Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dòng Sông Hắc Ám

“Một ngày nào đó cô sẽ hiểu được thứ gì đang đến với cô. Nó không đến từ tôi đâu. Mà từ một trong số chúng, một trong những người mà cô tin tưởng… Sẽ thú vị lắm đây.” Đó là lời cảnh báo trước khi chết của kẻ sát nhân bệnh hoạn Melvin Royal dành cho Gwen Proctor. Có lẽ hắn nói đúng, nhưng chỉ một phần… Melvin đã nằm sâu dưới nấm mồ, còn Gwen phải tiếp tục đấu tranh để chữa lành những vết sẹo của quá khứ, giải quyết những mối đe dọa ở hiện tại và sẵn sàng cho một tương lai đầy bấp bênh. Liệu những thử thách mới, những âm mưu mới có thể đánh gục được người mẹ giàu lòng trắc ẩn và dũng cảm như sắt đá? Ở thế giới bên kia, liệu Melvin có thể có cơ hội chứng kiến Gwen sụp đổ và vụn vỡ hay không? Tiếp nối thành công của hai tập trước trong series ăn khách Stillhouse - Dòng sông hắc ám không chỉ đem tới cho độc giả những khoảnh khắc hồi hộp, gay cấn, mà còn cả những phút giây lắng đọng, xúc động và giàu chiêm nghiệm. ----- “Và tôi cần phải đối phó với hắn, bởi hắn đang đe dọa đến tính mạng của con tôi. Con tôi. Tôi chưa bao giờ có cảm giác mạnh mẽ như thế này trước đây - cảm giác muốn được bảo vệ Connor bằng mọi giá. Cảm giác ấy, ước muốn ấy, nó không hề mất đi, vẫn luôn chôn sâu bám rễ vào trong máu thịt của tôi.” ----- Tác giả Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** Bốn ngày trước Khi giáo viên của Ellie White, cô Willingham, nói với cô bé rằng tài xế sẽ đến trường học sớm hơn thường lệ để đón cô bé, Ellie biết đó không phải toàn bộ sự thật. Bác Lou chưa bao giờ đến sớm như vậy cả, trừ khi cô bé bị ốm. “Tại sao ạ?” Cô bé hỏi. Cô bé thích đưa ra những câu hỏi mỗi khi có điều chưa rõ. Có thể cô bé chỉ mới sáu tuổi, nhưng bố đã dạy cô bé phải hỏi nếu không hiểu. Mẹ lúc nào cũng có chút xấu hổ bởi cô bé cứ làm theo lời dặn của bố một cách máy móc như vậy. “Cô e rằng… Cô e rằng đó là vì bố con đã nhờ bác ấy làm vậy.” Cô Willingham nói. Cô ấy là một phụ nữ da trắng tử tế với một lọn tóc màu bạc điểm xuyết trên mái tóc nâu, và cô là một giáo viên tốt. Mặc dù bố Ellie rất giàu có, cô chưa bao giờ đối xử với Ellie khác biệt so với những học sinh trong lớp. Kể cả khi Ellie có làn da màu nâu đậm, đậm hơn bất cứ bé gái nào khác ở đây - những cô bé có làn da trắng như những trang giấy. “Bố sẽ không làm vậy…” Ellie nói. “Có điều gì đó không ổn.” Cô Willingham đưa mắt về phía Ellie, nhưng không nhìn thẳng vào cô bé: “Ừ thì, mẹ con bị ốm…” Cô nói. “Vậy nên ông ấy mới điều xe đến đón và đưa con tới bệnh viện nơi ông ấy đang ở cùng với mẹ con. Như vậy được rồi chứ?” Cô giúp Ellie mặc chiếc áo len dài tay. Chiếc áo này Ellie không thích, nhưng cũng không muốn bỏ lại. Tiếp đến là chiếc cặp sách. “Cô Willingham?” Ellie hỏi, ngước lên nhìn cô giáo của mình. “Cô đang khóc đấy ạ?” “Không, bé con ạ. Cô ổn mà. Đi nào. Ra khỏi đây thôi, bác ấy đang đợi.” “Nhưng bố có nhắc đến mật mã nữa chứ ạ?” “Ông ấy có nhắc đến mật mã…” Cô Willingham nói. “Mật mã của hôm nay là chim hét đen, phải không nào?” Ellie gật đầu. Thứ Năm là chim hét đen. Mỗi ngày sẽ là một loài chim nào đó, bởi vì cô bé rất thích chim và mẹ luôn luôn gọi cô bé là chim ruồi nhỏ do cô bé luôn phóng đi rất nhanh. Nhưng Chủ nhật mới là chim ruồi. Trước tiên, cô Willingham bước xuống bậc thềm của trường học để nói chuyện với bác Lou, bác đang đợi trong chiếc xe đậu ở khúc quành nằm giữa những bậc thềm và đài phun nước lớn làm bằng đá cẩm thạch. Nguyên tắc là Ellie không bao giờ được tới chỗ chiếc xe cho đến khi cô Willingham xác nhận rằng mọi thứ đều ổn. Cô và bác Lou nói chuyện rất lâu. Cô Willingham cứ khóc mãi không ngừng. Hôm nay thời tiết nóng và ẩm, nhưng đài phun nước trông rất mát mẻ và đẹp đẽ. Tia nước bắn ra từ những chiếc vỏ sò làm bằng bê tông, rơi vào một chiếc vỏ sò lớn hơn nằm ở chính giữa. Mẹ từng nói với Ellie rằng đã từng có một nàng tiên rất xinh đẹp sống ở trong vỏ sò, nhưng một vài bậc phụ huynh đã buộc nhà trường phải đưa nàng ấy ra ngoài, và giờ đây nàng ấy phải ở trong kho chứa đồ, điều này thật đáng buồn làm sao. Cô Willingham bước trở lại bậc thềm để đón lấy tay cô bé. Ellie ngước lên nhìn cô. “Mọi thứ sẽ ổn thôi…” Cô nói, nhưng giọng cô lạc đi. Đôi mắt cô đỏ lên. “Cô xin lỗi, bé con. Nhưng cô phải làm điều này. Cô cũng có gia đình của mình.” Ellie cảm thấy lo lắng cho gia đình của cô giáo. “Goa đình của cô ổn cả chứ, cô Willingham?” Cô bé không có ý định làm cho người phụ nữ phải khóc. “Ừ, Ellie ạ, họ sẽ ổn thôi. Con có thể giúp cô đảm bảo rằng họ sẽ ổn chứ?” Ellie không rõ mình phải làm điều đó như thế nào, nhưng cô bé vẫn gật đầu. Cô bé thích giúp đỡ mọi người, ngay cả khi cô bé không thực sự chắc chắn tại sao cô Willingham lại nghĩ rằng cô bé có thể giúp. Cô Willingham mở cửa xe và nâng Ellie lên. Đây vốn là công việc của bác Lou. Sau đó, người phụ nữ ôm lấy cô bé. “Hãy mạnh mẽ, Ellie. Con sẽ ổn cả thôi.” “Nhưng còn gia đình của cô thì sao ạ?” Ellie hỏi. “Cô không định đi với con để cùng giúp họ sao?” Cô Willingham bụm miệng, những giọt nước mắt lăn dài trên má, và cô chỉ còn biết lắc đầu. Cô đóng sầm cánh cửa xe, và đó là khi Ellie biết rằng có điều gì đó thực sự không ổn. Cô giáo Willingham đã nói dối, nhưng cô bé không biết tại sao cô phải làm vậy. Và rồi Ellie nhận ra rằng điều này còn tồi tệ hơn những gì cô bé nghĩ, bởi mặc dù chiếc xe trông giống với chiếc xe vẫn thường đưa đón cô bé, nó không hề có mùi dừa mà cô bé vẫn yêu thích. “Bác Lou?” Cô bé cất tiếng gọi người tài xế. Tiếng chốt cửa xe vang lên nặng trịch. Cô bé có thể nhìn thấy người đàn ông đang ngồi ở ghế trước, đó là một người to lớn đội chiếc mũ lưỡi trai. Ngồi ở băng ghế sau, Ellie cảm thấy mình nhỏ bé hơn bình thường, và khi chiếc xe bắt đầu di chuyển, cô bé nhanh chóng thắt dây an toàn; bác Lou không bao giờ cho xe chạy cho đến khi cô bé thắt dây an toàn xong xuôi. “Bác Lou? Có chuyện gì với mẹ cháu vậy? Cô Willingham nói rằng…” Cô bé ngừng lại câu hỏi bởi lẽ người đàn ông đang lái xe không phải bác Lou. Đôi mắt nhìn vào cô bé trong gương chiếu hậu không phải là của bác ấy. “Thắt dây an toàn vào.” Ông ta nói. Còn bác Lou sẽ luôn nói xin hãy. “Cháu đã thắt rồi…” Cô bé nói. Cô bé cảm thấy sợ hãi, nhưng cô bé sẽ không thể hiện điều đó ra ngoài. “Bác có biết mật mã không?” “Chim hét đen.” Ông ta nói. “Phải không?” “Bác là ai?” “Tôi là người sẽ đưa cháu đến một nơi nào đó thật an toàn…” Ông ta nói. “Cũng giống như mong muốn của bác Lou vậy. Được rồi chứ?” “Cháu sẽ gọi cho bố.” Ellie nói, và rồi mở khóa cặp sách để lấy chiếc điện thoại di động. Nó không có ở đó. Cô bé biết rằng mình không được để điện thoại lung tung. Chiếc điện thoại rất đắt tiền, quan trọng, và cô bé luôn luôn để nó ở trong chiếc túi đó. Cô bé cảm nhận được nước mắt đang chực trào ra, nhưng cô bé sẽ không để mình khóc. Họ muốn cô bé phải khóc, bất kỳ ai đã lấy mất chiếc điện thoại. Bất kỳ ai đang chơi trò chơi đểu cáng này. “Bác là ai?” “Không ai cả.” Người lái xe nói. “Giờ thì ngồi im và yên lặng đi.” Ông ta lái chiếc SUV vào trục đường chính. Cô bé cố gắng nhìn xem họ đang đi đâu, nhưng nhanh chóng bị mất phương hướng; cô bé chưa bao giờ phải chú ý đến những điều như thế này trước đây. Ngôi trường đã khuất sau quả đồi, và ông ta rẽ ngoặt nhiều hơn, cô bé hoàn toàn không biết họ đang ở đâu. Cô bé không biết phải làm gì. Bố luôn nói với cô bé rằng có rất nhiều người xấu ở ngoài kia, và cô bé không nên đi với họ nếu họ không biết mật mã. Thế nhưng, ông ta biết nó, và cô bé cũng không thể nhấn nút “cuộc gọi khẩn cấp” nếu không có chiếc điện thoại nào ở đây. “Để cháu đi.” Cô bé nói. Cô bé cố gắng để giọng mình nghe giống với giọng của mẹ: lạnh lùng và tự tin. “Bác có thể dừng xe ở đây.” “Im mồm.” Người lái xe nói. “Giữ yên lặng. Nếu còn ồn ào, tao sẽ dán miệng mày lại.” Điều đó thậm chí còn khiến cô bé hoảng sợ hơn việc phải ngồi trên một chiếc xe lạ hoắc và không có điện thoại ở bên, nhưng cô bé sẽ không để người đàn ông này biết được điều đó. Cô bé sẽ không khóc. Cô bé nhìn xung quanh và cố gắng nghĩ ra việc khác để làm. Cánh cửa không thể mở. Phần kính cũng thế. Chiếc SUV được gắn kính tối màu, cũng giống như chiếc xe của bác Lou; nó có tác dụng chống nắng. Nhưng nó cũng được tạo ra để mọi người không thể nhìn được vào bên trong. Ellie nhận ra một điều cực kỳ tồi tệ. Cô bé là cái bóng ngồi bên trong một chiếc xe màu đen, đằng sau những ô cửa tối màu, không ai có thể nhìn thấy, và cô bé không biết phải làm gì tiếp theo. Khi cô bé bắt đầu gào thét để tìm kiếm sự giúp đỡ từ những chiếc xe chạy qua, người lái xe rẽ vào đường nhánh, đỗ xe dưới một cây cầu nằm giữa những tán cây xanh rì, dán băng dính quanh miệng cũng như quanh tay và chân cô bé. Ông ta đưa cô bé vòng ra phía sau chiếc SUV. Phía sau trống trơn, chỉ có một chiếc túi ngủ có in hình các công chúa Disney. Cô bé hét lên dưới lớp băng dính, ngọ nguậy và cố gắng để thoát ra, nhưng ông ta đặt cô bé lên chiếc túi ngủ và lắc đầu. “Đi ngủ đi…” Ông ta nói với cô bé, rồi quệt mồ hôi trên mặt. “Chúng ta còn một quãng đường dài phía trước. Mày chú ý cách cư xử và tao sẽ cho mày ăn trong một vài giờ tới. Mấy ngày nữa mày sẽ trở về nhà cùng một câu chuyện thật hay ho để kể.” Bố đã luôn dặn cô bé rằng: “Nếu rơi vào tay kẻ xấu, đừng bao giờ tin lời chúng nói.” Cô bé hoàn toàn không tin rằng chúng sẽ đưa mình trở về nhà. Cô bé thật sự sợ hãi khi thấy mình bắt đầu sổ mũi và khó thở với băng dính dán kín miệng. Vì vậy, cô bé nằm yên hít thở, chậm rãi, đều đặn. Cô bé vẫn còn hoảng sợ, lại thêm kiệt sức nữa, và cuối cùng, cô bé nhắm mắt lại và cố gắng giả vờ như mình đang ở một nơi nào đó khác, được trở về nhà với mẹ. Một cách khó nhọc, cô bé giả vờ rằng mình đang ngủ thiếp đi và cuộn người lại trên đùi của mẹ. Khi tỉnh lại, cô bé rất muốn nói với người đàn ông rằng mình muốn đi vệ sinh, nhưng ông ta thì lại đang nói chuyện điện thoại, và họ đang ở trong một khu rừng, vào giữa đêm tối. Ông ta thấy cô bé ngồi dậy. Ông ta quay đầu lại. Và rồi qua tấm kính chắn gió ô tô, cô bé trông thấy tấm biển báo “phía trước có lối ngoặt” cùng với luồng ánh sáng bừng lên xung quanh nó. Luồng ánh sáng đang chiếu thẳng về phía bọn họ. Cô bé cố hét lên về phía ông ta, nhắc ông ta coi chừng chiếc xe, nhưng ông ta chỉ cau mày và nói: “Tao đã nói là im…” Và rồi chiếc xe kia đâm sầm vào họ, tất cả lộn nhào và vỡ vụn; cô bé nghĩ mình đã nghe thấy người đàn ông hét lên. Cứu với, Ellie muốn nói điều đó, nhưng cô bé quá sợ hãi và quá đau đớn, rồi người đàn ông ngưng la hét, mọi thứ đều trở nên im bặt. Mời các bạn mượn đọc sách Dòng Sông Hắc Ám của tác giả Rachel Caine & Yến Nhi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lá Thư Buộc Tội - Erle Stanley Gardner
Hai người phụ nữ trong văn phòng Perry Mason là một sự kết hợp mèo và chuột. Ở cái nhìn đầu tiên, dường như bà Davenport đóng vai chuột. Nhưng chồng bà lại cho rằng bà đã tìm cách sát hại mình ... rằng bà ta đã từng giết người nên chẳng ngần ngại mà ra tay một lần nữa. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Della Street, cô thư ký riêng của luật sư Perry Mason, bước vào văn phòng của ông ta và nói, “Thưa, có hai bà ở phòng ngoài nói là họ xin được gặp ông ngay bây giờ đấy.” “Về chuyện gì vậy, Della?” “Họ đâu có chịu bàn với một nhân viên thư ký quèn như tôi.” “Vậy thì cứ việc bảo với họ là tôi không tiếp được nhé.” Cô thư ký nói, “Họ đến cả một bầu đoàn mà.” “Sao?” “Họ mang theo va-li, mắt cứ nhìn đồng hồ, rõ là đang có ý chờ đón xe lửa hoặc máy bay, nhưng cần gặp cho được ông trước khi đi.” Cảm thấy động tính hiếu kỳ, Mason hỏi, “Trông họ ra làm sao?” Della Street nói, “Bà Davenport trông nhút nhát như chuột. Bà này còn trẻ, ăn mặc giản dị, có vẻ lấm lét.” “Trạc bao nhiêu?” “Khoảng gần ba mươi.” “Và rụt rè như chuột?” Cô thư ký gật đầu. Mason nói tiếp, “Thế còn bà kia?” “Nếu tả bà này rụt rè như chuột thì phải tả bà Ansel kia là táo tợn giống như mèo vậy.” “Trạc bao nhiêu?” “Chắc trên năm mươi.” “Hai mẹ con chăng?” “Có thể lắm.” Mason nói, “Cô con gái hiếu thảo cưng yêu bao lâu nay phải chịu đựng với một ông chồng cực kỳ vũ phu. Người mẹ phải tỏ thái độ bực mình để cự lại, còn anh chàng thì cứ mắng nhiếc cô vợ thậm tệ đủ điều. Bà mẹ và cô con gái đang có ý định bỏ đi hẳn một nơi nào khác. Họ phải lo bảo vệ quyền lợi của mình chứ.” Della Street nói, “Có thể là như thế. Nhưng mà họ đến đây với cả một đoàn lỉnh kỉnh.” Mason nói, “Bảo với họ là tôi không tiếp các vụ kiện liên quan đến chuyện gia đình, họ nên tìm gặp các luật sư khác trước giờ máy bay cất cánh.” Della Street lộ vẻ miễn cưỡng. Mason cầm lấy những văn thư trong đống hồ sơ đánh dấu “khẩn” do Della Street vừa đặt sẵn trên bàn giấy. Ông nói lớn giọng, “Ý cô là muốn tôi tiếp hai bà này hả, để thỏa mãn chút hiêu kỳ của giới phụ nữ. Thôi, xin miễn đi, cô bé.” Della Street ngoan ngoãn lẹ bước ra khỏi phòng, khoảng hơn nửa phút thì quay trở về. Mason hỏi, “Sao?” Nàng đáp, “Tôi bảo với họ là ông không nhận các vụ liên quan đến chuyện gia đình.” “Thế họ nói gì?” “Cái bà rụt rè như chuột chẳng nói gì cả.” “Còn bà táo tợn như mèo?” ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #44 Lá Thư Buộc Tội của tác giả Erle Stanley Gardner.
Người Được Minh Oan - Erle Stanley Gardner
Người ta bày ra một bữa tiệc nhỏ trên một con thuyền để bàn bạc những vấn đề mua bán một hòn cù lao. Nhưng mọi việc không suôn sẻ. Ngay sau đó một người bị ngã xuống nước và mất tích. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Jane Keller bước vào tòa nhà Ngân hàng lúc ba giờ kém năm phút và đứng xếp hàng trước một cửa giao dịch phía trên có treo bảng Gửi tiền và trả tiền - J-M. Một người mặc bộ com-lê màu xanh, đứng không xa cửa ra vào, hình như chỉ đợi dịp đó, lấy ở trong túi ra một chiếc ví đã xỉn màu vì đã dùng lâu ngày, và tiến lên về phía cửa giao dịch. Jane Keller đưa mắt lơ đãng nhìn chiếc đồng hồ treo trên tường. Bà ta có vẻ sốt ruột. Dòng người xếp hàng phía trước tiến bước một cách chậm chạp. Jane Keller lại phải nhìn đồng hồ một đôi lần nữa và chau mày. Người mặc bộ đồ xanh đã tiến lại gần bà, đó là một người khoảng bốn mươi tuổi, vẻ mặt hoạt bát và dễ bị kích động. Một nhà sinh lý học sẽ xếp ông ta vào loại những người đấu tranh, nhưng là loại người đấu tranh một kiểu riêng: những người này không ngần ngại đánh lén, nếu họ thấy chắc chắn bằng cách đó đem lại lợi ích cho mình. Người đàn ông lúc này đứng ngang với Jane Keller. Ông ta lấy ra năm tờ giấy bạc một trăm đô-la từ chiếc ví cũ đưa cho người đàn bà bên cạnh. “Đây, thưa bà Keller,” người đó nói. Những ngón tay của người đàn bà nắm lấy những tờ giấy bạc một cách máy móc. Sau đó một cảm giác ngạc nhiên, giống như một người đang ngủ bị đánh thức bất chợt thể hiện trên nét mặt. Bà ta nhấp nháy mắt. “Không, nhưng ông đừng phiền lòng!” một người nào đó càu nhàu với người đàn ông mặc bộ com-lê xanh. “Ông không thể xếp hàng như mọi người hay sao?” “Cái gì vậy?” Jane Keller hỏi. “Ông muốn cái gì ở tôi?” “Tôi là Scott Shelby,” người đàn ông trả lời rõ ràng. “Và số tiền này là tiền trả theo hạn trong 5 tháng của tiền thuê để được quyền khoan thăm dò dầu hỏa trên mảnh đất thuộc sản nghiệp của bà, được qui định trong hợp đồng thuê mướn. Ông Shelby nhờ tôi gởi cho bà.” Người ta có thể nói là ông ta đọc một bản tường thuật đã học thuộc lòng. “Bà hãy ký vào giấy biên nhận. Chỗ này, nơi đã đánh dấu… Đây, chiếc bút máy.” Vừa nói ông ta vừa lấy một cuốn biên lai, mở ra và đưa tới trước mặt Jane Keller. “Nhưng… Tôi không hiểu,” bà ta lắp bắp. “Ông Shelby không có lợi ích gì trong việc này… ông ấy đã khước từ sử dụng những quyền của mình…” “Không bao giờ!” “Nhưng đúng. Chắc chắn là như vậy! Việc này thể hiện ở chỗ đã nhiều tháng nay tôi không nghe thấy nói về ông ấy.” “Có thể là như vậy. Đó là tại sao tôi nộp cho bà 5 tháng tiền trả theo hạn, với một trăm đô-la một tháng. Đúng là như vậy, phải không ạ?” “Vâng!… Đó là cái giá đã thỏa thuận. Nếu ông ấy muốn giữ lấy quyền của mình, thì ông ấy phải nộp tiền hàng tháng.” “Ồ! Không!” Người đàn ông cười như thể một ông giáo nhận ra một trong số học trò của mình không thuộc bài. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #27 Người Được Minh Oan của tác giả Erle Stanley Gardner.
Cô Gái Có Vết Bầm Trên Mắt - Erle Stanley Gardner
Luật sư Perry Mason tiếp một cô gái tóc vàng tên là Diana Regis với một bên mắt bị đánh bầm tím, cô ta nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình vì cô bị người khác đánh và bị vu cho là ăn cắp... Từ đây, nhiều vụ rắc rối xảy ra, có một án mạng mà nạn nhân là bạn của Diana Regis. Cảnh sát nghi ngờ Diana Regis là thủ phạm vì có rất nhiều chứng cứ buộc tội cô ta. Một lần nữa, luật sư lại ra tay giúp cô gái và ông đã phát hiện ra nhiều bí ẩn đằng sau vụ án mạng này. Cô gái có vết bầm trên mắt sẽ mang đến cho bạn nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị với kẻ sát nhân không thể đoán trước cho đến khi đọc tới những trang cuối cùng. *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Perry Mason ra hiệu cho cô thư ký lại gần và nói sẽ: - Della, một cô tóc vàng với bên mắt tím bầm lúc nào cũng là một hình ảnh bất thường, trừ phi cô ta thuộc loại ‘quậy’. Cô ta có dáng như vậy không? - Tôi không nghĩ thế, - Della Street đáp – rõ ràng cô ta có mối lo sợ ghê gớm về một chuyện gì đó… Cô ta có giọng nói thật hay, hình như là được sửa giọng. - Đang ở phòng đọc sách à? - Vâng. - Ăn bận ra sao? - Giày đen, chân không tất, áo măng tô lông thú. Gấu áo ngủ lòi ra ngoài. Thế thôi, không còn gì trên người nữa. - Còn vết bầm? - Trông mà phát ghê. - Mắt phải hay trái? - Mắt phải. Cô ta có mớ tóc vàng nhạt, mắt xanh to, mi dài. Chịu khó trang điểm, có thể rất xinh gái nếu mắt không có vết bầm. Theo mắt ông nhìn thì ông đoán cô ta 22 tuổi nhưng theo tôi ít ra cũng 26. - Cô ta tên gì? - Diana Regia. - Cái tên thật kỳ quặc - Cô ta bảo tên cô ta đúng như thế. Dầu sao cô ta cũng đang ở tình trạng quá xúc động và hốt hoảng. - Mắt có đỏ không? - Tôi không để ý. Cô ta có dáng bồn chồn, lo lắng nhưng không phải loại phụ nữ mau nước mắt. Gặp trường hợp gay go, cô ta sử dụng trí óc nhiều hơn là nước mắt. - Thôi được. Tôi sẽ gặp để hỏi lý do gì cô ta tìm đến tôi. Ông mở cửa phòng đọc sách ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #25 Cô Gái Có Vết Bầm Trên Mắt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Băng Cướp Thụy Điển
221 khẩu súng máy biến mất khỏi kho vũ khí quân sự quốc gia. Mười vụ cướp tàn bạo. Một quả bom phát nổ ở Nhà ga Trung tâm Stockholm. Không nhân chứng nào tường tận chuyện đã xảy ra, giới cảnh sát như bị bịt mắt, cả đất nước chìm trong hoảng loạn… Đó không chỉ là những tình tiết trong Băng cướp Thụy Điển mà chính là chuỗi sự kiện gây chấn động đất nước này hồi đầu thập niên 1990, và giờ đây tất cả được thuật lại sống động dưới ngòi bút người anh em trai của ba tên cướp lừng danh. Khắc họa rõ nét và chân thực từng vụ cướp khét tiếng, đồng thời cũng đi sâu vào mối quan hệ gia đình phức tạp nhưng khăng khít, Băng cướp Thụy Điển là một trong những tiểu thuyết tội phạm đáng đọc nhất năm nay.  “Hoàn toàn điên rồ, hoàn toàn liều lĩnh, và hoàn toàn xuất sắc...” - Nordjyske Stiftstidende  “Độc nhất và choáng ngợp. Một trong những tiểu thuyết lôi cuốn nhất của năm.” - Nhà văn Stephen Booth  “Một cuốn sách sâu sắc... miêu tả và phân tích tâm lý tội phạm vô cùng khéo léo và thuyết phục.” - Diversioni “Sự hòa hợp hoàn hảo của thực tế và hư cấu.” - Skanska Dagladet *** Từ xưa đến nay, bạo lực và giận dữ chẳng bao giờ giải quyết được vấn đề. Mahatma Gandhi từng nói “An eye for an eye only ends up making the whole world blind” (tạm diễn dịch: Nếu ai cũng báo thù bằng cách 1 mắt trả 1 mắt thì thế giới sẽ toàn là người mù). Bạo lực có thể nào xuất phát từ tình thương và sự che chở không? Nếu dựa vào thứ gọi là “tình cảm gia đình” mà tự cho mình cái quyền đối xử bạo lực với người thân thì Biển nghĩ hành động đó thật sai lầm, vừa hại mình vừa hại người, và chỉ đẩy mọi người vào cảnh chỉ còn thân thể tồn tại nhưng tâm hồn đã hoàn toàn mất đi. Đã lâu rồi mới có 1 quyển sách đem đến cho Biển nhiều cung bậc cảm xúc như thế. Tuy mới vài tuần trước, quyển “Trảng đất trống” của Robert Dugoni đã khiến Biển khóc 3 lần, nhưng chính quyển “Băng cướp Thụy Điển” này mới khiến Biển từ bất mãn, giận dữ chuyển sang thỏa mãn, rồi lại hoang mang suy tư đủ điều. Qủa thật, những quyển sách được viết bởi 2 tác giả có những nét rất đặc sắc so với những quyển được viết bởi 1 tác giả. Nếu như ở quyển “Dị chủng”, từng dòng chữ bình thường cũng đem lại cảm giác bất an bồn chồn, thì ở quyển “Băng cướp Thụy Điển”, từng chương sách đều khiến Biển cảm thấy 1 sự giận dữ ngấm ngầm. Tính ra thì Biển đọc quyển này suốt 3 tháng, từ tháng 3~5/2018, vì những đoạn đầu khiến Biển rất bất mãn & không muốn đọc tiếp. 1 người vợ bị chồng bạo hành, 1 người phụ nữ khác thì chấp nhận lìa xa con mình để sống chung / để yêu 1 người đàn ông, người mà đem đến cho cô nhiều ngày giờ căng thẳng hơn là những giây phút yêu thương và an toàn. Nhưng rốt cuộc Biển đã lướt qua cảm giác bất mãn ban đầu để theo dõi tiếp quyển sách, càng về sau câu chuyện càng lôi cuốn. Tuy đầu sách có 2 dòng mang tính chất rất đánh đố như sau “Điều này cũng chẳng lấy gì làm quan trọng. Nhưng cuốn sách này được viết dựa trên một câu chuyện có thật” thì Biển cũng không hoàn toàn tin là nó có thật. Nhưng dù có thật hay không thì đây vẫn là 1 câu chuyện rất ấn tượng. Tưởng như bạo lực tràn ngập các vụ cướp, nhưng cá nhân Biển lại tập trung vào những tình tiết mà tính nhân văn được hé mở, tập trung vào những khoảnh khắc mà sự thiện lương còn nguyên vẹn chưa bị đánh mất. Chính những khoảnh khắc ấy đã lôi kéo Biển tiếp tục đọc. Những câu chữ miêu tả tâm lý tuyệt vời, cứ như người đọc đang được ở cạnh và chứng kiến trực tiếp từng khung hình. Đọc xong quyển này và những quyển khác của các nhà văn Thụy Điển, Biển chợt tự hỏi : chẳng lẽ ở 1 đất nước thuộc Châu Âu văn minh lại có tỷ lệ tội phạm và bạo lực cao như vậy sao, hay đó chỉ là tiểu thuyết? Sách khá to, dày, đúng kiểu Biển thích. Bìa có màu sắc đẹp, thiết kế sáng tạo. Trình bày hoàn hảo, chữ in to rõ, dịch thuật rất tốt, không có lỗi chính tả hay lỗi đánh máy. Nhã Nam đã thành công rực rỡ khi xuất bản quyển sách này. Biển không thuộc loại thích khen 1 cách quá mức như thế này, nhưng Biển buộc phải khen quyển “Băng cướp Thụy Điển” này vì không có chỗ nào để chê. Biển cho điểm 10/10 vì đây là 1 siêu phẩm xứng đáng với mức điểm đó, nhưng nếu kết cuộc của nó lạc quan hơn thì Biển sẽ cho điểm cao hơn, khoảng 14/10. Đây là 1 quyển sách xứng đáng có trên kệ của các mọt sách nói chung và các mọt trinh thám nói riêng. *** Bà Ariadne Oliver đi với người bạn ở cùng, bà Judith Butler, giúp chuẩn bị một bữa tiệc cho các trẻ em trong vùng, diễn ra vào buổi tối hôm ấy. Khung cảnh hoạt động chuẩn bị lúc này hết sức rộn rịp. Các bà các cô hăng hái đi ra đi vào, người kê bàn, người giúp chuyển những chiếc ghế nhỏ, bê lọ hoa, và rất nhiều quả bí ngô đặt vào những chỗ được định sẵn một cách có chủ ý. Hôm nay là tiệc Hallowéen cho các vị khách độ tuổi từ mười đến mười bảy. Tách ra khỏi đám người hối hả trong phòng, bà Oliver đứng dựa vào bức tường trống, săm soi nhìn trái bí ngô khổng lồ trên tay. “Lần gần đây nhất tôi nhìn thấy bí ngô,” bà nói, tay khẽ vuốt những sợi tóc muối tiêu vương trên vầng trán cao, “là ở Mỹ hồi năm ngoái - cả trăm trái ấy. Bày khắp trong nhà. Đời tôi chưa thấy nhiều bí ngô thế bao giờ. Mà kỳ thực,” bà nói thêm, vẻ trầm ngâm, “tôi chẳng phân biệt nổi đâu là bí ngô và đâu là bí đao. Đây là loại nào nhỉ?” “Xin lỗi, bồ,” bà Butler vội nói khi vấp phải chân bà bạn. Bà Oliver càng nép sát vào tường. “Là lỗi của tôi,” bà nói. “Tại tôi cứ đứng quẩn chân, chắn lối mọi người đi lại. Nhưng hồi đó họ tổ chức cũng hoành tráng lắm, bao nhiêu là bí ngô, hay bí đao gì đó. Đi đâu cũng thấy, trong cửa hàng cửa hiệu, rồi thì từ nhà ra ngõ, khắp mọi nơi, người ta còn thắp nến hoặc đèn bên trong trái bí, hoặc buộc dây treo chúng lên. Hết sức vui mắt. Nhưng dịp ấy lại không phải trang trí cho tiệc Hallowéen, mà là Lễ Tạ ơn. Tôi thì cứ thấy bí ngô là lại nghĩ đến Hallowéen, tức là cuối tháng 10. Lễ Tạ ơn muộn hơn nhiều chứ nhỉ? Có phải tháng 11 không? Tầm tuần thứ ba của tháng 11 gì đấy? Dẫu sao thì, lại nói, Hallowéen là ngày 31 tháng 10 phải không? Đầu tiên là Hallowéen, rồi sau đó là gì nhỉ? Lễ Các đẳng linh hồn à? Ngày ấy ở Paris người ta đến nghĩa trang và đặt hoa viếng mộ. Cũng không phải ngày lễ buồn thảm gì đâu. Ý là, cả trẻ con cũng đi viếng nữa, và chúng thích thú lắm. Đầu tiên mọi người phải ra chợ hoa và mua thật nhiều nhiều hoa đẹp. Chẳng hoa ở đâu trông đẹp mắt bằng hoa ở Paris bán ở chợ ấy cả.” Các bà các cô hối hả qua lại, thi thoảng lại vấp phải bà Oliver, nhưng chẳng ai nghe bà nói. Ai cũng quá bận với công việc đang làm. Đa số họ là các bà mẹ, có một vài bà cô chưa chồng tháo vát; cũng có những cậu trai mười sáu mười bảy trèo thang hoặc đứng lên ghế để treo đồ trang trí, bí ngô hoặc bí đao, hoặc treo những quả cầu màu sắc sặc sỡ ở ngang tầm mắt; còn các cô bé mười một mười lăm tuổi túm tụm thành nhóm cười khúc khích. “Rồi sau ngày Các đằng và viếng mộ ấy,” bà Oliver lại tiếp tục, khẽ tựa người xuống tay vịn ghế sofa nhỏ, “là đến Lễ Các thánh. Tôi nói có đúng không nhỉ?” Không ai trả lời bà. Bà Drake, một phụ nữ trung niên quý phái, cũng là gia chủ tổ chức bữa tiệc, cất tiếng tuyên bố: “Tôi không định gọi đây là tiệc Hallowéen gì cả, dù tất nhiên, nó đúng là như thế. Tôi sẽ gọi đây là bữa tiệc Trên Mười Một Tuổi. Để chỉ độ tuổi người tham dự, hầu hết là những người sắp học hết trường Elms* và tiếp tục học lên các trường khác.” Elms là trường nội trú nam nữ ở Colwall, Herefordshire, Anh, dành cho trẻ em từ 2,5 đến 13 tuổi. “Nhưng gọi thế không chính xác lắm, có đúng không, Rowena?” cô Whittaker nói, tay chỉnh cặp kính không gọng trên mũi, ra vẻ không tán thành. Cô Whittaker vốn là giáo viên trường làng, rất kỹ tính về chuyện đúng sai trong lời ăn tiếng nói. “Vì chúng ta đã bãi bỏ chế độ trên mười một tuổi từ lâu rồi mà.” Bà Oliver đang ngồi tựa vào tay ghế vội đứng dậy, tỏ vẻ hối lỗi. “Nãy giờ tôi chẳng giúp được gì cả, toàn ngồi đây nói chuyện linh tinh về bí ngô với bí đao.” Và cho phép chân mình ngơi nghỉ một lúc, bà nghĩ thầm, lương tâm hơi có chút bứt rứt, nhưng lại chẳng đủ cảm giác tội lỗi để nói to suy nghĩ ấy ra. “Tiếp theo tôi có thể giúp gì đây?” bà hỏi, rồi chợt thốt lên: “Mấy quả táo này đẹp quá đi mất!” Ai đó mới bưng một tô lớn đựng táo vào đặt trong phòng. Bà Oliver vốn rất mê táo. “Táo đỏ đẹp quá,” bà tấm tắc khen. “Ăn không ngon lắm đâu,” bà Rowenda Drake tiếp lời. “Nhưng được cái trông đẹp mắt và hợp với buổi tiệc. Chỗ táo này là để cho bọn trẻ chơi trò dùng miệng lấy táo trong thau nước. Chúng khá mềm nên dễ cắn hơn. Bưng tô này vào trong phòng đọc sách được không, Beatrice? Trò cắn táo này lúc nào cũng làm nước bắn tung tóe khắp sàn, nhưng thôi kệ, thảm phòng đọc sách đằng nào cũng cũ rồi. Ôi! Cảm ơn cháu nhé Joyce.” Joyce, cô bé mười ba tuổi người rắn rỏi, hăng hái bưng tô đựng táo lên. Hai quả bị rơi xuống sàn và lăn tới chân bà Oliver thì ngừng lại, như thể có ai vẩy đũa phép điều khiển chúng vậy. “Bà thích táo mà, phải không,” Joyce nói. “Cháu có đọc được là bà thích táo, hoặc có khi cháu nghe trên tivi người ta nói thế cũng nên. Bà chính là người hay viết truyện trinh thám đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bà Oliver đáp. “Chắc phải mời bà làm gì đó liên quan đến mấy vụ án mạng mới được. Bà dựng một vụ án mạng trong buổi tiệc tối nay và cho mọi người phá án đi.” “Không, cảm ơn cháu,” bà Oliver nói. “Đủ lắm rồi.” “Là sao ạ? Sao lại đủ lắm rồi?” “Ờ thì, ta từng làm thế một lần, và kết quả không thành công chút nào,” bà Oliver nói. “Nhưng bà đã viết rất nhiều sách,” Joyce hào hứng, “bà kiếm được rất nhiều tiền nhờ đó phải không ạ?” “Ở một chừng mực nào đó,” bà Oliver đáp, tâm trí lang thang trở về Inland Revenue. “Và bà có một thám tử là người Phần Lan nữa.” Bà Oliver thừa nhận. Một cậu bé khác trông có vẻ lãnh đạm, bà Oliver đoán hẳn phải hơn mười một tuổi, nói với vẻ nghiêm nghị: “Sao lại là Phần Lan?” “Ta cũng thường tự hỏi như thế,” bà Oliver thành thực trả lời. Bà Hargreaves, vợ người đánh đàn ống ở nhà thờ thở hổn hển bước vào phòng, tay bê một xô nhựa lớn màu xanh lá cây. “Cái này thì sao,” bà nói, “để chơi trò cắn táo ấy? Có vẻ màu mè rực rỡ đấy, tôi nghĩ thế.” Cô Lee, người bán thuốc theo toa bác sĩ, đáp: “Xô mạ kẽm thì tốt hơn. Thế mới khó lật. Bà định đặt cái này ở đâu đây, bà Drake?” “Tôi đã nghĩ trò cắn táo nên tổ chức trong phòng đọc sách. Tấm thảm phòng ấy cũng đã cũ rồi, và thể nào cũng có nước vương vãi cho xem.” “Được rồi. Vậy để chúng tôi bưng xô này theo luôn. Rowena, đây thêm một giỏ táo nữa này.” “Để tôi giúp,” bà Oliver xăng xái. Bà nhặt hai quả táo dưới chân lên. Gần như quên bẵng mất mình đang làm gì, bà đưa một quả lên miệng cắn và bắt đầu nhai rau ráu. Bà Drake đưa tay giật lại quả táo thứ hai và đặt trở vào giỏ. Cả phòng dậy lên tiếng nói chuyện ồn ào. “Vâng, nhưng giờ biết tìm đâu ra hoa mõm sói?” “Bà phải có hoa mõm sói đặt trong phòng đọc sách chứ, đấy chắc là phòng tối nhất nhà rồi.” “Không, chúng ta phải đặt hoa trong phòng ăn.” “Ta phải phủ cái gì lên bàn trước đã.” “Bàn đã bọc một lớp vải len tuyết dài, rồi lại phủ một tấm cao su lên nữa.” “Thế còn các tấm gương? Chúng ta sẽ nhìn được các ông chồng trong đó chứ?” Len lén cởi giày và vẫn khẽ nhai miếng táo trong miệng, bà Oliver lại thả người trở xuống chiếc sofa nhỏ và chăm chú quan sát căn phòng đầy người qua lại. Lúc này bà bắt đầu dùng đầu óc nữ tác giả của mình để suy nghĩ: “Giờ thì, nếu mình định viết một cuốn sách về tất cả những người này, mình nên viết gì nhỉ? Họ đều là những người tử tế, mình nghĩ là vậy, nhưng ai mà biết được?” Một mặt, bà cảm thấy thật thú vị khi không biết gì về họ. Tất cả đều sống ở Woodleigh Common, vài người bà có biết đôi chút qua lời kể của Judith. Cô Johnson - hình như có liên quan nhà thờ, nhưng không phải là em gái của mục sư. À không, cô ấy là em người đánh đàn ống mới phải, đúng rồi. Rowena Drake, hình như chuyên chỉ đạo các hoạt động chung trong vùng Woodleigh Common này. Và cả người phụ nữ đang thở hổn hển sau khi bưng cái xô nhựa lúc nãy, một cái xô xấu đến phát gớm. Bản thân bà Oliver vốn chẳng bao giờ ưa nổi đồ nhựa. Rồi bọn trẻ con và các cô cậu tuổi choai. Đến bây giờ tất cả chỉ mới là những cái tên trong đầu bà Oliver. Cô bé Nan này, Beatrice này, Cathie, Diana này và Joyce, một cô bé khoác lác và hay hỏi lung tung. Mình không thích cô bé Joyce này lắm, bà Oliver thầm nghĩ. Cô bé kia tên là Ann, trông cao ráo và kẻ cả. Rồi hai cậu thiếu niên, hình như thích thử các kiểu tóc khác lạ, chỉ có điều kết quả không được tốt đẹp lắm. Một cậu bé người nhỏ nhắn rụt rè bước vào phòng. “Mẹ bảo cháu đem những tấm gương này đến xem có dùng được không,” cậu nói, giọng như hụt hơi. Bà Drake đón lấy các tấm gương: “Cảm ơn cháu nhiều nhé, Eddy.” “Chỉ là gương cầm tay bình thường thôi mà,” cô gái tên Ann lên tiếng. “Có thật bọn cháu sẽ nhìn thấy mặt chồng tương lai trong đó không?” “Có đứa sẽ thấy, có đứa không,” Judith Butler đáp, vẻ bí hiểm. “Bà đã bao giờ thấy mặt chồng mình khi đến một bữa tiệc chưa ạ - ý cháu là những bữa tiệc như thế này này?” “Tất nhiên là chưa rồi,” Joyce đáp thay. “Có lẽ bà ấy đã thấy rồi,” Beatrice lên giọng kẻ cả. “Cái đó người ta gọi là giác quan thứ sáu,” cô bé nói thêm, giọng hài lòng vì mình thông thạo những từ ngữ hợp thời. “Cháu đã đọc truyện của bà,” Ann nói với bà Oliver, “The Dying Goldfish. Cuốn đó hay đấy ạ.” cô bé lịch sự tán dương. “Cháu lại không thích cuốn đó,” Joyce lên tiếng. “Không đủ máu me. Cháu thích những vụ án đổ máu thật nhiều ấy.” “Thế thì hơi bẩn,” bà Oliver nói, “cháu không thấy vậy sao?” “Nhưng rất ly kỳ,” Joyce đáp. “Cũng không hẳn,” bà Oliver nói. “Cháu đã chứng kiến một vụ án mạng đấy,” Joyce la lên. “Đừng có ăn nói hàm hồ vậy chứ, Joyce,” cô giáo Whittaker lên tiếng. Mời các bạn đón đọc Băng Cướp Thụy Điển của tác giả Anders Rosluno & Stefan Thunberg.