Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiếc Bản Lề Cong

Nếu Người rỗng khiến óc suy luận của người đọc bị những nút thắt lắt léo gút chặt từng hồi thì Chiếc bản lề cong lại mở ra một vụ án mạng li kì phảng phất nét huyền bí. Ngày nọ, tại một điền trang yên bình do tòng nam tước John Farnleigh làm chủ, khách lạ bỗng xuất hiện tự xưng là John Farnleigh thật, tố cáo trang chủ mạo danh. Khi thật giả chưa phân thì một trong hai người chết một cách bí hiểm. Bốn bề không người nhưng trên cổ nạn nhân lại in hằn ba nhát dao đoạt mạng, cái chết kì lạ này dấy lên nhiều nghi hoặc cho các nhà điều tra. Ngoài yếu tố trinh thám, cốt truyện còn đan xen những tình tiết kì bí như người máy cổ biết cử động, tín đồ Quỷ Đạo đi dự hội lúc nửa đêm… khiến những người duy lý nhất trong một thoáng giây nào đó cũng phải chùng lòng. Trong vụ án này ai chân ai giả? Liệu có tồn tại một kẻ giết người hay phải quy tội ác vào phạm trù siêu nhiên? Khúc mắc chất chồng dẫn dắt độc giả đến với những thủ pháp bất ngờ và suy luận tài tình. Không những thế, thành công của Chiếc bản lề cong còn đến từ tính song hành của quá khứ và thực tại, của tội lỗi và lương tri bao trùm tác phẩm. *** “Đã là bí mật thì phải càng ít người biết càng tốt. Nếu có sẻ chia, thì chỉ nên sẽ chia trong phạm vi rất nhỏ mà thôi. Đông đến chục người không khỏi mất đi thú vị” Tôi đã quyết định biên một bài riêng cho cuốn này của John Dickson Carr, bởi lẽ sự thất vọng quá lớn với phần biên dịch của cuốn này. Dẫu biết, để in ra một cuốn sách là công sức của rất nhiều, mỗi lời chê bai đều phải cẩn thận vì có thể mình đã không hiểu hết lý do họ biên dịch như thế. Nhưng với tư cách là độc giả, chỉ là độc giả đơn thuần thì tôi nghĩ những điều tôi chê ở đây không phải không nên.   John Dickson Carr là ông hoàng mật thất, truyện của ông thường đặt ra những vụ án mà nếu nhìn qua đều là không thể thực hiện được. Chiếc bản lề cong bắt nguồn với câu chuyện của John Farnleigh, tòng nam tước và là chủ một điền trang yên bình. Một ngày nọ, người khách lạ bỗng dưng xuất hiện và tố cáo trang chủ hiện tại là người mạo danh. Khi tất cả đang nằm trong vòng nghi vấn thì một vụ án mạng xảy ra. Và dĩ nhiên, theo phong cách của John Dickson Carr, nơi án mạng xảy ra lại là nơi không thể có cách nghĩ nào ngoài cho rằng nạn nhân tự gây ra. Thế nhưng tất cả nhân chứng không nghĩ ra được tại sao nạn nhân lại chọn phương án đó, trong khi chỉ còn chưa đến 30 phút nữa là sự thật sẽ được sáng tỏ. Trong quá trình giải mã vụ án, những bí ẩn khác như Quỷ đạo, con người máy, những cái chết bí ẩn trước đó lại có liên quan mật thiết đến điền trang với vẻ bề ngoài bình yên đấy. Đây là một cuốn truyện với nội dung rất hay, xứng đáng là cuốn trinh thám của năm. Quả thực nếu không vì những câu dịch ngô nghê theo kiểu “after garden là sau vườn”, những đoạn văn dịch khô khan, và lối sử dụng ngôn ngữ không phù hợp khiến dù không muốn tôi vẫn phải nói đây là bản dịch rất tệ. Thứ nhất, tôi không khó chịu gì việc dùng những ngôn từ địa phương trong các bản dịch. Nhưng nó phải phù hợp. Cuốn Chiếc bản lề cong là 1 trong 3 cuốn thuộc series về Tiến sĩ Fell mà Đông A chọn dịch lần này. Trong khi 2 cuốn kia, không hề có 1 tiếng lóng nào, nhưng ở Chiếc bản lề cong, những từ như: hỉ, chi…xuất hiện quá nhiều, trong những đoạn hội thoại của các nhân vật. Điều này trái ngược hoàn toàn với phong cách của Tiến sĩ Fell ở trong Người rỗng và Vụ án viên nhộng xanh. Thứ hai, việc một cuốn sách sử dụng Ổng – ảnh khiến tôi khá khó chịu. Nên nhớ, với tiếng Anh chúng ta chỉ dùng 2 ngôi trong xưng hộ You – I. Việc dịch như nào là do dịch giả, và lạm dụng ngôn ngữ nói – thay vì ngôn ngữ viết khiến tôi cảm giác đang đọc một bản dịch từ Google Translate, tôi không thấy được sự nhiệt tình, cũng như sự tận tâm trong việc xuất bản một cuốn sách, đặc biệt lại là một cuốn trinh thám nổi tiếng của John Dickson Carr. Thứ ba, những đoạn văn được dịch càng làm tôi thấy người dịch không chỉn chu. Như “trên đường, ánh nắng chiếu lung linh trên rừng kính máy ảnh. Bên cạnh đàn ông, không thiếu những đàn bà.” “Giữa hàng lố đàn ông, Madeline quả là của hiếm, đem đến luồng gió thanh tân” “Trưa hôm sau, khi mưa ấm áp rơi, và mây đen phủ kín bầu trời thôn dã….Ngồi ghế dựa, ông thở nhẹ phì phò…” Tôi không hình dung nổi tại sao 1 cuốn sách lại có thể dùng những từ như lố đàn ông, của hiếm, mưa ấm áp, rồi đã thở nhẹ thì sao còn phì phò, với tôi…đây là lỗi ngữ pháp, và nó càng thể hiện việc thiếu trách nhiệm trong công việc. Tôi từng thấy thất vọng về những bản dịch sách của Simenon, tôi cũng từng thất vọng khi đọc Bắt trẻ đồng xanh. Nhưng đây là lần tôi bức bối nhất, tôi cảm thấy không chỉ là thất vọng mà chán chường. Một cuốn sách được làm ra, lẽ độc giả sẽ thấy hạnh phúc khi cầm trong tay, và được đắm chìm trong một cuốn sách hay thì sẽ thấy đời đẹp biết mấy. Thế nhưng khi cuốn sách hay được biên dịch không cẩn thận, tôi thấy…trong cuộc sống này, chẳng nhẽ lúc nào cũng tồn tại những điều đáng buồn đến thế chăng :”< Twine Aquarius *** Chiếc bản lề cong – John Dickson Carr Trinh thám là một trong những thể loại sách gây hứng thú cho người đọc nhất. Nó bắt người đọc phải lần mò từ những dấu vết nhỏ nhoi và từng chi tiết tưởng như không liên quan, để ghép lại tạo ra một bức chân dung hung thủ của vụ án. Trên thế giới đã có nhiều tác giả nổi tiếng, thành công nhờ những câu chuyện điều tra phá án ly kỳ của mình. Điển hình của thể loại này là Edgar Allan Poe – người tiên phong của nền trinh thám, Sir Conan Doyle với loạt truyện về thám tử Sherlock Holmes, nữ hoàng trinh thám Dame Agatha Christie, hay người được mệnh danh là “Ông hoàng mật thất”, nổi tiếng với các vụ án trong phòng kín – John Dickson Carr. CHIẾC BẢN LỀ CONG – JOHN DICKSON CARR Tác giả John Dickson Carr là tiểu thuyết gia trinh thám người Mỹ, cũng là một trong những gương mặt sáng giá nhất trong thời Kỷ Nguyên Vàng của thể loại trinh thám. Ông có nhiều tác phẩm làm nên tên tuổi của mình như “Người rỗng”, “Vụ án viên nhộng xanh”, hay “Chiếc bản lề cong” – cuốn sách mà mình muốn giới thiệu tới các bạn ngày hôm nay. “Chiếc bản lề cong” là một trong ba cuốn trinh thám cổ điển của tác giả John Dickson Carr mà Đông A mới cho xuất bản. Truyện thuộc thể loại “án mạng trong phòng kín” (locked-room mystery), nơi tội ác được thi hành bằng những thủ pháp tưởng như bất khả thi. Phía cảnh sát thì đau đầu phá án còn người đọc lại thấy đây là một trong những chủ đề hay và thú vị nhất. Bối cảnh câu chuyện được đặt ở địa hạt Kent, miền đông nam nước Anh. Tại đây có vị tòng nam tước John Farnleigh giàu có – người đang sống yên bình bên người vợ của mình là Molly thì bỗng nhiên dính phải vụ tranh chấp khó nhằn. Một người đàn ông lạ bước đến làng Mallingford nơi ông đang ở, tự xưng là John Farnleigh thật và yêu cầu trả lại vị trí thừa kế của mình trong dòng họ. Lạ một điều rằng cả hai người khi so với nhau lại chẳng hề có chung đặc điểm nào từ ngoại hình đến tính cách. Hai vị này đều mang vẻ tự tin, chắc chắn mình là chủ của điền trang Farnleigh, khiến cho những người chứng kiến đau đầu, không phân biệt nổi thật giả. Tranh chấp đang dâng đến cao trào thì một trong hai người bỗng chết một cách dã man. Hiện trường vụ án không thể kết luận là bị sát hại vì nạn nhân hoàn toàn chỉ có một mình, cũng không thể nói hiện trường một vụ tự tử vì có quá nhiều điều đáng lưu tâm. Ngoài ra, án mạng còn liên quan tới các yếu tố tâm linh, rùng rợn về nhóm Quỷ Đạo với tục thờ quỷ Satan, con người máy biết cử động, hay cả vụ đắm tàu Titanic năm 1912. Vụ án này được “chăm lo” bởi tiến sĩ Fell – nhân vật chính trong nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách của John Dickson Carr. Điều mình ấn tượng nhất trong mọi cuốn trinh thám, cũng như nhiều người khác, là phần phá án ở cuối truyện. Plot-twist của cuốn này quá ổn. Đọc đến đoạn tưởng không thể bị lừa được nữa mà vẫn bị tác giả đẩy cho ngã ngửa. Câu chuyện được bao trùm bởi bí ẩn, điều này lại liên can tới điều kia. Nhưng may quá, tác giả không ôm đồm mọi thắc mắc đến cuối cùng mới chịu giải thích mà lần lượt được nhân vật khám phá ra trong quá trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi lớn nhất: Ai giết ngài John Farnleigh? Hệ thống nhân vật được xây dựng ổn, mỗi người một tính cách, không bị lẫn lộn. Truyện được bắt đầu bằng góc nhìn của Page, một tác giả viết sách. Chúng ta sẽ theo dõi câu chuyện từ đầu đến cuối bằng cách đi theo nhân vật này. Có lẽ vì các nhân vật đều được xây dựng tốt, thành ra tiến sĩ Fell – thám tử chính của câu chuyện – hiện lên khá mờ nhạt ở phần đầu và giữa truyện. Ông được miêu tả là một người to lớn, cảm giác choán hết cả không gian khi ngồi trong phòng của Page. Phần về tính cách của tiến sĩ lại không được miêu tả kỹ, chỉ nhận thấy ông có bộ óc suy luận siêu phàm cùng khả năng soi các chi tiết liên quan đến vụ án, kể cả ánh mắt của một người cũng khiến ông biết được chân tướng. Truyện mang không khí khá rùng rợn nhờ sự xuất hiện của các yếu tố độc dược, ma quái bùa chú, và sự bí ẩn của con người máy biết cử động. Độ hù dọa của truyện cũng khá nhẹ nên độc giả không cần phải lo lắng quá. Trong quá trình đi tìm sự thật, có nhiều sự kiện xảy ra, vừa rời rạc vừa móc nối với nhau khiến khán giả hơi rối nhưng đến cuối cùng vẫn được tiến sĩ Fell xâu chuỗi lại một cách hợp lý. Chiếc bản lề cong – tên cuốn sách – tưởng chẳng liên quan gì nhưng lại là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Tất cả các bí ẩn đều được giải thích một cách thuyết phục khiến người đọc thỏa mãn. Tóm lại, đây là một cuốn sách khá phù hợp cho những bạn yêu thích trinh thám cổ điển, thích phá án đơn thuần và mong muốn có một chút rùng rợn của bùa chú, ma thuật, những lần di chuyển dị thường của con người máy, hay thích thú trước sự liên quan đến một trong những sự kiện lớn của lịch sử như vụ đắm tàu Titanic năm 1912. Dieu Linh Nguyen *** CHIẾC BẢN LỀ CONG Chiếc Bản Lề Cong Tác giả: John Dickson Carr Dịch giả: Nguyễn Minh John Dickson Carr hiện đã được Đông A xuất bản 3 cuốn, và đây là cuốn đầu tiên tôi lựa chọn để đọc. Tôi đọc tác phẩm này mà không tìm hiểu quá nhiều về cuốn sách, chỉ biết rằng John Dickson Carr là ông hoàng của trinh thám mật thất, những vụ án không tưởng. Và quả nhiên, vụ án trong Chiếc Bản Lề Cong đúng là không tưởng. Một người đang sống sờ sờ bên mé sông, đột nhiên bị cắt cổ chết mà không ai nhìn thấy hung thủ, cũng không ai thấy được có người nào tiếp cận nạn nhân. Vậy nhưng, giả thiết nạn nhân tự vẫn có quá nhiều điểm bất hợp lý, lung lay dữ dội dù cho có nhiều nhân chứng cùng khẳng định không thấy ai tiếp cận nạn nhân. Cùng với đó là cuộc chiến hấp dẫn để tìm ra ai mới là John Fernleigh thật, những bí ẩn xoay quanh người máy biết cử động cùng hội kín chết người. Tôi không biết có phải là do vụ án lần này khá phức tạp rắc rối và cần rất nhiều thời gian để kể những câu chuyện trong quá khứ và đủ thứ bí ẩn ở hiện tại hay không, mà tiến sĩ Fell – thám tử chính của câu chuyện – có cá tính hơi mờ nhạt. Đỉnh cao của ông là ở khúc cuối với màn suy luận lật lại đầy bất ngờ, không thể tưởng tượng nổi. Cá tính của các nghi can trong cuốn này không quá mờ nhạt, đủ để nhớ mặt đặt tên từng người, nhưng không có ai thú vị như trong các tác phẩm của Agatha. Bí ẩn thì nhiều nhưng giải quyết được triệt để mặc dù nó khiến bí ẩn chính hơi mờ đi một chút. Nhưng bởi đây là lần đầu tiên tôi đọc một cuốn trinh thám với cái kết không tưởng có 1 không 2 kiểu như thế này, ấn tượng vẫn rất đậm nét. Cái tên Chiếc Bản Lề Cong tưởng không liên quan mà lại liên quan không tưởng, con người máy thì có tác dụng hù dọa rất tốt, làm tôi nhiều phen sởn gai ốc khi đọc trong đêm. Chốt lại thì Chiếc Bản Lề Cong đủ làm hài lòng các fan trinh thám cổ điển và khơi dậy hứng thú tìm đọc John Dickson Carr nhiều hơn. Nam Tran *** Tại Kent, ngồi cạnh cửa sổ hướng ra vườn, bên bàn viết bày bừa đầy sách vở, Brian Page cảm thấy ngán ngẩm, chẳng muốn làm việc. Nắng chiều tháng bảy chiếu qua khung cửa, nhuộm vàng sàn nhà. Cái nóng mơ màng làm dậy lên mùi sách và mùi gỗ, cả hai đều cũ kĩ như nhau. Phía trại táo sau vườn, một chú ong bắp cày lởn vởn bay vào. Page vẫn ngồi yên, chỉ khẽ xua nó đi. Bên kia vườn nhà Page, quãng trên quán trọ Bò Và Đồ Tể, con đường uốn khúc trong khoảng một phần tư dặm, giữa những nông trại trồng cây ăn trái, băng ngang cổng chính điền trang Farnleigh Close. Từ chỗ Page ngồi, có thể thấy cụm ống khói của điền trang thanh mảnh nhô lên, lẩn khuất sau những tàng cây. Ra khỏi điền trang, đường bò lên dốc, vắt qua cánh rừng mang cái tên đầy thơ mộng là Rèm Treo. Đất vùng Kent vốn bằng phẳng, pha màu xanh tái, nâu nâu, vốn hiếm khi rực rỡ, thế mà giờ đây trông chói lóa. Ngay các ống khói gạch của điền trang cũng như nhấp nhoáng sắc màu. Từ điền trang, xe Nathaniel Burrows chạy dọc theo đường, tốc độ chậm song phát ra âm thanh ầm ĩ, đứng xa tít cũng nghe thấy. Cái làng Mallingford sao lắm chuyện thế, Brian Page ngồi lười nhớ lại. Lắm chuyện thật chứ chẳng chơi, có bằng chứng hẳn hoi. Mới hè rồi, cô Daly ngực bự bị một gã lang thang bóp cổ chết, đoạn chính gã ấy cũng chết một cách rất li kì, khi đang cố vượt đường ray. Và tháng bảy này, vừa tuần trước thôi, hai người lạ bỗng xuất hiện tại quán Bò Và Đồ Tể trong hai ngày liên tiếp. Một người là nghệ sĩ. Người kia (chả biết nghe ai nói) là thám tử. Cuối cùng đến chuyện hôm nay: Bạn của Page, Nathaniel Burrows, luật sư khu Maidstone, cứ chạy tới chạy lui đầy bí ẩn. Không ai biết rõ, nhưng dường như tại Farnleigh Close xảy ra sự không hay. Trước đó, như thường lệ, Page nghỉ tay vào giấc trưa, ghé Bò Và Đồ Tể làm một vại bia trước khi dùng bữa. Nhưng ngồi trong quán mãi chẳng nghe thấy ai đồn thổi gì. Thật bất thường! Page ngáp dài, đẩy sách sang bên. Chuyện gì đang khuấy động Farnleigh Close nhỉ? Từ đời vua James Đệ Nhất, thuở Inigo Jonesxây nên điền trang cho vị tòng nam tước đầu tiên, bên ấy có mấy khi động tĩnh đâu. Dòng họ Farnleigh truyền mãi lâu dài đến ngày nay, đời đời đều ở đấy. Ngài John Farnleigh, vị tòng nam tước xứ Mallingford và Soane hiện tại, kế thừa từ cha ông một tài sản lớn và ruộng đất phì nhiêu. Ngài Farnleigh da ngăm, tính hơi thất thường. Vợ ngài là Molly thì thẳng thắn. Page quý mến cả hai. Cuộc sống nơi đây phù hợp với Farnleigh, nên ngài sung sức lắm. Quả tình, trông ngài là biết ngay điền chủ, dù bấy lâu nay ngài sống ở xa, gần đây mới quay về. Tại Farnleigh Close, ngài cũng bệ vệ, thông thường như mọi ông chủ khác, nhưng thực sự, đời ngài vốn lãng mạn, li kì như tiểu thuyết, khiến Page phải mê. Li kì từ chuyến hải hành đầu tiên, cho đến đám cưới với cô Molly Bishop hơn một năm trước. Những chuyện ấy càng chứng tỏ làng Mallingford là nơi thú vị lạ thường. Hết ngáp và cười vu vơ, Page cầm bút lên. Trời ạ, lại phải làm việc rồi! Page nhìn xuống tác phẩm dang dở bên dưới khuỷu tay. Cuốn Cuộc đời các chánh thẩm nước Anh này, anh muốn nó vừa mang tính hàn lâm, vừa hấp dẫn đại chúng. Đến nay, việc viết lách diễn ra tốt đẹp, không thể mong gì hơn. Page đang viết đến ngài Matthew Hale. Thôi thì những ngoại truyện, những việc bên lề cứ chen nhau tràn vào trong sách. Mà chúng tràn vào chẳng qua vì Page không muốn đuổi chúng đi. Nói thẳng ra, Page chẳng mong sẽ hoàn thành được cuốn sách. Ngay hồi còn học luật, anh đã có thái độ “tưng tửng” như vậy. Anh quá nhác, không thể viết sách theo lối học thuật chân chính, nhưng bởi thích tìm tòi và dẫu sao cũng là thức giả, nên bỏ hẳn học thuật đi thì lại không an lòng. Soạn xong sách hay không chả quan trọng. Nhưng Page tự răn mình phải làm việc, rồi cứ thế thoải mái sục sạo vào đủ các ngõ ngách mê li của chủ đề. Cuốn sách bên cạnh Page đề dòng chữ: Phiên xử phù thủy, tòa lưu động, tại Bury St. Edmonds, hạt Suffolk, diễn ra ngày 10 tháng 3 năm 1664, trước sự hiện diện của ngài Matthew Hale, hiệp sĩ, chánh thẩm Pháp viện Tài chánh Hoàng gia in cho D. Brown, J. Walthoe, và M. Wotton, 1718. Đấy là một ngõ ngách Page vừa dạo qua. Dĩ nhiên, ngài Matthew Hale chẳng dính líu bao nhiêu tới phù thủy. Song điều đó chẳng ngăn Page viết tới nửa chương nếu cảm thấy thích. Thở một hơi khoan khoái, Page lôi xuống từ kệ một cuốn sách đã sờn của Glanvill. Vừa bắt đầu săm soi sách, anh nghe tiếng bước chân trong vườn, rồi tiếng gọi bên ngoài cửa sổ. Chính là Nathaniel Burrows, tay đang đung đưa cặp tài liệu, làm một cử chỉ chẳng ra dáng luật sư tí nào! Mời các bạn đón đọc Chiếc Bản Lề Cong của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ma Sói - Fred Vargas
Thứ Ba, bốn con cừu bị cắn đứt họng trên đỉnh Ventebrune, dãy núi Alpes. Thứ Năm, chín con tại vùng Pierrefort. Một con sói đơn lẻ? Xảo quyệt, tàn bạo, mông kéo lê trên cặp chân xám. Con Vật vùng Mercantour. Nhưng tại làng Saint-Victor-du-Mont, không ai tin là do một Con Vật cả. Đó không phải là một Con Vật. Đó là một con người. Một con ma sói. Suzanne nằm thẳng trên lớp rơm vấy phân, mặt ngửa lên, hai tay dang rộng, váy ngủ tốc lên đến đầu gối. Một vết thương kinh khủng trên cuống họng làm một dòng máu trào ra. Tại Paris, trước máy thu hình, Jean-Baptiste Adamsberg dõi theo tin tức về con thú vùng Mercantour. Anh nhắm mắt lại. Kỉ niệm tuổi thơ tại Pyrenees, giọng nói thì thầm của những người già...  Như những đốm lửa, con trai ơi, những cặp mắt sói trong đêm đen, chúng hệt những đốm lửa. *** Sinh năm 1957 tại Paris, có mẹ là nhà hóa học và bố là một nhà trí thức không bao giờ xuất bản tác phẩm của mình, cô bé Fred (thu gọn từ cái tên Frédérique) nhanh chóng thể hiện rõ những gì được thừa hưởng: đầu óc toán học của mẹ và khiếu nghệ thuật của cha.   Tất cả những phẩm chất này giúp Fred trở thành một nhà khảo cổ học xuất sắc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia CNRS. Tuy nhiên, bà vẫn cảm thấy nhu cầu thể hiện khuynh hướng nghệ thuật thừa hưởng từ cha và bắt đầu sáng tác truyện tranh, chơi accordeon.  Vì cảm thấy mình không đủ tài năng để trở thành nhạc công, Fred Vargas tìm thấy “niềm vui” khi viết tiểu thuyết trinh thám. Bà bắt tay vào viết với bút danh Fred Vargas - lấy ý tưởng từ bút danh Jo Vargas của cô em gái sinh đôi. Tiểu thuyết đầu tay của Fred Vargas được nhận giải thưởng cho Tiểu thuyết trinh thám tại Festival Cognac. Tiểu thuyết thứ hai đánh dấu một bước quan trọng trong sự nghiệp của Vargas. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên được xuất bản tại Viviane Hamy, một nhà xuất bản trẻ mà cho tới giờ Vargas vẫn chung thủy gắn bó. Đây cũng là lần đầu nhân vật cảnh sát trưởng Jean-Baptiste Adamsberg – “nhân vật hộ mệnh” của Fred Vargas, xuất hiện. Bà còn tiếp tục theo đuổi các cuộc điều tra của Adamsberg trong nhiều tác phẩm sau đó.  Để dung hòa giữa công việc của nhà khảo cổ học và nhà văn, Fred Vargas có cách làm việc riêng của mình. Những ý tưởng chính hình thành trong tâm trí bà trong vòng một năm, sau đó trí nhớ lựa chọn những ý tưởng tốt nhất, và ngay khi câu chuyện đã khá ăn sâu vào ký ức, bà tái hiện nó dưới ngòi bút của mình liền một mạch trong vòng ba tuần, vào kỳ nghỉ. Sau đó đến giai đoạn sửa chữa. Một câu, một từ, một đoạn không ổn và thế là cả một trang giấy có thể được thay đổi. Sự nhạy cảm với các chi tiết, phẩm chất của một nhà khảo cổ học cùng với lần đọc lại của người em gái sinh đôi Jo Vargas đã giúp cho bản thảo của Fred Vargas có thể được đem thẳng tới nhà in, theo lời của biên tập viên NXB Viviane Hamy. Các tiểu thuyết của bà tiếp nối nhau và lượng sách bán ra ngày một tăng (đã vượt con số 4,5 triệu bản). Trước thành công rực rỡ của mình (báo chí gọi bà là Nữ hoàng tiểu thuyết trinh thám của Pháp), nữ tác giả lại ngày càng ít xuất hiện trước công chúng, bà không thích những gì thuộc xã hội thượng lưu. Fred Vargas tiếp tục lối sống giản dị và dành khoảng thời gian rảnh rỗi ít ỏi cho gia đình: cậu con trai và người em gái sinh đôi mà bà coi là một nửa của mình. Điều khiến Fred Vargas lo lắng nhất đó là, hoàn cảnh sẽ biến một nhà nghiên cứu trầm lặng thành người lãnh đạo và biến một tác giả tiểu thuyết trinh thám thành người nổi tiếng. Giải thưởng văn học, doanh thu bán sách khổng lồ - tất cả đều không khiến bà quan tâm.  Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Dans les bois éternels (Trong những cánh rừng vĩnh cửu); L'Homme à l'envers (Ma sói);  Sous les vents de Neptune (Dưới những ngọn gió biển). Mời các bạn đón đọc Ma Sói của tác giả Fred Vargas.
Âm Thanh Của Em Là Thế Giới Của Anh - Thanh Phong Ngữ
Lộ Miểu không cẩn thận qua đêm một lần với Kiều Trạch, chỉ là việc bất ngờ thôi, sau lại cả hai đều bận công việc riêng của mình, hơn nửa tháng không liên lạc, lúc gặp lại là trong buổi tiệc sinh nhật của con gái Thẩm Ngộ. Hai người ngồi đối diện nhau, nhìn mọi người huyên náo, chẳng ai lên tiếng. Suốt cả đêm, Kiều Trạch chỉ nói với cô đúng một câu, “đưa ly nước cho tôi.”. Lộ Miểu chậm rãi từ không yên trở nên thản nhiên, về sau mới hay, có một câu, gọi là “về sau tính sổ”. *** Cô vẫn chưa tỉnh, tác dụng của thuốc ngủ khiến cô say sưa giấc mộng. Kiều Trạch không gọi cô dậy, sau khi lẳng lặng nhìn cô một hồi, liền chuyển sự chú ý sang máy tính trong phòng. Kiều Trạch bật máy tính lên, mở lịch sử trình duyệt ra, thấy số weibo của cô, quả đúng là tài khoản mà anh đã gửi tin nhắn cá nhân. Anh nhớ lại bình luận kia của cô, cô vẫn chưa thể nào thoát ra nổi. Cô chưa thoát ra, thì lúc này anh xuất hiện chỉ gia tăng áp lực cho cô. Lộ Miểu ngủ một đêm rất say, từ rất lâu rồi, đây là lần đầu tiên cô thật sự chìm vào giấc ngủ, mặc dù phải nhờ vào thuốc ngủ. Hơn ba tháng qua, cô đã đến rất nhiều nơi, không có mục tiêu, cũng chẳng có phương hướng, đi đến nơi đâu thì là nơi đó. Nói là lưu lạc, không bằng nói là trục xuất. Cô như lạc vào đường đến Tây Tạng, tương truyền đó là đường đi nguy hiểm gian nan nhất, dọc đường hoang vu, chốn không người kéo dài mấy trăm cây số vắt ngang qua đó, lại thêm con mương người chết ai nghe thấy thôi cũng biến sắc. Cô không biết là mình sẽ bị lạc ở chốn không người không thoát ra được, hay là ngủ mê trong mương người chết không dậy nổi, hay là, may mắn sống sót. Bất luận là kết cục thế nào, Lộ Miểu nghĩ mình sẽ có thể thản nhiên đón nhận. Cô không dám tùy tiện kết thúc sinh mạng, cũng không biết phải thoát ra khỏi khốn khổ này thế nào, số phận đã đẩy cô đi đến đây, cô chỉ có thể mặc mình cho vận mệnh. Hôm rời khỏi bệnh viện đó, một mình cô ngồi bên đập nước một ngày một đêm. ... Mời các bạn đón đọc Âm Thanh Của Em Là Thế Giới Của Anh của tác giả Thanh Phong Ngữ.
Lễ Tế Mùa Xuân - Lục Thu Trà
Năm Thiên Hán thứ nhất, Vu Lăng Quỳ - một thiếu nữ quý tộc ở thành Trường An lần đầu tới thăm Vân Mộng Trạch, thế rồi những quan điểm mà nàng đưa ra đã khiến gia tộc họ Quan từng chấp chưởng việc tế bái quốc gia của nước Sở - phải chấn động. Vì nối tiếp quy củ đời đời, là một trưởng nữ - Vu Lăng Quỳ phải trở thành “Vu nhi” chủ trì việc tế bái trong gia tộc, cả đời không được lấy chồng. Trong chuyến đi lần này, quan hệ giữa nàng và ái nữ Quan Lộ Thân của gia tộc họ Quan luôn căng thẳng bất hòa. Trong khi đó, những vụ án mạng đột ngột xảy ra liên tiếp khiến Quan Lộ Thân càng thêm nghi ngờ - phải chăng kẻ ngoại tộc Vu Lăng Quỳ chính là ngọn nguồn của mọi cơn ác mộng. Rốt cuộc ai mới là hung thủ thực sự đứng sau tất cả? Rốt cuộc động cơ của hung thủ là gì? Liệu động cơ ấy có liên quan tới việc tế bái thờ phụng, hay có liên hệ với vụ huyết án của gia tộc họ Quan bốn năm về trước? Đánh cược bằng danh dự của cả gia tộc mình, Vu Lăng Quỳ quyết tâm tìm ra kẻ thủ ác… *** Ngày 10 tháng 7 năm 2012, khi cuốn tiểu thuyết này hoàn thành bản thảo, tôi liền noi theo lệ cũ trong Cảo Cánh Thuyết Kệ thuộc Biệt truyện Liễu Như Thị mà làm ba bài tuyệt cú. Khi ấy tôi cứ sợ rằng tám mươi bốn chữ này sẽ hóa thành lời tiên tri vào một ngày nào đó, nên không dám mạnh miệng mà cũng chẳng dám nói gở. Thực ra từ khi bắt đầu lên ý tưởng cho cuốn tiểu thuyết này vào năm 2010, tôi đã biết rõ rằng nó nhất định sẽ khó chào đời hơn các cuốn tiểu thuyết khác rất nhiều - cụm từ “chào đời” ở đây vừa chỉ chuyện sáng tác, vừa mang hàm ý về việc xuất bản - Dù sao đây cũng là tác phẩm chỉ tôi mới có thể hoàn thành, mà tôi lại là một người lười biếng, hay mất tập trung lại còn khá kỳ quặc. Chỉ tôi mới có thể viết ra một cuốn tiểu thuyết như vậy - thoạt nghe thì như một lời tự thuật cực kỳ kiêu ngạo. Nhưng may mà khi đọc được câu này, chắc là độc giả đã đọc hơn một trăm nghìn chữ trước đó rồi, nên hẳn là sẽ không hiểu lầm ý tôi. Tôi không tin trên đời này còn người thứ hai có hứng thú kỳ quặc và kết cấu tri thức tương đồng với mình, vậy nên tôi mới tự phụ tuyên bố rằng trên đời này sẽ không còn cuốn tiểu thuyết nào giống như Lễ tế mùa xuân nữa. Bỏ chút công sức tìm hiểu Hán Thư* và các loại Kinh, lại có chút hứng thú với triết học phương Tây, bên cạnh đó còn tôn thờ tác phẩm của Shinzo Mitsuda và Yutaka Maya như những nguyên tắc tối cao của tiểu thuyết trinh thám, và điểm cuối cùng – cũng là điểm mang tính quyết định và tính hủy diệt – một kẻ cuồng tín với Cổ điển học và Bản cách** cổ điển lại trót bán linh hồn mình cho văn hóa A.C.G*** Nhật Bản. Nếu cõi đời này còn có người thứ hai vô dụng như tôi, vậy người đó chính là phân thân (Doppelganger) của tôi, chắc chắn sẽ trở thành tri kỷ hoặc kẻ thù không đội trời chung suốt đời với tôi. * Một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. ** Một trường phái tiểu thuyết trinh thám, chú trọng tính logic để phá giải vấn đề, hoàn toàn tương phản với trường phái xã hội chú trọng tả thực. Trinh thám bản cách không chú trọng tả thực mà đi sâu vào tình tiết ly kỳ và quỷ kế thâm sâu, qua suy luận logic để triển khai tình tiết. Thường có tình tiết giết người trong phòng kín hoặc giết người giữa đảo biệt lập. Phái Bản cách có thể thỏa mãn những độc giả coi việc giải câu đố như thú vui, thường để độc giả và thám tử cùng đứng trên một bình diện, nắm giữ lượng manh mối như nhau, thử thách trí thông minh của độc giả, để xem họ có thể đưa ra lời giải đáp như thám tử hay không. Bởi vậy đặc trưng của trinh thám bản cách là chú trọng tính logic và tính công bằng. (Theo baike) *** A.C.G là từ viết tắt chỉ Anime, Comics và Games Nhật Bản. Cũng vì cuốn tiểu thuyết này in đậm dấu ấn cá nhân nên những điều tôi muốn biểu đạt đã hiển hiện hết trong chính văn, thực ra chẳng cần viết lời cuối sách làm gì. Có điều tự tôi cũng biết người khác không thể hiểu nổi tại sao tôi lại đặt tên cho cuốn tiểu thuyết này là Lễ tế mùa xuân* (tức Nguyên niên xuân chi tế), bởi vậy tôi phải giải thích rõ. * Tên gốc theo Hán Việt của tiểu thuyết Lễ tế mùa xuân là Nguyên niên xuân chi tế, trong đó “nguyên niên” chỉ năm đầu tiên của một niên hiệu vua, ví dụ “Thiên Hán nguyên niên” là chỉ “Năm Thiên Hán thứ nhất”, tên Nguyên niên xuân chi tế có nghĩa gốc là: Lễ tế vào mùa xuân năm thứ nhất (của một niên hiệu vua). Thực ra thì năm chữ ấy là sự kết hợp giữa ba chữ “Nguyên niên xuân*” bắt nguồn từ Kinh Xuân Thu và tên vở ballet Xuân chi tế** (tức vở Le Sacre du printemps) của Igor Stravinsky***. * Có nghĩa là “Mùa xuân năm thứ nhất (của một niên hiệu vua)”. ** Có nghĩa là “Lễ tế vào mùa xuân”. *** Igor Fyodorovich Stravinsky (1882 – 1971): Nhà soạn nhạc người Nga, người được coi là một trong những nhà soạn nhạc có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ XX. Tôi chọn ba chữ trong Kinh Xuân Thu bởi vì quyển tiểu thuyết này là mở đầu của toàn bộ series về Vu Lăng Quỳ, mà nàng ấy lại sống ở thời Hán Vũ đế, cũng chính là thời kỳ hưng khởi của Xuân Thu học. Cho dù Đổng Trọng Thư* không thể sống tới năm mà tiểu thuyết bắt đầu, nhưng những kiến thức mà ông để lại vẫn tồn tại, tinh hoa tuyệt mỹ, nữ chính dưới ngòi bút của tôi cũng phần nào hướng về điều ấy. * Đổng Trọng Thư (179 TCN – 104 TCN): Nhà triết học duy tâm thời Tây Hán, một đại diện tiêu biểu của Nho học.   Bên cạnh đó, thời gian xảy ra câu chuyện cũng được tôi đặt vào năm Thiên Hán thứ nhất (năm 100 trước Công Nguyên). Đây không phải một năm đặc biệt đáng để kỷ niệm, nhưng niên hiệu này lại có ý nghĩa đặc biệt với tôi. Phần thứ ba mươi hai Tư Mã Thiên truyện thuộc cuốn Hán Thư có viết: “Do đó Tư Mã Thiên đã dựa theo Tả Thị, Quốc Ngữ(1), sưu tầm Thế Bản, Chiến Quốc Sách(2), kể lại Sở Hán Xuân Thu(3), viết tiếp chuyện sau đó, dừng lại ở thời Thiên Hán.” Vậy tức là Sử Ký(4) do Tư Mã Thiên(5) viết rất có thể chỉ ghi chép đến thời đại này. (Phần do Tư Mã Thiên viết trong Sử Ký trên thực tế kết thúc vào khoảng thời gian nào, có cả thảy ba ý kiến, có thể tham khảo nghiên cứu của Vương Quốc Duy, Chu Đông Nhuận, Lục Diệu Đông… để hiểu thêm). Trong Thái Sử Công tự đề tựa, khi nhắc tới nguyên nhân sáng tác Sử Ký, từng trình bày thế này: “Người xưa đã nói: ‘Sau khi Chu Công mất được năm trăm năm thì có Khổng Tử. Khổng Tử mất đến nay đã được năm trăm năm. Nếu có kẻ nối nghiệp, soi sáng cho đời, chỉnh lý được Dịch truyện, tiếp tục Kinh Xuân Thu, nắm được cái gốc của Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc(6), thì là ở lúc này đây! Ở lúc này đây.’ Kẻ hèn mọn này dám đâu từ chối việc ấy.”(7) Mà cho dù Sử Ký có kế thừa Kinh Xuân Thu hay không, tôi cũng thực sự muốn lấy cái thời đại Sử Ký chấm dứt để làm điểm khởi đầu, viết nên một tác phẩm có thể khiến mình cảm thấy không sống hoài sống phí kiếp này. (1) Tức Xuân Thu ngoại truyện hay Tả thị ngoại truyện. (2) Cuốn cổ sử Trung Quốc viết về lịch sử thời Chiến Quốc, từ năm 490 TCN đến năm 221 TCN. (3) Tức chiến tranh Hán – Sở giữa Lưu Bang và Hạng Vũ. (4) Là cuốn sử của Tư Mã Thiên, được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc trong hơn 2500 năm từ thời Hoàng Đế cho tới thời Hán Vũ đế. (5) Tư Mã Thiên (145 TCN – 86 TCN), tên tự Tử Trường, là tác giả bộ Sử Ký. Ông được tôn là Sử thánh, một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc. (6) Do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị Tần Thủy Hoàng đốt mất, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. (7) Bản dịch của Nhữ Thành.   Đó cũng là lý do tôi sáng tác Lễ tế mùa xuân. Còn về việc mượn cái tên Xuân chi tế, ngoài việc nó phù hợp với tình tiết trong tiểu thuyết, một phần cũng vì nó có liên quan tới phong cách âm nhạc của vở ballet này: chủ nghĩa nguyên thủy và kỹ xảo hiện đại. Đúng thế, tôi thực sự muốn độc giả nghe được tiếng lòng của ông cha ta, muốn gọi hồn cho nền văn minh cổ xưa trong một thời gian dài luôn bị coi là thối nát sa đọa, bởi vậy tôi mới tìm đủ mọi cách mà chọn ra hình thức tiểu thuyết trinh thám này, danh chính ngôn thuận dùng sinh mệnh của các thiếu nữ để hiến tế - Nói cách khác, tôi đang thử viết về hệ thống truyền đạo Nho gia của phương Đông cổ đại bằng loại hình văn học phương Tây hiện đại. Thứ lỗi cho sự ngu dốt của tôi, thử hỏi ngoài Lễ tế mùa xuân, đã từng có ai thử nghiệm như vậy bao giờ chưa? Series về Vu Lăng Quỳ sẽ không kết thúc tại đây, song nỗi lo nghĩ về thơ văn và vấn đề khảo chứng khiến tôi chưa thể hoàn thành cuốn kế tiếp. Tác phẩm tiếp theo (tạm đặt tên là Ô Chi Thư Hùng) sẽ nói về những chuyện mà Quỳ và Lộ Thân gặp phải khi tới Trường An, cũng sẽ xoay quanh một nhân vật chính trị quan trọng cuối thời Hán Vũ đế là Lưu Khuất Ly và gia tộc để phát triển câu chuyện. Gần đây, tôi cũng đăng tải không định kỳ series tác phẩm về thám tử thiếu nữ xinh đẹp Lục Thu Trà cùng tên với tôi trên tạp chí Trinh thám. Cho dù trục thời gian hiện tại đang dừng lại ở thời điểm cô ấy học trung học, nhưng sẽ có một ngày tiến độ câu chuyện theo kịp cuộc đời của tôi. Tới khi đó, có thể tôi cũng sẽ kể lại quá trình sáng tác Lễ tế mùa xuân qua góc nhìn của cô ấy. Cuối cùng, kèm theo bài viết này là ba bài tuyệt cú mà tôi nhắc tới ban đầu: Mấy năm thắp nến trải đêm dài, vài lần vắt óc viết mùa xuân. Tuổi xanh thử bút đều là thế, vô lại như tôi cũng góp phần. Chưa bảo câu từ gây tai họa, sớm nghe rỗng tuếch đủ bi ai. Viết thành mười vạn chữ thừa thãi, cắt bỏ mặc gió đông trổ tài. Trời đất bốn mùa luân chuyển mãi, nghìn năm sống chết đến đi hoài. Những điều tế nhị lời khôn tỏ, xin đợi hồng hoang khai sáng cho. Lục Thu Trà Ngày 30 tháng 6 năm 2015, tại nhà riêng ở Kanazawa. Mời các bạn đón đọc Lễ Tế Mùa Xuân của tác giả Lục Thu Trà.
Thanh Tra Maigret Và Ngài Bộ Trưởng - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. Mời các bạn đón đọc Thanh Tra Maigret Và Ngài Bộ Trưởng của tác giả Georges Simenon