Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuỗi Tràng Hạt (Florence L. Barclay)

Tình yêu đâu chỉ có lãng mạn, ngọt ngào, hạnh phúc..., tình yêu còn có rất nhiều rất nhiều những thử thách, đau khổ, hy sinh...

Một sự kết hợp tưởng như không thể xảy ra đã xảy ra, một giấc mơ đã trở thành hiện thực.

Chuỗi Tràng Hạt - một câu chuyện tình yêu đẹp và cảm động. Không phức tạp, ly kỳ... nhưng vẫn hấp dẫn và lôi cuốn, đơn giản chỉ là vì " Yêu và được yêu là một bản nhạc nghe mãi không bao giờ chán - Madame De Stael"... thế thôi.

***

Florence Louisa Barclay (2/12/1862 - 10/3/1921) sinh tại Florence Louisa Charlesworth in Limpsfield, Surrey, England, là nữ tiểu thuyết gia người Anh, chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết lãng mạn. Tìm mua: Chuỗi Tràng Hạt TiKi Lazada Shopee

Các tác phẩm: Guy Mervyn (1891 - viết dưới bút danh Brandon Roy), The Wheels of Time (1908), The Rosary (Chuỗi tràng hạt - 1909), The Mistress of Shenstone (1910), The Following of the Star (1911), The Upas Tree (1912), The Broken Halo (1913), The Wall of Partition (1914), My Heart's Right There (1914), The White Ladies of Worcester (1917), Returned Empty (1920), Shorter Works (tuyển tập tập hợp các truyện ngắn và bài báo đơn lẻ - 1923)...

***

Cảnh bình yên trong sáng của một buổi chiều nước Anh lơ lửng trên những cánh vườn và trên công viên Overdene. Những tia nắng phản chiếu cuối cùng lúc mặt trời lặn lướt trên thảm cỏ hứa hẹn một không khí mát mẻ dễ chịu dưới bóng những cây bách hương to lớn.

Một ngôi nhà cổ, chắc chắn, đồ sộ, không trang trí, đầy tiện nghi, tuy xấu xí nhưng gỡ lại bởi những cây trường xuân và giàn nho xanh leo khắp bề mặt chiều dài của ngôi nhà, lốm đốm những nhánh hoa trắng và những chùm hoa đỏ tía vui mắt.

Một mặt bằng trải khắp chiều dài của ngôi nhà, đầu này là vườn ươm cây, đầu kia là chuồng nuôi chim. Những bậc thềm bằng đá cách đều nhau và dốc thoai thoải dẫn đến một bãi đất phẳng có thảm cỏ xanh rì và mịn màng. Phía xa là công viên rộng lớn với rừng cây cổ thụ thoáng bóng những con hươu nhút nhát và những con nai khoác bộ áo màu hung. Qua hàng cây, người ta trông thấy con sông, dải bạc hẹp của nó uốn éo một cách duyên dáng giữa những đám cỏ dài lốm đốm hoa vàng và hoa cúc.

Đồng hồ điểm bốn giờ. Tiếng chim im bặt, không còn một giọng hót nào xen vào tiếng lá rì rào. Một sự im lặng đến khó chịu. Đốm sáng độc nhất là ở một con vẹt kỳ diệu nằm ngủ trên cành cây bách hương.

Có tiếng cửa mở và trên bãi bằng xuất hiện cái bóng kỳ dị của một bà già. Bà ta đi về phía bên phải để tới vườn hồng.

Bà quận chúa Vetma đi hái hoa hồng. bà đội chiếc mũ rơm kiểu cổ có tên là “cái nấm”, buộc vào cằm bởi những dải băng đen. Bà mặc áo dài bằng loại vải mùa đông, một chiếc váy ngắn bằng len, đi đôi giày leo núi và đeo găng cũng kiểu cổ. Cánh tay bà treo một cái giỏ, trong đựng một chiếc kéo cắt cây to tướng.

Bà quận chúa sống độc thân, không thích ở với anh này, chị nọ, càng không thích những nụ cười và những lời nịnh hót của bầu bạn. Cô con gái xanh xao của bà mà bà quở trách một cách cố chấp, đã đi lấy chồng. Cậu con trai mà bà chiều chuộng đến hư hỏng đã chết sớm, chết trước bố. Chồng bà, Thomas Meldrum, quận công thứ năm, đã chết một cách đột ngột hoàn toàn phù hợp với tính nết ông, vào hôm sinh nhật lần thứ sáu mươi hai. Trong bộ quần áo hào nhoáng: áo đỏ, mũ cao, quần nhung, ông cưỡi một con ngựa cái, bắt nó phải vượt qua một chướng ngại vật quá sức nó. Con ngựa dừng lại đột ngột, ông bị hất lộn đầu xuống và không bao giờ trở dậy nữa.

Cuộc sống đang sôi nổi và ầm ỉ ấy bị ngừng đột ngột, đem đến sự thay đổi hoàn toàn trong sinh hoạt của bà quận chúa. Giờ đây bà buộc lòng phải nhân nhượng những người bạn vui vẻ, có cảm tình với ông quận công. Mặc dù bà quận chúa có cái vẻ bề ngoài của một viên kim cương còn thô sơ, dòng máu xanh nhất chảy trong mạch máu bà, và mặc dù hành vi của bà đôi khi đột ngột, bà vốn sẵn có tình cảm tế nhị, ta có thể tin được là ở chỗ nào cần nói bà đều nói lên lẽ phải…

Lúc đầu bà thích làm vườn, bà cho xây dựng một chuồng chim và thu thập đủ các loại chim và súc vật kỳ lạ, bà trút lên chúng những tình thương còn lại do không có lối thoát trong những năm gần đây.

Nhưng về sau, do bản tính hiếu khách, cái thú vui tinh nghịch mà bà vẫn thường tìm thấy ở nhược điểm của những kẻ khác, và cũng là cái tính thích được người ta khen ngợi của cải của mình, bà mời đến Overdene bao nhiêu là khách khứa. Chẳng bao lâu Overdene có tiếng là một câu lạc bộ, nơi ta có thể tìm thấy nhiều thú tiêu khiển, và chắc chắn là được gặp những người bạn mà ta mong gặp. Mùa hè ở đây ta được hưởng những ngày tuyệt diệu, và mùa đông, những tuần lễ rất vui…

Trong thâm tâm, bà quận chúa chia khách ra làm ba loại: loại hoa hòe, thông thường và chọn lọc.

Buổi chiều tháng sáu đẹp trời hôm đó đang có đợt khách “chọn lọc”. Sau một giấc ngủ trưa dài, bà quận chúa đi làm vườn và hái hoa hồng.

Khi bà mở cánh cửa hàng rào sắt để vào vườn hoa, con Tomy, tức con vẹt màu đỏ của bà, mở mắt ra và gởi tới bà chủ của nó một tiếng tặc lưỡi thay cho tiếng động của một cái hôn, xong rồi nó cất tiếng cười một mình và lại nhắm mắt ngủ. Trong số những con vật được bà ưa thích, Tomy đứng hàng đầu. Nó là đại biểu nhận được sự nhượng bộ độc nhất của bà quận chúa cho một tình cảm bệnh hoạn.

Sau khi quận công mất, bà cảm thấy mệt mỏi vì mình là mục tiêu của những sự trọng nể ngọt ngào của các bạn bè và các gia nhân trong nhà. Nếu như người quản gia đã có thể càu nhàu, hoặc ông thầy trợ tế có buột mồm nói ra một vài danh từ kém ca tụng, bà quận chúa còn thấy vui vẻ hơn. Nhưng theo cái kiểu mọi việc đã được sắp xếp sẵn, bà cảm thấy một mối ưu phiền đè nặng trong lòng, cho đến cái ngày bà đọc thấy trong một tờ quảng cáo đăng tin bán một con vẹt, sau khi chủ nhân của nó đã chết, bảo đảm nói được hơn một trăm từ.

Ngay lập tức bà quận chúa đi Luân Đôn, tìm tới người bán hàng, nghe con vẹt nói và mua luôn, mang về Overdene. Chiều hôm đó nó hờn dỗi, không chịu nói một câu nào. Cả buổi tối bà quận chúa ở ngoài chuồng chim, hết ở gần lại ra ngồi ở một góc xa khuất sau tấm bình phong, quay lưng đi, đọc sách làm ra vẻ không để ý đến nó. Tomy chỉ tặc lưỡi mỗi khi thấy bà nhô ra từ chỗ nấp. Hễ người hầu hoặc người quản gia đi qua, nó liền gởi theo một tràng tiếng hôn rồi cười lên như người nói giọng bụng. Buồn phiền, bà quận chúa thử thì thầm nhắc lại với con vẹt vài điều bà còn nhớ được lúc ở cửa hàng, nhưng Tomy chỉ nháy mắt và đặt một chân lên mỏ. Dù sao thì bộ lông hào nhoáng của con vẹt cũng làm bà thích, bà về buồng riêng và tỏ ra không hề tiếc tiền mua…

Sáng hôm sau, mọi người trong nhà đều cho rằng qua một đêm ngủ ngon, con Tomy sẽ nhớ lại những gì nó nói được. Mười phút sau tiếng kẻng, bà quận chúa đi xuống và thấy con Tomy tức giận đang vỗ cánh hét vang: “ Bà già! Bà lại đây, lại đây nào!” Sáng hôm đó bà quận chúa ăn một bữa điểm tâm ngon hơn bao giờ hết kể từ nhiều tháng nay.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuỗi Tràng Hạt PDF của tác giả Florence L. Barclay nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe (Ma Văn Kháng)
Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tìm mua: Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe TiKi Lazada Shopee Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường. Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ. Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos). Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề... Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời. Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v... Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi. Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo). Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay. Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao. Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công. Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây. Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta. Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi. Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt. Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh. Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay. Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.* Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi. Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa. Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ. Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Ma Văn Kháng":Xa Xôi Thôn Ngựa GiàChim Én Liệng Trời CaoĐám Cưới Không Có Giấy Giá ThúĐồng Bạc Trắng Hoa XòeGặp Gỡ Ở La Pan TẩnMột Mình Một NgựaNgười Thợ Mộc Và Tấm Ván ThiênVõ Sĩ Lên ĐàiMùa Lá Rụng Trong VườnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe PDF của tác giả Ma Văn Kháng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đơn Phương (Higashino Keigo)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đơn Phương PDF của tác giả Higashino Keigo nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Don Juan (George Gordon Byron)
Đông Gioăng (Don Juan) là một nhân vật huyền thoại dân gian ở châu Âu từ thời trung cổ. Còn trong văn học và nghệ thuật lần đầu tiên cái tên này xuất hiện trong một vở kịch của nhà soạn kịch Tây Ban Nha Tirso de Molina có tên “Gã quyến rũ người Sevilla và vị khách bằng đá” (El burlador de Sevilla y convidado de piedra - The Trickster of Seville and the Stone Guest). Nội dung của vở kịch này là một câu chuyện có thực ở Sevilla thế kỷ XIV. Nguyên mẫu của nhân vật huyền thoại này là Don Juan Tenorio - một chàng trai quý tộc ở Sevilla.Đông Gioăng vốn là một chàng trai dũng cảm, táo bạo và có phần vô đạo đức. Chàng đã dành cả cuộc đời mình cho việc tìm kiếm những thú vui nhục dục. Tình yêu, bạo lực và những cuộc đấu táo bạo của chàng làm cả thành phố Sevilla kinh hoàng.Để chiếm hữu được một người phụ nữ, Đông Gioăng sẵn sàng vi phạm cả luật đời cũng như luật đạo. Ngoài những cô gái quý tộc, các cô gái con nhà lành, chàng còn quyến rũ cả những ni cô xinh đẹp. Đối với đất nước Tây Ban Nha Thiên Chúa giáo thì đây là một việc làm tội lỗi. Nhưng pháp luật luôn im lặng. Bởi vì nhà vua Pedro I de Castilla là bạn của Đông Gioăng. Một lần, trong một cuộc trụy hoan có cả nhà vua, Đông Gioăng đã quyến rũ rồi bắt cóc cô con gái xinh đẹp của viên trung tá Gonzalo de Ulloa và đã giết chết người sĩ quan này. Nhưng luật pháp một lần nữa lại im lặng. Thế rồi các ni cô quyết định sẽ tự mình xử kẻ trụy lạc và giết người. Họ cho một ni cô xinh đẹp hẹn gặp gỡ với Đông Gioăng ở nhà thờ, nơi chôn viên sĩ quan bị Đông Gioăng giết chết. Khi Đông Gioăng đến đây họ đã giết chết chàng và chôn ở đó. Để tránh sự trừng phạt của nhà vua, họ loan tin rằng Đông Gioăng đã vứt bức tượng của viên sĩ quan vào địa ngục. Thời đó ở Tây Ban Nha, một sự giải thích như vậy được cho là hoàn toàn có lý.Phần kết vở kịch của Tirso de Molina khác với câu chuyện thực trên đây. Trong vở kịch này, sau khi giết chết viên sĩ quan, Đông Gioăng đã chạy trốn khỏi Sevilla. Sau một thời gian chàng trở về và tình cờ đi ngang mộ của viên sĩ quan nọ, trên mộ có dòng chữ ghi thề sẽ trả thù kẻ đã giết người. Đọc dòng chữ này, Đông Gioăng đã mời bức tượng đá đi ăn tối. Bức tượng đá đã đến và sau đó mời Đông Gioăng đến mộ mình. Đông Gioăng không thể thất hứa, đã đến ngôi mộ của viên sĩ quan nọ. Sau khi ăn tối xong, cả hai cùng rơi vào địa ngục. Người đầy tớ của Đông Gioăng báo tin cho nhà vua rằng Đông Gioăng đã bị Chúa Trời trừng phạt. Tìm mua: Don Juan TiKi Lazada Shopee Trong vở kịch của Tirso de Molina thì Đông Gioăng là một người quyến rũ không chỉ ham mê khoái lạc mà còn là một quá trình đấu tranh để chinh phục phụ nữ theo ý mình. Đông Gioăng là một kẻ chuyên đi chinh phục, không cần quan tâm đến những chiến thắng dễ dàng: “Niềm vui lớn nhất của tôi là quyến rũ phụ nữ, làm mất danh dự của họ rồi bỏ”. Tác phẩm nghệ thuật đầu tiên về Đông Gioăng là như thế. Năm 1630 vở kịch này lần đầu tiên được công diễn ở Sevilla và đã thành công vang dội. Ba năm sau đấy được công diễn ở Ý, được người Ý thêm bớt theo cách của mình và cũng thành công không kém. Tiếp đó đến Pháp, Đức và các nước châu Âu khác. Viết về Đông Gioăng có các nhà soạn kịch, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thế giới như: Carlo Goldoni, Nikolaus Lenau, Molière, Alfred de Musset, Lord Byron, Prosper Mérimée, Aleksander Pushkin… Tất cả có gần 140 tác phẩm văn học nghệ thuật trên thế giới viết về huyền thoại này. Thường thì nhân vật không còn giống so với nguyên mẫu mà Đông Gioăng trở thành một chàng trai mơ mộng, rất lãng mạn, đôi khi còn là một chiến sĩ đấu tranh cho tự do. Theo dòng thời gian, tính cách táo bạo của Đông Gioăng được thay thế bằng tính cách dễ mến hơn, và cuối cùng, huyền thoại ở Sevilla trở thành một nhân vật vô cùng quyến rũ. Đông Gioăng ngang hàng cùng với Đông Ki-sốt (Don Quijote), Faust, Hamlet, là những hình tượng muôn thuở trong văn học, nghĩa là những hình tượng mang một ý nghĩa chung của nhân loại. Cái tên Đông Gioăng vượt ra ngoài khuôn khổ của những tác phẩm văn học nghệ thuật và được dùng không chỉ để gọi tên nhân vật. Cái tên này đã trở thành một danh từ chung, thường được sử dụng như là một hình dung từ.Theo cách hiểu chung của người đời thì “Đông Gioăng” là kẻ phóng đãng, kẻ tán gái thần sầu, kẻ quyến rũ từng làm tan nát biết bao con tim phụ nữ. Nhiều chàng “Đông Gioăng” cảm thấy một cung bậc cảm xúc cao nhất ở cái thời điểm quyến rũ và vượt qua được trở ngại. Còn khi người phụ nữ đã qui hàng thì họ lại mất đi sự hứng thú. Nhiều người đàn ông cảm thấy vui, dù thầm lặng, khi thấy người ta gọi mình là “Đông Gioăng”. Mặc dù, quả thực điều này cũng không có gì lấy làm ngạc nhiên, vì rằng nhiều khi sự phóng đãng lại hấp dẫn hơn nhiều so với đạo đức phẩm hạnh. Không phải ngẫu nhiên mà ở Sevilla người ta đã dựng tượng Don Juan Tenorio, kẻ phóng đãng đã làm cho Sevilla nổi tiếng khắp thế giới. Ở Việt Nam cái tên Đông Gioăng cũng nổi tiếng không kém và thường thường người ta hình dung Đông Gioăng là Sở Khanh. Tuy nhiên không phải tất cả đều nghĩ như vậy vì những lý do như đã nói. Dù sao, Đông Gioăng là một người tình vĩ đại, mà nguyên mẫu thì ai cũng chỉ nghe loáng thoáng qua vậy thôi. Còn chuyện hình ảnh Đông Gioăng trở thành vĩnh cửu, đời đời là bởi vì trong sâu thẳm cõi lòng, mỗi người đàn ông đều muốn được như Đông Gioăng, còn những người phụ nữ thì vẫn muốn và yêu những chàng Đông Gioăng như vậy.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Don Juan PDF của tác giả George Gordon Byron nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đôi Tình Nhân Thành Venise (Michel Zévaco)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đôi Tình Nhân Thành Venise PDF của tác giả Michel Zévaco nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.