Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Buổi Tiệc Trà Kì Bí

Đầu năm mới, Kyoto khoác lên mình dáng vẻ vô cùng nhộn nhịp. Cô bé Mashiro Aoi đang làm thêm ở cửa hàng đồ cổ “Kura” trong khu phố Teramachi Sanjo cùng cháu trai ông chủ là Yagashira Kiyotaka được mời tới tham dự buổi “tiệc đọc sách” của tác giả thể loại văn học kì bí nổi tiếng, Aigasa Kurisu. Sự kiện ấy được tổ chức tại Sơn trang Yoshida vào buổi tối ngày Valentine. Trong buổi “tiệc đọc sách”, biên tập viên phụ trách và bạn bè thân thiết của Kurisu cũng được mời đến. Tại đó, em gái Kurisu đã yêu cầu Kiyotaka tìm ra thủ phạm định giết chị gái mình ba tháng trước… Đây là tập bốn của loạt tiểu thuyết kì bí thành công vang dội! * Holmes ở Kyoto là bộ tiểu thuyết kì bí nhẹ nhàng cực kì nổi tiếng, không chỉ tạo cơ hội cho độc giả làm quen với những nét đẹp văn hoá của mảnh đất Kyoto mà còn giới thiệu về muôn vàn món cổ vật nổi tiếng ở khắp nơi trên thế giới. Và rồi, mỗi món cổ vật đều cất giữ câu chuyện của riêng mình. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Một nhành dương liễu được tô điểm bằng những chiếc bánh mochi hồng và trắng. Mỗi khi năm mới đến, người ta sẽ lại bắt gặp món đồ trang trí dễ thương này. Nếu tôi không nhầm thì mochibana-shidare[1] là tên gọi của nó. Đồ trang trí trong dịp Tết có rất nhiều loại, nhưng tôi thích nhất là mochibana-shidare. Tôi, Mashiro Aoi, đang ngồi trên một chuyến xe buýt chật ních người. Vừa lắc lư theo chiếc xe, tôi vừa nhìn ra ngoài cửa sổ và nhoẻn miệng cười. Mùng ba tháng Giêng. Cả Kyoto đang tràn ngập niềm vui đón năm mới. Khắp nơi được trang hoàng lộng lẫy với shime-kazari[2], nebiki-matsu[3], mochibana-shidare, và những chiếc quạt giấy mạ vàng. Già trẻ gái trai trong trang phục truyền thống đi lại trên đường đông như mắc cửi. Ngỡ là toàn bộ thành phố đang trong mùa lễ hội rộn ràng. Tôi dám chắc những người đang đi lại trên phố này đa phần là khách du lịch. Có lẽ họ đến từ các tỉnh thành khác, muốn được tận hưởng dịp Tết ở một nơi “đậm chất Nhật Bản” như Kyoto, nên mới tới đây thăm thú đền chùa và xin lộc đầu năm. Và biết đâu, người ngoài trông thấy tôi lúc này cũng sẽ tưởng tôi là khách du lịch. Nhìn bộ dạng của bản thân hiện tại, tôi bẽn lẽn thu mình. Chiếc xe vừa dừng lại trước toà thị chính, tôi đã hấp tập nhảy xuống. Từ đường Oike, tôi đi xuyên qua biển người để tìm đến phố mua sắm Teramachi, Khu phố thương mại lợp mái vòm hôm nay còn náo nhiệt hơn thường ngày. Phần lớn những cửa hàng được xây kề nhau trong khu phố đã bắt đầu mở cửa từ mùng hai; chỗ thì chuẩn bị sẵn túi may mắn[4] chỗ lại phát rượu khai vị đầu năm[5]. Tất cả đều chìm trong bầu không khí hân hoan vui vẻ. Phố mua sắm Teramachi lúc này tấp nập ngang ngửa dịp cuối năm, nhưng cảm giác bề bộn, hối hả khi ấy đã không còn. Dù tính ra cũng mới có vài ngày kể từ khi năm cũ khép lại. Tới tận ngày ba mươi mốt tháng Mười Hai, tôi vẫn còn làm thêm ở đây. Vậy mà kì lạ thay, chỉ cần “sang năm mới” là tôi đã có cảm tưởng như lâu lắm mới được đặt chân đến nơi này. Nhịp bước nhún nhảy của tôi liệu có phải do tâm trạng phấn chấn trong không khí Tết? Cuối cùng thì ngày làm việc đầu tiên trong năm cũng đã đến. Phải, tiệm đồ cổ “Kura” nơi tôi làm thêm sẽ chính thức hoạt động trở lại vào hôm nay, mùng ba tháng Một. Ông chủ tiệm là ông Yagashira Seiji đã đề xuất rằng, “Vào ngày làm việc đầu tiên, tất cả đều phải có mặt nghen,” cho nên kể cả đứa làm thêm như tôi cũng được gọi đến. Ngoài việc trong cửa hàng ra, tôi tự thấy mình chẳng giúp được gì nhiều. Ấy vậy mà ông chủ vẫn mời tôi đến dự buổi gặp mặt đầu năm, khiến tôi vô cùng hạnh phúc. Cảm giác như mọi người đã thật sự công nhận tôi là một phần của tiệm “Kura”. Tôi tự nhủ mình phải vững vàng lên, mắt nhìn thẳng về phía trước và bước đi mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc, tấm biển của cửa hàng đồ cổ “Kura” đã hiện ra trong tầm mắt. Bề ngoài của nó vẫn như mọi khi, giống một quán cà phê hơn là tiệm đồ cổ. Tiệm “Kura” hôm nay cũng đã chuyển sang “chế độ mừng năm mới”, với mặt tiền được trang hoàng bởi kadomatsu[6], shime-kazari, và cả mochibana-shidare. “Cháu chào mọi người ạ.” Khi tôi đẩy cửa bước vào, tiếng chuông cửa quen thuộc lại reo lên leng keng. “Ồ, Aoi đó hả?” Người vừa cất giọng sang sảng và ngoảnh lại nhìn tôi là ông chủ cửa hàng này, ông Yagashira Seiji, năm nay bảy mươi bảy tuổi. Ông là một người chuyên giám định đồ cổ nổi tiếng mang danh hiệu “Chuyên gia giám định cấp quốc gia” được đông đảo cư dân ở vùng Kansai này biết đến. Thường ngày, ông chủ hay ăn vận theo phong cách kinagashi phóng khoáng, nhưng hôm nay đã đổi sang lễ phục đầy đủ quần hakama[7] và áo khoác haori[8] cho đúng tinh thần lễ tết, cảm giác trịnh trọng và uy nghiêm hơn bội phần. Đứng cạnh ông chủ là con trai ông, bác quản lí Takeshi. Gọi là quản lí nhưng nghề nghiệp chính của bác ấy là nhà văn, chuyên sáng tác tiểu thuyết lịch sử với bối cảnh thời phong kiến. Bác gắn liền với hình ảnh vừa trông cửa hàng vừa cặm cụi cày bản thảo ở “Kura”. Hôm nay bác mặc một bộ kimono màu chàm. Đứng bên còn lại của ông chủ là một chàng thanh niên cao ráo với gương mặt khôi ngô đang nhoẻn miệng cười dịu dàng. Đó là cháu nội kiêm đệ tử của ông, anh Kiyotaka, hay còn gọi là anh Holmes, một sinh viên cao học đang làm giám định viên tập sự. Anh là người có đầu óc nhạy bén, được đặt biệt danh là Holmes nhờ vào khả năng quan sát và mắt thẩm định tinh tường hiếm thấy, cùng cái họ “Yagashira”. Anh Holmes lúc này cũng đang khoác trên mình một bộ kimono giống ông chủ và bác quản lí, nhưng màu mực tàu. Ở phía sau lưng họ có một người phụ nữ xinh đẹp. Cô là Takiyama Yoshie, đang điều hành một công ty chuyên tư vấn tổ chức những sự kiện liên quan đến mĩ thuật, đồng thời cũng là bạn gái của ông chủ. Cô có ngoại hình hết sức trẻ trung, tưởng như mới ngoài ba mươi, nhưng thực ra là một mĩ nhân đứng tuổi đã ngoại tứ tuần. Bộ hōmongi[9] xanh lục sáng như màu cỏ non hôm nay hoà hợp với cô một cách hoàn hảo. Đúng vậy, hôm nay, ngày làm việc đầu tiên của năm đã được quy ước là ngày “mặc kimono đi làm” nên tất cả chúng tôi đều diện trang phục truyền thống. “Chúc mừng năm mới Aoi nhé.” Được mọi người đồng thanh gửi lời chúc, tôi rụt rè cúi đầu. “Ch-Chúc mừng năm mới cả nhà mình ạ. Dù đã biết hôm nay sẽ như thế, nhưng nhìn mọi người đồng loạt mặc kimono thế này vẫn làm cháu hơi choáng ngợp.” “Tết là mặc kimono”, rất đúng kiểu của “Kura”. “Vậy nhưng, ở đây chỉ có một mình anh là mặc kiểu kinagashi thôi này.” Kinagashi là cách mặc trang phục truyền thống giản lược, không cần áo khoác haori hay quần hakama mà chỉ có kimonothắt obi. “Em thấy anh mặc đẹp lắm ạ.” Tôi có cảm giác là kiểu mặc kinagashi thanh thoát, không cầu kì sẽ hợp với anh Holmes hơn lễ phục cứng nhắc với đầy đủ haori và hakama. Mái tóc đen nhánh kết hợp với bộ kimonomàu mực tàu làm nổi bật lên làn da trắng trẻo của anh ấy, trông thật là quyến rũ. “Cảm ơn Aoi. Bộ komon ấy cũng rất hợp với em,” anh Holmes mỉm cười đáp. “Công nhận, cháu đáng yêu lắm.” “Phải đấy, trông rất xinh.” Cô Yoshie và bác quản lí cũng chêm vào. “... Ch-Cháu cảm ơn ạ,” tôi xấu hổ lí nhí. Đúng vậy, hôm nay tôi cũng mặc kimono. Gọi vậy thôi chứ nó không phải furisode mà là komon, loại kimono với hoa văn nhỏ phủ khắp thân áo. Những đoá hoa phớt hồng rải rác trên nền vải màu kem. Obi cũng có màu hồng nhạt tương tự, mặt trước trông như một bông hoa to sắp nở, tổng thể nhìn chung là hết sức dễ thương. Tôi ưng bộ kimono này vì nó trông không đến nỗi quá thường, nhưng vẫn nhẹ nhàng đủ để có thể thoải mái ra phố dạo chơi. “Bộ komon này có phải em mua ở ‘Kobo-san’ hồi trước không?” Anh Holmes hỏi, vẻ như muốn xác nhận lại. Tôi ngẩng lên nhìn anh và gật đầu đáp, “Vâng.” “Kobo-san” là tên thường gọi của hội chợ được tổ chức tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt hằng tháng. Nó giống như một buổi chợ trời lớn song song với lễ hội. Vào ngày này, người ta sẽ mở sạp hàng kinh doanh đủ thứ trong khuôn viên chùa To-ji, từ quầy ăn uống, trò chơi, đồ cổ cho đến tạp hoá, quần áo cũ, kimono, thực phẩm. Trước đây, tôi đã có lần cùng anh Holmes đến đó, quy mô còn lớn hơn cả chợ hàng thủ công ở Hyakumanben Chion-ji. Nhân tiện thì ở Kyoto có ba hội chợ lớn được mở hằng tháng: chợ hàng thủ công tại chùa Hyakumanben Chion-ji vào ngày mười lăm, chợ Kobo-san tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt, còn ngày hai mươi lăm là chợ Tenjin-san ở đền Kitano Tenmangu. Tôi tìm thấy bộ kimono này vào dịp cuối năm, trong lần đầu tiên đến chợ Kobo-san cùng cô bạn Miyashita Kaori. Khi cầm bộ kimono nằm trong xe chở hàng lên, Kaori đã bảo tôi rằng, “Chỗ này toàn món hời đó nha.” Nhà Kaori là một cửa hàng trang phục truyền thống danh tiếng với lịch sử lâu đời. Nghe được nhận xét của cậu ấy nên tôi cũng có thể yên tâm mua món hàng này. Kimono thường gắn liền với hình ảnh của một loại trang phục đắt đỏ, không dễ gì mua được, nhưng những bộ được bày bán ở hội chợ lại rẻ hơn tôi nghĩ, chỉ với khoản lương làm thêm của tôi cũng dư sức trả rồi. Nghĩ lại thì trước khi chuyển đến sống ở Kyoto, việc bỏ tiền túi ra mua một bộ kimono với tôi là chuyện không tưởng. Thực ra obi là đồ có sẵn ở nhà, còn cách mặc thì tôi phải nhờ bà giúp. Tôi chạm tay vào obi, trong lòng mong mỏi một ngày nào đó mình có thể tự mặc kimono. “Mọi người tập hợp đồng đủ rồi, giờ ta cụng ly khích lệ tinh thần làm việc đầu năm nhé.” “Của Aoi là amazake[10] nhỉ.” Anh Holmes rót sake và amazake vào chén, sau đó đưa rượu cho từng người theo thứ tự tuổi từ thấp đến cao, bắt đầu từ tôi, cô Yoshie, quản lí, và cuối cùng là ông chủ kèm câu: “Mời ông ạ.” Chẳng biết có phải do trang phục truyền thống hay không, mà mỗi động tác của anh Holmes đều quyến rũ hơn bình thường, khiến tôi không tài nào nhìn thẳng được. “E-Em cảm ơn ạ,” tôi nhận lấy chén rượu và e lệ cụp mắt xuống. Đúng lúc mọi người đang chuẩn bị nâng ly, tiếng chuông leng keng vang lên ngoài cửa, và anh Akihito hớt hải xông vào, “Xin lỗi cả nhà, cháu đến muộn! Năm mới vui vẻ ạ!” Anh ấy cũng đóng bộ chỉnh tề với hakama và haori có màu xanh chủ đạo. Mái tóc sáng màu nhìn qua tưởng chừng không ăn nhập với phục trang, thế mà lại hoà hợp đến bất ngờ. Hiện nay, anh Akihito đang được công chúng khen ngợi là một “diễn viên điển trai”. Chắc nhờ thường xuyên mặc trang phục truyền thống trên chương trình giới thiệu Kyoto “Tiết trời Cố đô” nên anh ấy đã quen với kimono rồi. “‘Xin lỗi cả nhà’ gì chứ, có ai mời anh đâu nhỉ?” “Bậy nào.” Bị anh Holmes ném cho một cái nhìn lạnh tanh, anh Akihito lắc đầu nguầy nguậy. “Hôm mở tiệc giao thừa, ông chủ đã dặn tôi rằng: ‘Mồng ba tiệm bắt đầu mở cửa trở lại, cậu hổng mắc việc gì thì nhớ ghé qua nghen. Có cậu Akihito tới bao giờ cũng vui.’ Tôi được ông chủ chiếu cố bấy lâu nay, nghe thế sao có thể không đến được.” Anh Akihito vừa cười vừa tét một phát vào cánh tay anh Holmes. Đối nghịch lại, anh Holmes xoa xoa chỗ tay bị tét với ánh mắt lạnh lùng. Hai con người này mới đầu năm đã thế, chẳng thay đổi gì. “Vậy là cậu Akihito cũng tới rồi.” Ông chủ đích thân rót sake vào chén và trao cho anh Akihito. Anh Akihito nhận lấy với vẻ trân trọng. “Nào, Takeshi, Kiyotaka, Yoshie, bé Aoi, cậu Akihito. Năm nay vẫn lại tiếp tục chiếu cố nhau nghen” Ông chủ cao giọng hô: “Cụng ly!”, chúng tôi cũng đồng loạt nâng chén và nói: “Cụng ly!” rồi uống một hơi cạn chén. Có lẽ do tôi đã thấm mệt vì không quen mặc kimono, lại phải đi từ nhà đến tận đây, nên ngụm amazake thanh mát ấy cảm giác ngon vô cùng. “Ơ, Aoi cũng uống sake à?” “Dạ không, mình em uống amazake ạ.” “À ừ, em vẫn còn vị thành niên nhỉ. Lớp Mười Một đúng không?” “Vâng, em sẽ lên lớp Mười Hai vào mùa xuân ạ.” “Phải rồi Aoi, nói đến mùa xuân thì xuân năm nay đứa con trai đang đi du học của cô sẽ về nước đấy. Mong cháu giúp đỡ thằng bé nhé,” cô Yoshie chêm vào một câu như thể vừa sực nhớ ra. Tôi bị bất ngờ, nhưng vẫn gật đầu đáp: “V-Vâng ạ.” Nhắc mới nhớ, Cô Yoshie có một đứa con trai. Nếu tôi không nhầm thì cậu ấy đang học lớp Mười, nghĩa là nhỏ hơn tới một tuổi. Con của cô Yoshie thì hẳn phải đẹp trai lắm. Trong lúc mọi người đang sôi nổi trò chuyện, ông chủ nhìn đồng hồ rồi chậm rãi đứng dậy. “Thôi, bọn ta đi trước nghen.” “Vậy bố cũng...” “Khoan.” Thấy ông chủ và quản lí lại chuẩn bị đi đâu đó, anh Holmes vội lên tiếng. “Ông và bố có thể nán lại một chút rồi mới đi có được không ạ? Hôm nay dù sao cũng là ngày mở hàng, con muốn dẫn Aoi đến thăm Yata Jizo-son.” Nghe anh Holmes nói, tôi nghiêng đầu thắc mắc: “Yata Jizo-son ấy ạ?” “Là ngôi chùa Địa Tạng ở ngay gần đây. Ngày làm việc đầu tiên nên anh nghĩ cũng nên đến chào hỏi chút.” “À, chỗ bên cạnh đồn cảnh sát phải không ạ?” Tôi vỗ hai tay vào nhau. Hôm nào đi làm tôi cũng trông thấy nơi đó, nhưng không mấy để tâm nên đến tên cũng chẳng biết. Tôi tự dưng thấy có lỗi vì sự thiếu lễ độ của mình. “Cũng được, mà đi lẹ lẹ nha. Ta hổng có đợi được lâu đâu,” ông chủ ngúng nguẩy quay đi. “Nói gì thì đây vẫn là cửa hàng của ông đấy ạ. Ông định trốn việc đi chơi mà sao còn giở giọng hách dịch với con cháu thế?” “Ta còn nhiệm vụ đi chúc Tết rất quan trọng đó. Đã thế thì bây làm thay ta đi nhá?”   Mời các bạn mượn đọc sách Buổi Tiệc Trà Kì Bí của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án - Robert Van Gulik
Năm 680, Địch Công đã là Đại Lý Tự Khanh ở triều đình. Ông vi hành đến Quảng Châu, vùng đất cảng, nơi giao thương của dân tứ xứ (Trung Hoa, Ả Rập, Ba Tư) để điều tra vụ mất tích bí ẩn của Ngự sử Đại phu Liễu Đạo Viễn. Địch Công nghi ngờ ông ta đến đây để tìm hiểu lời đồn về âm mưu phản loạn của người Hồ. Trong quá trình điều tra, những nhân vật có liên quan mật thiết tới vụ án lần lượt bị sát hại, khiến bí ẩn càng chất chồng bí ẩn... Thực hư vụ mất tích của Ngự sử Đại phu cùng những vụ án mạng đó là gì? Liệu chúng có thực sự liên quan đến âm mưu phản loạn của người Hồ như Địch Công đã phán đoán ban đầu hay không? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án  của tác giả Robert van Gulik.
Theo Em Vào Bóng Đêm
Trái tim Louis Durand đã khép kín suốt mười lăm năm qua, khi vị hôn thê đột ngột qua đời một ngày trước hôn lễ. Giờ đây ở tuổi 37, anh quyết định mở nó ra một lần nữa để bắt đầu cuộc đời mới, kết hôn với Julia Russell - cô gái mà anh quen biết qua những lá thư. Và rồi, ngày ấy cũng đến, cô xuất hiện trước mặt anh, trẻ trung và xinh đẹp hơn rất nhiều so với bức hình mà anh nhận được trước đó, khiến anh ngỡ đây chính là hạnh phúc bấy lâu nay mình kiếm tìm. Anh cứ lâng lâng trong hạnh phúc mà chẳng hề hay biết cô gái trước mặt là một người mà cả trái tim và quá khứ đều chìm ngập trong bóng tối. Kể từ đó Durand đã bị cuốn vào điệu waltz quay cuồng của tình yêu và định mệnh... Khi vũ điệu bắt đầu cũng là lúc tội ác được thực thi... *** Tiết tháng Năm, nắng vàng rực, trời xanh biếc. New Orleans chính là thiên đường và nếu có thiên đường thứ hai thì cũng chỉ được như thế này mà thôi, không hơn. Tại nơi ở dành cho người độc thân trên đường St. Charles, Louis Durand đang thay quần áo. Không phải để bắt đầu ngày mới, bởi mặt trời đã lên cao và anh đã dậy từ mấy tiếng trước; mà vì một sự kiện lớn trong ngày. Hôm nay không phải một ngày bình thường, hôm nay là ngày quan trọng nhất. Một ngày chỉ đến với người đàn ông một lần, và giờ nó đã đến với anh. Dù muộn nhưng nó đã đến. Chính là ngày hôm nay. Anh không còn trẻ nữa. Bản thân anh tự bảo như vậy chứ không phải người khác bảo. Đàn ông ở tuổi anh chưa già. Nhưng với chuyện này, 37 tuổi không còn quá trẻ. Trên tường treo một cuốn lịch, bốn tờ đầu đã lật qua, phô ra tờ thứ năm. Trên cùng, ở giữa, chữ Tháng Năm nằm trang trọng. Hai bên, in nghiêng, đổ bóng, là những con số cuộn xoắn nặng nề, chỉ năm - ngày hờ hững lướt qua mắt người xem: 1880. Bên dưới, trong từng ô nhỏ, 19 chữ số đầu tiên đã bị gạch bỏ bằng bút chì. Riêng số thứ 20 được khoanh tròn bằng bút sáp đỏ. Tô đi tô lại, như thể nhấn mạnh bao nhiêu cũng không đủ. Và những con số tiếp theo trống trơn; nó thuộc về tương lai. Anh mặc chiếc sơ mi có diềm đăng ten hồ bột mà bà Alphonsine đã giặt ủi vô cùng chăm chút, mỗi diềm xếp nếp là một tác phẩm nghệ thuật. Cổ tay áo đính những chiếc cúc bằng đá thạch lựu phủ bạc. Trong chiếc khăn ascot tie mượt mà trải từ cằm anh trở xuống, nhô ra cây ghim cài theo thông lệ mà bất cứ người đàn ông ăn vận trang trọng nào cũng phải có. Trong dịp này, nó là một mảnh trăng lưỡi liềm nạm kim cương điểm ở mỗi đầu một viên hồng ngọc. Một sợi dây đeo đồng hô bằng vàng nặng nề treo nơi túi áo gi-lê bên phải của anh. Nối nó với túi áo bên trái, gồ lên một mặt đồng hồ to bản, là chuỗi những sợi vàng dày dặn, nổi bật giữa bụng anh, và chủ đích như vậy. Đàn ông không có đồng hồ bỏ túi có còn đáng mặt đàn ông? Và một chiếc đồng hồ không được nằm ở đó là thứ đồng hồ vứt đi. Bên trên áo gi-lê bó sát, chiếc sơ mi đẹp đẽ, buông chùng khiến anh trông như một chú bồ câu to diều. Nhưng dù không có nó thì lúc này đây niềm kiêu hãnh cũng đủ làm căng tràn lồng ngực anh. Trên bàn làm việc mà anh đang đứng trước để chải tóc, là gói thư từ cùng một bức ảnh chụp dương bản. Đặt lược xuống, anh tạm dừng việc soạn sửa, cầm lên, xem từng bức thư. Bức thư đầu tiên có tiêu đề Cộng đồng Bạn hữu qua thư ở St. Louis, Mo. - Nhịp cầu giữa những quý cô và quý ông tài hoa, mở đầu bằng nét chữ đàn ông bay bướm. “Thưa ngài! Theo yêu cầu của ngài, chúng tôi hân hạnh chuyển tới ngài tên tuổi và địa chỉ của một thành viên trong nhóm, nếu ngài muốn liên lạc với cô ấy, chúng tôi dám chắc rằng sự trao đổi thư từ tốt đẹp có thể được thực hiện…” Bức thư kế tiếp nét chữ còn thanh thoát hơn, lần này là nét chữ phụ nữ, “Gửi ngài Durand…” Và ký tên, “Trân trọng, cô J.Russell.” Bức thư tiếp, “Gửi anh Durand… Trân trọng, cô Julia Russell.” Bức thư tiếp theo, “Gửi Louis Durand… Người bạn của anh, Julia Russell.” Sau đó, “Louis thân mến… Bạn của anh, Julia.” Sau đó, “Louis thân mến… Người bạn Julia của anh.” Sau đó, “Louis thân yêu… Julia của anh.” Và cuối cùng. “Louis yêu dấu… Julia đang vô cùng chờ mong của anh.” Bức thư này có tái bút, “Bao giờ mới đến thứ Tư đây? Em đếm từng giờ mong được bước lên tàu!” Anh đặt chúng vào chỗ cũ, vỗ nhẹ cho cân, đầy dịu dàng trìu mến. Rồi anh đút chúng vào túi áo trong, kề sát trái tim. Bây giờ anh cầm bức ảnh nhỏ lồng khung ngắm nhìn thật lâu và chăm chú. Người trong ảnh không còn trẻ. Chắc chắn cô chưa đến nỗi già, nhưng hẳn cũng không còn là thiếu nữ. Những đường nét của cô hóp vào với sự biến đổi dần rõ nét. Cái miệng đã bắt dầu sắt lại. Đôi mắt đã xuất hiện dấu hiệu của những nếp nhăn và trũng xuống, sẽ đến trong nay mai. Da mặt đang chùng. Sống mũi đã cong và sắp trở thành hình quặp, cằm nhô về phía trước và sẽ xuất hiện cục lồi. Cô không đẹp. Nhưng có thể coi là hấp dẫn, bởi anh thấy cô hấp dẫn, mà xấu đẹp là do mắt người nhìn. Mái tóc đen của cô được búi thành hình nón sau gáy, một vạt tóc mỏng được để lại, rủ lòa xòa trước trán, theo mốt thời trang thịnh hành xưa nay. Thực ra nó đã lặng lẽ hết mốt từ lâu. Do sự hạn chế của khuôn hình mà món trang sức duy nhất góp mặt là dải ruy băng nhung đen thắt ở cổ cô, vì ngay bên dưới, bức ảnh đã kết thúc trong lớp mây nâu khói của nước ảnh. Đây chính là thỏa thuận của anh với tình yêu, vơ lấy những gì có thể trong sự vội vàng bạt mạng, bởi vì anh sợ không còn gì để mà lấy, vì đã chờ đợi quá lâu, sau khi anh đã chờ 15 năm, kiên quyết quay lung với nó. Tình yêu thuở hoa niên, mối tình đầu (mà anh đã thề là tình cuối) giờ chỉ còn là hồi ức nhạt nhòa, một cái tên trong quá khứ đã gần lãng quên. Marguerite, bây giờ anh có thể gọi tên mà không thấy xốn xang. Khô và phẳng như một bông hoa ép trong sách nhiều năm trời. Cái tên trong quá khứ của một người khác, không phải anh. Người ta nói cứ sau 7 năm chúng ta lại thay đổi hoàn toàn, không còn chút gì của con người cũ. Như vậy, anh đã hai lần trở thành một người khác xưa. Anh đã hai lần giã từ cậu thanh niên 22 tuổi -Louis Durand xưa kia, và là mối liên hệ duy nhất giữa họ - người đã gõ cửa nhà cô dâu tương lai vào buổi tối trước đám cưới, mắt long lanh, tay ôm hoa. Rồi đứng đợi mãi. Và anh thấy cửa từ từ mở ra, hai người đàn ông xuất hiện, khiêng một chiếc cáng phủ kín. “Tránh ra nào, bệnh sốt vàng da đấy.” Anh trông thấy chiếc nhẫn trên ngón tay cô ấy, kéo lê trên đường. Anh không khóc òa. Anh không thốt ra lời nào. Anh cúi xuống đặt những bông hoa mang tình yêu đôi lứa lên cái cáng chở người chết đi qua. Rồi anh quay lưng rời khỏi đó. Rời khỏi tình yêu, trong 15 năm. Marguerite. Cái tên ấy là tất cả những gì anh còn lại. Anh chung thủy với cái tên ấy cho đến lúc chết. Vì anh cũng đã chết, dù chậm hơn cô. Chàng thanh niên 22 tuổi chết đi trở thành người đàn ông 29 tuổi. Đến lượt anh ta chung thủy với cái tên mà người đi trước đã chung thủy, cho đến khi chết. Rồi người đàn ông 29 tuổi trở thành người đàn ông 36 tuổi. Và bỗng một ngày, nỗi cô đơn chồng chất suốt 15 năm, bị dồn nén, đã vỡ òa và nhấn chìm anh, khiến anh hoảng loạn tìm đường thoát. Bất cứ tình yêu nào, ở bất cứ đâu, dưới bất cứ hình thức nào. Nhanh lên, trước khi quá muộn, để không phải cô đơn thêm nữa. Khi ấy, chỉ cần anh gặp một người trong tiệm ăn… Hoặc chỉ cần anh gặp một người qua đường… Nhưng anh không gặp ai cả. Thay vào đó, mắt anh cụp xuống dõi theo mục quảng cáo trên báo. Một mục quảng cáo của St. Louis trên một tờ báo ở New Orleans. Bạn không cách nào thoát khỏi tình yêu! Những suy nghĩ trong anh chấm dứt. Tiếng bánh xe ngựa dừng ngay bên ngoài khiến anh nhét bức ảnh trong ví và cho vào túi. Anh bước ra hiên tầng hai nhìn xuống. Ánh nắng rọi trắng xóa lưng anh như bột mì khi anh vươn người, đè lên nhánh hoa giấy đỏ tươi leo quanh thành lan can. Một người đàn ông da đen từ ngoài đường đi vào sân qua một hành lang. “Làm gì mà lâu thế?” Durand hỏi vọng xuống. “Có hoa cho tôi chưa?” Câu hỏi hoàn toàn tu từ, vì anh đã thấy cái gói hình nón, phía trên những lớp giấy sáp bọc ngoài lấp ló sắc hồng. “Chắc chắn rồi ạ!” “Còn xe ngựa thì sao?” “Nó đang đợi cậu đấy!” “Tôi tưởng ông chẳng bao giờ thuê xe ngoài,” anh nói tiếp. “Ông chỉ thích…” Người đầy tớ da đen lắc đầu vẻ triết lí. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả.” “Nhanh lên, Tom,” anh nôn nóng giục giã. “Đừng đứng dưới đó cả ngày như thế.” Vẫn giữ nụ cười trêu chọc, Tom đi tiếp, khuất dạng dưới sườn nhà. Lúc sau, cửa phòng mở ra và ông bước đến sau lưng ông chủ. Anh quay lại, đến gần ông, giành lấy bó hoa, lột hết những lớp bọc ngoài, với sự vội vàng nôn nóng hơn là cẩn thận nâng niu. “Cậu định tặng cho cô ấy, hay là phá nát nó?” Ông ta hỏi mát. “Chà, tôi phải xem trước chứ, đúng không? Ông nói xem cô ấy có thích hoa hồng và hoa đậu thơm không, Tom?” Có sự tuyệt vọng trong câu hỏi cuối, giống như khi người ta đã hết cách. “Không phải tất cả phụ nữ đều vậy ư?” “Tôi không biết. Cô gái duy nhất mà tôi…,” anh không nói hết câu. “Ôi, bọn họ,” Tom nói với vẻ bao dung. “Người bán hàng nói họ sẽ thích, anh ta bảo phụ nữ đều yêu cầu loại hoa này.” Ông cẩn thận vuốt phẳng lớp giấy bọc phía trên, trả lại sự gọn gàng cho bó hoa. Trong lúc đó Durand nháo nhào thu gom quần áo còn lại, chuẩn bị lên đường. “Tôi muốn đến nhà mới trước,” anh nói, có phần hổn hển. “Cậu mới ở đó hôm qua,” Tom chỉ ra. “Hình như cậu sợ nếu xa nó một ngày thì nó sẽ bay mất ấy.” “Tôi biết, nhưng đây là lần cuối cùng tôi phải đảm bảo mọi thứ đều… ông nói với em gái ông chưa? Tôi muốn bà ấy ở đó khi chúng ta đến.” “Bà ấy sẽ ở đó.” Durand đặt tay lên nắm đấm cửa, rồi lại dừng bước, nhìn quanh, và bộ dạng hăm hở chùng hẳn. “Đây sẽ là thời khắc cuối cùng của nơi này, Tom ạ.” “Nó thật đẹp và yên bình, cậu Lou,” người đầy tớ thừa nhận. “Trong mấy năm qua, từ lúc cậu bắt đầu già đi.” Như bị tác động trước lời cảnh báo ngấm ngầm về sự trôi qua của thời gian, không khí khởi hành lại sôi động. “Ông hãy đóng gói nốt, để ý đồ của tôi đằng kia. Nhớ trả chìa khóa cho Madame Tellier trước khi đi.” Anh lại dừng lại, quả đấm cửa đã xoay, nhưng cửa vẫn chưa mở. “Sao thế, cậu Lou?” “Tôi thấy sợ. Tôi lo cô ấy…,” anh nuốt khan qua cổ áo dựng đến tai, đưa mu bàn tay thấm những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, “… sẽ không thích tôi.” “Tôi thấy cậu rất bảnh.” “Cho đến giờ, mọi chuyện chỉ diễn ra qua thư từ. Trong thư thì dễ.” “Cậu đã gửi ảnh cho cô ấy. Cô ấy biết cậu trông như thế nào,” Tom tìm cách khích lệ. “Ảnh chỉ là ảnh. Người thật thì khác.” Tom tiến đến chỗ anh đang đứng ủ rũ chếch một bên cửa, phủi bụi sau vai áo vest cho anh. “Cậu không phải người đẹp trai nhất N’Orleans, nhưng cũng đâu phải người xấu nhất.” “Tôi không định nói đến vẻ ngoài. Tính cách của chúng tôi…” “Tuổi tác hai người hợp nhau. Cậu đã cho cô ấy biết.” “Tôi đã bớt đi một năm. Tôi đã nói mình 36 tuổi, như vậy nghe đỡ hơn.” “Cậu có thể cho cô ấy một cuộc sống thoải mái, cậu Lou.” Durand sốt sắng gật đầu, như thể đến giờ mới cảm thấy tự tin. “Cô ấy sẽ không nghèo khổ.” “Vậy thì không cần quá lo lắng nữa. Đàn ông khi yêu coi trọng ngoại hình. Còn phụ nữ khi yêu, nói vô phép cậu, họ chỉ muốn biết mình sẽ sống sung túc ra sao thôi.” Nét mặt Durand tươi tỉnh hẳn. “Cô ấy sẽ không phải chắt bóp.” Anh ngẩng cao đầu trước phát hiện mới mẻ. “Cho dù tôi không được như kỳ vọng, cô ấy cũng sẽ dần quen với tôi.” “Cậu chỉ muốn yên tâm thôi phải không?” Tom lục lọi trong người, lôi ra sợi dây cất kĩ trong ngực, treo một cái chân thỏ cũ mèm lồng trong chiếc vòng nhỏ mạ vàng. Ông đưa nó cho Durand. “Ồ, tôi không tin vào…,” Durand lúng túng từ chối. “Chúng không sai khiến được người đàn ông da trắng nói đồng ý,” Tom cười tủm tỉm. “Chúng cũng chẳng khiến cho anh ta nói điều ngược lại. Cậu cứ để nó trong túi, không hại gì đâu.” Durand áy náy cất nó đi. Anh nhìn đồng hồ, rồi đóng nắp lại. “Muộn rồi! Tôi không muốn lỡ chuyến tàu!” Lần này anh đẩy mạnh cánh cửa, bước qua ngưỡng cửa đánh dấu đời độc thân. “Cậu còn hơn nửa tiếng trước khi tàu của cô ấy hiện ra trên sông.” Nhưng Louis Durand, chú rể tương lai, chẳng chần chờ, anh chạy bổ xuống cầu thang lát đá bên ngoài ngôi nhà của Madame Tellier với dáng vẻ tất tả. Lát sau từ cửa sổ dưới sân vọng lên những tiếng rầm rập. Tom sải bước ra ngoài hiên tầng hai. “Mũ của tôi! Ném nó xuống đây.” Durand nôn nóng nhảy lên nhảy xuống. Tom ném nó xuống rồi đi vào. Một giây sau, tiếng rầm rập lại vang lên, còn bức thiết hơn. “Gậy của tôi nữa!” Nó rơi xuống, được bắt lấy khéo léo giữa không trung. Một làn bụi nhỏ nhuộm nắng vẩn lên từ những phiến đá lát không được sạch lắm của Madame Tellier. Tom quay đi, lắc đầu chịu thua. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả, chắc chắn rồi!” Mời bạn đón đọc Theo Em Vào Bóng Đêm của tác giả Cornell Woolrich & Nguyễn Thị Hạnh (dịch).
Địch Công Kỳ Án Tập 10: Mê Cung Án - Robert Van Gulik
Mê Cung Án là tác phẩm thứ 10 trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án viết về Địch Nhân Kiệt - vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì. Năm 670, Địch Công được điều chuyển làm huyện lệnh của Lan Phường - một trấn huyện ở biên giới Tây Bắc Đại Đường. Khi đặt chân đến nhiệm sở, ông cùng các trợ thủ vô cùng kinh ngạc khi thấy thái độ thờ ơ của dân chúng trước sự xuất hiện của tân Huyện lệnh. Ở nơi phố huyện hoang tàn, ác bá hoành hành, dân chúng mất hết niềm tin vào triều đình, quan lại, Địch Công sẽ phải làm gì để chỉnh đốn lại huyện nha, lấy lại lòng tin ở dân? Phải chăng “Phép vua” thực sự “thua lệ làng” ở nơi đây? Thế nhưng, niềm tin mất đi thì dễ lấy lại thì khó, giữa một mờ bòng bong các sự việc đồng thời xuất hiện: một lão tướng đã từ quan được phát hiện chết trong căn buồng riêng, cửa bị chặn từ bên trong; Một câu đố chưa lời giải về bức tranh Quan Âm chứa đựng đầy ẩn ý; Một mê cung hé lộ tội ác đầy kinh hoàng. Những vụ án tưởng chừng như riêng lẻ ấy có liên quan mật thiết gì đến nhau? Địch Công đã gỡ rối chúng như thế nào? Hình phạt nào dành cho kẻ thủ ác? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 10: Mê Cung Án  của tác giả Robert van Gulik.
Hiệu Ảnh Nishiura ở Enoshima
Được chắp bút bởi tác giả triệu bản tại Nhật Bản - Mikami En. Một cuốn sách góp nhặt một chút diệu kì, hư ảo, lạnh sống lưng và cả sự xót thương đan xen giữa hai thế hệ. Nếu bạn đang tìm kiếm một câu chuyện khiến bạn tò mò đến trang cuối cùng vì không thể nào đoán được kết thúc thì xin đừng bỏ lỡ cuốn sách này. Câu chuyện xảy ra tại một vùng đất kỳ lạ mang tên đảo Enoshima. Hiệu ảnh lâu đời Nishiura kinh doanh hơn một thế kỷ nay đã bị đóng cửa do cái chết bất ngờ của chủ tiệm Fujiko Nishiura. Được mẹ giao nhiệm vụ sắp xếp lại di vật của người bà quá cố đã mất vào mùa thu năm ngoái, cô cháu gái 23 tuổi Mayu đã quay trở lại hòn đảo chứa đựng biết bao hoài niệm ấy.  Khi khám phá ngôi nhà trăm tuổi cũ kỹ ấy, cô đã tìm thấy một túi ảnh được đánh dấu là “chưa chuyển phát”, chúng thực sự kích thích trí tò mò của cô gái trẻ. Bốn bức ảnh được chụp ở bốn thời điểm khác nhau trong suốt 100 năm qua nhưng bố cục lại giống hệt nhau. Mặc dù thời đại thay đổi, trang phục khác nhau nhưng chẳng hiểu vì sao người đàn ông trẻ tuổi đang mỉm cười trong những tấm ảnh ấy trông giống nhau đến lạ. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng. việc chụp ra những bức ảnh này là hoàn toàn không có khả năng.Cũng chẳng có người nào có thể trẻ mãi không già. Chẳng lẽ chủ nhân của những bức ảnh ấy chưa từng quay trở lại để lấy chúng hay sao? Những câu chuyện ly kì cứ tiếp tục xảy đến. Và rồi, một anh chàng sinh viên trường y 24 tuổi - Akitaka Madori đến xin lại những tấm ảnh cũ. Nhưng anh ta có gương mặt giống hệt người đàn ông trong bức ảnh kia...  Sự trùng hợp rùng rợn này là sao? Ngày trước, Mayu đã quyết tâp theo đuổi sự nghiệp nhiếp ảnh song không hiểu vì sao những bức ảnh cô chụp lại lan tràn trên mạng và hủy hoại cuộc đời của bạn cô Rui Nagano lúc mới chỉ 23 tuổi. Những trải nghiệm cay đắng ấy đã khiến cô từ bỏ việc chụp ảnh để làm nhân viên văn phòng và rồi cô khóa chặt mình trong lớp vỏ đơn độc và tiếc nuối vô bờ bến.  Anh chàng Akitaka kì lạ ấy ngỏ ý nhờ Mayu giải đáp những bí ẩn trong bức hình ấy nhưng liệu tình yêu sâu đậm dành cho nhiếp ảnh của cô gái trẻ có bị đánh thức một lần nữa? và bí mật ẩn sau anh chàng Akitaka kia thực sự là gì? Là sự thật đáng sợ hay đáng thương? Cuốn sách Hiệu ảnh Nishiura ở Enoshima chụp lại những khoảnh khắc của một nước Nhật xa xưa và hiện tại mà ta chẳng thể nào bắt gặp ở bất kì cuốn sách nào khác. Giọng văn lôi cuốn cùng những tình tiết cao trào đầy ngẫu hứng nhưng gây tò mò, chẳng thể nào ngờ tới. Một cuốn sách sẽ ám ảnh bạn trong một thời gian dài, gây xúc động mạnh mẽ khi đọc đến trang cuối cùng. Một cuốn sách làm dịu mát tâm hồn trong những ngày tháng xô bồ của nhịp sống hiện đại.  “Cuộc đời của một con người cũng sẽ không dễ dàng bị đảo lộn. Những cuộc đời đã bị đảo lộn rồi một ngày sẽ bình yên trở lại” *** Mikami En Sinh năm 1971 tại thành phố Yokohama thuộc tỉnh Kanagawa. Tác phẩm đầu tay là Dark Violet do Dengeki Bunko phát hành. Lĩnh vực sáng tác của Mikami trải rộng từ thể loại kinh dị cho đến kì ảo. Văn phong tỉ mỉ và trau chuốt đã thu hút được đông đảo độc giả trung thành. Tác phẩm Dark Violets của ông từng vượt qua ba vòng bình chọn cho giải thưởng tiểu thuyết Dengeki lần thứ 8. Năm 2002, ông ra mắt tác phẩm đầu tay, năm 2011 cho ra mắt bộ tiểu thuyết Tiệm sách cũ Biblia, xoay quanh quá trình đi giải đáp các bí ẩn trong một tiệm sách cũ. Seri Tiệm sách cũ Biblia được ông chấp bút đã bán hơn 6,4 triệu bản tại Nhật Bản và được chuyển thể thành phim. Các tác phẩm chính của ông gồm có bộ truyện Shadow Taker, bộ truyện Người lính giả danh, bộ truyện Tiệm sách cũ Biblia... Tác phẩm này là tập truyện đơn đầu tiên của ông. Chỉ có câu chuyện thứ nhất của tác phẩm này là được đăng trên tạp chí Jaro số 54. Các phần còn lại là được viết mới. Cuộc đời của một con người sẽ không dễ dàng bị đảo lộn. Những cuộc đời đã bị đảo lộn rồi một ngày sẽ bình yên trở lại. *** Mình mua cuốn sách này vì dòng cuối của bìa sau sách: “ Sự trùng hợp rùng rợn này là sao?” vì cứ nghĩ nó mang chút ma mị cổ quái, khi mà sách viết về hiệu ảnh cũ thì yếu tố này cũng dễ hiểu thôi mà, phải không các bạn ? Chưa đọc mà mình cứ nghĩ sẽ có một nhân vật trẻ mãi không già, sống trong một gia tộc cả trăm năm (cũng là do đọc bìa sau sách hihi).   Mở cuốn sách, điều khiến mình thích nhất là bookmark ^^ đâu ra cái máy ảnh dễ thương lắm luôn, nên là đọc cả cuốn này mình kẹp bookmark máy ảnh ở trang đầu và định dùng một bookmark khác, sợ hỏng mất em máy ảnh  Vậy mà sau đó mình đọc xong trong một buổi tối nên cũng chưa cần dùng tới bookmark luôn. Nội dung cuốn sách không quá ma mị như mình tưởng tượng, vì bản thân mình kì vọng hơi cao vào yếu tố này nên bị hẫng chứ thực tế là sách được tiết chế vừa phải, không có các chi tiết thừa hay rườm rà, các câu chuyện chủ chốt cũng thú vị và nhiều chi tiết cần suy ngẫm. Đặc biệt là dịch giả Như Nữ dịch tác phẩm rất mượt mà các bạn ạ. Tuy mình không đặc biệt thích nhân vật nào trong truyện nhưng mỗi nhân vật thì đều có nét thú vị riêng. Với nhân vật chính, Katsuragi Mayu, cô gái 23 tuổi, đang sống từng ngày mà trốn tránh niềm đam mê nhiếp ảnh của bản thân, luôn dằn vặt về một lỗi lầm đáng trách trong quá khứ, thì mình đánh giá cao sự nhạy bén trong cách sắp xếp sự việc của cô, và mình cho rằng đây là một cô bạn thông minh cho dù cô ấy có hơi vụng về khi giao tiếp (một chút, vì từ bé người ta đã ít nói đó). Madori Akitaka là nhân vật thứ 2 và có khá nhiều đất trong truyện, anh là người cùng với Mayu khám phá những điều chưa tỏ được ẩn giấu trong tiệm ảnh cũ này, từ đó tìm ra lời giải cho những khúc mắc bên trong Mayu và bản thân mình. Anh chàng này làm mình khâm phục vì lòng nhân ái và sự nhẫn nhịn, sự nhẫn nhịn xuất phát từ tấm lòng hiếu thảo với người bà và cả người bố gia trưởng, mặc cho nỗi băn khoăn cào xé trong lòng mình. Những chàng trai hiếu thảo luôn được mình đánh giá cao ^^ Lòng nhân ái thì thể hiện bằng việc hỗ trợ Mayu dọn dẹp khi thấy cô xoay vần cùng cả đống việc ngổn ngang. Mà ban đầu cứ nghĩ Mayu và Akitaka là một đôi chứ, cũng trai tài gái sắc lắm mà, không ngờ còn một nhân vật nữa tài hơn, sắc hơn đang giấu mặt. Nagano Rui. Thực tế mình không phải ham trai đẹp lắm đâu, nhưng xuyên suốt cả câu chuyện mình cứ nghĩ nếu dựng thành phim thì Akitaka được điểm 10/10 chắc Rui phải được 11/10. Nhân vật này không trực tiếp xuất hiện nhưng qua những câu chuyện cũ, những bước tìm lại điều bấy lâu bị giấu kín đã khắc họa một Rui rất dị biệt nhưng mang nét đẹp tài tử cuốn hút ( đối với mình). Nhưng mình thắc mắc một điều là Rui đẹp vậy mà lại biết cách khiến người khác không chú ý về mình nữa thì lạ ha, thường những người như vậy cứ nghĩ hay được chú ý chứ nhỉ. Bà Fujiko Nishiura. Vì câu chuyên diễn biến khi bà Fujiko đã mất nên hình ảnh bà chỉ xuất hiện thông qua các câu chuyện, nhưng minh vẫn cảm nhận được sự nhân ái và gần gũi của bà. Bìa cuối sách có một câu khiến mình luôn nghĩ về bà Fujiko : “Cuộc đời của một con người không dễ dàng bị đảo lộn. Những cuộc đời đã bị đảo lộn rồi một ngày sẽ bình yên trở lại”. Cảm giác như hình ảnh bà đứng trước tiệm ảnh cũ, mỉm cười và nói như vậy đó. À mà phải rồi, đọc cuốn này tớ thấy thích bạn mèo trắng Yona trong truyện ^^ ngoài ra thì các nhân vật khác cũng có chỗ đứng và khiến người đọc phải suy ngẫm theo một cách riêng nhưng mình xin dừng ở đây thôi để các bạn cùng đọc cuốn sách này nhé. Đọc xong cuốn này và tìm hiểu về tác giả thì mới biết còn có cuốn “Tiệm sách cũ Biburia” cũng được đánh giá tốt. Mình sẽ tiếp tục đọc sách của Mikami En lần nữa. Nếu đọc xong thì đây là cuốn thứ 3 trong list những cuốn sách về cửa tiệm hay cửa hiệu nào đó rồi. Vui quá ạ. Nhưng mình có chút thắc mắc nhờ các bạn giải đáp với. Ở phần giới thiệu của cuốn Hiệu ảnh này ghi là “ Tiện sách cũ Biburia” nhưng mình tìm trên tiki, cùng tác giả thi chỉ có “Tiệm sách cũ Biblia” thôi. Vậy khác biệt là do đâu, mà 2 bộ này vẫn là 1 phải không ạ? Cảm ơn các bạn. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ nha. Trang Nguyen *** Một chú mèo trắng cắm đầu ăn cơm trong chiếc đĩa để trên sàn nhà. Có tiếng bước chân vọng xuống từ tầng hai. Chú mèo lơ đễnh ngẩng đầu lên, một người đàn ông mảnh khảnh đang bước về phía cuối hành lang. Nó biết người đàn ông này không có gì phải đề phòng. Có vẻ hôm nay người đàn ông ấy cũng mặc một bộ đồ màu lam, thế nhưng dưới đôi mắt mèo thì chẳng thể nhìn rõ được màu sắc gì cả. Sau tiếng bước chân, có tiếng nước chảy vọng ra. Với loài mèo, con người là loài sinh vật sống bằng chân. Từ cử động của ngón và tiếng động do ngón chân tạo ra là có thể đoán được người đó đang làm gì, đang có tâm trạng gì. Người đàn ông vẫn di chuyển nhanh thoăn thoắt như mọi khi. Anh nhanh chóng thu dọn chén đĩa trên bàn, rửa nồi niêu đã sử dụng. Anh định nhân tiện dọn nốt đĩa thức ăn mèo. Này này, mèo tôi đây còn chưa ăn xong đâu đấy - mèo kêu lên kháng nghị. Thế là người đàn ông bèn vuốt ve lưng mèo như thể xin lỗi. Ngay sau đó, người đàn ông đi ra khỏi nhà theo lối cổng sau. Ngôi nhà yên tĩnh trở lại và chú mèo thong dong ăn nốt bữa cơm của mình. Hiện tại, chỉ có mình mèo và người đàn ông đó sống trong ngôi nhà này. Cũng có thời khá nhiều người sống ở đây hơn, ngôi nhà rất náo nhiệt, nhưng chẳng biết tự khi nào họ đều dần đi khỏi. Mèo không biết người đàn ông luôn ra khỏi nhà vào khung giờ nhất định ấy đi đâu và làm gì. Dù sao nó cũng chẳng có hứng thú biết điều đó. Để lại chiếc đĩa trống không, mèo trắng lách mình qua khe cửa nhỏ. Nhanh chóng băng qua đoạn đường còn mờ tối ẩm ướt, nó chạy về hướng có ánh nắng mặt trời. Ngôi nhà mà mèo đang ở đã cũ nát, khác hẳn những ngôi nhà quanh đó. Nghe nói, từ xa xưa, trước khi mèo tới, đây là nơi sinh sống của rất nhiều người. Phía bên phải có tiếng sóng biển, còn bên trái có tiếng bước chân con người. Chú mèo không muốn lại gần một người xa lạ, nhưng ra gần biển thì cũng chỉ có gió lạnh mà thôi. Cuối cùng, nó quyết định rẽ sang bên trái. Nơi đây là một hòn đảo được biển bao bọc bốn phía. Mèo đi lướt qua vô số người, nhưng trong mắt mèo, nó chỉ thấy toàn chân là chân. Chân to có, chân nhỏ có, chân không nhìn thấy ngón, chân chỉ nhìn thấy ngón... Và trong cái thời tiết giá lạnh như hiện nay thì những đôi giày dày và ấm là nổi bật nhất. Mèo dừng bước chân để tránh một người đang đi từ phía đằng trước tiến lại. Người này to lớn lạ thường, chân của anh ta cũng được bọc trong một đôi giày màu đen. Tiếng bước chân của người này trầm đục một cách kỳ lạ. Cộp, cộp, cộp. Tiếng bước chân truyền tải tâm trạng mịt mùng u ám như sương mù ban đêm, thứ tiếng mà thỉnh thoảng mèo lại nghe thấy. Người đàn ông sống cùng mèo đôi lúc cũng có bước đi như thế. Có lẽ vì mèo dừng lại nên người đàn ông to lớn đối diện hiểu lầm. Anh ta ngồi xổm xuống và duỗi tay ra. Có vẻ anh ta định vuốt ve mèo. Tóc trên đầu anh ta ngắn hơn người khác một chút. Và không chỉ mỗi chân, mà cả người anh ta được bao bọc trong một bộ đồ màu đen khiến anh ta trông như một cái bóng. Mèo chạy vụt đi. Nó ghét nhất là bị con người nhìn chằm chằm hay chạm vào lông mình. Cuối con đường ấy là một sườn dốc lớn. Số chân người trong tầm mắt mèo tăng lên. Mèo cố gắng không lại gần họ mà bước đi trên làn đường rải sỏi. Xuống hết con dốc, mèo cảm thấy mùi của thủy triều nồng đậm trong không khí. Thật hiếm khi có ít người ở đó như thế, mặc dù vậy, thỉnh thoảng nó cũng gặp rắc rối khi bị mấy đứa trẻ đuổi bắt. Trong lúc đang tìm một chỗ có nhiều ánh nắng, mèo đã đặt chân đến một cây cầu lớn dẫn ra khỏi đảo. Nó cũng nhận thức được một cách mơ hồ rằng, cây cầu này do con người tạo ra. Những loài động vật khác chẳng thể làm ra được thứ như thế này. Mèo vẫn luôn sống trên mảnh đất này và chưa bao giờ qua bên kia cây cầu. Con người hoàn toàn không gượng ép nó, nhưng nó vẫn ở lại, bởi tự nó cảm thấy mảnh đất này là nơi dành cho mình. Có những thứ vô hình đã gắn kết mèo với hòn đảo này. Rất nhiều người đã băng qua cây cầu lớn bắc qua biển để đến với nơi đây. Trong họ cũng có điều gì đó gắn kết bản thân với hòn đảo này. Mèo nghiêng tai lắng nghe, hầu hết những bước chân ấy đều rất nhẹ nhàng, dễ chịu, mang theo tâm tình vui vẻ, tươi sáng. Chỉ có người đàn ông có bước chân trầm đục lúc nãy là khác. Trong một ngày, mèo cũng chẳng gặp mấy người như thế. Cộp, cộp. Đột nhiên, mèo dựng thẳng đôi tai. Không ngờ hôm nay mèo có thể gặp tới người thứ hai như thế, quả là chuyện hiếm. Lần này là một cô gái nhỏ nhắn hơn người lúc nãy. Cô gái ấy mặc trang phục màu trắng bồng bềnh tròn trịa, nhưng mèo biết cơ thể thực của cô gái khá mảnh mai. Trông cô gái này chẳng có gì là nổi bật cả, giống như cô đã cố tình làm cho mình trở nên như vậy. Cô gái có vẻ đang mang tâm trạng u ám. Mèo có cảm giác như đã gặp cô gái này trước đây, hoặc có lẽ mèo biết một người giống cô ấy. Nó ngồi trên thảm sỏi đã ngấm đủ ánh mặt trời, dõi theo chủ nhân của tiếng bước chân kia. Còn cô gái, cô ấy hoàn toàn không nhận ra sự tồn tại của mèo ta. Rất có thể mèo sẽ gặp lại cô gái. Bởi không hiểu sao, những người có bước chân nặng nề, trầm đục thường hay đi đến ngôi nhà cũ mà mèo đang sống. Dường như có một thứ vô hình nào đó đã gắn kết họ với ngôi nhà ấy. Giống như ngoài nơi ấy ra họ không còn nơi nào khác để đi vậy. ... Mời các bạn đón đọc Hiệu Ảnh Nishiura ở Enoshima của tác giả Mikami En.