Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

2666 (Tiểu Thuyết)

2666 là tiểu thuyết cuối cùng của Roberto Bolaño. Cuốn sách được xuất bản năm 2004, một năm sau khi Bolaño qua đời. Chủ đề của nó vô cùng phong phú, xoay quanh một nhà văn người Đức bí ẩn và những vụ giết người vẫn không ngừng diễn ra ở Santa Teresa, một thành phố bạo lực mà nguyên mẫu đời thực là Ciudad Juárez và những vụ giết hại phụ nữ xảy ra ở đó.  Bên cạnh Santa Teresa, bối cảnh và chủ đề của tiểu thuyết còn có cả Mặt trận phía Đông trong Thế Chiến thứ Hai, thế giới học thuật, bệnh lý tâm thần, báo chí, tình bạn tan vỡ, sự nghiệp tiêu tán. 2666 khám phá sự suy thoái của thế kỷ 20 qua một loạt các nhân vật, địa điểm, giai đoạn và những câu chuyện nằm trong câu chuyện. Giới phê bình nhìn chung đánh giá cuốn sách hết sức tích cực. Ở Chile, nó thắng giải Altazor Award vào năm 2005. The New York Times Book Review đưa cuốn sách vào danh sách Mười cuốn sách hay nhất năm 2008; Tạp chí Time xem 2666 là Sách Hư Cấu Hay nhất Năm 2008; tiểu thuyết cũng thắng giải National Book Critics Circle Award for Fiction năm 2008. Các nhà phê bình so sánh 2666 với các tác phẩm của W. G. Sebald và ca ngợi tầm vóc và những tuyến truyện đan cài trong cuốn sách. Hiếm có cuốn tiểu thuyết nào mà từ khi đang còn trên bàn biên tập đã được một bộ phận độc giả văn chương “sành sỏi” háo hức mong đợi như vậy. Nếu Roberto Bolaño không mất sớm vào năm 2003 khi mới năm mươi tuổi, chắc hẳn ông sẽ là một trong những ứng viên nặng ký cho giải Nobel Văn chương.  TÓM TẮT:  Bốn người châu Âu nghiên cứu văn chương. Một giáo sư đại học ở Mexico. Một nhà báo Mỹ đưa tin về một trận quyền Anh. Một nhà văn Đức kiệt xuất, ẩn dật, từng là lính quốc xã. Cảnh sát, nhiều cảnh sát. Gái điếm. Và nhiều, rất nhiều câu chuyện riêng tư thoạt nhìn chẳng liên quan đến nhau. Nhưng rồi, đọc kỹ, ta sẽ thấy rằng tất cả các chuyện đó, giống như những thế giới rất khác nhau, chồng lớp lên nhau, thảy đều xoay quanh một lỗ đen khổng lồ, hắc ám: Santa Teresa. Thành phố bên rìa sa mạc phía bắc Mexico, giáp giới nước Mỹ. Một thành phố lớn, đầy sức sống. Một thành phố lớn, nơi hiểm họa xảy ra bất cứ lúc nào. Nhất là nếu bạn là phụ nữ. Phức tạp như bản thân thế giới, cuốn sách là cả một vũ trụ đủ màu hỉ nộ ái ố, đủ mùi triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ đến độ đui mù, ngoan ngoãn xoay quanh địa ngục lỗ đen và răm rắp tuân theo lệnh của lỗ đen.  *** TÁC GIẢ: Roberto Bolaño (1953-2003) nhà văn kiệt xuất người Chile, tác giả nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận văn chương. Năm 1999 ông đoạt giải thưởng Rómulo Gallegos cho tiểu thuyết Los detectives salvajes (tạm dịch: Trinh thám hoang dại), và năm 2008 ông được truy tặng Giải thưởng Hội Phê bình sách Toàn quốc (National Book Critics Circle Award) của Hoa Kỳ cho tiểu thuyết 2666. Marcela Valdes, một thành viên của ban chấm giải, mô tả 2666 là “một cuốn sách phong phú và chói sáng đến độ chắc chắn sẽ thu hút người đọc và giới học giả suốt nhiều đời sau.” Thời báo New York gọi Bolaño là “tiếng nói văn chương Mỹ la-tinh quan trọng nhất trong thế hệ của ông”. *** '2666' và câu chuyện xảy ra ở thành phố có 108 xác chết Cuốn sách "2666" của Roberto Bolaño là một vũ trụ đủ triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ và cả tội ác. 2666 là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn người Mỹ Latin Roberto Bolaño, được xuất bản một năm sau khi ông qua đời vì căn bệnh suy gan khi 50 tuổi.  2666 không chỉ là kiệt tác cuối đời của một tiểu thuyết gia, mà còn là kiệt tác đến từ "tiếng nói văn chương Mỹ Latin quan trọng nhất trong thế hệ của ông". Một kiệt tác đồ sộ  Cuốn sách xoay quanh rất nhiều nhân vật, nhưng tất cả chỉ đều dẫn đến Santa Teresa, thành phố bên rìa sa mạc ở bắc Mexico, giáp biên giới Mỹ.  Ở đó có người châu Âu nghiên cứu văn chương, một giáo sư đại học, một nhà báo Mỹ, một nhà văn Đức kiệt xuất nhưng sống ẩn dật. Rất nhiều cảnh sát, gái điếm và những nhân vật tưởng chừng chẳng có can hệ gì đến nhau.  Những vụ giết người cứ xảy ra hàng ngày trong cái thành phố đầy sức sống và cũng nhiều hiểm họa ấy. Trong cuốn sách, từ năm 1990 đến 1997, 108 xác chết đều là phụ nữ và các bé gái.  Xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm là một vũ trụ đủ màu hỉ, nộ, ái, ố, đủ mùi triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ đến độ đui mù, ngoan ngoãn xoay quanh địa ngục lỗ đen và răm rắp tuân theo lệnh của lỗ đen. Ngay từ khi ra mắt, cuốn sách đã được giới phê bình đón nhận tích cực và dành tặng nhiều lời khen ngợi. Tác phẩm chiến thắng giải "Altazor Award" năm 2005 tại Chile và khi được dịch sang tiếng Anh năm 2008 cũng chiến thắng luôn giải "National Book Critics Circle Award for Fiction" của Mỹ.  Tờ New York Times xếp cuốn sách là một trong 10 tác phẩm hay nhất năm 2008, trong khi tạp chí TIME cũng vinh danh 2666 là tiểu thuyết hư cấu hay nhất cũng trong năm đó.  Tựa đề cuốn sách là một điều bí ẩn, đến nay chưa ai giải đáp được. Con số 2666 không xuất hiện dù chỉ một lần trong suốt tác phẩm và Bolaño cũng chưa từng lên tiếng giải thích ý nghĩa của nó.  Tuy vậy, 2666 đã xuất hiện trong một vài các tác phẩm khác của Bolaño, có thể kể đến Amulet ('một nghĩa trang vào năm 2666) và The Savage Detectives ('khoảng năm 2600 gì đó').  Trong bản gốc tiếng Tây Ban Nha, tác phẩm 2666 dày hơn 1.100 trang. Sau khi chuyển ngữ, bản sách tiếng Việt có độ dày gần 900 trang, kết cấu 5 phần rõ ràng.  Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về 2666, câu chuyện đằng sau cuốn sách, cũng như khi so sánh với các tác phẩm khác, công ty sách Nhã Nam tổ chức buổi tọa đàm trực tuyến "Nhìn thế giới từ phương Tây: Tiểu thuyết của Murakami và Bolano ở Việt Nam" vào tháng 5 vừa qua.  "Đừng bó buộc nhà văn trong định danh quốc tịch của họ" Ngay từ phần mở đầu của buổi tọa đàm, dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng khẳng định ông không phải là nhà nghiên cứu Roberto Bolaño. Ông chỉ đơn giản là người đọc Bolaño sớm hơn so với độc giả Việt Nam.  Ông cũng là người gợi ý hai cuốn sách hay nhất của Bolaño để phía đơn vị xuất bản đem tác phẩm về với độc giả Việt, một trong hai tác phẩm đó là 2666.  Thực chất, cách đây 12 năm, Bolaño đã xuất hiện tại văn đàn Việt Nam với cuốn tiểu thuyết Đêm Chile nhưng chưa được chú ý nhiều. Đến năm 2020, khi tác phẩm 2666 được xuất bản, công chúng mới nghiêm túc nhìn nhận văn chương và tài năng của ông.  Trần Tiễn Cao Đăng biết đến Bolaño lần đầu năm 2007 với cuốn The Savage Detectives (tạm dịch: Trinh thám hoang dại) qua người bạn. Điều đáng nói là khi ấy cuốn sách 2666 vẫn chưa được dịch ra tiếng Anh. Phải khi sách được xuất bản tại Mỹ năm 2008, tên tuổi của Bolaño mới gây được tiếng vang lớn trên thế giới.  Tương truyền khi 2666 ra mắt tại thành phố New York, Mỹ, có hiệu sách còn bố trí riêng một người để lấy sách cho độc giả, bởi số người muốn mua cuốn sách của Bolaño rất lớn. Sức hút cũng không kém gì Haruki Murakami khi mới xuất hiện tại cộng đồng Anh ngữ. Một điều thú vị khi nhắc đến Bolaño, Murakami hay bất kỳ nhà văn nào khác, Trần Tiễn Cao Đăng khuyên độc giả đừng bó buộc họ trong định danh quốc tịch của chính họ như Chile hay Nhật Bản…, mà đơn giản hãy gọi họ là nhà văn.  Ví dụ, các tác phẩm của Murakami, khi loại bỏ hết tên riêng tiếng Nhật và thay bằng những cái tên trong bất cứ ngôn ngữ nào khác, câu chuyện vẫn không thay đổi. Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai nhà văn vốn chẳng phải đến từ phương Tây, từ khu vực Âu - Mỹ, nhưng vẫn được yêu thích trên toàn thế giới, là tính hiện thực.  Ở Bolaño, tính hiện thực xuyên suốt trong từng trang sách. Ngay chính ở 2666, độc giả cũng có thể thấy rõ điều đó, như ở phần 4 của cuốn sách là chương mà các tội ác dày đặc, ta bị đông cứng người lại vì có quá nhiều việc ác hiển hiện đến như vậy.  Còn Murakami lại là những thế giới siêu thực, song song với nhiều yếu tố kỳ ảo. Hầu như các tác phẩm của Murakami đều có yếu tố phi thực như vậy, như trong Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, Cuộc săn cừu hoang… Các nhân vật của Bolaño và Murakami cũng trái ngược nhau. Bolaño luôn coi mình trước hết với vai trò nhà thơ, mặc dù thành công vang dội trong mảng văn chương. Vì thế, trong hầu hết sách của ông, nhân vật nhà thơ luôn xuất hiện, hiện thân cho cái tôi của chính ông.  Trong Trinh thám hoang dại, toàn bộ câu chuyện xoay quanh các nhà thơ và số phận của họ. Họ hướng tới cái đẹp mà chỉ có mình họ quan tâm đến.  Họ đi bán thuốc phiện để được làm thơ. Nhưng xã hội hiện đại không quan tâm đến họ, biến họ thành kẻ lạc loài. Trong 2666, tuýp nhân vật này lại xuất hiện, đó là anh nhà thơ trong nhà thương điên.  Còn với Murakami, các nhân vật chính lại chưa bao giờ là nhà thơ hay nghệ sĩ. Họ chỉ là những người bình thường, sống độc thân hoặc cô đơn, thường thích nấu ăn và thích nghe nhạc jazz.  Có thể nói hai nhà văn lớn được nhắc đến thuộc hai thế giới hoàn toàn khác nhau, nhưng cùng được xem là hai trong những tiểu thuyết gia quan trọng nhất của thời hiện đại. Với gần 900 trang, cuốn sách 2666 có sự tham gia của hai dịch giả giàu kinh nghiệm là Quân Khuê và Trần Tiễn Cao Đăng. Theo chia sẻ từ đại diện đơn vị xuất bản, cuốn sách cũng được gia hạn bản quyền đến hai lần, không chỉ bởi độ dày, mà còn bởi sự chỉn chu, cầu toàn của người dịch, biên tập viên với một kiệt tác văn chương.  Kết thúc buổi tọa đàm, dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng khuyên độc giả đừng nản lòng trước sự đồ sộ của 2666. Văn chương của Bolaño được đánh giá tương đối dễ đọc, dễ hiểu. Ông cũng không phải là người thích chơi chữ nhưng lại có biệt tài kể chuyện cuốn hút. Độc giả hãy cứ kiên nhẫn, hãy cứ thoải mái tận hưởng cuốn sách từng chút một, và sẽ tìm thấy sự hài lòng khi gấp trang cuối cùng lại. *** "2666" tiểu thuyết hay nhất do tạp chí Time bình chọn có mặt tại Việt Nam Do nhà văn Roberto Bolano (Chile) chấp bút, cuốn tiểu thuyết "2666" đã lọt vào danh sách 10 cuốn sách hay nhất 2018 do The New York Times Book Review bình chọn, Tiểu thuyết hay nhất 2018 do tạp chí Time bình chọn. Và với những nỗ lực của công ty Nhã Nam, cuốn sách đã có mặt tại thị trường sách Việt Nam. Cuốn tiểu thuyết có bố cục gồm 5 phần và trọn vẹn như năm tiểu thuyết riêng biệt. Nhiều câu chuyện riêng tư thoạt nhìn chẳng liên quan đến nhau. Nhưng rồi đọc kỹ, độc giả sẽ thấy, tất cả các câu chuyện đó, giống như những thế giới rất khác nhau, chồng lớp lên nhau, và xoay quanh Santa Teresa, thành phố bên rìa sa mạc phía Bắc Mexico, giáp giới nước Mỹ. Một thành phố lớn, đầy sức sống. Một thành phố lớn, nơi hiểm họa xảy ra bất cứ lúc nào. 2666 là một màn trình diễn hoàn hảo mà bất cứ cuốn tiểu thuyết 900 trang nào cũng mong muốn có được. Viết nương theo những hoài nghi về khả năng của văn chương, về những gì văn chương có thể khám phá hay dám gọi tên những tai ách của thế gian, nhà văn Bolano đã chiến thắng cuộc đua tới vạch đích, cuộc đua viết ra điều ông, một bậc thầy ngôn từ mong muốn nói lên một cách giản dị. Roberto Bolano (1953 – 2003) là nhà văn người Chile, tác giả nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận văn chương. Năm 1999 ông đoạt giải thưởng Rómulo Gallegos cho tiểu thuyết Los detectives salvajes (tạm dịch: Trinh thám hoang dại), và năm 2008 ông được truy tặng Giải thưởng Hội Phê bình sách Toàn quốc (National Book Critics Circle Award) của Hoa Kỳ cho tiểu thuyết 2666. Marcela Valdes, một thành viên của ban chấm giải, mô tả 2666 là “một cuốn sách phong phú và chói sáng đến độ chắc chắn sẽ thu hút người đọc và giới học giả suốt nhiều đời sau.” Thời báo New York gọi Bolano là “tiếng nói văn chương Mỹ Latin quan trọng nhất trong thế hệ của ông”.   Mời các bạn đón đọc 2666 (Tiểu Thuyết) của tác giả  Roberto Bolaño & Trần Tiễn Cao Đăng (dịch) & Quân Khuê (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Rượu Độc Lóng Lánh - Agatha Christie
Cuốn tiểu thuyết trinh thám "Rượu độc lóng lánh" của tác giả Agatha Christie được giới chuyên môn đánh giá là một thành công lớn bởi giá trị nhân văn của nó. Với việc xây dựng cốt truyện hấp dẫn, linh hoạt, tác giả đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, mà nhân vật trung tâm là Iris Marle. Mối quan hệ phức tạp nhưng đầy thú vị giữa các nhân vật, và cách giải quyết những mâu thuẫn của họ khiến câu chuyện trở nên rất sinh động, qua đó thể hiện rõ nét cái nhìn của tác giả về thế giới hiện đại ngày nay.  *** Được mệnh danh là 'nữ hoàng tiểu thuyết trinh thám', Agatha Christie là nhà văn người Anh ăn khách nhất trên thế giới trong thể loại này. Hơn 3 thập niên sau ngày bà qua đời, dường như chưa có tác giả nào soán ngôi Agatha Christie (1890-1976) trong thể loại tiểu thuyết trinh thám. Nữ nhà văn này được xem như là một hiện tượng văn học và được giới chuyên gia dày công nghiên cứu không kém gì tác giả truyện trinh thám Arthur Conan Doyle, cha đẻ của thám tử tài ba Sherlock Holmes. Ở cái thuở ban đầu không dễ quên ấy, bà bước vào nghiệp văn với lý do hết sức ngẫu nhiên tình cờ. Trong một cuộc trò chuyện giữa mấy chị em gái, các chị của bà cho rằng tiểu thuyết trinh thám rất chán bởi vì chỉ cần xem một vài trang là người đọc đã biết ngay kẻ nào là thủ phạm rồi. Không đồng tình với những ý kiến đó của các chị mình, Agatha Christie đã lặng lẽ dấn thân vào nghề viết như muốn phản biện lại quan niệm của các chị. Và dường như đây chính là mối tơ duyên gắn kết cuộc đời bà với hoạt động sáng tác văn học. Bà đã viết với tất cả vốn hiểu biết và lòng say mê của mình. Tưởng chừng làm thử một cú, nào ngờ trở thành bậc thầy. Với trí tưởng tượng phong phú dồi dào, Agatha Christie đã đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tạo ra nhiều sự gay cấn hồi hộp khiến người đọc khi cầm sách trong tay muốn đọc liền một mạch, như thể cặp mắt bị dán vào các dòng chữ sinh động. Bằng lối tư duy thời gian, hạn chế đến tối đa sự đoán trước của người đọc về tính cách, số phận của các nhân vật cũng như kết thúc câu chuyện… tiểu thuyết trinh thám của Agatha Christie có một sức hấp dẫn đến kỳ lạ. *** Iris Marle nghĩ về chị cô Rosemary. Trong gần một năm, cô đã cố tình xua đuổi khỏi tâm trí mình hình ảnh của Rosemary. Cô không muốn nhớ lại gì cả. Điều đó thật khủng khiếp và đáng sợ. Khuôn mặt tím tái, đôi tay cứng đờ với những ngón co quắp… Hình ảnh đó thật là trái ngược với Rosemary của ngày hôm trước vui vẻ và đáng yêu đến thế… Nói là vui vẻ thì, cũng chưa hẳn là chinh xác… Chị ấy vừa bị cúm, suy sụp và ủ rũ. Điều đó đã được nhấn mạnh trong cuộc điều tra và chính Iris cũng chú trọng vào điểm đó. Nó giải thích cho sự tự sát của Rosemary phải vậy không? Cuộc điều tra kết thúc: Iris đã cố gắng xua đuổi tất cả những cái đó ra khỏi tâm trí. Nhớ lại có ích gì? Tốt nhất là hãy quên đi… Quên đi tất cả những chuyện khủng khiếp này. Vậy mà bây giờ cô nhận thấy là cần phải nhớ lại Cô nhớ về quá khứ… Cô nhớ lại cả những điều lặt vặt thậm chí cả những việc có vẻ như chẳng có ích lợi gì… Cuộc nói chuyện lạ lùng tối hôm qua với George đã lên án anh ta. Việc đó thật là bất ngờ và làm đảo lộn tất cả… Nhưng có thật là cô đã bị bất ngờ không? Chẳng phải đã có một số dấu hiệu để cho cô nhìn thấy trước? Ví dụ vẻ bận rộn ngày càng tăng của George, sự đãng trí của anh ta, thái độ không thể giải thích được của anh ta và… Chúa ơi phải rồi, sự kỳ quặc của anh ta… Tất cả những cái đó chính là những chỉ dẫn… Và tối hôm qua, anh ta đã gọi cô vào văn phòng và rút từ ngăn kéo ra những bức thư… Không, giờ đây cô sẽ không thể làm việc gì khác. Cô cần phải nghĩ về Rosemary. Ước gì cô nhớ lại được Rosemary… Chị gái của cô… Đột nhiên Iris ngạc nhiên nhận thấy rằng đây là lần đầu tiên trong đời cô nghĩ về Rosemary. Ít nhất là cô cũng nghĩ về chị cô một cách khách quan như về một người nào khác. Cô đã luôn luôn chấp nhận Rosemary mà không hề thắc mắc chút nào về những lời gièm pha chị ấy. Người ta không nghĩ về mẹ mình, cha mình, chị mình hoặc cô mình. Họ tồn tại và chỉ có vậy thôi và người ta cũng không đặt ra những câu hỏi về họ. Người ta chỉ nghĩ về họ như những con người. Người ta thậm chí cũng không tự hỏi họ là ai. Rosemary, chị ấy là ai? Biết được điều đó là rất quan trọng trong lúc này. Biết bao nhiêu việc phụ thuộc vào phát hiện này. Iris kiên quyết đưa ý nghĩ của mình quay về quá khứ. Cô thấy lại mình thời ấu thơ - với Rosemary, chị gái hơn cô 6 tuổi. Những mảnh vụn của quá khứ quay về trong cô loang loáng như những bức tranh, những màn kịch thoáng qua. Cô thấy lại mình bé xíu, đang ngồi ăn sáng, nhúng bánh mì vào sữa. Rosemary, tóc tết bím đỏm đáng làm bộ quan trọng vì có bài tập phải làm. Sau đó, vào mùa hè, trên bãi biển, Iris thèm muốn nhìn Rosemary, đã là "người lớn" và đã biết bơi. Rồi Rosemary vào học nội trú và chỉ về nhà vào kỳ nghỉ. Sau đó cô lại nhìn thấy chính mình vào học nội trú. Còn Rosemary, chị cô vừa kết thúc khoá học ở Paris. Khi ra đi chị cô còn là một nữ sinh, chân tay vụng về lóng ngóng. Vậy mà khi trở về chị cô đã thay đổi hẳn. Một Rosemary mới lạ, đáng kinh ngạc, sang trọng, duyên dáng, giọng nói mượt mà và dáng đi uyển chuyển. Chị ấy có mái tóc đẹp màu hạt dẻ sẫm, cặp mắt to xanh biếc viền bởi hàng mi dài cong vút. Một sinh linh tuyệt đẹp, chuyển động trong một thế giới hoàn toàn khác với thế giới của Iris. Cũng từ lúc đó, họ gặp gỡ nhau rất ít. Chưa bao giờ, chênh lệch 6 năm tuổi giữa họ lại rõ rệt như bây giờ. Iris văn đi học: Rosemary nếm trải mọi thú chơi "thời thượng". Thậm chí khi Iris đến London, họ vẫn sống xa cách. Cuộc sống của Rosemary ra sao? Buổi sáng dậy muộn, tiệc tùng với bạn bè và khiêu vũ hầu hết các tối. Còn Iris, cô ngồi trong phòng học với "Mademoiselle", cô gia sư người Pháp, đi dạo với cô gia sư trong công viên Hyde Park. Ăn tối lúc 9 giờ và 10 giờ thì lên giường ngủ. Mỗi liên hệ giữa hai chị em chỉ giới hạn trong những câu trao đổi ngắn ngủi ví dụ như: "Iris, em gọi lại cho chị được không? Em thật đáng yêu! Chị bị muộn quá mất rồi." hoặc "Em không thích cái váy mới của chị, Rosemary. Nó không hợp với chị đâu, nhiều thứ trang trí quá?" Rồi Rosemary đính hôn với George Barton. Khoảng thời gian sôi động: mua sắm ở các cửa hàng, hàng đóng gói, bọc trang phục của các cô phù dâu. Tại lễ cưới, đi trong nhà thời đằng sau Rosemary, cô nghe thấy tiếng thì thầm: - Cô dâu mới xinh đẹp làm sao! ,,, Mời các bạn đón đọc Rượu Độc Lóng Lánh của tác giả Agatha Christie.
Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ
Sheila Webb nghĩ mình đến gặp một quý bà bị mù đợi cô ở nhà số 19 khu Wilbraham Crescent - chứ không phải là gặp một cái xác đàn ông trên sàn nhà. Nhưng khi cô Pebmarsh phủ nhận việc yêu cầu cử cô Sheila Webb đến đây, cũng như không hề sở hữu những chiếc đồng hồ hiện diện xung quanh cái xác, rõ ràng họ cần đến một thám tử tài ba. “Vụ án quá phức tạp nên hẳn nhiên nó phải rất đơn giản,” Hercule Poirot tuyên bố. Nhưng kẻ sát nhân vẫn lộng hành còn thời gian thì cứ trôi đi… Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng với sự kiện Hercules Poirot không hề đến hiện trường xảy ra tội ác hoặc thẩm vấn nhân chứng hay người bị tình nghi. Ông bị thách thức chứng minh rằng có thể giải quyết một vụ án chỉ bằng kinh nghiệm và trí thông minh. *** Một con người có khả năng đấy! - Anh đăm chiêu nói. - Tôi khó biết nổi anh ta muốn đi đến đâu. - Chắc là anh ta không đầu hàng mà sớm hiểu ra. - Bà Tanios đã phôn cho tôi lúc nãy. - Tôi thông báo. - Tôi đã nghĩ thế. Tôi báo cho anh biết lời ủy thác. - Tốt. Mọi sự đang tiến triển như ý. Trong hai mươi bốn giờ nữa, Hastings, chúng ta sẽ được biết chính xác. - Tôi hãy còn lưỡng lự. Ai đúng là kẻ để chúng ta ngờ vực? - Tôi không thể nói người nào anh nghi ngờ, Hastings! Mọi người, lần lượt, tôi đang nghĩ ra hắn! - Đôi khi tôi có cảm giác rằng anh lấy làm thích thú để tôi rơi vào tình trạng không biết đâu mà lần! - Không, không, trò vặt ấy không làm tôi vui lắm đâu! - Tôi không tin là anh chịu bó tay trong việc này. - Tôi đáp. Poirot im lặng, vẻ lo lắng. Tôi hỏi anh: - Anh đang có điều gì, trong lúc này vậy? - Này anh bạn, khi sắp kết thúc một cuộc điều tra hình sự, tôi luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh. Có thể điều gì đó sắp xảy ra? - Anh muốn điều gì xảy ra? - Tôi không biết, anh ạ. (Anh nhíu mày và nói thêm) Tôi cho rằng đã làm hết khả năng... - Trong trường hợp này, hãy quên vụ án này đi và hãy đi đến rạp chiếu bóng, nào, mời anh! - Đúng đấy, Hastings, một ý kiến hay đấy! Chúng tôi có một buổi tối tuyệt vời, mặc dầu tôi đã phạm sai lầm là đưa Poirot đi xem một bộ phim hình sự. Một lời khuyên các bạn đọc rằng: đừng bao giờ đưa một người lính đi xem một vở kịch về chiến tranh, một thủy thủ một vở về hàng hải, một thám tử một vở về hình sự... Hàng tràng dài những câu phê bình của họ sẽ làm các bạn chán ngấy cuộc biểu diễn ấy. Poirot phát hiện ra một ngàn lẻ một chỗ yếu kém về tâm lý của bộ phim và sự thiếu phương pháp và thứ tự của thám tử xuýt làm cho anh phát điên. Khi ra về Poirot còn giải thích cho tôi rằng có thể đã vạch trần điều bí mật ngay ở nửa đầu của cuốn phim đầu. - Vô lý, không thể có phim khá thế đâu, anh Poirot! Poirot phải chấp nhận là tôi có lý. Sáng hôm sau độ hơn chín giờ một chút, tôi đến nhà bạn tôi. Tôi thấy anh đang vừa ăn sáng vừa mở các phong bì của chuyến thư tín. Điện thoại reo. Tôi cầm ống nghe. Một giọng hổn hển nói: - Có phải ông đấy không, ông Poirot? Ồ! Hóa ra là ông, đại úy Hastings? Tôi nghe thấy một thứ tiếng thở dài, và tiếng nức nở. - Có phải bà Lawson đang nói đấy không? - Tôi hỏi. - Vâng, vâng, đã xảy ra một chuyện khủng khiếp. - Cái gì vậy? - Cô ấy đã rời khách sạn Wellington... Tôi muốn nói về Bella. Tôi đã đến đó chiều hôm qua và người ta đã trả lời tôi rằng cô ấy đã đi rồi. Cô ấy cũng không để lại cho tôi một thông tin nào. Không có gì! Thật là lạ! Dù sao, bác sĩ Tanios có lẽ đã có lý. Ông nói về cô ấy bằng một giọng rất dịu dàng, và có vẻ rất buồn đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng ông ta đã không thành thực chăng. - Nào, bà Lawson, hãy nói tôi biết điều gì đã xảy ra. Phải chăng chỉ là bà Tanios đã rời khách sạn mà không báo cho bà biết trước? - Ồ không! Nếu như chỉ là thế? Bác sĩ Tanios nói rõ rằng vợ ông ấy không còn nữa... Tóm lại, ông hiểu điều tôi muốn nói... Ông ta gọi bệnh này, là chứng trưng cảm truy bại. - Vâng. Điều gì đã xảy ra vậy? - Ồ! Thật khủng khiếp! Chết trong giấc ngủ... Liều thuốc ngủ quá mạnh! Và những đứa trẻ tội nghiệp! Buồn biết bao! Tôi chỉ biết khóc từ khi tôi biết tin này! - Bà đã biết tin ấy thế nào? Bà hãy kể tôi nghe chi tiết đi. Trong khóe mắt, tôi nhìn thấy Poirot đã ngừng mở các lá thư và đang lắng tai nghe. - Người ta đã gọi tôi qua điện thoại. Từ khách sạn... Khách sạn Coniston. Hình như người ta tìm thấy tên tôi và địa chỉ của tôi trong túi cầm tay của cô ấy. Ồ! Đại úy Hastings, khủng khiếp quá phải không? Những đứa trẻ ấy không còn mẹ nữa! - Hãy nghe tôi. Bà có chắc là đó là một tai nạn không? Đừng nghĩ nhiều đến một vụ tự sát? - Ôi, một ý kiến đáng sợ, đại úy Hastings! Tôi không biết gì cả. Ông có cho đó là một vụ tự sát không? Điều đó sẽ còn kinh khủng hơn! Cô ta có vẻ rất suy sụp... vô lý, tôi cam đoan với ông như vậy. Cô ấy không có khó khăn gì về tiền bạc cả vì tôi đã sẵn sàng chia sẻ với bà ấy... Tôi xin thề với ông về việc đó! Tiểu thư Arundell muốn thế, tôi có tình cảm với bà ấy. Và nghĩ rằng bà ấy có thể sẽ tự sát... Nhưng có thể là không đúng như thế... Những người của khách sạn nói đến một tai nạn. - Bà ấy đã dùng cái gì? - Một loại thuốc ma túy để ngủ. Veronal. Không, đúng hơn là Chloral. Vâng chính là Chloral. Ô, đại úy Hastings, ông có nghĩ... Không quá câu nệ, tôi đặt lại ống nghe và quay sang Poirot. - Bà Tanios... Poirot giơ bàn tay lên. - Phải tôi biết điều anh sắp thông báo cho tôi rồi. Bà ấy đã chết phải không? - Vâng, một liều mạnh thuốc ngủ, thuốc Chloral. Poirot đứng dậy. - Đến đấy, Hastings. Ta đi đến đấy ngay lập tức! - Phải chăng đó là cái kết cục mà anh đã sợ hãi chiều hôm qua? Anh chẳng đã nói rằng vào lúc kết thúc cuộc điều tra hình sự, anh luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh đó sao? - Vấn đề là một cái chết khác. - Poirot nói, mặt xị xuống. Trong khi phóng xe đi Euston chúng tôi gần như không nói gì cả. Đến lúc thấy Poirot lắc đầu tôi mới rụt rè hỏi anh: - Anh có nghĩ... Phải chăng là một tai nạn? - Không, Hastings, không. Không phải là một tai nạn. - Làm sao biết? Poirot không trả lời tôi. Cuối cùng chúng tôi đến khách sạn Coniston. Poirot, bỗng có cử chỉ thô bạo, chìa thẻ của mình ra và xông thẳng vào văn phòng giám đốc. Người ta kể lại cho chúng tôi các sự kiện. Một quý bà tên là Peters cùng với hai con đã đến khách sạn hôm qua lúc mười hai giờ rưỡi trưa. Họ ăn lúc một giờ. Lúc bốn giờ, một người đàn ông xuất hiện, mang một mảnh giấy cho bà Peters. Chúng tôi đem giấy lên. Vài phút sau bà ấy đi xuống cùng với hai con và một chiếc va-li. Bà giao các con bà cho người khách, rồi quay lại văn phòng và giải thích rằng bà chỉ lấy một phòng thôi. Bà ấy không có vẻ đặc biệt chán chường, bà hình như cũng khá bình tĩnh. Bà ăn tối lúc bảy giờ rưỡi, và ít phút sau, đi lên phòng mình. Sáng hôm sau lúc cô hầu mang lên cho bà một tách trà, đã thấy bà ấy chết rồi. Một thầy thuốc được gọi đến vội vã, đã tuyên bố rằng bà ấy đã chết trước đó nhiều giờ. Chúng tôi tìm thấy một chai rỗng trên bàn đầu giường của bà ấy. Mọi sự chỉ rằng bà đã uống một loại thuốc ngủ và do lầm lẫn, bà đã dùng một liều quá mạnh. Thầy thuốc bảo rằng đó là Chloral. Không có gì để tin rằng đó là vụ tự sát. Chúng tôi không tìm thấy một lá thư nào cả. Khi lục lọi các đồ riêng của bà để báo cho gia đình, chúng tôi tìm thấy trong một cái túi cầm tay có tên và địa chỉ của bà Lawson chúng tôi đã báo cho bà này qua điện thoại. Poirot hỏi người ta không tìm thấy gì về mặt thư từ và giấy tờ... Chẳng hạn, lá thư được mang đến bởi người đàn ông đã đến tìm bọn trẻ. Người đối thoại đáp: không một tờ giấy thuộc bất kỳ loại nào được tìm thấy trong phòng cả, nhưng người ta thấy trong lò sưởi một đống giấy tờ đã cháy. Trong chừng mực mà người ta có thể khẳng định thì bà Peters không tiếp bất kỳ ai cả trừ người đàn ông đến mang các con bà đi. Bản thân tôi hỏi người gác cổng về dấu hiệu nhận dạng của người này, nhưng anh ta cho tôi biết một chân dung cũng khá mờ nhạt: vóc tầm thước, tóc vàng hoe, dáng vẻ một người lính, không có gì đặc biệt lắm trên thân thể. - Đó không phải là Tanios. - Tôi nói thầm với Poirot. - Hastings thân mến ơi! Anh có thật sự tin rằng bà Tanios sau biết bao khó nhọc mới mang đi được bọn trẻ khỏi bố chúng, lại ngoan ngoãn trả chúng lại cho ông ấy mà không than khóc cũng không phản đối gì cả ư? Không! Không đâu! - Vậy thì người này là ai? - Rõ ràng là một người nào đó đã có thể chiếm được niềm tin của bà Tanios, hay đúng hơn là một người nào đó được một người thứ ba có tín nhiệm của bà Tanios phái đến. Tư cách pháp nhân của người đến mang bọn trẻ nhà Tanios đi không quan trọng lắm. Tác nhân gây án thực sự hãy còn trong bóng tối. - Và mảnh giấy là của người thứ ba ấy à? - Phải. - Một người nào đó được bà Tanios tín nhiệm ư? - Nhất định là thế. - Và mảnh giấy bị cháy thì sao? - Phải, có thể là bà ấy có lệnh là phải đốt nó đi. - Còn bản tóm tắt vụ án mà anh đã đưa cho bà ấy thế nào? Poirot trả lời tôi, vẻ trịnh trọng: - Cũng đã đốt rồi. Nhưng toàn bộ việc ấy không có gì quan trọng cả. - A! Sao thế? - Vì tất cả còn lưu giữ trong đầu Hercule Poirot. Anh nắm vội cánh tay tôi. - Đi thôi! Hastings, hãy rời khỏi khách sạn này. Ta hãy để lại những người đã chết để ta săn sóc đến người đang sống. Họ đòi hỏi chúng ta phải hết sức cảnh giác. ... Mời các bạn đón đọc Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ - Agatha Christie.
Ngôi Nhà Quái Dị - Agatha Christie
Ngôi Nhà Quái Dị (Crooked House) NXB Thời Đại, Phạm Tùng Vĩnh dịch Các bản dịch khác: - Cái chết bí ẩn: Trịnh Ngọc Tuấn dịch. - H. : Nxb. Hà Nội, 1993. - 351tr. - Ngôi nhà kỳ dị: Lê Thu Hà dịch. - H. : Nxb. Hội Nhà văn, 2001. - 298tr ; 19cm. ; - Những cái chết bí ẩn: Phạm Tùng Vĩnh dịch.- H.: Công an nhân dân, 2003.- 306 tr Truyện quay xung quanh cái chết của Aristide Leonidès, một điền chủ giàu có. Ông bị ám sát bởi một liều lượng cao ésérine bị tráo thay cho insulin trong thuốc tiêm hàng ngày. Những người bị nghi ngờ gồm Brenda Leonidès, người vợ thứ kém ông hơn năm chục tuổi đời, Laurence Brown, anh chàng gia sư dường như có mối quan hệ dan díu với bà chủ; Roger, con trưởng và vợ Clemency, con thứ Phillip và vợ Magda cùng 3 đứa con, Sophia con gái cả, Eustace, đứa con trai thứ bệnh tật và Josephine, đứa con gái út luôn thích chọc mũi vào mọi chuyện, và cuối cùng là Edith de Havilland, bà cô già của cả gia đình. Gia đình ba thế hệ của ông già Leonides cùng sống trong căn nhà "ba đầu hồi" quái dị do ông tự thiết kế. Leonides là một doanh nhân thành đạt giàu có, bảo bọc cho gia đình hai con trai Roger và Philip, ba đứa cháu con của Philip. Ông có hai đời vợ. Vợ trước mất do bị trúng bom thời chiến tranh, cô em gái không lấy chồng của bà vợ này đến giúp anh rể chăm sóc các cháu. Khi các cháu đã lớn cả, ở tuổi 80 ông Leonides lại đi bước nữa với một phụ nữ trẻ đẹp. Rồi một anh gia sư trạc tuổi bà vợ sau của ông xuất hiện trong gia đình, những ghét bỏ khinh khi lâu nay của các con cháu ông Leonides bùng lên với đồn đoán về cuộc tình vụng trộm giữa bà mẹ kế trẻ đẹp và anh gia sư. Giữa lúc đó ông Leonides bị chết do tiêm nhầm thuốc! Bác sĩ từ chối chứng tử vì dứt khoát nghi ngờ đây là một vụ giết người. Cảnh sát tiến hành điều tra và điên đầu vì bất cứ ai trong gia đình đó cũng có động cơ giết ông Leonides… Ngoài ra, di chúc ông đã đọc cho con cháu nghe và đã ký tên biến mất? Một trong số ít tiểu thuyết trinh thám mà Agatha Christie không xây dựng quanh hai nhân vật lừng danh mà bà đã tạo ra là Hercule Poirot hoặc nữ thám tử Marple. Câu chuyện Ngôi nhà Quái dị được kể từ góc nhìn của người thứ ba – người yêu của cô cháu gái lớn nhất của ông Leonides – không là cảnh sát điều tra, cũng không là thám tử độc lập, nhưng buộc phải giúp tìm ra chân tướng kẻ giết người thì mới có thể cùng người mình yêu kết hôn. Agatha Christie tự viết lời tựa đánh giá đây là cuốn tiểu thuyết tâm đắc nhất của bà. *** Sau này tôi tự hỏi tại sao tôi có thể mù tịt trước một sự thật rành rành. Thủ phạm chỉ có thể là Josephine. Nó hay khoe khoang, nó tự cho mình là quan trọng, nó lấy làm vui thú khi được nói ra, nó nhấn mạnh nhiều lần rằng nó rất giỏi, mà cảnh sát thì ngốc lắm, tất cả đã chỉ rõ như thế. Bởi vì nó chỉ là một đứa trẻ nên tôi không hề nghĩ rằng nó đã giết người. Nhưng người ta đã biết những đứa trẻ giết người vậy thì các vụ án mạng ở “Ba Đầu Hồi” thuộc về một trong số đó. Chính bản thân ông già Leonidès đã giải thích cho con bé phải tiến hành thế nào và nó chỉ việc tuân theo các chỉ dẫn ấy của ông. Nó chỉ cần chú ý không để lại các vết tay, nó đã đọc khá nhiều truyện trinh thám để không quên điều đó. Phần còn lại chỉ là một mớ hổ lốn bắt nguồn trực tiếp từ các “tiểu thuyết trinh thám” mà Josephine thường đọc: một cuốn sổ tay, các cuộc điều tra “cá nhân”, những điều ngờ vực tự bịa ra, ý chí quyết không tiết lộ những điều bí mật. Cũng như vụ mưu sát mà nó đã tiến hành chống lại chính nó. Một chuyện điên rồ, nếu coi như nó rất có thể đã tự giết mình. Nhưng chuyện ấy đã trở nên sáng tỏ vì đó là một giả thuyết mà, vì nó là trẻ con nên nó chưa lúc nào chú ý tới. Nó là nhân vật chính của chuyện phiêu lưu ấy. Nhân vật chính lại không chết, nhưng nó đã để lại đằng sau nó một dấu hiệu ở đó: những mảnh đất nằm lại trên ghế. Nó là người duy nhất trong nhà này buộc phải trèo lên cái gì đó mới đặt được khối đá cẩm thạch trong thế thăng bằng trên cánh cửa. Những lỗ trên mặt đất do nhiều lần diễn đi diễn lại đã chứng minh điều đó, sự vụ đã không thành công ngay lần đầu. Kiên trì, nó lại bắt đầu lại, bê con sư tử cẩm thạch trong đôi tay bọc bằng chiếc khăn quàng để tránh để lại dấu vết trên khối đá. Cuối cùng thần chết suýt nữa bắt nó đi. Thành công gần như trọn vẹn, mục tiêu đã đạt. Josephine bị đe dọa, nó “đã biết cái gì đó” người ta đã cố giết nó. Ai chẳng nghĩ thế? Rất khéo léo, nó đã làm tôi chú ý đến phòng có các bồn nước. Và với mục đích rõ ràng nó đã làm tung tóe gian buồng của nó trước khi đi xuống xưởng giặt. Từ bệnh viện trở về, nó đã rất thất vọng. Brenda và Laurence đã bị bắt, sự vụ đã kết thúc, nó, Josephine, còn đâu được ở trong ánh sáng của các đèn chiếu nữa. Chính vì thế nó đã vào phòng của Edith lấy trộm digitaline đem bỏ vào cốc sô-cô-la của mình nhưng nó không uống mà cố tình để lại trên bàn ăn. Nó có biết là Vú có thể uống cốc ấy không? Chắc là có. Theo điều chính miệng nó đã nói với tôi, nó tiếp thu không tốt những lời nhận xét của bà hầu già ấy. Vú là người giàu kinh nghiệm về trẻ nhỏ, Vú đã ngờ ngợ biết sự thật chăng? Không phải là tôi không tin điều đó. Bà không coi Josephine như đứa trẻ bình thường. Trí tuệ nó phát triển sớm nhưng không theo hướng bình thường. Có lẽ tính di truyền tác động. Độc đoán, “tàn nhẫn” như tính nết tổ tiên đằng mẹ nó, nó có tính ích kỷ của Magda, không thể nghĩ đến gì khác hơn đến chính mình. Rất nhạy cảm như Philip, có lẽ nó rất đau khổ vì nó xấu xí, xấu đến mức, mặc dù nó rất thông minh, nó vẫn bị mẹ nó gọi nó là “con bé ngốc”. Cuối cùng, từ ông nội, nó thừa kế được một đầu óc hết sức tinh nhanh và nhiều mánh khóe mưu mẹo. Nhưng trong khi ông già Leonidès có tấm lòng nhân hậu, trong khi ông nghĩ đến những người khác, đến gia đình và đến tất cả những người ông yêu, thì nó, nó chỉ nghĩ đến bản thân nó. Tôi nghĩ rằng ông nội đã nhận thấy điều mà mọi người khác không nhận thấy là Josephine có nguy cơ trở thành nguồn gốc của biết bao tai họa không những cho gia đình, mà còn cho bản thân nó và có lẽ chính vì ông linh cảm được điều mà nó có khả năng làm nên ông muốn nó phải được nuôi dạy ở trong nhà. Đó cũng chính là những lý do đã thúc đẩy ông cố nài Sophia để nàng chăm lo cho đứa trẻ ấy. Magda có đoán được sự thật ấy không? Việc bà vội vã đưa Josephine sang Thụy Sĩ cho phép đặt ra câu hỏi ấy. Tôi nghĩ rằng bà ta không biết gì cả, nhưng một bản năng mơ hồ của người mẹ đã làm bà ấy hết sức sợ hãi... Nhưng Edith De Haviland thì thế nào? Tôi bèn mở lá thư mà tôi cầm trong tay, bà đã đặt nó trong phong bì chứa cuốn sổ đen nhỏ. Cậu Charles, Lá thư này dành riêng cho cậu... và cho Sophia, nếu cậu xét thấy điều đó là cần. Nhất thiết phải có ai đó biết sự thật. Tôi đã tìm thấy cuốn sổ kèm theo đây trong cái chuồng chó vứt ở sau nhà. Chính ở đó nó đã giấu cuốn sổ. Nó đã xác nhận toàn bộ những gì tôi đã nghi ngờ. Không biết tôi có lý hay không nếu tôi hành động như tôi sắp làm? Tôi không biết nữa. Nhưng dù sao đi nữa, cuộc đời tôi chẳng bao lâu nữa sẽ kết thúc và tôi không muốn đứa trẻ phải chịu nỗi đau khổ dai dẳng không thể tránh khỏi nếu nó phải nhận thấy các hành vi của nó. Trong tự nhiên thường có những đứa con “không giống như những đứa khác”. Nếu tôi lầm, Chúa hãy phán xét! Nhưng đó là tình yêu hướng dẫn tôi. Cầu Chúa ban phúc lành cho hai cháu! Edith De Haviland Tôi chỉ do dự một phút, rồi tôi đưa lá thư cho Sophia. Khi nàng đã đọc xong thư chúng tôi lại một lần nữa mở cuốn sổ đen nhỏ ra xem. Hôm nay, tôi đã giết ông nội. Chúng tôi lật các trang sách. Những điều viết ra thật kinh hoàng. Tôi nghĩ, nó có thể làm cho thầy thuốc tâm thần phải quan tâm. Một tính ích kỷ điên loạn bộc lộ rõ ở mỗi trang giấy, đứa trẻ với một tính chân thật đáng thương trình bày những động cơ đáng tức cười về các tội ác của nó. Ông nội không muốn cho tôi trở thành vũ nữ. Vậy thì tôi đã quyết định giết ông. Như thế, tôi sẽ đến sống ở Luân Đôn cùng với mẹ và tôi sẽ trở thành vũ nữ ba lê. Những đoạn viết tiếp sau cũng không kém súc tích.... Tôi không muốn đi Thụy Sĩ và tôi sẽ không đi. Nếu mẹ ép tôi, tôi sẽ giết bà ấy. Nhưng tôi không có thuốc độc. Có lẽ tôi phải chế tạo ra nó bằng belladone. Có vẻ đó là chất độc mạnh.... Eustace làm tôi bực tức. Anh ấy bảo rằng tôi chỉ là một đứa con gái, rằng tôi hoàn toàn không biết gì cả và rằng một phụ nữ sẽ chẳng bao giờ thành một thám tử tài ba. Anh ấy sẽ không cho là tôi quá ngu xuẩn nếu như anh ấy biết rằng chính tôi đã giết chết ông nội.... Tôi rất thích Charles, nhưng anh ta cũng khá ngu ngốc. Tôi chưa biết tôi sẽ phải buộc tội cho ai đây, Brenda và Laurence, có lẽ thế. Brenda không thích tôi, bà ấy bảo rằng tôi không có đầu óc nguyên vẹn. Nhưng tôi rất thích Laurence. Anh ta đã nói với tôi về Charlote Corday. Cô ta đã giết ai đó trong bồn tắm của cô. Vả chăng cô ta rất vụng về. Trang sổ cuối cùng viết về Vú: Tôi ghét Vú. Tôi căm thù bà ấy. Bà nói rằng tôi chỉ là một con bé tự phụ muốn cho mình là quan trọng. Chính bà ấy đã khiến cho mẹ phải gửi tôi sang Thụy Sĩ. Tôi sẽ giết bà ấy. Tôi cho rằng những viên thuốc tròn nhỏ của bà Edith sẽ làm nên chuyện. Nếu có một vụ ám sát khác, thì cảnh sát sẽ lại đến nhà và mọi việc sẽ lại trở nên tuyệt vời.... Vú đã chết. Tôi chưa biết tôi sẽ giấu cái lọ đựng các viên thuốc tròn nhỏ vào đâu. Có lẽ trong buồng của bác Clemency, có thể trong buồng Eustace. Khi nào tôi chết lúc tôi rất già, tôi sẽ dàn xếp để đưa cuốn sổ này cho chỉ huy cảnh sát. Lúc ấy người ta sẽ nhận thấy rằng tôi là một thần tội ác. Tôi gấp sổ lại. Sophia khóc. - Ôi! Charles!... Charles!... Khủng khiếp quá! Con bé tội nghiệp này là một cái quái thai... Nó chỉ gợi ra cho em lòng thương xót! Tôi cũng có những tình cảm tương tự. Trước đây, tôi đã rất yêu Josephine, giờ đây, tôi vẫn còn yêu nó. Ai lại bớt yêu những người thân chỉ vì họ đã mắc lao hoặc bệnh khác. Josephine là một cái quái thai bệnh hoạn, như Sophia vừa mới nói, nó rất đáng xót thương. Sophia quay người sang tôi: - Nếu như nó còn sống, nó có thể sẽ thế nào? - Làm sao mà biết được? Dĩ nhiên người ta có thể gửi nó vào một trường học dành cho các trẻ không bình thường. Sau đó có thể trả nó về cho người nhà của nó, hoặc có thể giam giữ... Sophia rùng mình. - Những điều ấy tốt hơn như là chúng vốn thế - Nàng nói - nhưng có điều là bà Edith... Tôi ngắt lời nàng: - Bà ấy đã chọn sự hy sinh tính mạng mình. Anh không tin rằng bức thư của bà sẽ được công bố công khai để mọi người được biết. Có thể là việc buộc tội sẽ được hủy bỏ không hơn không kém và Brenda và Laurence sẽ được trả tự do. Tôi cầm lấy hai tay Sophia và bằng một giọng hoàn toàn khác, tôi nói tiếp: - Còn em, Sophia, em sẽ lấy anh chứ! Anh vừa mới được tin là anh đã được bổ nhiệm ở xứ Ba Tư. Em sẽ cùng anh sang bên ấy và anh chắc chắn anh sẽ làm em quên đi “ngôi nhà cổ quái nhỏ bé” này. Mẹ em sẽ dựng các vở kịch, cha em sẽ tiếp tục mua các sách và Eustace sẽ vào trường đại học. Không nên lo lắng về họ nữa, Sophia, và hãy nghĩ đến anh! Nàng nhìn chăm chú vào mắt tôi. - Anh không sợ phải kết hôn với em ư, Charles? - Thế anh sợ gì nào? Bé Josephine tội nghiệp đã phải chịu tất cả các tật xấu của gia đình, còn em, em thừa kế được mọi tính tốt của dòng họ Leonidès. Ông nội em đã đánh giá em rất cao, Sophia, và anh nghĩ rằng ông là một con người rất ít phạm sai lầm. Hãy ngẩng cao đầu, người yêu của anh! Tương lai thuộc về chúng ta! - Em tin là thế, Charles. Em yêu anh và em sẽ làm cho anh được hạnh phúc! Mắt cúi xuống cuốn sổ đen, nàng nói thêm khe khẽ: - Josephine tội nghiệp! Tôi cũng lặp lại theo nàng mấy từ đó. ... Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Quái Dị của tác giả Agatha Christie.
Kẻ Thù Bí Mật - Agatha Christie
Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Đấy là một lời chúc tụng rất hay, Jane, Julius Hersheimmer nói khi anh ta đưa cô em họ về Ritz trong chiếc Rolls - Royce. - Lời chúc tụng các nhà phiêu lưu trẻ à? - Không, lời chúc tụng em ấy chứ. Không một cô gái nào khác trên đời này có thể làm được những gì em đã làm. Em thật là tuyệt vời. - Em không cảm thấy tuyệt gì cả. Trong thâm tâm, em cảm thấy chán nản và cô đơn, và em nhớ tổ quốc. - Anh cũng đang định nói với em về điều đó. Anh đã nghe thấy ngài đại sứ chuyển tới em lời mời của vợ ông ta mời em đến chỗ họ. Đây không phải là một ý tồi, nhưng anh có một dự định khác. Jane, anh muốn em hãy trở thành vợ anh. Đừng nói "không" ngay và đừng lo sợ. Anh biết rằng em chưa thể yêu anh được. Nhưng anh, anh đã yêu em ngay từ khi anh nhìn thấy tấm ảnh của em. Và bây giờ khi đã biết em, đơn giản là anh phát điên lên vì em. Nếu em bằng lòng làm vợ anh, anh sẽ không làm cho em buồn. Anh sẽ để cho em thời gian cần thiết. Cũng có thể em sẽ chẳng bao giờ yêu anh. Nếu thế, anh sẽ trả lại tự do cho em. Nhưng anh muốn có quyền được bảo vệ và chăm sóc em. - Nhưng đấy lại chính là điều mà em mong ước - Cô gái trả lời buồn bã - Em muốn có ai đó bên cạnh em. Anh không thể tưởng tượng được em cảm thấy cô đơn đến thế nào đâu! - Ồ, có chứ! Vậy thì mọi chuyện đã xong. Và ngay ngày mai, anh sẽ đến gặp ngài Tổng giám mục để ông ấy cho chúng ta một ngoại lệ. - Ôi, Julius. - Anh không muốn thúc bách em, Jane. Nhưng hoãn đám cưới của chúng ta thì thật là vô nghĩa. Đừng lo. Anh không dám mong em yêu anh ngay tức khắc. Đúng lúc đó một bàn tay nhỏ luồn vào tay cậu: - Julius, em đã yêu anh rồi. Em đã yêu anh ngay tức khắc, trong xe ô tô, khi viên đạn bay sượt qua má anh. Vài phút sau cô gái trẻ thì thầm: - Em không biết Londres lắm, Julius, nhưng đường từ Savoy đến Ritz thật sự dài đến thế à? - Còn phụ thuộc vào đường đi mà người ta chọn. - Julius trả lời không chút bối rối - Chúng ta đã đi vòng qua công viên Regent’s Park. - Ôi, Julius, anh tài xế sẽ nghĩ gì? - Vì số tiền lương mà anh trả cho anh ta, anh ta thấy tốt nhất là không nghĩ gì cả! Em biết không Jane, anh đãi tiệc ở Sovoy chỉ có một mục đích là được đưa em về khách sạn. Anh không biết làm cách nào gặp riêng em để nói chuyện. Tuppence và em bám riết lấy nhau như hai con sam. Thêm một ngày nữa là Beresford và anh, bọn anh sẽ phát rồ mất! - Ồ, bởi vì anh ấy... - Phải rồi, như một thằng điên! - Em nghi ngờ điều đó, Jane nói thêm vẻ ưu tư. - Tại sao? - Bởi vì Tuppence không nói với em! - Thế thì em thắng anh rồi. - Julius kết luận. Jane chỉ cười. Trong khi đó, những nhà phiêu lưu trẻ, cứng nhắc như công lý, trịnh trọng quá đáng và rất không thoải mái đi về khách sạn Ritz trong một chiếc taxi, không hiểu tại sao cũng đi vòng qua công viên Regent’s Park. Một nụ cười ngượng ngùng khủng khiếp làm họ co người lại. Không nhận thấy điều gì đã xảy ra, tất cả có vẻ đã thay đổi. Họ câm lặng tê liệt. Tình bạn lâu năm dường như đã bay đi đâu mất. Tuppence mất công vô ích tìm điều gì để nói. Và Tommy cũng vậy. Căng thẳng và rụt rè, họ thậm chí tránh nhìn nhau. Cuối cùng, Tuppence cố gắng một cách tuyệt vọng. - Câu chuyện cũng khá hay phải không? - Cũng khá! Lại im lặng. - Tôi rất thích Julius. - Tuppence vô tình nói. Câu đó đã kích động Tommy: - Đừng có cưới cậu ta, cô nghe chưa? Tôi cấm cô đấy. - Ôi! - Tôi cấm tuyệt đối, rõ chưa? - Anh ấy có định cưới tôi đâu. Anh ấy chỉ đề nghị tôi vì lòng tốt thôi mà. - Tôi không dám chắc thế! - Tuy vậy, đấy là sự thật. Anh ấy phát điên lên vì Jane. Tôi chắc rằng vào lúc này, anh ấy cũng đang cầu hôn đấy. - Cô ấy rất hợp với cậu ta. - Tommy đáp lại giọng thấp xuống. - Cậu không thấy là cô ấy đẹp nhất trong số các cô gái ở Londres à? - Rõ ràng rồi. - Nhưng không gì có giá bằng tiền phải không, Tommy? - Tuppence nói vờ ngây thơ. - Ôi, Tuppence, thôi đi, cậu muốn... - Tôi rất thích ông bác cậu, Tommy ạ. Cô gái trẻ nói thêm để đánh lạc hướng. À này, cậu làm gì? Cậu chấp nhận lời mời của Carter làm công chức hay cậu chọn đề nghị của Julius, chỗ làm béo bở trong một trang trại ở Mỹ? - Lời đề nghị của Hersheimmer rất có lợi cho tớ. Thế nhưng tớ sẽ ở lại đất nước thân yêu, cổ kính của chúng ta. Vả lại, cậu sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi ở Londres. - Tớ chả biết tớ sẽ làm gì ở đó. - Tớ thì biết đấy. - Có cả tiền nữa đấy. - Tuppence nhận xét giọng ưu tư và liếc nhìn chàng trai. - Tiền nào? - Carter nói rằng mỗi đứa chúng ta sẽ được nhận một tấm séc. - Cậu đã hỏi ông ấy trị giá bao nhiêu chưa? - Tommy kêu lên. - Rồi. Nhưng tớ không nói cho cậu đâu. - Tuppence, cậu thật quá đáng! - Chuyện vừa rồi thật là vui, phải không? - Tớ hy vọng rằng chúng ta sẽ còn nhiều cuộc phiêu lưu, mạo hiểm nữa... - Tuppence, cậu thật tham lam. Lúc này, tớ thấy chán rồi. - Việc mua sắm cũng khá thú vị đây - Tuppence tư lự nói - Xem nào, mua đồ gỗ cổ này, những tấm thảm phương Đông này, màn cửa băng lụa, một cái bàn đánh véc-ni cho phòng ăn và một cái đi-văng với hàng đống gối dựa! - Khoan đã, một phút thôi! Để làm gì cơ chứ? - Để dùng cho một ngôi nhà... nhưng tớ thiên về một căn hộ hơn. - Căn hộ nào? - Cậu tưởng rằng tớ ngại không dám nói ra à? Không, điều đó không làm tớ thấy xấu hố chút nào. Cho căn hộ của chúng ta. - Ôi, em yêu quý! - Tommy thốt lên và ôm cô vào lòng - Anh đã quyết định bắt chính em phải nói ra điều đó! Anh thấy cần phải trả đũa cái cách mà em đã mắng anh mỗi lần anh muốn tỏ ra tình cảm một chút! Tuppence quay mặt về phía anh: - Tommy, anh vẫn chưa thật sự hỏi em. Cái mà bà nội của chúng ta gọi là "lời cầu hôn ấy mà". Nhưng sau khi nghe chàng ngốc Julius nói điều đó, em thấy nên miễn cho anh thì hơn. - Đằng nào thì em cũng chẳng có thể làm gì khác ngoài lấy anh, vậy thì cần gì nào? - Sẽ rất tuyệt! - Tuppence đáp lời - Hôn nhân được coi là một nơi trú ẩn, lánh thân, đỉnh cao của hạnh phúc hoặc của sự gò bó và còn nhiều điều khác nữa. Nhưng em, em biết rằng nó là... - Là gì? - Một cuộc phiêu lưu, mạo hiểm. - Và thậm chí là một cuộc phiêu lưu thiêng liêng! - Tommy kết luận. Mời các bạn đón đọc Kẻ Thù Bí Mật của tác giả Agatha Christie.