải lựa chọn. Anh lại gần chiếc thang. Luc Szpilman cảnh báo: - Anh nên cẩn thận. Bố tôi đã ngã xuống từ chính chiếc thang đó, và bị vỡ đầu. Dù sao thì, trèo lên đó khi đã ở tuổi tám mươi hai… Ludovic lưỡng lự một lát, tuy nhiên vẫn trèo lên. Anh nghĩ đến ông già kia, đam mê đến nỗi bị chính những cuộn phim của mình giết chết. Anh trèo lên cao hết mức có thể, tiếp tục chọn mua. Đằng sau Bức thư từ điện Kremlin, trên một hàng hộp không thể nhìn thấy từ bên dưới, anh phát hiện ra một chiếc hộp đen sì, không dán nhãn. Ludovic giữ tư thế thăng bằng rồi nhấc nó lên. Bên trong, nhìn qua là một bộ phim ngắn, bởi độ dài cuộn phim không đủ lấp đầy khoảng trống trong hộp. Cùng lắm là mười đến hai mươi phút chiếu. Có lẽ là một phim bị thất lạc, độc bản, mà chủ nhân của nó không bao giờ xác định được. Ludovic cầm chiếc hộp, xuống thang rồi xếp chồng lên chín bộ phim về tôn giáo mà anh đã chọn. Những cuộn phim không tên này luôn là yếu tố tạo sự lôi cuốn cho các buổi chiếu phim. Khi quay lại, anh tỏ vẻ bình thản, nhưng các huyết mạch trong người như đang bùng cháy. - Đáng tiếc là đa phần phim của cậu không đáng giá lắm. Toàn những thứ hết sức chuẩn mực. Với lại… Cậu có ngửi thấy cái mùi đó không? - Mùi gì? - Mùi giấm. Các cuộn phim đã bị nhiễm hội chứng giấm, nói cách khác, chẳng mấy nữa chúng sẽ hỏng. Chàng trai trẻ bước lên và hít ngửi. - Anh chắc chứ? - Chắc chắn. Tôi sẵn lòng giải quyết giúp cậu mười cuộn phim này. Ba mươi lăm euro một cuộn, cậu thấy thế nào? - Năm mươi. - Bốn mươi. - Thôi được… Ludovic chi ra một tờ séc bốn trăm euro. Khi anh chuẩn bị dong buồm, một chiếc xe đeo biển đăng ký ở Pháp đang tìm chỗ đỗ. Hẳn là một người mua nữa đã tới. Ludovic ra khỏi phòng chiếu riêng, rồi một mình, tay cầm lon bia, ngồi xuống một trong số mười hai chiếc ghế bằng vải giả da mang phong cách những năm 1950 mà anh đã mua lại hồi người ta đóng cửa rạp Rex, rạp phim nhỏ trong khu phố. Anh đã thửa cho mình một phòng chiếu phim đích thực dưới tầng hầm, và gọi đó là “rạp phim bỏ túi” của mình. Ghế gấp, bục, màn chiếu gắn hạt thủy tinh nhỏ, máy chiếu Tri-Film Heurtier, đủ hết. Ở tuổi bốn mươi hai, anh chỉ còn thiếu một cô bạn gái, để vừa ôm ấp vừa xem bản gốc phim Cuốn theo chiều gió. Nhưng lúc này, những trang web hẹn hò chết tiệt chỉ đưa anh đến với những cuộc tình chớp nhoáng hoặc thất bại. Đã gần ba giờ sáng. Đầu óc còn nhồi đầy những hình ảnh tình báo và chiến tranh, anh kết thúc buổi chiếu phim dài dằng dặc bằng bộ phim ngắn lạ lùng được bảo quản cẩn thận đến khó tin kia. Nhìn bề ngoài, có vẻ đó là một bản sao. Những bộ phim không tên này đôi khi chứa đựng kho báu thực sự, hoặc nếu thần may mắn mỉm cười, anh sẽ gặp được tác phẩm thất lạc của những nhà làm phim nổi tiếng: Méliès, Welles, Chaplin. Nhà sưu tầm trong anh rất thích mơ mộng. Khi Ludovic giở đoạn đầu cuộn phim không tên ra để nối vào máy chiếu, anh đọc thấy trên dải băng, “50 hình/giây”. Loại này khá hiếm so với tiêu chuẩn 24 hình/giây, tốc độ đó thừa đủ để tạo ra cảm giác chuyển động. Tuy nhiên, anh vẫn đổi tốc độ chụp của máy chiếu để khớp với tốc độ yêu cầu. Để khỏi phải xem một bộ phim quay chậm. Rất nhanh chóng, nền trắng của màn hình nhường chỗ cho một hình ảnh tối thẫm, mờ mịt, không nhan đề cũng chẳng phần giới thiệu đoàn phim. Một vòng tròn màu trắng hiện ra ở góc trên cùng bên phải. Lúc đầu, Ludovic tự hỏi liệu có phải do lỗi phim không, như vẫn thường xảy ra với những cuộn phim cũ. Bộ phim bắt đầu. Ludovic ngã vật xuống trong lúc chạy lên tầng trên. Anh không còn nhìn thấy gì nữa, mặc dù đèn vẫn bật. Anh đã bị mù. Mời các bạn đón đọc Hội chứng E của tác giả Franck Thilliez & Nguyễn Thị Tươi (dịch).
Mười Hai Người Hoa Và Một Cô Gái
Với cốt chuyện đơn giản nhưng văn phong giàu hình ảnh và đậm tính hành động, James Hadley Chase khiến cho người đọc có cảm giác như chính họ đang trực tiếp tham gia vào câu chuyện, đối mặt với những sự kiện gay cấn và bí ẩn. Đó là một trong những lý do khiến nhiều người lựa chọn Mười hai người Hoa và một cô gái cho tủ sách của mình. Cuốn sách gồm hai truyện ngắn, Mười hai người Hoa và một cô gái là cuộc điều tra của một thám tử can trường Ferner chống lại những hoạt động tội ác của một băng tội phạm người Hoa, còn Chẳng bao giờ hiểu được đàn bà là câu chuyện tình éo le của một thám tử thất cơ với một cô gái bị nghi ngờ là thủ phạm của một vụ giết người hàng loạt. Mời các bạn đón đọc. *** James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** Fenner hé một bên mắt lúc Paula lách bộ ngực ngon lành và mái tóc bù xù vào khe cửa phòng giấy của ông. Ông lơ đãng nhìn rồi lại thu mình trên ghế tựa, hai chân gác lên tấm giấy thấm trắng tinh trên bàn. Ghế tựa xoay tròn của ông nghiêng 45 độ trông chỉ chực đổ. - Ra đi, Paula. - ông càu nhàu. - Lúc khác hãy vào, bây giờ tôi đang suy nghĩ. Paula lách hẳn bộ ngực vào phòng giấy. Cô đến bên bàn. - Dậy đi. Thần Ngù! - cô nói. - Có khách hàng đang đợi ngoài kia kìa. - Bảo người ta về, - Fenner nhăn nhó. - Bảo họ chúng ta tạm nghỉ. Lạy Chúa, thì thỉnh thoảng tôi cũng cần ngủ chứ? - Thế sếp dùng giường làm cái gì? - Paula sốt ruột nói. - Đừng hỏi tôi những câu như thế, - Fenner gắt rồi lại co người trong ghế tựa. - Mời sếp đứng lên đi. - Paula năn nỉ. - Một bông hoa rừng. Mà em thấy hình như cô ta đang gặp chuyện rắc rối gì rất cần nhờ đến sếp. Fenner mở mắt. -Dáng dấp ra sao? Liệu cô ta có định xin bố thí không đấy? Paula ngồi vào ghế ở góc phòng: -Nhiều lúc em cứ tự hỏi, không hiểu sếp treo tấm biển ngoài cửa để làm gì. Sếp không muốn có khách hàng sao? Fenner lắc đầu: -Không, nếu tôi chưa thấy cần thiết. Mấy vụ vừa rồi được khá tiền. Chúng ta đang rủng rỉnh, đúng không nào? Nghỉ ít lâu đã. -Em thấy vụ này có vẻ lý thú đấy. Nhưng nếu anh không thích thì thôi. Paula đứng lên định ra ngoài. - Khoan đã, - Fenner vội gọi lại. Fenner đã ngồi hẳn dậy, kéo chiếc mũ lên trán: - Đúng là bông hoa rừng chứ? Paula gật đầu. - Em thấy cô ta có vẻ rất hoảng hốt. - Thôi được. Cho cô ta vào. Paula hé mở cánh cửa. nói ra ngoài: - Mời cô vào đây. - Cảm ơn, - tiếng phụ nữ bên ngoài. Một cô gái trẻ bước vào, đi ngang trước mặt Paula, chăm chú nhìn Fenner bằng cặp mắt xanh biếc. Vóc tầm thước. Dáng đi mềm mại. Hai chân mềm mại. Bàn tay nhỏ nhắn và bàn chân nhỏ nhắn. Lưng rất thẳng. Tóc đen nhánh lộ ra ngoài chiếc mũ nhỏ. Mặc bộ đồng màu cắt giản dị và đẹp. Vẻ mặt non trẻ. Có vẻ đang rất sợ hãi chuyện gì đó. Paula mỉm nụ cười trấn an cô gái rồi bước ra ngoài, khép cửa lại. Fenner nói: - Mời cô ngồi. Cô cần tôi giúp việc gì? Ông trỏ ghế tựa lớn. Cô gái lắc đầu. - Tôi muốn đứng, - cô gái nói, giọng hơi hổn hển. - Có lẽ tôi không gặp ông lâu đâu. Fenner ngồi xuống: - Tùy cô, - ông nói giọng điềm tĩnh. - Cô cứ tự nhiên. Hai người nhìn nhau một lúc. Fenner nói tiếp: - Cô nên ngồi xuống thì hơn. Xem chừng cô sẽ phải kể với tôi nhiều đấy, và trông cô lại rất mỏi mệt. Fenner thấy rõ không phải cô gái sợ ông mà sợ thứ gì đó ông chưa biết. Cặp mắt cô gái đầy lo lắng. Hai tay cô co lên đỡ cặp vú rất cao, như thể chỉ chực chạy vụt ra ngoài. Cô gái lại lắc đầu. - Tôi nhờ ông tìm giúp em gái tôi, - cô ta nói giọng lo lắng. - Tôi rất lo cho nó. Tốn bao nhiêu, thưa ông? Ý tôi nói là tôi phải trả ông bao nhiêu? Fenner liếc nhìn lọ mực nằm ngay cạnh bàn tay ông: - Cô không phải băn khoăn chuyện đó. Yên tâm đã. Và kể tôi nghe đầy đủ câu chuyện. Trước hết tôi muốn biết cô là ai. Chuông điện thoại reo. Cô gái đột nhiên hốt hoảng. Cô vội vã chạy ra xa máy vài bước rồi đứng lại, cặp mắt trợn lên và tối lại. Fenner mỉm cười bình thản để cô gái yên tâm. - Lúc tôi ngủ. bao giờ tiếng chuông điện thoại cũng làm tôi hồi hộp như vậy đấy. Fenner nhấc máy. Cô gái lúc này đứng ở ngưỡng cửa phòng giấy, nhìn ông không chớp mắt. - A - lô! Tôi đây. Tiếng trong máy rất bị nhiễu. Giọng đàn ông ngọt ngào: - Ông Fenner? - Vâng. - Ngay bây giờ sắp có một cô gái đến tìm ông. Tôi nhờ ông giữ cô ta lại ở chỗ ông, đợi tôi đến. Tôi đi ngay bây giờ. Ông hiểu chứ? Fenner nháy mắt với cô gái để trấn an rồi nói vào máy: - Chưa hiểu. - Vậy tôi nhắc lại. Ông nghe cho kỹ. Chỉ lát nữa thôi sẽ có một cô gái đến tìm ông, nhờ ông tìm em gái cô ta bị mất tích. Ông hãy giữ cô ấy lại ở chỗ ông đợi tôi đến. Cô ta mắc bệnh tâm thần đấy và trốn ở bệnh viện tâm thần ra hôm qua. Tôi biết cô ta đang trên đường đến văn phòng của ông. Ông chỉ cần giữ cô ấy lại, không cho đi, thế là đủ. Tôi sẽ đến ngay. Fenner kéo mũ chụp xuống mũi. - Nhưng ông là ai? Máy lạo xạo rất to. - Lát nữa tôi sẽ kể ông rõ. Chúng tôi sẽ đền bù công lao của ông hậu hĩ. - Được, - Fenner nói. - Tôi đợi ông. Đợi Fenner đặt máy xuống, cô gái hỏi: - Lão ta bảo tôi điên phải không? Bàn tay không cầm xắc run rẩy bấu vào váy. Fenner gật dầu. Cô gái nhắm mắt một giây, rồi đột nhiên mở to, y hệt như con búp bê nhắm mở mắt bị trẻ nhấc cho ngồi dậy. - Khó mà không tin lão ta được, đúng không thưa ông? - cô gái lo lắng nói. Đột nhiên cô ta đặt xắc lên bàn, tháo găng tay rồi cởi áo vét. Fenner im lặng, tay vẫn còn đặt trên máy điện thoại, nhìn cô gái. Cô gái nấc lên rồi bàn tay run rẩy cởi dần khuy áo sơ mi. Fenner ngượng ngịu lắc bàn tay: -Không cần! Vụ của cô làm tôi thấy hứng thú. Thế là đủ, cô không cần thưởng thêm gì nữa. Cô gái lại nấc lên như khóc, quay lưng lại phía Fenner. Rồi cô cởi áo sơ mi. Fenner đã đưa tay định bấm chuông gọi người vào. Con bé này định giở trò vu cho mình cuồng hiếp nó để mình bị bắt chứ gì? Nhưng Fenner chưa kịp bấm chuông thì ông đã giật mình. Lưng cô gái là cả một vết thương lớn chằng chịt những vết roi rớm máu ngang dọc, tạo thành một hình hoa văn quái đản và khủng khiếp. Cô gái mặc lại sơ mi rồi cài khuy. Mặc tiếp áo vét. Sau đó cô quay mặt lại phía Fenner. Cặp mắt cô còn mở to hơn lúc trước. - Bây giờ nếu tôi nói tôi đang rất sợ thì ông tin chứ? Fenner lắc đầu. - Lẽ ra cô không cần phải làm như vừa rồi. Cô đến đây cầu cứu tôi, thế là đủ. Và bây giờ cô không phải sợ thứ gì nữa. Cô gái vẫn đứng, hàm răng trên trắng bóng cắn cắn vào môi dưới. Rồi cô mở xắc lấy ra một tập giấy bạc đặt lên bàn. - Thế này đã đủ để trả công ông chưa? Fenner sờ ngón tay vào tập giấy bạc. Chưa đếm nhưng Fenner cũng đoán ít nhất phải mười hai ngàn đô. Ông đứng dậy, nhấc tập tiền đem ra cửa. Ông bảo cô gái: - Cô đứng yên đấy. Fenner ra phòng làm việc của cô thư ký Paula. Paula ngừng đánh máy, đặt hai bàn tay lên đầu gối, ngẩng nhìn Fenner. Fenner nói: - Paula! Cô đội mũ mau rồi dẫn cô gái kia đến khách sạn Baltimore. Thuê một phòng và dặn cô ta khóa trái cửa lại. Thu xếp chỗ nghỉ cho cô ta xong, cô nhập khoản tiền này vào tài khoản trong nhà băng. Hãy tác động để cô ta yên tâm. Bảo tôi sẽ che chở được cô ta. Trấn an cô ta, cô ta đang hốt hoảng. Tuổi cô ta vẫn cần có mẹ đấy, cô hãy làm bà mẹ, rõ chứ? Fenner quay vào phòng giấy. - Tên cô là gì? Cô gái chớp chớp mắt: - Ông hãy đưa tôi ra khỏi đây ngay! Ở lại đây tôi sợ lắm! - cô năn nỉ. Fenner đặt bàn tay to bè lên vai cô gái: - Tôi đã bảo cô thư ký đưa cô đi rồi. Cần gì cô cứ nói với cô ấy. Một người nào đó sắp đến đây. Y rất quan tâm đến cô. Tôi sẽ tiếp y. Nhưng tên cô là gì? - Marian Daley, - cô gái đáp. Cổ họng nghẹn lại. - Bà thư ký sẽ đưa tôi đi đâu? Paula bước vào. vừa đi vừa xỏ tay vào găng. - Cô hãy đi vởi cô Paula Dolan. Ra lối cổng sau. Thế là yên rồi, cô không phải lo lắng gì nữa. Marian Daley mỉm cười e thẹn. -Ôi, tôi đến đây nhờ ông là rất đúng. Ông thấy đấy, tôi đang gặp nhiều nỗi bất hạnh... Tôi còn lo cho em gái tôi nữa chứ. Nó sẽ ra sao với mười hai tên người Hoa kia? - Tôi chưa thể nói gì lúc này được. - Fenner lúng túng nói. Lúc tiễn cô gái ra cửa. Fenner nói thêm: -Em gái cô mến người Hoa. có lẽ thế. Cũng có nhiều người như vậy, Cô đừng lo lắng gì hết. Tối nay, tôi sẽ đến gặp cô. Fenner tiễn Paula và cô gái đến tận thang máy. Khi buồng thang máy đã lao xuống dưới, ông trở lại phòng giấy, nhẹ nhàng gài chốt cửa lại. Sau đấy ông mở ngăn kéo bàn lấy ra khẩu súng ngắn tự động nhét vào túi áo vét. Ông lại ngồi xuống, gác chân lên tấm giấy thấm, nhắm mắt. Fenner ngồi suy nghĩ như thế chừng mười phút. Ba thứ làm ông quan tâm: mười hai ngàn đô, những thương tích trên lưng cô gái và mười hai người Hoa. Tại sao cô Marian Daley này lại trả tiền trước? Tại sao cô ta không đơn giản chỉ nói cô ta bị kẻ nào đánh mà lại cởi áo sơ mi ra trước mặt ông? Tại sao cô ta lại nói mười hai người Hoa mà không nói những người Hoa? Tại sao lại là mười hai? Fenner ngọ nguậy trên ghế. Rồi lại chuyện một thằng cha nào đó gọi điện thoại tới. Hay cô Marian kia trốn trại điên thật? Ngờ lắm. Cô ta có vẻ rất hoảng sợ nhưng không có vẻ người mắc bệnh tâm thần. Fenner mở mắt nhìn chiếc đồng hồ báo thức mạ kền nhỏ trên bàn. Paula đưa cô gái đi đã được mười hai phút. Sao chưa thấy thằng cha gọi điện thoại? Bao giờ hắn mới tới? Trong lúc suy nghĩ, Fenner có cảm giác mình không tập trung tư tưởng lắm. Bởi tai ông đang nghe tiếng ai huýt sáo ngoài hành lang. Ông cố tập trung tư tưởng để suy nghĩ vào vấn đề cô gái kia. Marian Daley! Cô ta là ai? Có vẻ con nhà giầu. Bộ quần áo cô ta mặc thuộc loại đắt tiền. Fenner rất khó chịu với tiếng thằng cha nào huýt sáo mãi ngoài hành lang. Bản nhạc nào ấy nhỉ. Bất giác ông cũng huýt sáo theo. Bản nhạc khá buồn. Bản Chloe. Nhạc buồn của giai điệu làm Fenner rối trí. Đột nhiên ông rùng mình, bởi tiếng huýt sáo vẫn ở nguyên một chỗ, như thể thằng cha đứng ngay ngoài cửa văn phòng của Fenner và cố tình huýt sáo cho ông nghe. Fenner rút chân trên bàn xuống rất khẽ. Đứng dậy. Tiếng huýt sáo vẫn khi xa khi gần, khi nhỏ khi to và ở nguyên một chỗ ấy, bên ngoài hành lang. Fenner sờ tay vào báng súng trong túi áo vét. Tuy phòng giấy của ông chỉ có một lối ra chính thức, đi qua phòng làm việc của cô thư ký Paula, nhưng vẫn có một lối ra khác phía trong, bao giờ cũng đóng chặt. Tiếng huýt sáo bên ngoài lối cửa đó. Fenner rón rén bước đến cánh cửa, nhè nhẹ vặn chìa khóa, cố không để đầu ông in bóng lên mặt ô kính mờ trên cánh cửa. Đúng lúc Fenner xoay quả đấm rất nhẹ và từ từ mở cửa thì tiếng huýt sáo đột nhiên ngừng bặt. Ông bước ra ngoài hành lang nhìn. Không có ai. Ông đi nhanh ra chỗ đầu cầu thang, cúi xuống nhìn. Cầu thang vắng ngắt. Ông quay lại, đi nhanh sang đầu cầu thang bên kia. Cũng không thấy ai. Kéo sụp mũ xuống, Fenner đứng im suy nghĩ, tai lắng nghe. Tiếng xe cộ dưới phố, vọng lên yếu ớt. Tiếng thang máy chạy. Fenner chậm chạp, quay về, đứng lại trước cánh cửa mở. Ông vừa đóng cửa, tiếng huýt sáo lại nổi lên. Thần kinh Fenner căng thẳng tột độ. Đóng cửa xong, Fenner rút súng trong túi ra cầm sẵn trong tay, bước sang phòng làm việc của Paula. Đột nhiên ông đứng sững lại, nhăn mặt. Một người đàn ông vóc nhỏ nhắn, mặc bộ âu phục đen nhầu nát ngồi thu mình trong chiếc ghế bọc nệm da êm ái dành cho khách. Y kéo mũ xuống che nên Fenner không nhìn rõ mặt. Nhưng chỉ liếc qua, ông biết y đã chết. Fenner nhét súng vào túi áo, tiến lại gần, ngắm nghía hai bàn tay vàng khè xương xẩu thõng xuống. Rồi ông cúi xuống lật mũ người lạ. Khuôn mặt rúm ró của một người Hoa! Cổ họng y bị cắt ngang, vết cắt chạy dài từ bên này sang bên kia, được khâu lại rất tỷ mẩn. Tuy vậy trông vẫn vô cùng khủng khiếp. Fenner rút khăn tay ra lau mặt. - Lý thú đấy! - ông lẩm bẩm một mình. Đang chưa biết xử sự thế nào thì Fenner nghe thấy chuông điện thoại. Ông nhấc máy. Đó là Paula. Cô thư ký có vẻ rất bối rối. - Cô ta chuồn mất rồi! Em đưa cô ta đến khách sạn Baltimore và thế là cô ta biến mất! Fenner lịm người. - Biến mất nghĩa là sao? Kẻ nào lôi cô ta đi? -Không. Em mải lúi húi ghi tên vào sổ đăng ký thuê phòng ở quầy nên không nhìn. Lúc ghi xong, ngẩng đầu lên thì không thấy cô ta đâu nữa. Em vội nhìn ra. thấy cô ta đi nhanh ra cửa. Em đuổi theo thì cô ta đã biến mất. - Cả tiền cô ta cũng cuỗm theo chứ? -Không. Em gửi tạm thủ quỹ ở đây rồi. Bây giờ em phải làm gì? Về văn phòng chứ? Fenner liếc nhìn xác người Hoa. -Cứ ở lại khách sạn Baltimore. Gọi ăn điểm tâm. Xong việc ở đây, tôi sẽ đến đó gặp cô. Hiện đang có một khách hàng tại đây... -Còn cô gái kia thì sao? Anh nên đến đây ngay thì hơn. Fenner nổi cáu: -Tôi chỉ huy hay cô? Thằng cha ngồi đây đang lạnh dần đây này. Tôi không nói đùa đâu... Fenner đặt máy, đứng lên. Ông quay sang phòng bên cạnh nhìn xác người Hoa. ngắm nghía. - Ta đi thôi, anh bạn, - ông nói. - Một cuộc đi dạo nhỏ! ... Mời các bạn đón đọc Mười Hai Người Hoa Và Một Cô Gái của tác giả James Hadley Chase.
Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt
ROBERT DALEY BÀN TAY KẺ LẠ MẶT Người dịch: Nguyễn Đắc Lộ NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KHÁNH HÒA - 1990 Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Hands of a Stranger (Robert Daley) NXB New American Library (Signet Book) 1986, Nguồn sách: @quang3456 Chụp ảnh, pdf, OCR: 4DHN Cuộc đấu tranh để ngăn chặn, chống những tệ nạn xã hội là một trong những trận tuyến thầm lặng nhung không kém phân gay go, quyết liệt và nhiều khi trở thành nóng bỏng đối với nhiều nước trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở những nước tư bản phát triển, khi lối sống thực dụng lan trần, con nguôi chỉ biết chạy theo đồng tiền và những dục vọng thấp hèn, bất chấp mọi luật pháp và những nên tảng dạo đức xã hội. Thống qua tắn bi kịch của một gia dinh, tiểu thuyết “Bàn tay kè lạ mặt” của Robert Daley tuy chỉ đề cập dến một trong những loại hình tội phạm dang làm nhức nhối trong lòng xã hội Mỹ đương đại: tội hiếp dâm, nhung với lối viết chân thực, rất tỉ mi, cụ thể mà có tầm khái quát cao của mình, ngòi bút của ông đã vẽ nên một bối cảnh xã hội rộng lớn của xã hội Mỹ hiện nay: con người được sống với những diều kiện vật chất cao hơn, nhung khi nền tảng đạo đức xã hội bị phá vỡ, con người càng có nguy cơ trở nên tàn ác, tha hóa, thú vật với nhau hơn và tội ác càng cố sức công phá lớn, khó ngăn chặn hơn khi nó tận dụng được những phương tiện khoa học hiện đại phục vụ cho nó. Với một đề tài hấp dẫn nhung thật khó viết vì rất dễ có nguy cơ roi vào dung tục, khiêu dâm, chạy theo những thị hiếu tầm thường, Robert Daley dã thành công và tỏ ra là một cây bút có bản lĩnh. Cuốn sách của ông được đánh giá cao, trờ thành một hiện tượng văn học trong thập niên 80 ở Mỹ. Nhiều nhà phè bình nôi tiếng khẳng định giá trị nghệ thuật, tính chân thực và bức thống điệp nóng bỏng mà ông gửi dến cho mọi người về những mối de dọa của tội ác với cuộc sống và hạnh phúc của con người Trân trọng giới thiệu “Bàn tay kẻ lạ mặt”với bạn đọc. *** Nạn nhân bị xâm phạm đầu tiên sáng hôm ấy là một cô gái da đen mười chín tuổi. Người thứ nhì là một bà nội trợ da trắng ba mươi tám tuổi. Phụ tá chưởng lý quận Judith Adler không làm được gì đáng kể cho bất kỳ vụ nào. Cô gái da đen được một nữ thám tử đưa vào và được chỉ vào một chiếc ghế đối diện với bàn giấy. Viên thám tử trao tập hồ sơ vụ án của cô gái rồi ngồi dựa vào tường, một tập giấy vàng trên váy cô, chiếc ví tay nặng của cô đặt trên sàn nhà ngay bên cạnh. Judith Adler, sau khi nhìn lướt qua tập hồ sơ, thấy rằng nạn nhân tên là Bianca, người đã bị sáu người đàn ông “bề hội đồng” hôm qua, cô ta không hề biết mặt những tên hãm hiếp trước đó. Chẳng tên nào được gọi đích danh và cô ta chỉ có thể mô tả chúng là sáu “anh chàng da đen” thôi. Sự mô tả không làm Judith mỉm cười được. “Bianca, sáng nay cô thế nào?” Nàng ngẩng đầu lên hỏi: “Cô không sao chứ?” Nàng cố hết sức thật ôn tồn và thông cảm vì, xét theo tập hồ sơ, sự thông cảm hoàn toàn là sự công bình mà nạn nhân này hình như muốn có được. Bianca cám ơn, nói rằng cô ta khỏe và hình như sự thật là như thế. Ở vào trường hợp của cô thì một nữ sinh viên khác ở Park Avenue - Judith đã đối phó với nhiều người như thế - chắc sẽ cứng đờ người ra. Bianca mặc quần Jeans và giầy cổ cao, mấy chiếc móng chân màu đỏ tươi ló ra ngoài. Khuôn mặt rất trẻ, nước da rất đen. Cô tô son đỏ tươi và mặc một chiếc áo cánh cũng đỏ tươi. Với tiêu chuẩn trong thế giới riêng của cô, có lẽ ăn mặc như thế là thanh lịch. Judith định nói ai nhỉ? Bản thân nàng mặc một bộ đồ xanh lục bên ngoài một chiếc áo cánh lụa. Nạn nhân bị hãm hiếp kiên nhẫn chờ đợi. Theo tập hồ sơ sự vụ, hiện trường là một khách sạn phúc lợi tại Harlem. Địa điểm này quen thuộc đối với Judith. Công việc của nàng là phải biết những điều như thế. “Đấy chẳng phải là một khách sạn tốt” - nàng chê trách như thể chính khách sạn phải chịu trách nhiệm vì nếu không thì tội ác đối với Bianca không thể nào hiểu được. - “Rất nhiều gái điếm ở đây”. Bianca không có công việc làm, không có địa chỉ nhất định nào cả. Tuần qua cô ta đã di chuyển từ một căn nhà công cộng đến khách sạn phúc lợi và nàng biết rõ phải ngủ với quần áo đầy đủ kể cả đôi giầy vì sợ rằng sáng ra mọi thứ nàng có đều bị ăn cắp. Một người đàn bà tên Maria - không có họ - cũng sống ở đấy và trở thành bạn gái của cô ta. Nhưng Maria có chồng, dù theo luật lệ chung hoặc là chồng thật sự -cũng không thành vấn đề và một buổi sáng anh chồng này khoác lác rằng đã làm tình với Bianca ở phòng bên trong đêm. “Hắn bảo Maria rằng cô đã mút “của” hắn. Và cô có làm thế không Bianca?” Vai trò của nàng cho phép nàng có quyền nêu lên những câu hỏi như thế. Tuy nhiên một số những câu hỏi mà nàng sẽ hỏi sau đây sẽ còn có tính cách riêng tư hơn nữa. “Tôi chẳng thèm làm tình với bất kỳ ai mà tôi vừa gặp mặt cả”. Bianca phản đối. “Tôi nghĩ rằng tôi không chịu nói về việc ấy”. Câu này được nói lên thật trịnh trọng đến nỗi Judith, dù nàng chỉ gật đầu thôi, muốn hoan hô cô. Đối với Judith, sự tự trọng và lòng can đảm đều như nhau. Cả hai đều hiếm, đáng ca ngợi, và trong trường hợp một người mà viễn ảnh của cuộc sống thật tàn nhẫn như cuộc sống của Bianca, nó hoàn toàn bất ngờ. Maria đã ra đường phố thu thập một số đàn ông. Ả đã tìm thấy họ nằm uể oải nơi hiên trước và thơ thẩn ở các góc đường dưới ánh đèn. Ả đã thu thập được sáu kẻ thơ thẩn và đưa họ lên lầu. Tuổi họ từ vị thành niên cho đến năm mươi! “Tao sẽ làm mày tổn thương vì điều mày đã làm với chồng tao”. Ả đã bảo Bianca như thế và cho họ tấn công cô ta. Như mọi tội ác khác, hiếp dâm được phân hạng. Trường hợp hiếp dâm này, Judith Adler thấy, là một sự hiếp dâm để trả thù. Hiếp dâm để gỡ hòa. Hiếp dâm để trừng phạt. Tất cả sáu người đàn ông đều đã hãm hiếp Bianca. Chúng đã thực hiện nhiều lần và kéo dài theo khả năng của chúng. Chúng đã hãm hiếp cô ta cả phía trước lẫn phía sau và khi khả năng hoặc sự hăng hái của chúng hoặc bất kỳ thứ gì đã duy trì được hành động của chúng cuối cùng cạn đi, chúng bắt đầu hãm hiếp cô ta bằng các đồ vật. Thực là may, Judith suy nghĩ, vì chúng không chủ tâm giết cô ta. Nhiều cô gái trong các trường hợp tương tự đã xuất huyết đến chết. Công tác đầu tiên của nàng là đưa ra một sự mô tả chính xác của chính các hành động - cái gì và do ai. Những câu hỏi của nàng minh bạch và nàng đòi hỏi các câu trả lời cũng minh bạch. Nhưng giọng nói của nàng vẫn đều đều vì công tác của nàng không cho phép nàng bày tỏ cảm xúc và đôi khi nàng còn tự hỏi xem nàng có còn cảm thấy sự xúc động nào không nữa. Nàng đã không muốn trở thành chai đá. Mình là một người đàn bà, thỉnh thoảng nàng đã tự nhắc nhở lại như thế. Mình không phải là đàn ông. Nếu so sánh những sự xúc phạm mà người nghèo khổ gây ra cho nhau, đôi khi sẽ làm cho người giàu có có vẻ thánh thiện. Cộng thêm vào việc Maria đã hành động với tư cách giám sát và bản thân những kẻ hãm hiếp, rõ ràng là căn phòng đã đầy dẫy các quan sát viên, và Judith bắt đầu cố gắng thu thập những cái tên mà Bianca biết, không may những cái tên này đều không có họ. Dĩ nhiên, có Maria và chồng ả, Willis. “Willis có hãm hiếp cô không?” “Willis à, hắn là trọng tài đấy”. Silvia, không có họ, được mô tả là “có giọng thanh hơn tôi” đôi ba lần, khóc lóc thảm hại như Bianca và van xin các tên cưỡng hiếp buông Bianca ra. Tiny, được Bianca mô tả là “một người đàn ông mập với một mùi mồ hôi rất nồng”, đã quan sát với ngón tay cái đưa lên miệng. Judith ý thức rằng sự mô tả này có vẻ buồn cười trong lúc kể lại. Có lẽ điều ấy còn có vẻ buồn cười ngay cả trong một phòng xử án nữa. Nhưng đối với nàng nó chẳng có vẻ gì là buồn cười cả. “Cô phải tránh xa khách sạn ấy ra”, Judith ngẩng lên từ những điều ghi chú của nàng và khuyên cô gái. “Vì nếu họ hiểu được cô đã đến với tôi, họ có thể tìm cách hãm hại cô đấy”. Hãm hại cô ta à? Có lẽ họ sẽ giết cô ta đấy. Judith ghi số điện thoại và đẩy nó qua bàn giấy. “Đây là nhà và số văn phòng của tôi” - nàng giải thích. “Nếu cô đánh mất, tôi vẫn còn trong sổ sách. Nếu cô trông thấy bất kỳ ai trong số những người này, nếu có ai quấy rầy cô, tôi muốn cô gọi tôi ngay. Cô hiểu không? Hãy gọi tôi bất kỳ giờ nào bất luận ngày hoặc đêm”. Khi nữ thám tử đưa Bianca ra khỏi văn phòng, phụ tá chưởng lý quận Adler gấp tập hồ sơ, nhưng không bỏ vụ án lại. Dù rằng chẳng có gì nhiều để tiếp tục, nàng quyết định dù sao cũng phải theo đuổi nó. Nàng định đưa hai thám tử da đen đến khách sạn. Nếu Maria, Tiny hoặc Silvia vẫn còn đấy có thể bị nhận diện, và nếu Bianca tìm được địa chỉ và nhớ gọi đến, lúc ấy, có lẽ có thể sắp xếp được một hồ sơ, các sự bắt giữ sẽ được thực hiện. Maria và Willis, khi bị bắt có thể khai ra tên tuổi các tên hãm hiếp. Có lẽ thế mới có thể mong xét xử được. Có quá nhiều chữ “nếu”. Và nàng sẽ lấy đâu ra các thám tử nhỉ? Các chỉ huy trưởng cảnh sát không muốn đưa người ra cho những vụ án ưu tiên thấp như vụ này. Nàng sẽ tán tỉnh nhiều đấy. Vụ án tiếp theo hơi khá hơn. Bà nội trợ người da trắng ba mươi tám tuổi cũng ngồi vào cùng chiếc ghế như Bianca. Có một vết xây xát phía trên gò má bà ta và những vết khâu đen nơi khóe miệng. Bà cố gắng nở một nụ cười thê lương, dường như lúng túng vì đã gây ra nhiều sự phiền nhiễu, và nụ cười này có vẻ rộng một phân về một bên khuôn mặt bà ta hơn phía bên kia. Bà ta trông không xấu quá, Judith nghĩ như thế. Không như một số người mình đã gặp. Những người mà chỉ có những kẻ điên rồ thực sự mới tấn công. Bà nội trợ đã bị ve vãn trong lúc đang thả bộ tại Công viên Trung ương. Bà ta đã bị lôi vào bụi và bị hãm hiếp. Bà ta đã la hét nhưng chẳng ai đến cả. Bà ta đã được xem các quyển album của những kẻ thường hay tấn công về tình dục, nhưng chẳng thể nào chỉ ra được kẻ nào đã tấn công mình. “Bọn hiếp dâm là những tên tái phạm”. Judith Adler bảo bà ta. Lần sau hắn có thể bị bắt và chúng tôi sẽ mời bà xuống và bà cố gắng chỉ ra hắn. Hình như chẳng có gì nhiều cho người đàn bà để đổi lại những gì bà ta phải chịu. Khi viên nữ thám tử đã dẫn bà ta ra, ông Katz bước vào với một tờ giấy ghi lại các cú điện thoại. Ông Katz là thư ký của nàng, một người đàn ông trạc lục tuần đội một chòm tóc giả không thích hợp. Ông ta đã đến làm việc đầu tiên tại văn phòng luật sư quận từ hơn ba mươi năm trước. Trong những ngày ấy, mọi người kể cả các thư ký, đều phải là đàn ông. Vào lúc Judith Adler tốt nghiệp trường luật - chỉ độ một chục năm trước thôi - vẫn chỉ có sáu người phụ nữ trong một ban nhân viên gồm trên hai trăm công tố viên, nhưng họ không được giao vụ nào để khởi tố cả. Dĩ nhiên bây giờ không phải kiểu như thế. Khi xin việc tại đây, Judith còn trẻ, mặt non choẹt và nhiệt tình, và viên chưởng lý quận lúc ấy, một ông già tao nhã, không muốn thu nhận nàng. Nàng vẫn còn nhớ rõ chiếc áo nàng đã mặc ngày ấy, nàng đã cố gắng thật đẹp để làm cho nàng trông được mắt ông già. “Công việc của chúng tôi quá hào nhoáng đối với một phụ nữ trẻ”, ông đã bảo nàng như thế. Nàng đã tranh luận, thuyết phục và nài nỉ. Cuối cùng, hình như trái với lương tri của ông, ông đã nhận nàng. Ông già có lý, bây giờ Judith nghĩ lại. Nó hào nhoáng - còn hào nhoáng hơn cả bất kỳ ai bên ngoài có thể đoán được. Một trong những câu nhắn trên điện thoại, ông Katz bảo, có vẻ đặc biệt, và ông trao nó cho nàng: một đại úy thuộc cảnh sát tiểu bang New Jersey đã gọi: “Ông ta chỉ muốn đích thân nói chuyện với bà thôi. Ông ta bảo rằng có việc khẩn cấp”. Phụ tá chưởng lý quận Adler, với một đầu óc nặng trĩu vì những người đàn bà bị bạo hành, muốn có một sự thay đổi, bất kỳ sự thay đổi nào, dù chỉ là thoảng qua, nên nàng lật qua bức điện khẩn và tò mò. “New Jersey à?” “Hãy gọi điện thoại cho ông ấy”, nàng bảo Katz. Ông ta gật đầu và đi ra. Khi nút trên điện thoại của nàng bật sáng, nàng đập vào nó. “A lô”, nàng gọi. Nghe giọng phụ nữ ở đầu dây, người đàn ông ở đầu kia không chấp nhận. Ông ta chỉ nói chuyện với chính phụ tá chưởng lý quận hiện tại, ông ta nhấn mạnh. “Đây là người ấy đấy”, Judith bực mình nghĩ. Rõ ràng là viên cảnh sát đã mong được nói chuyện với một người đàn ông. Ít năm trước, có lẽ ông ta cũng nói như thế; giờ đây, Judith ghi nhận một lần nữa, những người như thế, chỉ đối xử với nàng bằng một sự im lặng hơi kéo dài thôi. “Tôi là đại úy Sample”, giọng đàn ông cuối cùng lên tiếng. “Bà có thể ra khỏi chỗ đấy không? Chúng tôi có điều quan trọng để thảo luận với bà”. Và ông ta đợi. “Tốt hơn ông nên tường trình cho tôi đi”, Judith nói. Sau khi đã mất hứng thú nơi đại úy Sample, nàng bắt đầu lật qua các bức điện khác. Các luật sư cho các bị cáo, ủy viên công tố trừng phạt rắc rối với một tù nhân, có lẽ thế. Văn phòng thị trưởng. Chánh án hành pháp. “Tôi không muốn nêu vấn đề ấy ra trên điện thoại”, đại úy Sample nói. Câu này cũng làm Judith bực mình. Các cảnh sát viên về một vụ án thích cho là mọi đường dây điện thoại của họ đều bị nghe lén cả. “Tôi hơi bận,” nàng đáp cộc lốc. “Nếu ông muốn đến đây, tôi có thể cho ông một cuộc hẹn vào ngày mai hoặc ngày kia”. Sample cố gắng buông một tiếng cười trấn an. “Tôi không nghĩ rằng tôi có thể tìm ra văn phòng của bà. Bà sẽ phải đưa một chiếc xe cảnh sát đến đầu đường hầm để đưa tôi vào đấy.” Judith quả quyết “Nếu không…” Có một sự im lặng khác trong lúc lời đe dọa của nàng về đến đích. Cuối cùng Sample thở dài. “Hai người đàn ông định buộc cô gái trẻ này vào một chiếc xe” ông ta nói. Ông ta có một giọng nói khàn khàn và một âm điệu cứng. “Và một người của tôi ngẫu nhiên lái xe ngang qua, thế đấy. Chúng tôi bắt hai thủ phạm, và trong cốp xe của họ, bà biết chúng tôi đã tìm ra thứ gì không?” Judith đã quyết định sẽ gọi chánh án hành pháp ngay sau đó. Một vấn đề thuộc thời khóa biểu, nàng đoán như thế. Điều ấy có thể thương lượng trên điện thoại. “Tôi không biết”, nàng nói với đại úy Sample, “ông đã tìm ra điều gì thế?” “10 kilo hasit”, ông ta nói với vẻ đắc thắng. “Hay đấy”, Judith nói. Kế đấy nàng phải dự hai buổi thuyết trình pháp đình, buổi đầu tiên còn năm phút nữa - và trên tầng mười lăm. Sample, như hầu hết các cảnh sát viên của các thành phố nhỏ, bị hăm dọa một cách dễ dàng. “Tôi biết điều ấy không có vẻ gì là nhiều tại New York đâu”. “Ma túy không phải phần hành của tôi”, Judith nói. Nàng không muốn làm tổn thương cảm tình của Sample nhưng tốt nhất nàng nên cắt gọn vấn đề này. “Và New Jersey ngoài quyền xử lý của tôi.” “Chúng tôi có một tờ lệnh xét nhà họ”, Sample vội nói, “và bà nghĩ chúng tôi đã tìm được thứ gì nhỉ?” Lần này ông ta không chờ câu trả lời. “Độ hơn hai mươi cuộn video cassette về các cuộc hiếp dâm hiện nay. Các cô gái trẻ. Các cô người mẫu. Các cô thỏ Playboy. Các cô gái trẻ đẹp”. Giọng ông ta nghe như một cô quảng cáo trình diễn thoát y. “Nhưng các cuộc hiếp dâm đều xảy ra tại New York. Tôi muốn bà ra khỏi đây và nhìn qua các cuộn băng. Bà có định đến không?” Judith thôi lật các tờ giấy ghi lại những cú điện thoại của nàng. “Vụ án ma túy cũng có thể đưa về lại đây nữa”, Sample nói, ông ta cố gắng làm cho ngọt miếng mồi. Ông ta là một viên cảnh sát của một thành phố nhỏ đang có trong tay một vụ án hiếp dâm lớn, Judith nghĩ, ông ta không biết phải đối phó như thế nào với nó, ông ta đang cầu xin sự giúp đỡ. Rồi nàng nghĩ: ông ta chỉ hứng thú vì các nạn nhân đều hấp dẫn. Điều này làm phật ý nàng. Trong lúc các nguyên nhân lướt qua, điều ấy gây khó chịu. Giả sử các nạn nhân đều là các bà già thì sao? Các bà già cũng bị hãm hiếp nữa, nàng muốn bảo Sample như thế. Các bà nội thường đến đấy, nàng nghĩ thế. Họ không còn tự xem mình là đối tượng tình dục, đã nhiều năm rồi và sự xúc động chính của họ trong lúc họ kể lại câu chuyện của họ, trong lúc mô tả điều bọn đàn ông đã làm với họ là sự sợ hãi rằng mình sẽ cười. “Vậy bà định đến không?” Sample bảo. Giọng ông ta có vẻ nài nỉ. Điều ấy rất yếu vì những người mạnh bạo, những viên cảnh sát mạnh bạo, bất kỳ giá nào đều không nài nỉ - hoặc Judith cho rằng như thế. Nhưng điều ấy vẫn có và nàng hiểu được. Mình nên suy nghĩ điều này ít phút trước khi chối từ. Nàng tự nhủ. Mình nợ ông ta nhiều như thế đấy. “Để tôi xem người ta có gì cho tôi ở đây đã”, nàng nói. “Tôi sẽ trở lại với ông sau”. Trong lúc nàng đi vội lên tầng 15, chuyện ấy vẫn bám theo nàng. Buổi đầu tiên trong hai buổi nghe thuyết trình của nàng liên quan đến một tay thanh niên làm việc lặt vặt rất mập, đầu óc chậm chạp ngụ trong một tòa nhà ở phía tây. Ba tuần trước, vì một lý do chẳng ai xác định được là gì, hắn đã hiếp dâm một bà chủ nhà với một con dao để uy hiếp. Khi hắn không duy trì được tình trạng cương cứng, hắn bắt đầu đâm bà ta. Sau đấy tên thanh niên đi đến chỗ mẹ hắn và đưa cho bà mớ quần áo vấy máu của hắn để giặt. Bà đã gọi cảnh sát. Bây giờ luật sư của hắn cố gắng giữ hắn trong phòng bệnh tâm thần, cách ly các tù nhân thông thường với lý do rằng hắn tròn trĩnh và mềm như bất kỳ phụ nữ nào và đúng là không tự bảo vệ được về phương diện thể chất. Mỉa mai trên cả các sự mỉa mai: trong tù hắn sẽ bị hiếp dâm. Judith khăng khăng đòi các điều luật thích hợp. Nếu không nàng không phản đối gì cả. Buổi thuyết trình thứ nhì trong một phòng xử án bên cạnh, liên quan đến một người đàn ông da đen trung niên, lực lưỡng, vừa mới ra tù chỉ có ba tuần lễ. Không có tiền bạc và nghề nghiệp gì cả, duy nhất chỉ có bộ quần áo mà hắn vẫn còn mặc ở tòa án ngày hôm nay, cộng với nhiều cái đói khác nhau của hắn, hắn được thả lỏng trên xã hội. Trong hai tuần lễ tự do, hắn đã hãm hiếp hai người lạ trong hành lang của các tòa nhà. Cả hai đều giống những cuộc hiếp dâm trong tù - những cuộc đương đầu nhanh, tàn bạo rõ ràng là loại tình dục duy nhất mà người này biết hoặc có thể cảm thấy thoải mái. Bây giờ bị cáo lơ đễnh nhìn lên mặt bàn trong lúc luật sư của hắn nói với thẩm phán rằng quyền công dân của thân chủ ông ta đã bị xâm phạm, bắt giữ hắn là trái luật. Viên sĩ quan bắt giữ đã thiếu lý do có thể có được và hồ sơ mà cả hai nạn nhân đã tố giác thân chủ của ông đã được sắp xếp một cách không thích đáng. Đây là một trong nhiều vụ hãm hiếp chưa giải quyết mà chi tiết Judith còn đang mang trong đầu. Trước tòa nàng tranh luận rằng, trái lại, vụ án này tiêu biểu cho công việc có tính nguyên tắc cao nhất của cảnh sát và nàng giải thích rõ tại sao. Rồi nàng đưa chàng sĩ quan hình sự trẻ lên bục. Đầu tiên nàng chất vấn anh ta, rồi viên luật sư thẩm vấn chàng thật gắt gao. Hầu như đây là một cuộc xét xử đại qui mô, chỉ thiếu có bồi thẩm và tuyên án thôi. “Thưa quí tòa”, viên luật sư kết luận, “thân chủ của tôi bị bắt chỉ vì ông ấy là một người da đen trong một vùng phụ cận da trắng. Việc ông ấy bị bắt nặng mùi ngất trời. Tôi muốn nôn ra đây”. Chánh án giữ lại quyết định, điều đó ngầm bảo rằng ông ta có thể có quyết định cuối cùng là ra lệnh phóng thích bị cáo. Điều này xảy ra quá thường. Judith có lẽ cũng phải sốt ruột vì vụ án này và nàng đã thường sốt ruột chờ đợi rất nhiều rồi. Trong lúc ấy, bị cáo lại bị còng tay chỉ đứng cách nàng không đầy mười foot. Nếu một người là một tên hiếp dâm, nàng nghĩ trong lúc quan sát hắn, điều ấy phải được rõ ràng. Người ta có thể đoán ra được bằng cách nhìn hắn. Nhưng chẳng có gì lộ ra cả. Các tên hiếp dâm trông cũng chẳng khác gì người khác. Các tên sát nhân cũng thế. Điều ác không thể nhận ra bằng một cái liếc mắt được. Đây là lý do khiến chúng ta có hai phòng xử. Đấy là một cách tốt nhất mà chúng ra có thể làm được. Chàng cảnh sát trẻ đứng bên cạnh nàng. “Viên luật sư ấy”, viên cảnh sát cố ý nói, “ông ta cừ đấy, đúng không?” Chính những luật sư như thế đã đầu độc hầu hết các cảnh sát viên chống lại nghề nghiệp của nàng, và Judith biết điều này. Nhưng nàng không có ý định nào để phỉ báng các luật sư - bất kỳ luật sư nào - trước mặt các cảnh sát viên, nên nàng mỉm cười với viên cảnh sát, bắt tay anh ta và anh ta bỏ đi. Nàng còn một công việc nữa để làm trên tầng này nên nàng bước qua hai cánh cửa, đi dọc theo hành lang và bước vào một phòng xử ở đó một cuộc xử án đang tiến hành. Mặc dầu chỗ ngồi đều chật ních - bồi thẩm, chánh án, ban bào chữa, công tố, tốc ký, một số lính canh phòng xử có vũ trang - khu vực dành riêng cho người dự thính hầu như trống rỗng. Bao nhiêu là ghế mà chỉ có nàng và ba người khác. Có lẽ là một cuộc xử giả hiệu. Trong những căn phòng như thế này trên khắp đất nước, nền dân chủ được bênh vực từ ngày này sang ngày khác. Báo chí và các công dân, trừ trong một số ít vụ án nổi bật, chẳng chú ý gì cả. Chẳng lạ gì, nàng nghĩ, vì sao hệ thống làm việc không khá hơn mấy. Nàng chiếm một chiếc ghế gần cánh cửa nàng vừa bước vào và đặt hai tập hồ sơ nặng trên chiếc ghế bên cạnh. Công tố viên là chàng thanh niên Benjamin Goldberg. Chàng đang thẩm vấn một nữ nhân chứng trên bục, nhưng khi chàng nhìn lên và trông thấy Judith, chàng tặng nàng một nụ cười ngắn. Chàng trông có vẻ hài lòng vì nàng đã lên. Benjy vừa tốt nghiệp trường luật và mới hai mươi bốn tuổi. Chàng là công tố viên trẻ nhất ở ban của nàng. Nhưng họ đều còn trẻ cả - người lớn tuổi nhất trẻ hơn Judith nhiều. Họ hưởng lương kém, nhiệt tình, siêng năng và so với các luật sư bào chữa mà họ đương đầu, họ thiếu kinh nghiệm một cách thảm hại. Trong những phòng xử trống rỗng như thế này, sự có mặt của Judith chứng tỏ cho Benjy và những người khác thấy rằng lãnh đạo quan tâm đến - rằng có ai đấy quan tâm đến là điều quan trọng. Vụ án ở đây liên quan đến chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một cậu bé năm tuổi do một tên đốn mạt năm mươi hai tuổi ở vùng phụ cận, một người đàn ông có một tiền án hai mươi hai năm về tội tình dục. Người đàn bà trên bục chắc là người mẹ. Benjy xử sự với nàng gần như mỗi ngày một khá hơn. Không như nhiều công tố viên trẻ, chàng là một người có năng khiếu tự nhiên. Chàng sẽ trở thành một luật sư tòa án thành công. Chẳng còn gì nhiều để nàng có thể góp ý cho chàng, vấn đề duy nhất của chàng sẽ là chính bản thân đứa bé. Đứa bé năm tuổi có còn nhớ điều đã xảy ra với nó không? Judith đã đưa ra xử càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, vấn đề ấy phải mất sáu tháng, đứa bé có chỉ được kẻ tấn công nó không, hay tên đốn mạt sẽ lại tự do. Và sẽ tấn công một cậu bé nào đấy vào ngày mai hoặc tuần sau? Trong lúc đứng trong thang máy xuống văn phòng của nàng, Judith cảm thấy bực dọc. Nàng thấy luật chỉ là điều không hoàn hảo, vô hiệu và hầu như lúc nào cũng hoàn toàn không có hiệu quả dù rằng đấy là tất cả những gì nền văn minh có được. Yêu luật, và nàng quả tình yêu nó, như yêu một người không yêu mình. Cuộc đời nàng chỉ qua được một nửa thôi. Cuộc đời của nàng có lẽ mới một nửa - nàng ba mươi bảy tuổi - và nàng đã hoàn thành được gì? Điều nàng cần thật sự, nàng tự nhủ, là một lúc nào đó được rời bỏ văn phòng và ngay cả rời bỏ thành phố, không bận bịu những việc ở đây. Một buổi chiều một mình ở vùng quê bắt đầu làm cho nàng cảm thấy là một thú vui hiếm hoi nhất của cuộc đời. Khi nàng bước vào phòng trước của nàng, ông Katz đưa thêm cho nàng một số lời nhắn trên điện thoại. Chẳng có cái nào khẩn cấp cả, ông bảo. Judith, với hai hồ sơ vụ án kẹp dưới cánh tay, lật qua các bức điện, nhưng trí óc nàng để ở nơi khác. Nàng đang nghĩ đến cú điện thoại của cảnh sát tiểu bang New Jersey. Tại sao nàng không đến đấy trong một giờ và giúp đại úy Sample về những vụ án hiếp dâm mà ông ta nắm được nhỉ? Đấy là một chuyến đi có lý. Có một loạt cửa hàng mua sắm trên đường số 17. Ngoài ấy sẽ có ao hồ, rừng và không khí trong lành để thở. Nàng bỗng bảo ông Katz điện thoại cho Sample xin hướng dẫn. Hôm nay là thứ ba. Ông ta hẹn nàng vào chiều thứ năm. Nàng có nên đi một mình không, nàng tự hỏi, hoặc nên nhờ một cảnh sát trưởng cùng đi với nàng? Nếu thế thì ai đây? Về chiều, các cuộc xét xử đình lại. Tòa án đã kết thúc ngày làm việc. Các bồi thẩm đi phố. Các luật sư biện hộ đang bám vào những chiếc Cadillac của họ. Các thẩm phán đang treo áo trong phòng mình. Chỉ có những luật sư phụ thẩm quận trẻ, lương ít vẫn còn làm việc. Họ đã xuống lại văn phòng nơi họ sẽ làm việc thêm về các vụ án, một số người trong bọn họ còn làm việc đến khuya nữa. Các cuộc thẩm vấn phải được chuẩn bị, các bản tóm tắt phải được tu sửa lại. Họ như những diễn viên thiếu kinh nghiệm tập dợt lại giữa các màn trình diễn. Các nhân chứng cho ngày mai phải được tiếp xúc và phỏng vấn lại. Trong một số vụ, phải đưa thám tử ra truy lùng một nhân chứng thiếu hoặc một bằng chứng cuối cùng. Trời về chiều đã lâu, bỗng một số công tố viên trẻ được bổ nhiệm đến cho Judith cùng bước vào văn phòng nàng. Mỗi đêm trước khi về nhà, nàng muốn biết mỗi vụ án của họ đang diễn tiến thế nào, và lúc này họ có năm vụ, cộng với một vụ thứ sáu mà bồi thẩm vẫn còn vắng mặt. Tất cả những vụ này đều thuộc trách nhiệm của nàng. Nếu có vấn đề nào xuất hiện trong ngày, nàng muốn biết đây là những vấn đề gì. Do kinh nghiệm vượt trội của nàng, có lẽ nàng có thể ngăn chặn được một vụ án khỏi bị thua. Ít nhất nàng có thể đưa ra lời khuyến khích cho các chàng trai hoặc các cô gái đang khởi tố nó. Judith ngồi ở bàn giấy và họ vây lấy nàng và nàng hài lòng vì có họ ở đấy. Nàng mong muốn có những cuộc họp này hằng đêm. Đây là con cái của mình, nàng tự nhủ. Ông Katz đã mang vào một khay cà phê bằng các tông với những chiếc tách styrofoam. Các tách cà phê được chia ra và khuấy lên, đồng thời cuộc thảo luận bắt đầu. Đèn được bật lên. Bầu không khí trong phòng thân thiện, nhưng cũng căng thẳng. Các cuộc xử đều xúc động. Cuộc sống và nghề nghiệp của dân chúng đang bị đe dọa. Những biến cố kinh khủng đang được xét xử. Đa số các cuộc xét xử có vẻ đang diễn tiến tốt đẹp. Chỉ có Brian Crawford đã gặp phải một vấn đề nghiêm trọng; Chàng đứng tựa lưng vào tường, trông buồn bực. “Nhân chứng chính của tôi, nạn nhân, con bé tóc hoe bẽn lẽn ấy,” chàng thốt lên, “cô ta vừa gây trở ngại cho vụ án của tôi đấy.” Đối với các công tố viên này các cuộc xét xử giống như cuộc đời, hoàn toàn không tiên đoán được. Thủ tục tòa án theo đúng cách, nhưng tư cách các nhân chứng thì không. Phản ứng của các bồi thẩm cũng không. Các điều gây ngạc nhiên đều phổ biến. Các nhân chứng quên các câu của họ và ứng khẩu ra những câu mới. Một số đâm sợ hãi và thay đổi câu chuyện của họ. Một số cứng miệng. Các bồi thẩm tin một số và không tin số khác thì vì những lý do thách đố lương tri. Kết quả các vụ không bao giờ có thể tính trước được. Cuộc phiêu lưu hằng ngày của công việc xét xử đối với các luật sư trẻ này là một sự mê hoặc vô tận, và các đồng nghiệp của Crawford đang chờ để nghe bất kỳ điều kinh khủng nào ở pháp đình mà chàng sắp mô tả ra. “Tôi đã bảo cô ta”, Crawford nói, “chỉ ra người đàn ông đã hãm hiếp cô ta”. Có một sự im lặng bi thảm. “Cô bé tóc hoe e lệ này”, Crawford bảo, “chỉ hắn và la hét om sòm, “thằng chó ấy đấy”. Có một sự im lặng trong văn phòng Judith. Rồi mọi người bắt đầu cười. “Tôi không thể nào tin được tai mình,” Crawford bảo. Tiếng cười chấm dứt. Sự thông cảm của bồi thẩm đoàn là một chuyện mỏng manh. Nhưng không có nó các luật sư bảo là bạn thua vụ án. “Và hãy đợi”, Crawford bảo, “cho đến lúc bạn nghe điều cô ta nói tắt ngang.” Tất cả bọn họ đều biết các vụ án của nhau và bây giờ trong tâm trí họ, họ dừng lại để xem lại vụ án của Crawford. Bị cáo gõ cửa với lý do hắn là người trừ chuột. Cô bé e lệ cho hắn vào. Hắn chộp lấy một con dao ở tủ búp phê và hãm hiếp cô ta. Đấy là câu chuyện của cô ta suốt trong các cuộc phỏng vấn trước khi xét xử. “Không may,” Crawford bảo, “điều mà người trừ chuột làm là hắn đặt con dao xuống và bảo với cô ta là, tôi có thể đặt tay lên ngực cô không? Cô ta nói, cái gì đây, hiếp dâm à? Vì nếu như thế, chúng ta khắc phục nó.” Thế rồi cô ta bắt đầu cởi quần áo mình ra.” Một trận cười, sau đó im lặng. “Ngày mai anh thử thẩm vấn lại cô ta một lần nữa xem sao”. Judith xoa dịu anh ta. “Vâng, nhưng tôi phải nói gì?” Các công tố viên khác bắt đầu khuyên bảo. Câu chuyện được luật sư đoàn gợi ra ngày hôm sau hoàn toàn không tương xứng với điều kinh hoàng. Crawford có thể đưa lên bục một bác sĩ tâm thần để xác nhận điều ấy. Nhiều cái tên được đề nghị với chàng. “Nhưng cô ta đã gọi bị cáo là một tên “đít lừa”, Crawford bảo. “Bồi thẩm đoàn không còn xem cô ta là một cô bé tóc hoe e lệ nữa.” “Người đàn ông đã hãm hiếp cô ta đang đứng cách cô ta chỉ có ba thước,” Judith Adler vỗ về. “Cô ta vẫn còn bị hắn làm hoảng sợ. Trong sự kinh hoàng, cô ta gọi hắn bằng một từ thô lỗ.” Mọi người bắt đầu cười lại. “Đấy không phải là một cô bé tóc hoe đoan trang dùng một từ thô lỗ.” Judith bảo, “đấy là một nạn nhân hãm hiếp bị hoảng sợ.” Nàng nhìn quanh đến những người kia. “Marcy?” nàng bảo. Marcy Miller, người phụ nữ thứ hai duy nhất ngoài nàng hiện diện, đang xét xử một nha sĩ đã gạ gẫm nữ bệnh nhân bằng thuốc mê. Vụ án này diễn tiến tốt đẹp, nàng nói. Và trong vụ xử chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một tội nhân tình dục do thói quen, Benjy Goldberg đã đưa cậu bé năm tuổi lên bục chiều hôm nay và đã bắt đầu thẩm vấn trực tiếp. Đứa bé có được một lúc chú ý độ 60 giây. Nó đã ngồi vào ghế nhân chứng, hớp coca-cola và cười với mẹ nó cuối phòng xử. Các câu hỏi phải được lặp lại đôi ba lần nó mới có thể hiểu được và trả lời. Ngày mai Goldberg định bảo nó nhận diện bị cáo ở phòng xử công khai và chàng lo lắng. “Hãy cho nó đứng xa chiếc ghế nhân chứng,” Judith đề nghị. “Hãy bảo nó diễn lại vụ án - bị cáo đã đưa nó vào hẻm bằng cách nào, và hắn đã làm gì. Hãy bảo nó diễn lại. Tôi đã thử điều ấy trước kia với các em nhỏ. Điều ấy có vẻ hợp với chúng đấy.” Cánh cửa mở ra và ông Katz thò đầu vào phòng. “Vụ Ligouri đã có quyết định rồi,” ông thông báo. Tất cả bọn họ đều biết vụ án này nữa. Bồi thẩm đoàn của vụ Ligouri, đã thảo luận kỹ trong hai ngày. Katz bỗng nở một nụ cười thoải mái. Và hắn đã có bản án của hắn. “Trong vòng ít phút nữa,” Crawford bảo, “hắn sẽ vào đây và khoác lác rằng bản tóm tắt của hắn lớn lao như thế nào đấy.” Mọi người đều mỉm cười. “Tôi không hiểu tại sao bồi thẩm đoàn để lâu thế,” Judith trầm ngâm nói. Ngay lúc ấy cánh cửa bị giật ra sau và Anthony Ligouri, hai mươi bảy tuổi, đứng với vẻ đắc thắng trên ngưỡng cửa, đấm ngực, như Tarzan trong một bộ đồ ba mảnh. Những người kia cổ vũ chàng. “Tôi nghe bồi thẩm đoàn đã muốn kết tội anh thế nào đấy,” Benjy Golberg bảo. “Đấy là kết luận của anh”, Crawford nói. “Theo như tôi nhớ,” Benjy Goldberg bảo, “bị cáo hãm hiếp cô ta đứng dựa vào thành sau của một chiếc thang máy, lúc cửa mở và có hai cảnh sát viên đang đợi vào thang máy. Hiếp dâm có nhân chứng. Vậy tại sao bồi thẩm đoàn phải mất hai ngày nhỉ?” Ligouri, ngồi trên bệ cửa sổ của Judith, lau mồ hôi tưởng tượng trên trán. “Tôi đã nói chuyện với một người trong bồi thẩm đoàn sau đấy. Tôi đã suýt thua vụ án. Nạn nhân xác minh, chuyên viên phòng thí nghiệm và bác sĩ thực tập nội trú xác minh. Âm hộ của cô ta hoàn toàn bị trầy trụa. Còn cả tinh dịch nữa. Chúa ơi. Nhưng bồi thẩm số chín không tin rằng sự hãm hiếp xảy ra ở tư thế đứng như mô tả. Ông ta chống lại trong hai ngày. Không thể được, ông ta bảo. Ông ta là một công nhân bưu điện về hưu. Theo ông ta, sự giao hợp ở tư thế đứng không thể thực hiện được.” “Và anh hỏi tại sao thư từ chuyển quá chậm,” Crawford lên tiếng. Mọi người cười vang. “Các bồi thẩm kia tranh luận với ông ta hai ngày,” Ligouri bảo. Có bốn phụ nữ trong bồi thẩm đoàn ấy, tất cả đều có tuổi cả. Cuối cùng một trong số người ấy đứng dậy và bảo ông nhân viên bưu điện rằng ông ta sai, giao hợp ở tư thế đứng vẫn có thể thực hiện được. “Bà biết cách nào không?”, ông ta tra gạn. Và bà già tóc xám này bảo rằng: “Vì tôi đã đích thân làm như thế ở tư thế đứng.” “Điều ấy chắc gây thương tổn cho bà ta,” Judith lẩm bầm. “Ông nhân viên bưu điện vẫn không chịu,” Ligouri nói, “Nên các bà kia lần lượt đứng dậy và nhận rằng họ cũng đã làm điều ấy ở tư thế đứng. Cuối cùng, ông nhân viên bưu điện chịu thua và tôi có lời buộc tội.” Tất cả bọn họ đều cười vang, nhưng Judith thấy rằng họ cũng không được thoải mái. Dù rằng họ còn trẻ, tất cả đều đã lập gia đình. Ngay cả Marcy cũng có gia đình, còn Judith thì không, nên chuyện đùa cợt về tình dục trước sự hiện diện của nàng làm cho họ không được thoải mái như thể nàng là mẹ của họ. Đấy là con cái của nàng và nàng hãnh diện về tất cả bọn họ. Tuy vậy, đôi khi họ làm nàng có cảm giác nàng là gái già. Khi về nhà, nàng đi tắm ngay. Nàng sống trong một căn hộ phía tây công viên trung ương và đêm nay, như mọi đêm, đi tắm là một hành động hết phiên trực đầu tiên của nàng. Nàng kỳ cọ người kỹ lưỡng. Nàng tẩy rửa bụi bặm trong ngày và mồ hôi ở thân thể hay cố gắng rửa sạch bụi bặm trong tâm hồn nàng đây? Điện thoại reo. Sau khi bước ra nhà tắm, nàng lấy chiếc khăn lớn quạt nhanh lên người ít cái rồi bước vào phòng ngủ và trả lời. Da thịt của nàng vẫn còn bốc hơi yếu ớt, và nàng nắm chặt chiếc khăn ở một tay. “Alô?” Vẫn là một người khác trong số các công tố viên trẻ của nàng. David Reidy. Văn phòng nàng có người, 24/24. David trực đêm nay và một vụ án vừa đến - một nữ luật sư làm việc khuya bị hãm hiếp ngay trên bàn giấy của cô, do người thợ chữa điện của tòa nhà. David muốn được nàng khuyên bảo và nàng cho ý kiến. Rồi nàng đi tắm lại. Nàng đứng dưới vòi nước. Judith mặc pyjama và một chiếc áo khoác ngoài và tự đi sửa soạn bữa tối. Sau đấy nàng xem TV một lúc, rồi lên giường nằm, với tờ New York Times gấp lại ở phần đố ô chữ và đầu một cây bút chì cắn ở răng. Khoảng nửa đêm, nàng tắt đèn.   Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt Tập 1 của tác giả Robert Daley.