Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đất Vỡ Hoang - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov

Mikhail Aleksandrovich Sholokhov là một nhà văn Liên Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965. Mikhail Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm đềm, tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Năm 1925, Sholokhov bắt tay vào viết tập đầu tiên của một bộ tiểu thuyết đồ sộ khác, bộ Đất vỡ hoang (Podnyataya Tselina) phản ánh phong trào tập thể hóa nông nghiệp ở nông thôn Nga. Bộ tiểu thuyết đã phải mất gần 30 năm mới hoàn thành đủ hai tập khi bản thảo của tác giả bị thiêu hủy trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Đất vỡ hoang đã được trao Giải thưởng Lênin, giải thưởng cao nhất dành cho lĩnh vực Văn học - Nghệ thuật của Liên Xô. *** Vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, giữa lúc đông đảo bạn đọc của M.Sholokhov đang hồi hộp theo dõi số phận của bộ tiểu thuyết "Sông Đông êm đềm", giữa lúc tác giả đang dồn sức viết tập 3 của tác phẩm đồ sộ này để đáp lại lòng hâm mộ của bạn đọc, thì ở quê hương của nhà văn cũng như trên toàn nông thôn Liên Xô diễn ra phong trào tập thể hoá nông nghiệp. Tâm hồn nhạy cảm và tính Đảng của người nghệ sỹ lớn đã thôi thúc nhà văn phải đến ngay với những sự kiện của phong trào cách mạng to lớn ấy. Bản thảo tập 3 của "Sông Đông êm đềm" đành phải tạm để lại một bên, tác giả lao vào đề tài mới với bộ tiểu thuyết ''Đât vỡ hoang''. Ngày nay đọc hai tập "Đất vỡ hoang" liền một mạch, độc giả thấy mình tiếp xúc với một chỉnh thể hoàn hảo; nếu không được giới thiệu tiếp xúc thì khó mà biết tập 1 và tập 2 ra đời cách nhau hơn 20 năm. Bản thảo dở dang của tập 2 đã bị huỷ hoại trong chiến tranh, tác giả phải viết lại hoàn toàn; đầu năm 1954 những chương đầu của tập 2 mới ra mắt bạn đọc; năm 1960 tác phẩm mới in xong trọn bộ. Nếu như ở tập 1 dồn dập sự kiện bề bộn sôi động của những ngày đầu thành lập nông trang, nổi bật lên những biến đổi xã hội, những sự kiện chính trị; thì sang tập 2 dòng tự sự chậm lại, đi sâu vào những câu chuyện tâm tình, đi sâu vào sự khám phá những ngóc ngách của lòng người; những vấn đề xã hội hiện ra qua những lời tâm sự; âm hưởng trữ tình nổi bật lên. Cũng như ở "Sông Đông êm đềm", người đọc gặp lại ở "Đất vỡ hoang" ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt không khoan nhượng của Sholokhov. Từ những trang sách hiện lên sự thực phong phú đa dạng, đầy mâu thuẫn, rất phức tạp, những sự thật đôi lúc tàn nhẫn, thậm chí tàn khốc, trong sự trần trụi không che giấu, không chút xuê xoa. Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói đến nghệ thuật trào phúng dí dỏm có những lúc rất táo bạo độc đáo của Sholokhov. Thật là bất ngờ khi người đọc bắt gặp hai tính cách trái ngược nhau là Nagunốp và Suka kề vai sát cánh thành đôi bạn tri âm cùng lắng nghe "dàn nhạc gà trống" giữa đêm khuya. Cũng phải thật cao tay mới có thể dàn dựng nên cả một quá khứ với bao nhiêu nỗi đời cơ cực đắng cay đằng sau những lời lẽ bông phèng ba hoa khoác lác đến chết cười của ông lão Suka. Cái trào phúng dí dỏm, cũng như cái trữ tình thiết tha sâu lắng hay cái hiện thực nghiêm ngặt của Sholokhov bao giờ cũng thấm đượm một tính triết lý thâm thuý, có sức lay động đến tận những chốn sâu thẳm của tâm hồn, buộc người ta phải suy nghĩ băn khoăn cùng với tác giả. Nhờ vậy mà "Đất vỡ hoang" tuy phản ánh một khoảnh khắc của lịch sử ở một thôn nhỏ vùng sông Đông mà đã vượt qua được thử thách của thời gian và sự sàng lọc của lịch sử để trở thành tài sản tinh thần chung của nền văn học thế giới. Đavưđốp, Nagunốp, Radơmiốtnốp, Maiđanhicốp, Varia, Suka và cả Luska nữa, cùng với bao nhiêu nhân vật khác của Sholokhov sẽ còn đi mãi giữa cuộc đời với bao nhiêu bạn đọc trên thế giới.  *** Cuối tháng Giêng, gặp buổi đầu trời trở ấm, các vườn hoa anh đào toả hương thơm ngát. Vào buổi trưa, đây đó là những quãng khuất gió, nếu như trời nắng, vỏ cây anh đào bốc lên một mùi thoang thoảng, rầu rầu, hoà với hơi ẩm nhạt nhẽo của tuyết tan, với hương vị đậm đà, cổ xưa xông lên từ dưới dải đất vừa mới ló ra khỏi lớp tuyết, và tầng lá mục. Hương vị dịu ngọt của muôn hoa cứ quyện lấy vườn tược cho đến lúc bóng đêm xanh lam buông xuống, cho đến lúc vành trăng lưỡi liềm xanh phớt ló ra qua những cành cây trụi lá, cho đến lúc những chú thỏ rừng ăn no béo mỡ nhảy nhót vứt lại trên mặt tuyết những đốm vết chân mịn màng. Thế rồi gió đưa về từ các ngọn đồi thảo nguyên mùi dịu dịu của cây ngải cứu héo khô vì băng giá; hương vị và âm thanh của ban ngày chìm lắng đi và bóng đêm, như một con sói cái lông xám, từ đằng Đông lặng lẽ đổ về, lướt qua những bụi ích mẫu, những đám cỏ dại, những thửa ruộng rạ héo hon, những cánh đồng ải mùa thu nhấp nhô như sóng lượn, để lại đằng sau nó trên thảo nguyên lê thê bóng hoàng hôn chạng vạng. ° ° ° Một tối tháng Giêng năm 1930, trên con đường hẻm rìa thảo nguyên, có một người cưỡi ngựa đi vào ấp Grêmiatsi Lốc. Tới gần ngòi, người ấy dừng con ngựa đã mệt nhoài hai bên sườn sương đóng bết từng mảng, và nhảy xuống. Vầng trăng hạ tuần đã treo lơ lửng bên trên bóng đen ngòm của các vườn cây chạy dọc hai bên con đường hẹp, bên trên những rặng cây dương um tùm như những hòn đảo. Con đường hẻm tối và lặng ngắt. Đâu đó, bên kia con ngòi, một tiếng chó sủa rống lên, một ánh lửa le lói. Người cưỡi ngựa nghếch mũi hít một hơi cái không khí lạnh giá, thong thả tháo một bên găng tay, châm thuốc hút, rồi thít căng đai ngựa lại, lùa mấy ngón tay xuống dưới đệm yên; và, sau khi đã sờ thấy cái lưng nóng hổi và nhễ nhại mồ hôi của con ngựa, y lanh lẹn tung người cao lớn của mình lên yên. Y cưỡi ngựa đi ngang qua con ngòi không bị đóng băng ngay cả mùa đông. Con ngựa, khua móng sào sạo trên lớp sỏi phủ đầy lòng sông, muốn uống nước lắm, nhưng chủ nó thúc, và nó thót bụng nhảy phốc lên bờ sông dốc thoải. Nghe có tiếng nói và tiếng cót két của càng xe trượt tuyết đang đi ngược tới, người cưỡi ngựa dừng cương. Con ngựa dỏng tai nghe ngóng, ngoái cổ lại. Cái đai ngực bạc và chiếc vành yên cao cao viền bạc theo kiểu kô- dắc bắt gặp một ánh trăng bỗng sáng lên trong bóng tối đường làng một tia trắng loé. Người cưỡi ngựa vắt dây cương trên vành yên, vội vã kéo cái mũ kô- dắc lông lạc đà cho tới lúc ấy vẫn thả trễ xuống bên vai, đội lên đầu sụp xuống mặt rồi thúc ngựa rảo nước kiệu. Qua khỏi chiếc xe trượt tuyết, y lại đi bước một như ban nãy, nhưng vẫn không hạ mũ xuống. Vào tới trong ấp, y hỏi một bà đang đi ngược lại: - Này, bác ơi, nhà ông Iakốp Ôxtơrốpnốp ở đâu, hả bác? - Iakốp Lukits ấy hả? - Phải, phải. - Đấy, nhà ông ta ở sau cây dương kia kìa, lợp ngói đấy, ông trông thấy không? - Thấy, cảm ơn bác. Tới trước ngôi nhà rộng lợp ngói, y nhảy xuống, dắt ngựa qua cổng hàng rào và lấy cán roi gõ nhẹ vào cửa sổ. - Ông chủ ơi! Iakốp Lukits, ra cho tôi hỏi tý. Chủ nhà bước ra thềm, đầu trần, áo vét- tông vắt vai, nhìn chằm chằm khách lạ rồi bước xuống bậc tam cấp, vừa mỉm cười trong bộ râu điểm bạc, vừa nói: - Ma đưa quỷ dẫn ông bà nào đến nhà tôi thế nhỉ? - Không đoán ra à, Iakốp Lukits? Cho ngủ nhờ nào. Để con ngựa vào đâu cho ấm tí nhỉ? - Không, anh đồng chí ạ, tôi không nhớ ra anh là ai. Chẳng hay có phải anh ở trên huyện không? Hay bên nông hội? Tôi hơi nhận ra rồi đấy…Tiếng anh nói nghe quen quen… Khách nhếch đôi mép nhẵn thín, mỉm cười, lật mũ trùm ra: - Pôlốptxép. Có nhớ không? Iakốp Lukits bỗng nhớn nhác nhìn quanh, tái mặt đi, thều thào: - Quan lớn! Ngài ở đâu tới thế vậy?...Bẩm ngài đại uý!..Ngựa để đấy con dắt…nhà có chuồng…Chà, thấm thoắt thế mà đã bao nhiêu năm rồi… - Ấy, ấy, khe khẽ chứ! Ừ, lâu lắm rồi đấy… Có chăn đắp ngựa không? Nhà có ai lạ không? Khách trao dây cương cho chủ. Con ngựa uể oải tuân theo những động tác của bàn tay lạ, đầu ngẩng cao, cổ vươn dài, và mệt nhọc lê đôi cẳng sau bước vào chuồng. Nó gõ móng lộp cộp vào sàn gỗ và, đánh hơi thấy cái mùi quen thuộc của một con ngựa khác, nó khịt nhặng xị lên. Bàn tay lạ đặt lên cái tảng của nó, những ngón tay thành thạo cẩn thận tháo cái hàm thiếc nhạt tanh, giải phóng cho đôi lợi ê ẩm của nó. Và con ngựa với một vẻ biết ơn sà vào đống cỏ khô. - Con đã nói đai cho nó rồi, cứ để đóng yên như thế một lát, nó lại sức, ta sẽ tháo. - Chủ nhà vừa nói vừa chăm chút đắp lên lưng ngựa tấm chăn lạnh ngắt. Và sờ nắn bộ đồ thắng ngựa, thấy đai bụng bị kéo căng, dây treo bàn đạp trùng thõng hẳn xuống, lão tự xác định được ngay rằng ông khách đã từ xa đến và trong ngày hôm ấy đã phi một đoạn đường chẳng ngắn. - Nhà có thóc không, Iakốp Lukits? - Có tí ti. Ta cho nó uống nước đã, rồi cho ăn thóc. Nào mời ngài vào nhà, bây giờ xưng hô với ngài thế nào đây, thật cũng chẳng biết nữa… Gọi như trước thì không còn quen mồm, và cũng bất tiện… - Chủ nhà lúng túng mỉm cười trong bóng tối, dù biết rằng khách cũng chẳng trông thấy mình cười. - Cứ tên cúng cơm mà gọi. Còn nhớ không? - Khách miệng hỏi chân bước đi trước ra khỏi chuồng ngựa. - Quên sao được ạ! Dọt bọn Đức mãi với nhau mà, lại cả cái cuộc nội chiến này nữa…Tôi vẫn thường nhớ đến ông đấy Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ. Từ cái buổi chia tay nhau ở Nôvôrôxixcơ ấy, tôi chẳng được tăm hơi gì của ông. Tôi cứ ngỡ ông vượt biển sang Thổ Nhĩ Kỳ với anh em kô- dắc rồi. Họ bước vào gian bếp có đốt lò ấm ran. Khách bỏ mũ trùm và cả chiếc mũ lông trắng đội trong ra, để lộ cái sọ chắc nịch, có góc có bướu, phủ một lớp tóc thưa bềnh bệch. Từ dưới cái trán hói đổ thẳng xuống như trán chó sói, đôi mắt đảo nhìn gian phòng. Và tươi cười nheo nheo đôi mắt màu xanh nhạt lấp lánh giận dữ trong hai ổ mắt sâu, y nghiêng đầu chào hai người đàn bà ngồi trên tấm ghế dài là mụ chủ nhà và nàng con dâu. - Chào bà con mạnh khoẻ! - Lạy Chúa, - mụ chủ nhà dè dặt đáp, đưa mắt nhìn chồng, chờ đợi, như muốn hỏi: "Ông dẫn ai về nhà thế vậy, và tiếp đãi người ta thế nào bây giờ cho phải?". Sau khi mời khách lên nhà trên ngồi vào bàn, lão chủ buông gọn một câu ra lệnh cho vợ: - Dọn gì ăn đi. Ngồi ăn xúp bắp cải thịt lợn, có mặt hai người đàn bà, khách chỉ nói chuyện thời tiết, chuyện bạn bè đồng đội. Cái hàm dưới bành bạnh của khách nom như đẽo bằng đá tảng, cử động một cách khó nhọc; khách nhai chầm chậm, uể oải, như một con bò mộng kiệt sức nằm trên ổ. Ăn xong, khách đứng dậy, ra trước tượng thánh đặt giữa những bông hoa giấy bám đầy bụi, cầu kinh, rồi phủi xong những vụn bánh mì bám trên tấm áo khoác cũ kỹ bó sát vai, nói: - Iakốp Lukits, xin đa tạ về tấm lòng thành! Bây giờ ta nói chuyện. Mụ chủ và cô con dâu líu tíu dọn bàn; và vâng theo đôi lông mày rướn lên ra hiệu của lão chủ, họ lảng xuống bếp. ... Mời các bạn đón đọc Đất Vỡ Hoang của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Canh Khuya - Suzanne Brockmann
Brittany Evans ghét bị trễ. Nhưng bãi đỗ xe giống như cái nhọt ở mông, thêm nữa cô còn tốn quá nhiều thời gian băn khoăn nên mặc gì - cứ như việc đó quan trọng lắm ý. Ra khỏi cánh cửa phòng thay quần áo, cô quan sát đám người lác đác đứng quanh quầy xúc xích cạnh sân bóng chày trường đại học. Và anh ta ở đó. Đứng dưới phần mái nhô ra, tránh cơn mưa nhỏ, theo dõi các cầu thủ trên sân bóng. Dựa vào tường quay lưng lại phía cô. Ít nhất thì cô nghĩ đó là anh ta. Họ chưa gặp nhau bao giờ - hoặc không nhiều hơn hai phút rưỡi. Brittany, đây là Wes Skelly quân- hàm- gì- đó. Wes, đây là Britt, chị Melody Jones. Xin chào, rất vui được làm quen, tôi phải đi đây. Người đàn ông có- thể- là- Wes- Skeylly đó liếc nhìn đồng hồ, liếc ra cổng chính của sân vận động. Tóc anh ta dài hơn và sáng màu hơn cô nhớ - dĩ nhiên, khó mà nhớ được nhiều từ cuộc gặp mặt chỉ diễn ra trong hai phút rưỡi. Cô nhìn thấy mặt anh ta rõ hơn khi anh ta khẽ ngoảnh lại. Đó là…một khuôn mặt. Không đẹp trai đến sững sờ như chồng của Mel, Harlan "Cowboy" Jones. Nhưng cũng không đến nỗi như ác quỷ Frankenstein. *** Suzanne Brockmann (sinh năm 1960, bút danh khác: Anne Brock) là một trong những nữ tác giả hàng đầu tại Hoa Kỳ hiện nay. Bà đã đạt được rất nhiều giải thưởng, trong đó có hai giải RITA, giải cống hiến của Romantic Times và được xem là tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn được yêu thích nhất tại Mỹ… Hơn 51 tác phẩm của bà đã được xuất bản và rất nhiều trong số chúng được xếp vào hàng best - seller của USA Today và New York Times. Bà được xem như một trong các tác giả có tầm ảnh hưởng lớn trong giới viết tiểu thuyết lãng mạn và là một thành viên hoạt động tích cực vì sự bình đẳng dân chủ. Suzanne Brockmann cũng đã ra mắt một bộ phim mà bà sản xuất cùng chồng của mình: The perfect wedding. Một số tác phẩm của Suzanne Brockmann: Born to darkness; Beginnings and Ends; Headed for trouble; Shane's last stand; Thiên thần của anh... *** "Anh nghĩ sao nếu em nói em đang định nghỉ học một năm?" Brittany hỏi. Wes ngẩng đầu lên khỏi máy tính, xoay người trên ghế sang nhìn cô. Cô đang đứng bên cửa phòng ngủ, dựa người vào khung cửa. Anh cân nhắc lại từ ngữ trước khi trả lời cô. "Anh đoán anh sẽ phải hỏi tại sao em lại định như vậy. Và anh hi vọng đó không phải là vì anh." "Không phải," cô nói. "Thật không?" anh hỏi. Thật không dễ khi phải sống và làm việc tại hai thành phố khác nhau, nhưng không đến mức không chịu được. "Nếu dạo này anh phàn nàn nhiều quá thì cứ bảo anh câm lại, bé cưng. Chuyện này sẽ không phải là mãi mãi, bên cạnh đó, chúng ta còn phải lo cho Andy." Andy cần Britt bên cạnh hơn lúc nào hết. Dani đã trở lại trường, nhưng phiên tòa xử Dustin Melero đang đến gần. Không có gì bảo đảm, những vụ cưỡng bức luôn diễn ra theo kiểu "anh nói, cô ta nói," nhưng 4 cô gái đã bước ra, cùng với câu chuyện giống hệt Dani. Cùng với nhau, họ quyết tống tên khốn kiếp đó vào tù. Yeah, có khi Dustin lại ở cùng phòng giam với John Cagle, tên bám đuôi điên khùng của Amber. Amber đã hoàn thiện lại hệ thống an ninh, Wes và Britt cũng lắp thêm hệ thống báo động vào cả hai căn hộ của họ. ... Mơi các bạn đón đọc Canh Khuya của tác giả Suzanne Brockmann.
Bão Lặng - Francoise Sagan
Sau hào hứng hơi vô sỉ của cuốn Người đàn bà đánh phấn, và tính phi đạo đức rõ ràng của các nhân vật, tác giả buộc phải, và tác giả cũng muốn thay đổi phong cách và tất cả. Thời đại của chúng ta ít có chỗ bíu cho mơ mộng, tác giả không ẩn mình trong một tháp ngà hố??c trong một nông thôn hẻo lánh để thả mình vào cảm hứng trữ tình đã bắt đầu thiết hụt trong tác giả, vì vậy phải dứt khoát thay đổi thời đại. Do đó câu chuyện phải là sôi sục, nếu không thì nhạt nhẽo, cốt truyện phải diễn ra vào năm 1830 và nó phải có phong cách thời đại, Vì thế tác phẩm Bão Lặng ra đời. *** Françoise Sagan – tên thật là Françoise Quoirez – là nhà văn, nhà biên kịch người Pháp. Sagan đã được nhà văn François Mauriac ca ngợi là "một tiểu quái quyến rũ" trên trang nhất của tờ báo Le Figaro, Sagan nổi tiếng về các tác phẩm với những chủ đề cực lãng mạn liên quan đến các nhân vật tư sản giàu có và bị vỡ mộng. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Sagan là quyển tiểu thuyết đầu tiên của bà - Bonjour Tristesse (Buồn ơi, chào mi) (1954) - được viết khi bà còn là một thanh thiếu niên. Sagan sinh tại Cajarc, Lot, trong một gia đình khá giả, là con của Pierre và Marie Quoirez. Sagan là con út trong số 4 anh chị em (Suzanne (1924), Jacques (1927) và Maurice (chết non). Trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai gia đình bà sống ở vùng Dauphiné, rồi Vercors. Cụ nội của Sagan là một người Nga xuất xứ từ Sankt-Peterburg. Khi là học sinh trung học, Sagan đã thích đọc các tác phẩm của các nhà văn Jean Cocteau, Arthur Rimbaud, Marcel Proust, Stendhal, Flaubert, William Faulkner, Ernest Hemingway, Albert Camus, Francis Scott Fitzgerald, André Malraux và Jean-Paul Sartre; sau đó đã làm bạn với Sartre (Sagan thường ăn điểm tâm buổi sáng với Sartre ở tiệm Closerie des Lilas). Năm 1951, sau khi thi trượt bằng tú tài, Sagan đã dành một mùa hè học vội để thi lại và đã đậu. Sau đó Sagan ghi danh xin học Đại học Sorbonne, nhưng năm 1953 đã bị trượt Chứng chỉ dự bị đại học. Bút hiệu "Sagan" được lấy từ nhân vật "Princesse de Sagan" trong quyển À la recherche du temps perdu (Đi tìm thời gian đã mất) của Marcel Proust. Quyển tiểu thuyết đầu tay Bonjour Tristesse của Sagan được xuất bản năm 1954, khi bà mới 18 tuổi, nói về cuộc sống của một cô gái tên Cécile 17 tuổi ham vui cùng mối quan hệ với người bạn trai và người cha playboy ngoại tình của cô, đã lập tức có tiếng vang quốc tế. Các nhân vật của Sagan - đã trở thành một chút biểu tượng cho những thanh thiếu niên bị vỡ mộng - theo một cách nào đó đều tương tự như các nhân vật của nhà văn Mỹ JD Salinger. Trong suốt sự nghiệp văn học kéo dài đến năm 1998, Sagan viết hàng chục tác phẩm, trong đó nhiều truyện đã được quay thành phim. Bà duy trì một văn phong chân phương của lối tiểu thuyết tâm lý Pháp, ngay cả khi phong trào tiểu thuyết mới đang thịnh hành. Những lời đối thoại giữa các nhân vật của bà thường được coi là có hàm chứa sắc thái chủ nghĩa hiện sinh. Ngoài các tiểu thuyết, kịch, và một cuốn tự truyện, bà cũng đã viết lời bài hát và kịch bản phim. Trong thập niên 1960, Sagan đã dành nhiều thời gian để viết kịch; tuy nhiên - mặc dù phần đối thoại giữa các nhân vật kịch được khen là xuất sắc - nhưng kịch của bà không được thành công nhiều. Sau đó, bà đã tập trung vào sự nghiệp viết tiểu thuyết. *** Mùa hè năm 1835 ở Charante thực sự là một mùa hè sôi động nhất mặc dù tôi luôn ở trong một tâm trạng giận dữ điên cuồng. Những vị khách trẻ trung tài hoa, các nhạc sĩ, nhà văn, những phụ nữ trẻ đẹp đi đi về về tới vài chục lần giữa Paris và Angoulême, mỗi lần họ ở lại vài ngày với Flora và chàng thi sĩ trẻ của cô. Họ là những người hết sức vô tư, sống theo phong cách thoải mái, không già nua khô hạnh như chúng tôi. Gildas và Flora thực sự hạnh phúc - không phải riêng tôi mà tất cả mọi người đều nhận ra điều ấy. Chúng tôi, những vị khách bản địa luôn được mời tới trong những dịp ấy và lấy làm thú vị khi tiếp xúc với những con người đầy tri thức và dí dỏm sắc sảo, được tham dự những cuộc nói chuyện đầy kiến thức cao siêu của họ... Tôi thực sự xấu hổ vì những gì mình vừa viết. Tôi cảm thấy cay đắng và bất công. Nói cho cùng thì bạn bè của Gildas và Flora là những người Paris, họ vô tư, thư thái và sống quả quyết hơn chúng tôi. Họ sống thân thiện, sôi động và nhiệt tình. Dưới sự đánh giá khách quan của họ thì tất cả những gì vốn là niềm tự hào của Aquitaine rốt cuộc chỉ là sự khổ hạnh đáng buồn, niềm tin mù quáng của hầu hết những người phụ nữ cuồng tín nơi đây đối với xứ đạo của họ sẽ khiến người ta phát hiện ra rằng ở họ không bao giờ có một dấu hiệu nào của cuộc sống đồi bại. Trong số khách khứa của Flora, những người đàn ông không bao giờ xuất hiện hai lần với cùng một người phụ nữ. Song những mối quan hệ đó diễn ra một cách kín đáo, không bao giờ gây ra một điều tiếng gì. Với họ, việc thay đổi bạn tình liên tục là một việc hết sức bình thường. Không ai tỏ ra thắc mắc, ngạc nhiên về việc người ta có thể lại bắt đầu một mối quan hệ dan díu mới ngay lập tức sau khi vừa cắt đứt mối quan hệ cũ. Là trung tâm của những cuộc vui của cách sống đơn giản và có vẻ hạnh phúc ấy, Flora và Gildas dường như là hiện thân của niềm hạnh phúc. Điều này thì không chỉ chúng tôi nhận ra không chỉ chính tôi, một kẻ chìm sâu trong niềm tuyệt vọng trước hạnh phúc của họ, nhận ra mà cả những người bạn Paris của họ - những người mà không dè dặt giấu giếm sự ngưỡng mộ đối với mối quan hệ rực rỡ và chung thủy đó. ... Mời các bạn đón đọc Bão Lặng của tác giả Francoise Sagan.
Oan Nghiệt - Nguyễn Văn Thịnh
Hoàng Yến không hiểu được nàng đang sống trong thực hay hư. Mới đây thôi nàng còn là cô chủ được mọi người kính trọng và mơ ước. Nàng là người điều hành thông minh, tháo vát, người quản lý tận tụy trung thành một cơ ngơi lớn đang trên đà phát triển và cái cơ ngơi ấy sẽ là gia sản cho con trai nàng là người thừa kế đương nhiên. Thế mà giờ đây cả hai mẹ con nàng đều bơ vơ không nơi nương tựa, phải sống tránh né mọi người, không dám mở mặt nhìn ai ngay cả với cha mẹ ruột của mình. Cả một chuỗi tháng năm u ám của quá khứ nặng nề hiện lên che khuất hướng tương lai. Trước mặt nàng là cả một không gian mù mờ ảm đạm… Hoàng Yến nghỉ ở khách sạn này đã hơn một ngày rồi. Nàng chưa biết sẽ đi đâu, về đâu. Quá khứ đã như một tấm cửa thép lạnh lùng khép chặt. Với nàng thật là đơn giản, cuộc sống này càng sớm kết thúc thì càng mau được giải thoát thôi. Nhưng còn đứa con nàng? Nó chẳng tội tình gì… Đứa con nào chẳng mong có mẹ. Nhưng đứa trước không được thành người, để ai oán cho nó, chẳng lẽ nàng không có lỗi? Đến thằng Tý Ty này, đã thành người, nó không thể xa nàng được nữa. Nhưng mẹ con sẽ sống thế nào? Nàng không thể để đứa bé phải tủi hổ khi biết về mẹ nó. Nàng đã mang tội với đấng sinh thành, giờ lại thêm tội nữa với con! Mai là Mồng Một Tết. Hôm nay là ngày cuối năm. Hôm qua nhìn thấy Quyền hối hả về quê ăn Tết, Hoàng Oanh quay về thành phố lại với những trận cười cuộc vui nhàm chán. Nàng đã không thể nhìn lại mẹ cha và bạn bè xưa cũ. Nàng cũng không thể tìm đến với Hoàng Oanh để cả hai mẹ con cùng chui đầu vào thòng lọng. Nhưng biết đi đâu? Nàng hoàn toàn bế tắc. Nàng ra bàn, có để sẵn cuốn tập và cây viết. Nàng tách một tờ giấy đôi ở giữa, cúi đầu ngồi viết. Mấy lần nàng viết được dăm chữ vài dòng lại bỏ đấy ra ngồi với con rồi nằm vật trên giường ôm thằng bé vào lòng và nàng thiếp đi… ... Mời các bạn đón đọc Oan Nghiệt của tác giả Nguyễn Văn Thịnh.
Mẫu Thượng Ngàn - Nguyễn Xuân Khánh
Văn hóa Việt, bản sắc văn hóa Việt là vấn đề, là câu hỏi đã được nêu ra và được hàng trăm, nếu không nói hàng nghìn nhà nghiên cứu tìm cách lý giải từ rất lâu. Nguyễn Xuân Khánh là nhà tiểu thuyết, anh cũng có câu trả lời của mình không phải bằng lý lẽ uyên bác mà bằng một cuốn tiểu thuyết sinh động, Mẫu Thượng Ngàn, còn dày dặn, bề thế, phong phú hơn cả cuốn Hồ Quý Ly từng gây xôn xao của anh mấy năm trước. Và có vẻ đây có thể là câu trả lời hấp dẫn hơn cả, nếu không nói là thuyết phục hơn cả. Mẫu Thượng Ngàn là cuốn tiểu thuyết về văn hoá phong tục Việt Nam được thể hiện qua cuộc sống và những người dân ở một vùng quê bán sơn địa Bắc Bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Trong bối cảnh Pháp xâm lược Việt Nam. đạo Phật suy tàn, đạo Khổng bị gạt bỏ, đạo Thiên chúa đang lan rộng, người dân quê trở về với đạo Mẫu - một tôn giáo có từ ngàn đời. Mẫu Thượng Ngàn  cũng là cuốn tiểu thuýêt  lịch sử xã hội về Hà Nội cuối thế kỷ 19, gắn với việc người Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai, việc xây Nhà Thờ Lớn, cuộc chiến của người Pháp với quân Cở Đen...  Mẫu Thượng Ngàn  còn là câu chuyện tình yêu của những người đàn bà Việt trong khung cảnh một làng cổ. Đó là tình yêu vừa bao dung, vừa mãnh liệt của những người phụ nữ với bao nỗi đắng cay, đầy chất phồn thực, bi, hài hoà quyện với mộng mơ và cao thượng. Tác giả của Hồ Quý Ly một lần nữa chứng tỏ bút lực mạnh mẽ, sâu sắc, trữ tình qua cuốn tiểu thuyết đầy ấn tượng Mẫu Thượng Ngàn. *** Cô Mùi lấy Tây! Cô Mùi làm me Tây! Một sự việc động trời! Cả làng Cổ Đình lẫn đồn điền Messmer đều ồn ào ngạc nhiên và dè bỉu. Không ai có thể ngờ cô Mùi lại tự ý bằng lòng. Giá như cô Mùi là con cái nhà khác người ta còn có thể hiểu nổi, đằng này cô lại là con ông đồ Tiết. Cô là người đầu tiên ở vùng này lấy chồng Tây nên càng được người ta chú ý. Những lời bàn tán kéo dài hàng tháng. Điều lạ lùng khó hiểu nhất vẫn là tại sao cô lại tự ý bằng lòng. Câu hỏi ấy cuối cùng vẫn là một câu đố chẳng ai tìm ra lời giải. Cũng có người thân cận hỏi thực cô, song cô chẳng trả lời. Người ta chỉ đoán già đoán non, nhưng chỉ đưa ra được một nhận xét: - Dạo này cô ta ít nói hơn, hình như thoáng vẻ buồn. Nhưng lạ chưa? Cô càng ngày càng đẹp. Philippe sắm sửa lễ vật đến nhà cụ Tiết ăn hỏi. Cũng trầu, cũng cau, cũng rượu, cũng chè, lại thêm bánh cốm, bánh xu xê học theo kiểu thành phố. Một chục cô gái mặc áo tứ thân đội mâm đồng lễ vật trên phủ vải đỏ. Philippe cưỡi con ngựa hồng. Nhà trai còn có Pierre, René, quản Liến và lý Cỏn, quản Boong. Nhà cụ đồ cài chặt cửa ngõ, không tiếp nhận đồ sính lễ. Gọi khản cổ vẫn chỉ có đàn chó một con mẹ bốn con chó con thi nhau sủa lên ăng ẳng. Chó trong xóm đua nhau sủa theo làm náo động cả làng. Quản Liến tức quá định lên tiếng, song Philippe gạt ngay. Hắn sai người vượt rào vào trong, tự mở cổng lấy, rồi bưng cả mười mâm sính lễ phủ nguyên vải đỏ xếp làm hai hàng đặt giữa sân. Sau đó, cả đoàn rút lui. ... Mời các bạn đón đọc Mẫu Thượng Ngàn của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.