Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Ngải Nghệ Huyền Bí - Huỳnh Liên Tử

Thường thường chúng ta hay nghe nói bùa ngải... 2 tiếng hay gọi chung, về bùa chú thì ít nhiều người ta có khái niệm về tiếng đó hơn, còn ngải thì có nghe nhưng nhiều người không rõ lắm nó là gì ? xuất xứ từ đâu, linh nghiệm ở chỗ nào v.v... nay post cuốn sách này lên mong các thành viên có hiểu biết về lĩnh vực huyền bí tâm linh này vui lòng bổ sung cho đề mục thêm phong phú...!Người ta thường nói nhiều về Ngải, nhưng trên thực tế không ai hiểu ngải là gì? Do đâu mà có? Ngay cả những người đã chuộc ngải về dùng cho gia sự cho chính bản thân mình mà chỉ hiểu một cách mơ hồ rằng "Đó là một quyền phép có sức mạnh về huyền bí, hay nói đúng hơn là một ma lực dẫn đắt người dùng ngải đi đến mục đích mà mình mong muốn".Thực ra ngải cũng chỉ là một dược chất, một loại thảo mộc mà các nhà chuyên môn đặc biệt đã tinh luyện gieo trồng, nuôi nấng trong phạm vi thần quyền, nói một cách rõ ràng hơn là họ dùng quyền phép bí thuật của họ để truyền vào cây ngải hoặc củ ngải và cũng tuỳ theo quyền phép và giá trị của loại cây hoặc củ để đánh giá trị của từng loại ngải một. Ngải là 1 loại thực vật ngoại biến càn khôn, thường mọc trong những vùng rừng núi, nhiệt đới như Thất Sơn, Trường Sơn Việt Nam, Lai Châu, Vân Nam Trung Quốc hay Tà Lơn, Lục Sơn bên Cao Miên.Ngải có rất nhiều loại, tính tất cả vừa nguyên thủy vừa lai giống có thể đến gần 800 loại, có 1 số đã có tên khoa học và đã được công nhận tính năng chữa bệnh hay giúp ích cho cơ thể con người bởi các nhà nghiên cứu khoa học, nhưng đa phần vẫn còn trong bí ẩn mà tên gọi chỉ được truyền miệng qua kinh nghiệm dân gian hay các ngải sư với nhau.Ngải là loài thực vật có củ, nhỏ nhất thì nhỏ hơn củ nghệ 1 chút (như ngải đen, ngải nàng thâm, nàng xoài) lớn thì có thể bằng bắp vế người đàn ông lực lưỡng (như ngải mãnh hổ, cuồng phong, ngải tượng v.v...) Ngải có tánh linh tự nhiên kỳ diệu, ví dụ như 1 củ ngải khô đã vài năm để trong nhà không chạm đất, nhưng khi để vô chậu kêu 1 câu chú mời thần ngải về chứng thì 1 vài tuần nó sẽ tự động mọc mầm sống lại, lên cây trổ hoa như thường, hoặc có những người làm ăn, buôn bán vô tình trồng 1 vài chậu ngải bún (còn gọi là ngải hẹ) ở trước nhà mục đích chỉ để làm kiểng, nhưng tự nhiên từ đó đông khách đắt hàng, ăn nên làm ra mà nhơn chủ đâu biết là mình đã trồng loại ngải quyến khách cầu tài như vậy, loại này tên khoa học là auttum crosscus có bán ở các chợ ươm cây, trồng cây kiểng trên xứ Mỹ, tuy nhiên cùng 1 loại mà có phân màu sắc khi trổ hoa, cũng do màu hoa mà biết được ít nhiều về sự linh ứng của từng loại theo kinh nghiệm các thầy ngải. Loại trổ bông màu trắng là mạnh nhất, loại bông màu đỏ đứng hàng thứ 2, loại màu vàng vào hàng 3 và sau cùng là loại có bông màu xanh tím nhạt (thứ này thấy thường ở Mỹ), tại hạ có 1 người bạn chuyên môn về những loại này xưa ở đường NGUYỄN TRƯỜNG TỘ chuyên giúp thân chủ cầu tài, khá giả chẳng hạn như nhà sách HỒNG DÂN cũ, thẩm mỹ viện THẠCH THẢO cùng nhiều người trong giới kinh doanh trước 75...Ngải so với bùa thì mạnh bạo, nhạy bén hơn nhưng về độ bền thì không như bùa, những chuyện gì cần giải quyết cấp tốc, hiển hiện trước mắt tạo tín tâm cho thân chủ nể phục thì các thầy hay dùng ngải ! Nói như vậy không có nghĩa là ngải mạnh hơn bùa, vì nếu người không học bùa thì không thể luyện ngải được. Bởi vì cần có bùa chú để triệu ngải về, mời ngải ăn (cúng ngải) tom (cột) ngải lại không cho đi bậy và người khác không phá được, sai khiến ngải nhứt nhứt đều phải qua phù chú của chư vị tổ sư...!Các pháp sư luyện ngải qua 2 cách sau đây:Ngải chậu và ngải khô:1) Ngải chậu là cây ngải tươi hay bụi ngải tươi được bứng từ rừng về hoặc được gây giống ra mà trồng ở trong chậu để luyện.2) Ngải khô là củ ngải đã đào lên từ bụi ngải trong rừng, trên núi hay trong chậu trồng của thầy mà đem phơi sương, nắng cho thọ khí âm dương sau 3 ngày thì đem vô nhà cúng và luyện. Luyện ngải chậu cách hay nhất là kiếm 7 cái đầu ông táo (miếng trên của cái lò đất) bỏ hoang nơi chùa, miểu, đình thần v.v... đem về bầm nhuyễn trộn với đất thiên nhiên, tuyệt đối không dùng phân (bất cứ phân gì) sau đó lấy 1 miếng chì vẽ khắc chữ bùa tom (cột) để dưới đít chậu, lấy 1 cái hột gà sống dùng mực đỏ vẽ thêm chữ bùa chủ dụng mà mình muốn luyện cho chậu ngải đó, ví dụ như: ngải thương, ngải ăn nói ngoại giao, ngải cầu tài, ngải quan tư tất thắng (ra toà thưa kiện) v.v... Lễ vật để cúng khởi đầu cuộc luyện rất đơn giản chỉ gồm: 3 cái hột gà sống, 1 dĩa gạo muối, 1 ly nước lạnh, 3 chung rượu trắng, 1 dĩa nổ (nếp rang hay bắp rang bong vỏ) đốt 2 cây đèn cầy bên cạnh, còn lại 3 cây nhang đốt thì cắm vô chậu ngải, khởi sự luyện luôn luôn vào lúc chiều chạng vạng (lối giờ Dậu) đầu tiên pháp sư niệm chú hội ngải 3 lần, chú thỉnh 36 mẹ tổ ngải 3 lần rồi chú nguyện, van vái tên họ tuổi của mình (ngưòi luyện) ngày, giờ, năm, tháng này v.v....tôi muốn luyện chậu này gồm loại ngải gì... nói ra (có thể luyện 2, 3 thứ chung 1 chậu cũng được) sau khi tác bạch xong thì định thần, bắt ấn niệm chú sên (đọc thổi) vô chậu ngải, thông thường luyện khoảng 15 phút là được, với cây ngải đã cao lối 2 tấc thì tinh luyện khoảng 21 ngày liên tục thì ngải đã biết chào thầy, chào là khi thầy niệm 1 câu chú hỏi thăm lá ngải sẽ đong đưa qua lại về hướng thầy mặc dù lúc ấy trời không có gió... và cứ thế tiếp tục luyện cho đến khi thấy như có bóng trắng thoáng ẩn hiện là ngải đã có thần, trong thời gian luyện ngải ông thầy tuyệt đối không được ăn tỏi sống, vì thực ra ngải là loại mang khí rất thanh, khác với tỏi được nhà Phật liệt vào ngũ vị tân (tỏi, hành, hẹ, nén, kiệu) mà các vị xuất gia đều phải kiêng cữ... và cứ tiếp tục luyện đều đặn như vậy, càng lâu thì ngải càng mạnh, và mỗi tháng cúng ngải 2 lần vào ngày mùng 2 và 16 âm lịch như bên bùa cúng binh, tướng vậy. Đến 1 thời gian nào đó đã đủ thì pháp sư chọn ngày thâu ngải, cũng nhang đèn trứng, nổ v.v... khấn vái đợi khi tàn nhang thì đào gốc lấy củ đem vô nhà, việc đầu tiên sau khi rửa sạch là pháp sư phải cắn 1 củ nhai nuốt liền, vì theo thầy truyền là có như vậy ngải nó mới mến và phục tùng thầy lâu dài...!Sau khi để lên dĩa đặt ngay bàn thờ binh, tướng đối diện bàn tổ, (bàn binh thấp dưới rún, bàn tổ phải cao trên ngực) pháp sư bắt đầu đọc chú kêu ngải ở với mình, các loài ngải thực là linh lắm, tính ý họ như các cô gái e dè, dịu dàng nhưng dấu kín những phong ba, khi luyện các thầy phải dổ ngọt vuốt ve, thủ thỉ... nói chuyện với ngải như những cô tình nhân, thế cho nên từ trước đến nay các ngải sư cao tay, vang tiếng đều là cô độc không vợ không con, vì nếu các nàng ngải biết thầy lấy vợ là hè nhau vật hoặc phá vợ thầy đau bệnh nặng hay rề rề không hết khó làm ăn lắm, các loại ngải ở Việt Nam ta và Miên, Thái, Lào hay dùng đều cùng loại nhưng khác thổ âm địa phương đôi chút thôi, người mình hay gọi : nàng thâm, nàng mun, nàng xoài, nàng gù, nàng trăng, nàng hồng v.v... đều là tiêu biểu cho phái đẹp.Nói về pháp lực thì ngải rất mạnh và nhạy, chắc ít nhiều trong chúng ta có nghe qua những mẫu chuyện ngày trước ở Việt Nam đại khái như: cô nọ xách giỏ đi chợ tự nhiên có 1 bà xa lạ đến nói vài câu cô bỗng đờ đẫn lột tháo dây chuyền, bông tay, chiếc lắc... cho bà xa lạ đó, chừng 10, 15 phút sau mới hoàn hồn thì bả đã đi mất tiêu rồi ! Đó chính là công năng của ngải, bùa không thể làm con người mất cả hồn vía lập tức như vậy.Còn về mặt lý tính thì ngải nó đơn giản như ta nuôi con chó, con mèo vậy thôi, cho nó ăn đều vỗ về vài câu mỗi ngày là sai nó làm gì nó làm đó, không hề phân biệt thiện, ác trước khi làm, do đó những phù thủy có tâm thuật bất chánh thường hay luyện ngải để trục lợi, còn luyện ngải khô là khi thầy ngải khám phá ra những bụi hay đám ngải hoang trong rừng mà củ đã già, tốt hoặc ngải thầy trồng sau vườn lấy giống mà chưa luyện trong chậu kịp thì được lấy củ, rửa sạch và cũng để lên dĩa để trên bàn binh, tướng, nhưng thầy phải chiều chiều cúng vái niệm chú sên vô dĩa ngải đó như cách luyện ngải chậu vậy ! Thời gian có thể là 360 ngày, 100 ngày 72, hoặc 36 ngày hay ít nhứt là 21 ngày mới đủ linh nghiệm.Ngải khi đã luyện khô rồi được sử dụng các cách như sau:Khi có thân chủ lại nhờ việc gì đó, ông thầy đầu tiên hỏi tên họ tuổi đương sự, sau đó nhang đèn triệu thỉnh rồi cắt vài lát ngải khô hoặc cho nguyên cả củ nhỏ gói trong giấy cấp cho thân chủ, cũng có khi tuỳ việc mà sên thêm 1 vài lát cho ngậm vào miệng khi đi ăn nói như lúc ra toà, đi đòi nợ hoặc mượn tiền. Còn có thân chủ làm những nghề như buôn bán địa ốc, bán bar hay là chị em ta cần sự thương mến, chiếu cố của khách hàng thì thầy bảo mang đến 1 chai dầu thơm, bỏ ngải vào đó, chú nguyện tên tuổi, mục đích cầu gì v.v... kêu ngải theo trợ giúp người này... đương sự sau đó khi dùng chỉ cần mỗi ngày khấn 36 mẹ tổ ngải và xức dầu đó xung quanh miệng, nói người ta nghe, xức 2 chân mày nhìn người ta mến và xoa vào 2 tay bắt tay, vổ vai, vuốt ve đụng chạm thì người thương chuyện khó hoá dễ !Thực ra khi mình xài ngải cũng như bùa, là không có chuyện phải chuộc, phải thỉnh để xài hoài, nếu không sẽ bị điên khùng như nhiều người nghĩ, đó chỉ là lòng vụ lợi của mấy ông thầy, muốn thân chủ trở lại hoài để cúng tiền, trả công cho ông mà thôi, nên nếu lâu người đó mà không đến thì ông thầy làm phép trục (kêu đến) người đó không an trong dạ, xuôi khiến chuyện này chuyện kia phải đến thầy mới trở lại bình thường, xét ra là vị thầy như vậy vốn không đủ tư cách với thiên chức pháp sư của ông ta và cũng không thấu đáo về luật nhân quả vậy !Nói đi thì cũng nói lại, có nhiều thân chủ cũng bạt mạng, vì mục đích mà bất chấp, gạt cả ông thầy xính vính như chơi, ví dụ có cô là dân giang hồ mưu việc đoạt chồng người mà khi đến thầy bảo là chồng mình theo vợ bé, có người muốn mượn tiền người khác mà lại nói là người đó thiếu tiền mình v.v... có nhiều người thắc mắc rằng: "à....tại sao làm thầy mà không biết để cho họ qua mặt v.v...", thực ra ông ta chỉ là thầy bùa chớ đâu phải thầy bói, có nhiều ông còn không biết thiên cang, địa chi, ngũ hành nạp âm là gì (mấy thầy ở quê), nếu có người luyện cao thì có thiên linh mách bảo hoặc ngải mách, ma xó v.v... còn nhiều thầy chỉ là nghề tổ phụ truyền lại tam sao thất bổn biết bao nhiêu hành bấy nhiêu, mà đa số là có óc tự mãn, xem mình là cái rốn của vũ trụ, không học hỏi trao dồi thêm, hoặc là biết mình kém về mặt đó nhưng vì tự ái hảo cũng không chịu hạ mình bổ khuyết..., nói vậy không có nghĩa là mấy thầy đó làm không linh ứng, khi mà thần chú hoặc ngải nghệ đúng tầng số sử dụng, đúng chiêu bài thì nó sẽ phát huy công năng ghê gớm lắm!Có nhiều ông thầy luyện ngải, trồng ngải kín cả sau vườn, xem như không còn tính theo chậu nữa mà tính theo bao nhiêu mét vuông, đằng đó là 3 mét tai tượng ngải, nơi này là 2 thước mẹ nàng thâm v.v..., mỗi khi chạng vạng tối, ở từ các vườn lân cận gần bên, nhìn vào vườn ngải nhang cắm đỏ rực theo hình bát giác bao xung quanh vườn càng tăng thêm màu sắc huyền bí, ma quái khiến cho những kẻ dù bạo gan cách mấy cũng cảm giác như lành lạnh, rờn rợn nơi tóc gáy.Khi ngải mà chúng đã trổ thành vườn dày đặc như vậy, thì khi cúng cho ăn hột gà và nổ phải nhiều lắm, khi các loại ngải lá đã cao tới và hơn rún thì thẩy hột gà vô lẫn trong vườn ngải, hôm sau ra chỉ còn lại vỏ không (có thực 100%) có nhiều thầy nuôi ngải tà như: huyết nhân ngải, thiên linh ngải, khô lâu ngải v.v... còn cho ăn cả gà sống nguyên con, mỗi lần đọc kinh, túc thần chú cho ăn là cả vườn ngải xoay vần, chuyển động như gió mạnh đè trên những đám lúa, bờ cỏ ngoài bờ đê, dưới ruộng. quăng con gà vào gà kêu quác quác vài ngày sau cũng thấy lông và xương.Ngày trước lúc còn thời Đệ Nhị Cộng Hoà, sư huynh thứ tư của tại hạ làm pháp sư kiêm thầy ngải có giúp cho 1 bà tướng (xin không nói tên vì tôn trọng chuyện tư ẩn của người), số là chồng bà áp phe áp phung gì đó tận bên Miên đã nhiều lần mới bị hỏi thăm sức khỏe, bị đình chức và chờ thẩm vấn điều tra có nguy cơ ảnh hưởng đường quan vận của ông ta, thậm chí có thể đi tù mất chức... nhờ bạn bè quen biết giới thiệu bà đến gặp ông sư huynh "nhí" của tôi (lúc đó ổng chỉ khoảng 21, 22 tuổi) lúc đó hành nghề ở dốc cầu chữ Y phía bên quận 8, bà vô gặp vị sư huynh này thoạt đầu bán tín, bán nghi vì thấy ổng còn trẻ quá, nên lời lẽ không cần khách khí lắm, bà mang dép đi thẳng vô nhà, ngoài sân 2 anh lính có súng ngồi trên xe jeep đợi bà, ông thần vai sư huynh tại hạ lúc ấy vừa xuất sư hạ san chưa đến 1 năm, nhờ tổ đãi làm đâu được đó nhứt hô bá ứng, thân chủ nườm nượp các giới, thậm chí mấy cô bán bar, chị em ta trước là đệ tử thầy chà Harul chợ Nancy, thầy Tám Thọt nổi tếng Cầu Sơn, thầy 5 Răn Bùa Mọi ở Gò Vấp cũng về theo ổng, hơi bị xốc vì thái độ lưng lửng của bà anh ta chẳng nói gì, quyết định chơi bà tướng sang trọng đeo đầy hột xoàn kia 1 cú lấy oai. Ảnh đi thẳng tới bàn tổ nhón lấy 3 nén hương đốt lên rồi lặng lẽ miệng niệm chú triệu ngải và vừa niệm vừa đưa 3 cây nhang cho bà tướng cầm theo thông lệ như mọi thân chủ khi đến:Thiên linh thần ngải ma lai môn cà la hán môn cà la hán mặc mặc, 12 cửa rừng, 13 cửa rặc y lịnh pháp sư triệu khiển... anh niệm liên tục như vậy độ chừng 4, 5 lần thì tướng quân phu nhân cứ kẹp nhang trong tay mà xá lia xá lịa bàn tổ không tự chủ được động tác của đôi tay mình mà toàn thân thì cứ run bây bẩy miệng muốn kêu 1 tiếng mà không được, độ chừng 5 phút thấy đã đủ ông thầy nhí mới đọc chú xả, thâu ngải về, sau đó tướng phu nhân mặt còn xanh mét mới hoàn hồn và nhũn nhặn trình bày vấn đề của chồng bà v.v... vị sư huynh tại hạ khi ấy mới ôn tồn bảo: "Bà về đi trong 21 ngày trở lại sẽ có tin vui", bà dạ rang mấy tiếng và dọt lẹ không quên bỏ lại xấp giấy bạc 1000$ có hình mấy con voi kéo gỗ, nếu tại hạ nhớ không lầm là khoảng 4, 5 chục ngàn gì đó, sau đó hơn độ 1 tuần bà trở lại báo tin mừng và "tạ ơn thầy", chồng bà thoát nạn bình an, trong giới quân đội lúc ấy có đồn chồng bà chắc là quen biết thâm tình, đồng liêu cùng tổng thống THIỆU nên chừng như được che chở cũng nên, bà đến khi đó có cầm nửa triệu tiền do ngân hàng quốc gia VIỆT NAM phát ra để hậu tạ ông thầy, nhưng sư huynh tại hạ chỉ cười và nói rằng : "Thưa bà! đây là phúc chủ may thầy thôi, bà có thể kiếm ngôi chùa hay nhà thờ nào cần đó thì cúng vào dùm tôi đi, hehe... nếu còn dư coi như tôi mua phần nào cách cư xử của bà với thuộc cấp và kẻ hạ bên ngoài".

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Y Án Châm Cứu Thực Nghiệm
Đề tựa quyền Y-ÁN-CHÂM-CỨU THỰC NGHIỆM này, tôi xin dịch bài nói về KHOA CHÂM-CỨU Ở ÂU-CHÂU (L'ACUPONCTURE EN EUROPE) của Ông SOULIÉ DE MORANT trong quyển PRECIS DE LA VRAIT ACUPONCTURE CHINOISE sau đây đề cống hiến cùng độc giả. Đề tựa quyền Y-ÁN-CHÂM-CỨU THỰC NGHIỆM này, tôi xin dịch bài nói về KHOA CHÂM-CỨU Ở ÂU-CHÂU (L'ACUPONCTURE EN EUROPE) của Ông SOULIÉ DE MORANT trong quyển PRECIS DE LA VRAIT ACUPONCTURE CHINOISE sau đây đề cống hiến cùng độc giả. Đề tựa quyền Y-ÁN-CHÂM-CỨU THỰC NGHIỆM này, tôi xin dịch bài nói về KHOA CHÂM-CỨU Ở ÂU-CHÂU (L'ACUPONCTURE EN EUROPE) của Ông SOULIÉ DE MORANT trong quyển PRECIS DE LA VRAIT ACUPONCTURE CHINOISE sau đây đề cống hiến cùng độc giả. Trước khi xuất bản cuốn sách đầy đủ và vị-đại về Khoa Châm-cứu căn cứ vào tài liệu phiên dịch của TRUNG HOA và các chứng nghiệm đề đáp ứng lời yêu cầu của một số Y-sỉ, tôi quyết định trình bày nơi đây điềm chính của phương pháp trị liệu một vài căn bịnh mà ÂU-CHÂU tỏ ra bất lực một phần nào. Hơn nữa với quyền sách nhỏ này, công chúng có thề phân biệt trong số Y-sĩ thực hành khoa Châm-Cứu ai đã học hỏi từ nguồn gốc, ai chi vì sự bành trưởng mạnh mẽ của khoa Châm Cứu mà cho rằng hành nghề này không cần học hỏi, lại tin vào sự cảm nghỉ thật thà dốt nát của thân chủ và uy lực của quảng cáo. Từ năm ngor, sau khi học hỏi ở Trung-Hoa cách đây 6 năm, lăn đầu tiên tôi đem vào nước Pháp phương pháp trị-liệu bằng Kim thuật và Ngại cứu mà ở Âu-Châu, Mỹ-Châu từ trước hãy còn bị quan niệm mơ hò, nay đã có thể thực nghiệm, các cuộc thí nghiệm ngày gia tăng, kết quả đã được công nhận, do đó không thể không biết đến khoa Châm cứu. Phải công nhận rằng nếu lúc sơ khởi Bắc-sĩ Paul. Ferreyrolles không áp dụng những điều tôi đã học tập ở Trung Hoa thì ở Âu-Châu đến nay cũng vẫn còn không biết tới Khoa này, Tôi là lãnh sự, Văn-học giả, Hoà-ngữ học gia, đã trở thành một Đông Y-si chi vì khi thâu thập được kết quả trong môn học này, tôi không hề suy nghỉ gì hơn là cần phải học hỏi cho được 1 thuật rất kỳ điệu đối với tôi; và vì thế khi trở về Pháp tôi đem ra phổ biến khi gặp sự nghi kỵ. Trước khi xuất bản cuốn sách đầy đủ và vị-đại về Khoa Châm-cứu căn cứ vào tài liệu phiên dịch của TRUNG HOA và các chứng nghiệm đề đáp ứng lời yêu cầu của một số Y-sỉ, tôi quyết định trình bày nơi đây điềm chính của phương pháp trị liệu một vài căn bịnh mà ÂU-CHÂU tỏ ra bất lực một phần nào.Hơn nữa với quyền sách nhỏ này, công chúng có thề phân biệt trong số Y-sĩ thực hành khoa Châm-Cứu ai đã học hỏi từ nguồn gốc, ai chi vì sự bành trưởng mạnh mẽ của khoa Châm Cứu mà cho rằng hành nghề này không cần học hỏi, lại tin vào sự cảm nghỉ thật thà dốt nát của thân chủ và uy lực của quảng cáo.Từ năm ngor, sau khi học hỏi ở Trung-Hoa cách đây 6 năm, lăn đầu tiên tôi đem vào nước Pháp phương pháp trị-liệu bằng Kim thuật và Ngại cứu mà ở Âu-Châu, Mỹ-Châu từ trước hãy còn bị quan niệm mơ hò, nay đã có thể thực nghiệm, các cuộc thí nghiệm ngày gia tăng, kết quả đã được công nhận, do đó không thể không biết đến khoa Châm cứu.Phải công nhận rằng nếu lúc sơ khởi Bắc-sĩ Paul. Ferreyrolles không áp dụng những điều tôi đã học tập ở Trung Hoa thì ở Âu-Châu đến nay cũng vẫn còn không biết tới Khoa này,Tôi là lãnh sự, Văn-học giả, Hoà-ngữ học gia, đã trở thành một Đông Y-si chi vì khi thâu thập được kết quả trong môn học này, tôi không hề suy nghỉ gì hơn là cần phải học hỏi cho được 1 thuật rất kỳ điệu đối với tôi; và vì thế khi trở về Pháp tôi đem ra phổ biến khi gặp sự nghi kỵ.
Vệ sinh yếu quyết - Hải Thượng Lãn Ông
Tiểu dẫnĐể cho nam nữ trẻ gia đều hayTấc lòng tâm niệm bấy nayMong đời hết bệnh kéo dài ngày xuânDưỡng sinh theo phép Chân nhânSách trên đã chép nguyên văn mấy bàiĐể tuỳ hoàn cảnh tuỳ thờiTuỳ nghi lĩnh hội những lời tinh baQuyển này đúc lại thành caMấy lời thiết yếu để ta ghi lòngBao gồm phương pháp dự phòngCổ kim dung hợp quán thông dung hoà Phòng dịchLiền sau nạn đói can quaThường có dịch lớn phát ra kéo dàiCho rằng dịch lệ thiên thờiThực ra uế tạp do nguời gây nênDưới đất xác chết lưu niênNắng mưa chưng nấu bốc lên hại ngườiTrẻ già cảm nhiệm động thờiBiết phòng, biết tránh nhiều người cũng quaHễ khi ôn dịch phát raDự phòng uống Tỏi, bạc hà, lá thôngNữ thanh, bục dục nên dùngLại hun Bồ kết, đàn hương trong nhàCó dịch thì chớ lân laCần nên nút mũi khi ra ngoài đườngDùng bông bọc tỏi, hùng hoàngKhi thăm người bệnh lại càng không quênChuyền trò đối diện chớ nênVề nhà tẩy uế mới yên trong lòngTrong nhà người bệnh ở cùngChớ nên chung chạ đồ dùng phòng lâyNhất là lao trái truyền thi
Kỹ thuật trồng cây thuốc
Hôm nay không chỉ các nước nông nghiệp chậm phát triển và cả các nước công nghiệp tiên tiến đều sử dụng song song hai nguồn thuốc từ dược thảo được ưa dùng. Các thuốc chế từ dược liệu (cây thuốc) có danh sách phong phú trong danh mục cây thuốc của tất cả các nước trên thế giới. Chúng chiếm 30% tổng giá trị thuốc trên thị trường thế giới.Trên thực tế các cây thuốc trồng trọt hoặc hoang dại do thu hái quá mức bị cạn dần cho nên không thể thỏa mãn được các nhu cầu. Một số loài rất cần sử dụng nhưng trong nước lại không có. Cho nên việc trồng cây thuốc rất cần thiết. Ngoài ra cần phải nghiên cứu những cây không có để di thực chứng. Thực tế cho thấy việc trồng trọt đem lại nhiều lợi ích, đặc biệt đối với nước ta, một nước còn nghèo và điều kiện tự nhiên rất thích hợp cho các cây thuốc phát triển.Cuốn "Kỹ thuật trồng cây thuốc", trình bày lợi ích của việc trồng cây này, đặc tính của một số cây nhằm giúp người lao động hiểu rõ thêm tác dụng của việc làm này, nhằm bảo vệ sức khỏe người cho gia đình và tăng thêm thu nhập.Các tác giả
Gia Đạo Truyền Thông Bảo
Pho sách này đã xuất bản in lần thứ nhất năm 1936, đã bán hết ngay, nay theo ý muốn của nhiều độc giả hỏi mua, nên đã soạn lại những bài đã dùng kiến hiệu mục kích trong pho sách ấy. Lại góp thêm được nhiều bài mới của các vị Linh Mục và nhiều Danh Y đã kinh nghiệm dùng có kết quả mỹ mãn, thì cũng được soạn kỹ càng và xếp đặt có thứ tự để tiện dùng, nay đem tái bản hiến chư quý vị. Pho sách này đã xuất bản in lần thứ nhất năm 1936, đã bán hết ngay, nay theo ý muốn của nhiều độc giả hỏi mua, nên đã soạn lại những bài đã dùng kiến hiệu mục kích trong pho sách ấy. Lại góp thêm được nhiều bài mới của các vị Linh Mục và nhiều Danh Y đã kinh nghiệm dùng có kết quả mỹ mãn, thì cũng được soạn kỹ càng và xếp đặt có thứ tự để tiện dùng, nay đem tái bản hiến chư quý vị. Pho sách này đã xuất bản in lần thứ nhất năm 1936, đã bán hết ngay, nay theo ý muốn của nhiều độc giả hỏi mua, nên đã soạn lại những bài đã dùng kiến hiệu mục kích trong pho sách ấy.Lại góp thêm được nhiều bài mới của các vị Linh Mục và nhiều Danh Y đã kinh nghiệm dùng có kết quả mỹ mãn, thì cũng được soạn kỹ càng và xếp đặt có thứ tự để tiện dùng, nay đem tái bản hiến chư quý vị. Pho sách này có giá trị đặc biệt : 1) Là vì có đủ mọi môn nội ngoại khoa, mọi bệnh loài người và lục súc, nhất là mục bệnh Phụ-nữ, và mục chữa bệnh Tiểu-nhi, có cả hình vẽ, xem hổ-khẩu và quan hình sát sắc. 2) Sách này có giá trị, vì có đủ nhiều bài thuốc viên, thuốc chén, thuốc nam, thuốc mường và chữa mẹo đỡ tổn tiền. 3) Sách này có giá trị, vì có nhiều bài chữa mọi thứ bệnh, tùy tính hàn, nhiệt và tùy vận khí từng năm, bài này không thích hợp năm này, thì đã có bài khác ; bài này khó tìm vị, thì đã sẵn bài dễ tìm vị, để mà lựa chọn, tiện bề tra cứu. Pho sách này có giá trị đặc biệt :1) Là vì có đủ mọi môn nội ngoại khoa, mọi bệnh loài người và lục súc, nhất là mục bệnh Phụ-nữ, và mục chữa bệnh Tiểu-nhi, có cả hình vẽ, xem hổ-khẩu và quan hình sát sắc.2) Sách này có giá trị, vì có đủ nhiều bài thuốc viên, thuốc chén, thuốc nam, thuốc mường và chữa mẹo đỡ tổn tiền.3) Sách này có giá trị, vì có nhiều bài chữa mọi thứ bệnh, tùy tính hàn, nhiệt và tùy vận khí từng năm, bài này không thích hợp năm này, thì đã có bài khác ; bài này khó tìm vị, thì đã sẵn bài dễ tìm vị, để mà lựa chọn, tiện bề tra cứu.4) Sách này có giá trị vì cuối sách có Vân Niên Cố Hàn so sánh năm Dương Lịch với năm Can Chi (Âm Lịch) biết để dễ gia giảm vị thuốc tùy năm, thì thuốc mới hiệu nghiệm. Lại có bản đồ nhị thập tứ tiết, 24 phần năm, phân ra tứ thì bát tiết, nghề làm thuốc cần biết. Lại có bản đồ chỉ những ngày con nước, biết để làm ăn. Lại có bản đồ chỉ những ngày giông tố, biết để tránh nạn. 5) Sách có giá trị vì có diễn giải phân minh 309 vị thuốc Nam, tính dược cần dùng trong pho sách này và các sách thuốc khác, xếp thứ tự theo vần A. B. C. 4) Sách này có giá trị vì cuối sách có Vân Niên Cố Hàn so sánh năm Dương Lịch với năm Can Chi (Âm Lịch) biết để dễ gia giảm vị thuốc tùy năm, thì thuốc mới hiệu nghiệm. Lại có bản đồ nhị thập tứ tiết, 24 phần năm, phân ra tứ thì bát tiết, nghề làm thuốc cần biết. Lại có bản đồ chỉ những ngày con nước, biết để làm ăn. Lại có bản đồ chỉ những ngày giông tố, biết để tránh nạn. 5) Sách có giá trị vì có diễn giải phân minh 309 vị thuốc Nam, tính dược cần dùng trong pho sách này và các sách thuốc khác, xếp thứ tự theo vần A. B. C. 4) Sách này có giá trị vì cuối sách có Vân Niên Cố Hàn so sánh năm Dương Lịch với năm Can Chi (Âm Lịch) biết để dễ gia giảm vị thuốc tùy năm, thì thuốc mới hiệu nghiệm.Lại có bản đồ nhị thập tứ tiết, 24 phần năm, phân ra tứ thì bát tiết, nghề làm thuốc cần biết.Lại có bản đồ chỉ những ngày con nước, biết để làm ăn.Lại có bản đồ chỉ những ngày giông tố, biết để tránh nạn.5) Sách có giá trị vì có diễn giải phân minh 309 vị thuốc Nam, tính dược cần dùng trong pho sách này và các sách thuốc khác, xếp thứ tự theo vần A. B. C.Thật đã giầy công phu sưu tầm, nên ngày nay, mới có quyển sách thuốc quý báu này. 6) Sách thuốc này có giá trị, vì có nhiều Linh Mục các nơi và nhiều Danh Y đã góp sức kinh nghiệm giúp bài đã dùng công hiệu vào sách này, như Linh Mục Đặng-chính-Tế, Linh Mục Nguyễn-thúy-Hiến, cha Ngôn, cha Tịnh, cha Bích và cha Q. cha P. cha B. và các Danh Y như ông Trương-đắc-Bằng, ông Nguyễn-đức-Văn, ông Trương-đình-Hựu, ông Nguyễn-văn-Biện, ông Nguyễn-chí-Đạo, ông Nguyễn-văn-Ký, ông Giáo thụ Ích, ông Nguyễn-mạnh-Bổng, ông Đặng-văn-Thước và nhiều Danh Y khác. Thật đã giầy công phu sưu tầm, nên ngày nay, mới có quyển sách thuốc quý báu này. 6) Sách thuốc này có giá trị, vì có nhiều Linh Mục các nơi và nhiều Danh Y đã góp sức kinh nghiệm giúp bài đã dùng công hiệu vào sách này, như Linh Mục Đặng-chính-Tế, Linh Mục Nguyễn-thúy-Hiến, cha Ngôn, cha Tịnh, cha Bích và cha Q. cha P. cha B. và các Danh Y như ông Trương-đắc-Bằng, ông Nguyễn-đức-Văn, ông Trương-đình-Hựu, ông Nguyễn-văn-Biện, ông Nguyễn-chí-Đạo, ông Nguyễn-văn-Ký, ông Giáo thụ Ích, ông Nguyễn-mạnh-Bổng, ông Đặng-văn-Thước và nhiều Danh Y khác. Thật đã giầy công phu sưu tầm, nên ngày nay, mới có quyển sách thuốc quý báu này.6) Sách thuốc này có giá trị, vì có nhiều Linh Mục các nơi và nhiều Danh Y đã góp sức kinh nghiệm giúp bài đã dùng công hiệu vào sách này, như Linh Mục Đặng-chính-Tế, Linh Mục Nguyễn-thúy-Hiến, cha Ngôn, cha Tịnh, cha Bích và cha Q. cha P. cha B. và các Danh Y như ông Trương-đắc-Bằng, ông Nguyễn-đức-Văn, ông Trương-đình-Hựu, ông Nguyễn-văn-Biện, ông Nguyễn-chí-Đạo, ông Nguyễn-văn-Ký, ông Giáo thụ Ích, ông Nguyễn-mạnh-Bổng, ông Đặng-văn-Thước và nhiều Danh Y khác.