Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Trong Cabin Số 10

“Agatha Christie gặp Cô gái trên tà Đáng sợ và bất an, đây là một cuốn sách khiến bạn phải hồi hộp” - Fabulous Magazine   Laura “Lo” Blacklock, từng là một nhà báo trẻ tuổi đầy tham vọng, nhưng giờ đã ngoài ba mươi, đầu óc phần nào rệu rã bởi thói nát rượu, mắc kẹt trong một công việc tầm thường tại một tạp chí du lịch. Cô may mắn được đi trên Aurora, một chiếc du thuyền hạng siêu sang, và cô những tưởng đấy sẽ là một cơ hội có một không hai giúp cô đổi đời và thăng tiến sự nghiệp nhờ việc được gặp gỡ những người có địa vị chót vót trong xã hội. Nhưng rốt cục thứ cô nhìn thấy lại là một phụ nữ bị ném xuống biển trong đêm tối. Và tất cả mọi người trên thuyền đều khẳng định rằng cô hoang tưởng, bởi người phụ nữ đó không hề tồn tại. Độc giả trinh thám sẽ nhận ra lối viết trinh thám của Ruth Ware chịu ảnh hưởng rất lớn từ Agatha Christie: những không gian kín chật chội và cô lập, nhân vật nữ bị cuốn vào một vụ án mạng bí ẩn, những tình tiết mô tả tâm lý hoảng loạn và sợ hãi một cách xuất sắc. Cô gái trong cabin số 10 chính là một tác phẩm nhuần nhuyễn đủ sức khơi dậy và khéo léo duy trì nỗi hồi hộp của người đọc qua hàng trăm trang sách. TÁC GIẢ: Ruth Ware (1977) bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn. Trước khi trở thành nhà văn toàn thời gian, cô đã từng làm các công việc bồi bàn, bán sách và quảng cáo. Bắt đầu bằng các tác phẩm dành cho thiếu niên, nhưng cô chỉ thực sự thành công khi chuyển sang thể loại trinh thám ly kỳ, giật gân. Những tác phẩm trinh thám của Ruth Ware như Rừng sâu tăm tối và Cô gái trong cabin số 10 nhanh chóng trở thành Bestseller và nhận được sự yêu mến của độc giả. *** Ruth Ware/ Anh Thư dịch Sau 3 ngày nghiền ngẫm thì mình cũng lên được bờ cùng với Laura “Lo” Blacklock, nhân vật chính của chúng ta. Mình sẽ tập trung vào điểm mạnh và điểm yếu của cuốn sách và sẽ không spoil để tránh là các bạn mất hứng +Điểm mạnh: Trong cuốn sách này, Ruth Ware đưa người đọc ra ngoài biển khơi trên một chiếc du thuyền hạng sang, có thể nói đây là trinh thám trong phòng kín khi xuyên suốt từ đầu câu chuyện nhân vật chính luôn luôn ở trong tình trạng 1 mình trong 1 căn phòng nhỏ hẹp với tâm lý bất ổn đến đáng sợ,và 1 vụ án mạng đầy uẩn khúc và khó khăn hơn khi không một ai tin lời cô nói. Tình tiết xây dựng chặt chẽ, tâm lý nội tâm được miêu tả khá rõ nên đôi chỗ mình phải đặt bản thân mình vào đó mới cảm nhận được dù đôi chỗ hơi dài dòng. Các nhân vật xuất hiện hợp lý, và mỗi lần xuất hiện đều liên quan chặt chẽ đến mạch truyện Nhân vật chính được xây dựng tốt, trong hoàn cảnh nguy hiểm nhưng luôn luôn đặt niềm tin vào bản thân, quyết đoán và mạnh mẽ đến giây phút cuối cùng +Điểm trừ: Như đã nói ở trên thì càng về cuối thì lời kể bị dài dòng, tác giả lạm dụng miêu tả cảm xúc quá đến mức cảm thấy hơi oải khi đọc tiếp Có 1 2 chỗ sai chính tả :< (có lẽ là lỗi đánh máy) Mình mong chờ 1 sự bùng nổ về cuối nhưng có chút gì đó hơi hụt hẫng, plot twist tạm ổn chứ ko đến nỗi xuất sắc P/s: Sau hôm nay, chắc chắn 1 điều mình sẽ bước sang Rừng Sâu Tăm Tối khi đã đọc các reviews từ goodread của tác phẩm. Còn về Cô Gái Trong Cabin Số 10, rất thích hợp cho fan trinh thám, đặc biệt là các bạn theo ngành tâm lý học, và với thời tiết nóng nực và tình hình dịch căng thẳng như hiện nay thì cuốn sách này sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo nha các bạn Sr vì mình ko giỏi chụp choẹt lắm Hoang *** Trong giấc mơ, cô gái ấy đang bồng bềnh sâu, sâu mãi bên dưới những con sóng ầm ầm và tiếng rít của đám mòng biển, trong làn nước lạnh giá không ánh mặt trời của Bắc Hải. Tôi mơ thấy đôi mắt biết cười trắng dã và húp lên vì nước muối, thấy làn da trắng nhợt nhăn nheo, quần áo bị đá lởm chởm làm cho rách nát và đang tan dần thành từng mảnh vụn. Chỉ có mái tóc đen dài là còn lại, bồng bềnh trong nước như lá tảo biển đen, mắc vào vỏ trai vỏ sò và lưới đánh cá, bị sóng cuốn lên bờ biển thành nùi tựa dây thừng xác xơ; nằm rũ rượi ở nơi đó, tiếng ầm ầm của sóng xô bờ dội vào bãi sỏi lấp kín tai tôi. Tôi tỉnh dậy khiếp đảm ghê gớm. Mất một lúc tôi mới nhớ ra mình đang ở đâu, và phải một lúc lâu hơn mới nhận ra tiếng ầm ầm trong tai không phải là từ giấc mơ, mà là của hiện thực. Căn phòng tối om, với cùng một thứ sương mù ẩm ướt tôi cảm thấy trong mơ, và khi ngồi dậy, tôi nhận ra một luồng gió mát thổi lên má. Nghe như tiếng động phát ra từ phòng tắm. Tôi trèo xuống giường, hơi run rẩy. Cánh cửa đóng, nhưng khi bước tới chỗ nó, tôi nghe thấy tiếng rền vang lớn hơn, cùng tiếng tim tôi dập mạnh dần. Dồn hết can đảm vào hai bàn tay, tôi đẩy mở cánh cửa. Tiếng vòi sen lấp đầy căn phòng nhỏ khi tôi lần sờ tìm công tắc. Ánh sáng tràn khắp nhà tắm - và đó là lúc tôi nhìn thấy nó. Được viết ngang tấm gương phủ kín hơi nước, với những con chữ cao đến mười hai phân, là dòng chữ “ĐỪNG XÍA VÀO”. *** Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra có gì đó không ổn là khi tỉnh dậy trong bóng tối và nhận ra con mèo đang vỗ nhẹ vào mặt mình. Chắc là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp tối qua. Thôi thì cũng đáng cái tội say xỉn về nhà. “Ra chỗ khác đi,” tôi rên rẩm. Delilah kêu meo meo và dụi đầu phản đối. Tôi cố vùi mặt vào gối nhưng nó cứ cạ vào tai tôi, thế là cuối cùng tôi trở mình và nhẫn tâm đẩy nó ra khỏi giường. Nó rơi thịch xuống sàn với một tiếng “méo” đầy bực bội, còn tôi thì kéo chăn lông vịt quá đầu. Nhưng ngay cả khi trùm kín chăn tôi vẫn có thể nghe thấy nó cào vào chân cửa khiến cửa kêu lạch cạch. Cửa đóng. Tôi ngồi dậy, tim đột nhiên đập thình thịch, còn Delilah nhảy lên giường với một tiếng ư ử hân hoan. Tôi siết nó vào ngực, không cho nó ngọ nguậy nữa, rồi lắng tai nghe. Hẳn là tôi đã quên đóng cửa nhà bếp, mà cũng có thể tôi chỉ đẩy cửa thôi chứ chưa đóng hẳn vào. Nhưng cửa phòng ngủ của tôi lại mở hướng ra ngoài - căn hộ của tôi thiết kế quái gở vậy đấy. Con mèo không thể tự đóng cửa khi ở trong phòng. Chắc chắn một ai đóđã đóng cửa. Tôi ngồi bất động, áp cơ thể ấm áp hổn hển của Delilah vào ngực mình và cố lắng tai nghe. Không có gì hết. Và rồi, với một cảm giác nhẹ nhõm, tôi nhận ra - hẳn là nó đã trốn dưới gầm giường rồi tôi đóng cửa phòng và vô tình nhốt nó lại khi về nhà. Dù không nhớ là mình đã đóng cửa, nhưng hẳn tôi đã vô thức làm vậy sau khi vào phòng. Phải thú thật là những gì xảy ra từ lúc ở ga Tube đều khá mờ nhạt trong ký ức tôi. Cơn đau đầu mon men xuất hiện trên đường về nhà, và giờ khi cơn hoảng loạn lui dần, tôi lại cảm thấy cơn đau ấy dâng lên dần dưới gáy. Tôi thực sự cần bỏ thói nhậu nhẹt giữa tuần thôi. Hồi đôi mươi thì chuyện đó chẳng vấn đề gì, nhưng giờ những cơn váng vất không còn chóng dứt như trước nữa. Delilah bắt đầu uốn éo bứt rứt, nghiến móng lên cẳng tay tôi, và tôi thả nó ra khi với tay lấy váy ngủ mặc lên người. Rồi tôi bế con mèo lên và sẵn sàng lẳng nó ra bếp. Khi tôi mở cửa phòng ngủ, có một người đàn ông đang đứng đó. Hỏi hắn ta trông thế nào cũng chẳng để làm gì, bởi tin tôi đi, tôi đã nói đi nói lại chuyện đó chừng hai mươi lăm lần với cảnh sát rồi. “Thậm chí quanh cổ tay hắn không hở ra tí da nào à?” - họ tra hỏi. Không, không, không và không. Hắn ta mặc áo nỉ có mũ, một cái khăn rằn quấn quanh mũi và miệng, phần còn lại đều chìm trong bóng tối. Ngoại trừ đôi tay. Hắn đeo găng tay cao su. Chính điều này khiến tôi sợ phát khiếp. Đôi găng đó nói, tao biết mình đang làm gì. Chúng nói, tao đã chuẩn bị trước khi đến đây. Chúng nói, có thể tao cần nhiều thứ hơn là tiền của mày. Chúng tôi đứng đó chừng một giây dài lê thê, mặt đối mặt, đôi mắt lóe sáng của hắn dán chặt vào mắt tôi. Hàng nghìn ý nghĩ rần rật trong tâm trí tôi: Điện thoại của tôi ở chỗ quái nào rồi? Tại sao tối qua tôi lại uống nhiều vậy? Nếu tỉnh táo thì hẳn tôi đã nghe tiếng hắn đột nhập. Ôi Chúa ơi, ước gì Judah ở đây. Và trên hết - đôi găng tay đó. Ôi Chúa ơi, đôi găng tay đó. Chúng trông thật chuyên nghiệp. Thật lạnh lùng. Tôi không nói. Tôi không nhúc nhích. Tôi chỉ đứng đó, chiếc váy ngủ rũ xuống và người run bần bật. Delilah vặn mình thoát khỏi đôi tay mềm oặt của tôi và chạy vọt qua hành lang để vào bếp. Làm ơn, tôi nghĩ. Làm ơn đừng hại tôi. Lạy Chúa, điện thoại của tôi đâu rồi? Rồi tôi thấy thứ gì đó trên tay gã đàn ông. Cái túi xách của tôi - cái túi xách Burberry mới của tôi, mặc dù giờ thì quan trọng gì nhãn hiệu nữa. Tôi chỉ còn nghĩ được một thứ duy nhất về cái túi xách đó. Điện thoại của tôi đang ở bên trong. Đôi mắt hắn nhíu lại theo một lối khiến tôi nghĩ có thể nào hắn đang cười bên dưới lớp khản quấn, và tôi cảm thấy máu trong người rút hết khỏi đầu và những ngón tay rồi dồn cả về trung tâm thân thể, sẵn sàng cho những gì sắp xảy đến, dù là chiến đấu hay bỏ chạy. Hắn ta tiến lên một bước. “Đừng...” tôi nói. Tôi muốn lời đó nghe như một mệnh lệnh, nhưng nó vang lên như một lời van xin, giọng tôi nhỏ, lí nhí và run rẩy thảm hại vì sợ hãi, “Đ...” Tôi còn chẳng nói hết được từ ấy. Hắn sập cánh cửa phòng ngủ đánh sầm, khiến nó đập vào má tôi. Suốt một lúc lâu tôi đứng đờ ra đấy, tay ôm mặt, hoảng loạn và đau đớn đến không nói lên lời. Những ngón tay lạnh buốt, nhưng có gì đó ấm và hơi ướt trên mặt tôi, và mất một lúc tôi mới nhận ra đấy là máu: đường gờ trên cửa đã cắt vào má tôi. Tôi muốn quay trở lại giường, vùi đầu dưới gối rồi khóc thật lâu. Nhưng một giọng nhỏ ngớ ngẩn trong đầu tôi cứ nói, Hắn vẫn ở ngoài đó. Nếu hắn quay lại thì sao? Nếu hắn quay lại tìm mày thì sao? Có tiếng động từ hành lang bên ngoài, có gì đó rơi xuống, và tôi cảm thấy một cơn sợ hãi đáng lẽ phải khiến tôi kích động nhưng thay vào đó lại làm tôi tê liệt. Đừng quay lại. Đừng quay lại. Tôi nhận ra mình đang nín thở, thế là tôi bắt mình thở ra một hơi dài và rùng mình, rồi tôi chầm chậm giơ tay về phía nắm cửa. Một tiếng động nữa vang lên ngoài hành lang - tiếng kính vỡ - khiến tôi xông tới chộp lấy nắm cửa rồi gồng mình, những ngón chân trần nhấn mạnh xuống sàn nhà cũ lỗ chỗ khe hở, sẵn sàng giữ chặt cửa càng lâu càng tốt. Tôi cúi xuống, khom mình, đầu gối chạm ngực, cố bịt những tiếng thổn thức bằng váy ngủ, lắng tai nghe tiếng hắn lục soát căn hộ, đồng thời cầu Chúa là Delilah đã chạy ra vườn, xa khỏi tầm với của hiểm nguy. Cuối cùng, sau một lúc lâu thật lâu, tôi nghe thấy tiếng cửa trước mở ra và đóng lại. Tôi ngồi đó, gục vào đầu gối khóc, không thể tin nổi hắn đã thực sự bỏ đi. Rằng hắn sẽ không quay lại để hại tôi. Đôi tay tôi tê dại và cứng đờ đau đớn, nhưng vẫn không dám bỏ tay nắm cửa ra. Tôi lại mường tượng thấy hai cánh tay lực lưỡng đeo găng tay cao su trắng. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Hẳn là tôi sẽ ngồi đó hết đêm mà không dám nhúc nhích. Nhưng tôi nghe tiếng Delilah ở bên ngoài, kêu meo meo và cào vào mặt bên kia cánh cửa. “Delilah,” tôi kêu lên, giọng khàn khàn. Giọng nói run rẩy đến mức tôi cũng không nhận ra nữa. “Ôi, Delilah.” Qua cánh cửa, tôi nghe thấy nó rên rừ rừ, cái tiếng khò khè cò cử quen thuộc, và như thể một bùa phép yểm lên tôi đã bị phá bỏ. Tôi để những ngón tay bị chuột rút cứng đờ buông nắm cửa ra, đau đớn nắm duỗi chúng cho hết cơn co rút, rồi đứng dậy, cố gắng giữ vững đôi chân đang run lên bần bật, rồi vặn tay nắm. Nó xoay. Mà thực ra nó xoay quá dễ dàng, nhẹ tênh trong tay tôi, và then cửa không nhúc nhích lấy một phân. Hắn ta đã tháo khóa từ phía bên kia. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp, mẹ kiếp, mẹ kiếp. Tôi bị nhốt rồi. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Cabin Số 10 của tác giả Ruth Ware & Anh Thư (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ăn Mày Dĩ Vãng - Chu Lai
'Ăn mày dĩ vãng' của Chu Lai là một tiểu thuyết chiến tranh nhưng kỳ thực nó phô bày hết mọi mặt của cuộc sống. Từ cuộc chiến tranh đẫm máu giữa hai phe: ta và kẻ thù đến tâm sinh lý con người, đến tình yêu lãng mạn trong thời kỳ dã man và khốc liệt, rồi cả những mặt trái trong thời chiến lẫn thời bình đều được lôi ra tuồn tuột trưng bày cho độc giả nhấm nháp và chiêm nghiệm suy tư. Hải Giang (Cuốn sách của tôi) Tôi - một con nhỏ 21 tuổi, sinh ra, lớn lên và đang sống trong bình, hiếm khi để mắt, hứng thú với đề tài chiến tranh và những cái thuộc về quá khứ. Nhưng không biết một sự đẩy đưa vô duyên cớ nào mà tôi đã tập trung hết sức lực của đầu óc và tim gan một cách cao độ để đọc hết quyển Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Về chiến tranh. Phải, ngòi bút chu Lai đã vẽ ra, không, phải nói là đã tạc vào không gian trước mắt người đọc toàn bộ cảnh tượng hãi hùng, đầy mất mát thương đau đến độ cái buồn dai dẳng mà không biểu lộ ra bằng nước mắt, chỉ bằng tiếng kêu inh ỏi trong tim gan, trong óc. Tôi thật sững sờ, ngóng theo từng trang viết và cái tâm hồn yếu đuối, ủy mị thiếu rèn luyện của va chạm cuộc đời, của những vất vả khổ đau, của bất hạnh hay chông gai trở ngại đã bị thay đổi hoàn toàn. Tôi nhận ra quá khứ bị bỏ quên một cách phũ phàng. Đành rằng con người ta sống trên đời cần phải sống cho hiện tại thật tốt và hướng đến tương lai. Nhưng không vì vậy mà phủi sạch mọi thứ của quá khứ, của dĩ vãng kinh người khiến bao nhiêu số phận trở nên lao đao lận đận. Họ lận đận là vì ai, vì họ, không, vì tất cả, vì lẽ sống cho nhân loại, vì yên bình cho mọi người, cho tất cả chúng ta. Tiểu thuyết không vênh vang ca ngợi bằng những lời lẽ khô khốc khuôn sáo, mà chính từ những gì đã xảy ra theo một diễn biến tự nhiên sinh động, thực, rất thực đã tự cho ta thấy được giá trị của những đức hy sinh chân chính. Không hoàn toàn hoàn hảo như thiên thần, họ, những con người vì quê hương bán mạng bám lấy từng mảnh rừng, quyết giữ gìn từng tấc đất, không nề hà sống trong những chốn hiểm nguy, cốt mơ ước khát khao thực thi cho được sứ mệnh cứu nước vĩ đại, cũng đôi lúc "phàm tục". Đó là khi đói quá họ phải ăn trộm hộp sữa trong bồng của đồng đội ăn, hay như cái ông Tám Tính đi vồ con gái người ta để thỏa mãn nhục dục đang lên đến mức cuồng tính, hay để cướp cò B41 làm chết người bạn đồng chí, đồng hương của mình... Họ hết sức bình thường, bình dị giản đơn, những con người chứa đựng cả hai mặt ưu và khuyết điểm. Chỉ những người trong cuộc, từng sống chung và trải qua mới kể lại một cách rành rọt chi tiết, tỉ mỉ và y như thật như thế. Nếu không thì Chu Lai quả là một ngòi bút thiện xạ, có một đôi mắt và óc nhìn khuất lấp, ít nhất là với tôi, ông ấy đã để lại một ấn tượng không phai nhòa về một thời ở một vùng khói lửa chiến chinh với muôn mặt người tốt xấu. Đọc tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, người ta thấy dù trong thời chiến hay thời bình đều có những nhân vật thừa nước đục thả câu, đục nước béo cò, mà sự thật của những bộ mặt ấy thật đáng nguy hại cho xã hội loài người. Thằng Địch là đồ khốn, nó đáng phải bị bắn nổ sọ vì những trò gian manh ác ôn của nó, của thằng bán nước. Và tôi yêu mến cô Sương từ đoạn đầu tiểu thuyết cho tới lúc cô bị đạn bắn chi chít lên người, "óc phòi ra" khi từ dưới hầm chạy lên, không vì cái ống quần ác nghiệt trong giây phút nghiệt ngã vô thường này, đã chạy đến được với tình yêu đang đợi ở bên suối, sau lưng là sự truy đuổi ráo riết. Tôi sẽ yêu mến cô đến cuối cùng nếu như cô chết ngay lúc đó. Về sau sự yếu đuối và dung dưỡng của cô, và cả cái tình yêu "dần dần mà ra" với tên địch khốn kiếp thiệt đáng trách, đáng ghét, đáng bực mình làm sao. Cô Ba Sương đáng yêu nồng hậu và quyết đoán lại xử sự như thế trước một tên ác ôn quả là đáng lên án, không chịu được, tôi đọc mải miết và cảm thấy bức xúc vô cùng, lần theo từng trang sách tôi vừa hồi hộp vừa run run, tiếc nuối một Ba Sương với bờ vai chim sẻ, thật đáng yêu và đáng trân trọng... Giờ đây, cái tên Tư Lan lạ lẫm, cô ta không xứng với tình yêu của hai Hùng. Anh hai Hùng! Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu vẫn đẹp và lãng mạn, dường như đó là một đặc tính, là bản chất muôn thuở của tình yê. Lối viết của Chu Lai khiến độc giả hồi hộp, tập trung, thần kinh như bị căng ra đến độ muốn đứt nhưng không đứt được, cứ lằn nhằn, khó chịu, bứt rứt, rồi đứng im, rồi hụt hẫng, chao đảo, buồn thương, tiếc nhớ. Xen lẫn một chương hiện tại với một chương quá khứ, Ăn mày dĩ vãng đúng thực là ăn mày dĩ vãng, gã ăn mày không cần tiền vàng chức tước mà chỉ cần một cái quá khứ bị đánh cắp, một cái sự thật rõ ràng, không ngại khó mà lội ngược dòng tìm người thương và những bối rối cả đời cần được tháo gỡ, cần được giải đáp. Thương lắm, cảm động lắm, tình yêu ấy đẹp lung linh và tỏa ra một thứ ánh sáng muôn vẻ... Tôi thầm lặng nhìn lại, chao, tôi đang phí hoài quá một tuổi trẻ, một tình yêu nông cạn và lầm lỗi của chính mình. Cái cách đan xen giữa quá khứ và thực tại như thế làm cuốn hút người đọc, đồng thời nó tạo bố cục hợp lý chặt chẽ giữa các tình tiết một cách tự nhiên, không gượng ép, như cái chương hai Hùng và Ba Sương yêu nhau trong căn hầm, nhờ lần đó mà hai Hùng phát hiện ra nốt rùi nhỏ phía ngực trái như "mắt đôi chim câu" của Sương, sang chương sau - chương hiện tại - đó lại là chi tiết để hai Hùng nhận ra Ba Sương một cách rõ ràng nhất... dù đau khổ và tê tái hay trong tình huống nguy nan kịch liệt, hoặc là dở khóc dở cười, giọng văn của Chu Lai vẫn hóm hỉnh, lạnh nhưng vẫn ấm. Bút pháp mạnh mẽ đến kỳ lạ, cách dùng từ lạ lẫm có sức hút người đọc độc đáo. Tôi còn nhớ mãi cái búi lãi trong bọc nước ở cái bụng mở tang hoác của Bảo khi bị B41 cướp cò từ tay Tuấn, cái họng đầy những đất cát, cỏ cây, đờm dãi và máu của một anh lính mắc ho khi đứng sát chân thằng địch, chỉ vì - cái cách tác giả giải thích cho những điều ông ấy viết ra luôn tự nhiên, tự nhiên đến đau lòng – "lôi được cậu ta ra ngoài hàng rào thì mặt mày đã tím bầm, sưng tấy, mồm miệng nhoe nhoét những dãi dớt trộn máu, trộn đất... Ở cái giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!" Những con người hy sinh nhiều nhất là những con người sau hòa bình lập lại sẽ ẩn sâu vào cuộc sống bình dị đời thường hay ẩn náu nơi chốn nào đó thư thái tâm hồn mà nhớ chuyện ngày xưa, họ sống như một công dân bình thường... Họ không huênh hoang chiến công này, chiến tích nọ, họ luôn im lặng để mặc cho năm tháng chiến tranh, năm tháng mà họ phải chiến đấu gian khổ cực nhọc bào mòn đi tuổi trẻ và hạnh phúc của họ, để lại trên thân thể họ những vết thương đau âm ỉ. Mặc kệ luôn cả những thói đời đang từng ngày làm tổn thương họ thêm lần thứ hai, lần này là về mặt tinh thần, những sự thật méo mó, giả dối tràn ngập giữa dòng đời đang chảy dữ dội, sức người khó lội ngược, vượt qua, nếu cứ lội ngược thì không bèo nhèo thì cũng dễ chết lắm. Mà họ thì không lội ngược không được, thấy nghịch lòng trái lương tâm lắm! Ăn mày dĩ vãng có một cái kết thúc vừa có hậu vừa không có hậu. Nó hợp lý, hợp lẽ, hợp tình. Chỉ tội cái mảnh tình thủy chung của hai Hùng không ráp lại được với Ba Sương ngày gặp mặt sau 20 năm. Nhưng tâm hồn anh hai Hùng giờ đã nhẹ ra và bên anh còn những ông bạn chí cốt, thế là lẽ sống đã không tuyệt đường, vẫn đâu đó niềm hy vọng, một cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc, mãi mãi! Cần Thơ ngày 13 tháng 04 năm 2010 *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển Mời các bạn đón đọc Ăn Mày Dĩ Vãng của tác giả Chu Lai.
Nắng Đồng Bằng - Chu Lai
Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Rừng miền Đông không thấy tiết xuân. Sáng ra có gió lạnh se se. Trưa đến, nắng lại bừng lên oi ả. Chiều có cái mát mẻ của thu sang. Và khi đêm xuống thì rét thực sự. Mắc võng giữa rừng đã phải đốt củi sưởi. Nhưng vẫn chưa phải là xuân. Rừng vẫn xanh tươi một màu của cây lá Tịnh không có một ngày mưa dầm rả rích. Xuân về nơi đây chỉ là dấu hiệu chấm dứt những trận mưa dầm và bắt đầu vào mùa khô dằng dặc. Thượng nguồn sông Sài Gòn vẫn chở nặng trong lòng nguồn nước của sáu tháng mưa tích tụ lại. Sông đỏ đắn hồng hào, nhưng hai bên bờ không tìm thấy một vạt phù sa. Gió vẫn mang theo cái vị nồng nồng tanh tanh của dòng sông lắm tôm nhiều cá. Mùa khô này, chiến sự đã giạt về phía dông bằng. Rừng đã yên tĩnh trở lại. Đang vào mùa rừng dầu trút lá. Tàu lá dầu liệng xuống như cánh diều phủ vàng mặt đất. Mỗi khi có con hoẵng chạy qua, thảm lá khô vang động như có ai đang bẻ chiếc bánh đa. Những cây dầu con mới lớn, phiến lá đã to gần bằng lá già rụng xuống. Lá như cái quạt nan che lấp cả thân cây Đang giữa trưa nắng, gặp rừng dầu non, mắt bỗng dịu lại như đang lạc vào một vùng rau xanh trù phú. Hết rừng dầu lại tới rừng cao su. Màu xanh lá dầu chỉ có thể so sánh với màu cao su vừa thay lá. Những cánh rừng cao su thăm thẳm, huyền bí như những cái hang động màu ngọc bích. Sắc lá càng xanh biếc trong màu đất ba dan đỏ tươi. Măng lồ ô đã lớn vượt lên thành những thân non màu hồng mượt mà. Rừng sạch sẽ và thoáng đãng đến nỗi muốn ngả lưng nằm xuống thảm lá ngủ một giấc. Thỉnh thoảng lại gặp một, hố bom dầy ắp nước, trong vắt. Xung quanh bờ mơn mởn những vạt mắc cỡ, rau tàu bay, lá giang chua... Chiều xuống hay những buổi sớm tinh mơ đã nghe tiếng dọc, vượn hú gọi nhau. Rừng yên ổn, chúng kéo nhau trở về từng bầy, chuyền thoăn thoắt trên những ngọn cây cao. Trên con đường đất rộng bò ngoằn ngèo trong rừng, có một đoàn người đang lặng lẽ cất bước. Con đường còn hằn lại những vết bánh xe ô tô trũng sâu, nước đã cạn khô. Nhìn hai bên đường còn vương lại những đoạn phên tre mục nát mới chợt nhớ rằng con đường thồ bùn nước lép nhép năm nào đã chạy qua đây. Đoàn người đi chậm rãi, thong thả qua những cánh rừng già. Cứ trông cách ăn mặc, đồ đoàn trang bị, người ta đoán ngay đó là một đơn vị mới ở vùng sâu lên. Chân họ đi dép mềm, dép lỗ, thảng hoặc mới gặp một đôi dép râu. những ống quần buông chùng vẫn còn những đường ly thẳng băng. Thắt lưng người nào cũng đeo toòng teng một cây đèn pin ngoéo đen bóng. Họ hầu như không có súng, trừ một vài cây tiểu liên cực nhanh và M.79. Đầu họ để trần hoặc đội mũ vải rộng vành. Thoạt trông, đoàn người giống như những chàng trai thành thị hiếu kỳ lên rừng đi săn, nếu như trên nét mặt trầm mặc của họ không có những con mắt ánh lên vẻ khắc khổ, dạn dày. Người đi đầu khoảng gần ba mươi tuổi, dáng người chắc lẳn, khuôn mặt cân đối, đẹp trai, có mái tóc mềm vươn xuống trán. Anh như đang mê mải suy nghĩ điều gì, mắt dõi ra xa nhưng vẫn không giấu được vẻ bồn chồn, sốt ruột. Ở đó, phía đoàn người đang đi tới, đang vẳng đến tiếng rì rầm của một dòng sông. Một chiến si trẻ, to lớn, nước da dỏ hồng, xăm xăm chạy lên đầu: - Sắp tới rồi phải không anh? Người có mái tóc xoã gật đầu. - Cho nghỉ một chút anh nhé! Người ấy cũng chỉ gật đầu không nói, rồi lặng lẽ cầm lấy tay người chiến sĩ trẻ bước gấp lên. Con đường đang ngược lên một dình dốc. Rừng thấp dần xuống. Đột ngột, trước mắt đoàn người hiện ra một khoảng trống trải, bao la. Cái bao la của một khúc sông thượng nguồn. Sau ngày ký kết hiệp định Pa-ri, cuộc chiến đấu ở vùng sâu càng diễn ra gay gắt, ác liệt. Kẻ thù lật lọng điên cuồng phá hoại thành quả Cách mạng. Những người bám đất, bám dân hàng chục năm đang khao khát đón đợi một ngày hoà bình, lại tiếp tục cầm lấy cây súng. Khói lửa lại ngày đêm bao phủ lên khắp các bưng biền, sông rạch. Theo chỉ thị của Bộ, để giữ truyền thống của một đơn vị binh chủng, tiểu đoàn đặc công tập trung trở lại. Các chiến sĩ trinh sát rải rác từ khắp các địa bàn hóc hiểm kéo về. Họ nhìn nhau trào nước mắt. Ngày nào xuống hai trăm người mà bây giờ chỉ còn lại gần ba chục anh em... Linh đã được chỉ thị thay Sáu Hoá làm tiểu đoàn trưởng. Và hôm nay, anh dẫn tiểu đoàn đặc công của mình, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ bám giữ địa bàn, hành quân trở về hậu cứ. Họ sẽ được nghỉ ngơi, bổ sung quân số một thời gian để chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Linh ngồi trên đỉnh ngọn bằng lăng cao nhất đang nở xòe những cánh hoa màu tím nhạt. Sau lưng anh là dòng sông. Bên cạnh anh là trung đội trưởng Ma Hồ Lang. Hai anh em đang đau đáu nhìn về một vùng nắng xa xa. Dưới ấy là dông bằng. là vùng ven thành phố. Trên cao nhìn xuống, chỉ thấy một màu xanh thoai thoải và một vệt nắng dài lấp loáng như sông. Không hiểu sao. Linh tin chắc rằng đó là dòng sông Sài Gòn. - Anh Linh ơi! Quê chị Năm đó phải không? Mảng sáng phía bên kia sông Sài Gòn đó? - Lang bỗng rối rít hỏi. Linh nhìn theo hướng tay Lang chỉ, không trả lời. Mắt anh mờ đi như có nước. Anh nhớ lại những ngày tháng đã qua với những căn cứ nhỏ bên sông, những dải rừng chồi lá thấp, những trận đánh ban đêm, những khóm lục bình trôi theo tiếng chim bìm bịp kêu...Nhiều đồng đội của anh dã không cùng trở lại hôm nay. Anh nhớ tiếng cười rộng rãi, phóng khoáng của anh Sáu Hoá. Nhớ cả ánh mắt hằn học, lạnh lùng của thằng Kiêu. Kẻ thù vẫn tồn tại dưới đó. Và những người còn ở lại bám trụ địa bàn như Phận, Hải, anh Út "Cò ngẳng", Rổn… đang đón đợi anh trở về. Thế rồi, trên cái vệt dài lấp loáng nắng kia, anh như nhìn thấy Thúy đang mềm mại đưa đẩy mái chèo, tà áo bà ba bay là là mặt nước, một bên mái tóc xõa ra, kín đáo che đi vết sẹo màu hồng nhạt... - Thúy ơi! Anh sẽ trở lại. Nhất định anh sẽ trở lại dòng sông quê hương em! Lúc ấy, sau lưng anh, bên kia sông xuất hiện những toán bộ đội đầu tiên. Trong chốc lát, cả cánh rừng rộn rịch tiếng những bước chân, những chiếc mũ cối trùng điệp nhấp nhô. Họ là những binh đoàn chủ lực đang chuẩn bị vượt sông tiến về đồng bằng... Sông Sài Gòn - Hè 1978 CHU LAI Mời các bạn đón đọc Nắng Đồng Bằng của tác giả Chu Lai.
Đội Săn Của Quốc Vương Xtac - Vladimir Korotkevich
T rong số Báo văn học (Literarurnaja Gazeta) gần đây, một số nhà phê bình văn học Liên Xô có lưu ý bạn đọc đến một hiện tượng độc đáo trong văn xuôi Xô-viết mà theo ông, còn chưa được đánh giá đúng mức – đó là các truyện dài và tiểu thuyết của Vladimir Kôrôtkêvich, một nhà văn Bêlôruxia quen thuộc. V. Kôrôtkêvich sinh năm 1930 ở tỉnh Oócsa, Bêlôruxia, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kiep năm 1954 và khoa Đại học viết văn ở Mátxcơva năm 1960. Ông sáng tác thơ, tiểu thuyết, kịch. Hầu hết tác phẩm văn xuôi của Kôrôtkêvich như các tiểu thuyết “Kitô giáng thế ở Gôrôđen (1966), Nhành lúa dưới tay liềm (1968), Hắc lâu Oócsanxki (1979), các truyện dài Huyền thoại xa xưa (1961, nhạc sĩ Xmônxki soạn thành ca kịch năm 1978), Đội săn của Quốc vương Xtác (1964, dựng thành phim năm 1980), các tập tùy bút Cổ tích đất nước hổ phách (1963) và Tiếng chuông ngân dưới đáy hồ sâu thẳm (1969) v.v... – đều viết về lịch sử và thiên nhiên đất nước Bêlôruxi, bởi vì đối với ông, “Bêlôruxia là mảnh đất tươi đẹp nhất trên đời” (Truyện Hai chú gấu của tôi). Nói đến văn xuôi Bêlôruxia hiện đại, người ta liên tưởng đến hai tiếng chiến tranh. Những truyện dài và tiểu thuyết nối tiếng của Alêxi Ađamôvich, Vaxin Bưkôp, Ivan Mêlêgiơ và Ivan Samiakin... đã cho cả thế giới thấy tinh thần quật cường của một dân tộc mà cứ bốn người dân thì một người đã ngã xuống trong vòng có bốn năm chiến tranh (1941-1945). Trở lại với lịch sử xa xưa, với thiên nhiên đất nước, Kôrôtkêvich dường như muốn đi tìm cội nguồn của tinh thần quật cường ấy... Bêlôruxia – Bạch Nga – là mảnh đất miền Tây Liên Xô, với những rừng thông bạt ngàn và rừng dương trắng ngần, với những sình lầy rộng mênh mông như biển cả, dài rộng hàng mấy trăm cây số, những hồ nước trong xanh giữa rừng hay đồng cỏ, những lâu đài trung cổ rêu phong vẫn còn gìn giữ bao điều bí ẩn: Những âm thanh huyền bí, những ảo ảnh lạ kỳ... Vốn là một bộ phận của nước Nga Kiep cổ đại vì nằm lọt giữa những quốc gia phong kiến hùng cường thời trung cổ như Nga, Litva, Ba Lan, Áo – Hung nên mảnh đất Bêlôruxia đã phải chịu một số phận đau thương: bị giành đi giật lại, bị chia đôi xẻ ba, bị đàn áp đè nén. Trong những bước gian truân ấy của đất nước, các tầng lớp trên – tầng lớp địa chủ quý tốc Sliăcta trước kia và tầng lớp địa chủ tư sản sau này – vì những quyền lợi ích kỷ đã buôn đi bán lại cả Tổ quốc, phản lại cả dân tộc mình. Chỉ có một số ít những phần tử lẻ loi – những con quạ trắng – như Kaxtuxô Kalinôpxki, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa 1863-1864 của nông dân Bêlôruxia, (sinh năm 1838, bị xử tử năm 1864), như các thanh niên trí thức tiên tiến Xvetilôvich và Bêlôretxki trong truyện Đội săn..., là dám đoạn tuyệt với gai cấp đã thoái hóa của mình đứng hẳn về phía nhân dân, cùng những người dân lao động Bêlôruxia đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Truyện của Kôrôtkêvich phong phú giá trị nhận thức và giáo dục có nhiều yếu tố ly kỳ. Văn ông giàu tính lãng mạn, đan quyện lẫn nhau những yếu tố thực và hoang đường. Truyện dài Đội săn của Quốc vương Xtác là một ví dụ tiêu biểu cho thể loại trinh thám lịch sử, gần đây khá phát triển trong một số nền văn học dân tộc ở Liên Xô. Truyện lấy đề tài trong những truyền thuyết về lời nguyền muôn thuở và sự báo oán khủng khiếp của Quốc vương Xtác cùng đội săn của Người đối với dòng họ Sliăcta Janốpxki đã phản bội Tổ quốc Bêlôruxia. Truyền thuyết, dẫu rùng rợn khủng khiếp đến đâu, vẫn không đáng sợ, vẫn đẹp như mọi câu huyền thoại. Nhưng đáng sợ thực sự, đáng cảnh giác thực sự khi cái đội săn tương truyền đã vùi xác dưới đáy sình lầy cách đây hàng mấy thế kỷ, nay bỗng thoắt hiện, thoắt ẩn, gây nên những tội ác đẫm máu và gieo rắc kinh hoàng khắp một vùng xung quanh. Vậy chúng là ai? Ma quỷ hiện hình hay một lũ bất nhân đội lốt ma quỷ? Xin để bạn đọc thưởng thức tài dẫn dắt câu truyện của Kôrôtkêvich. VŨ THẾ KHÔI *** T ất cả câu chuyện chỉ có vậy. Ngày hôm sau, lần đầu trong suốt thời gian ấy, ánh mặt trời cùng một lớp băng tuyết mỏng rải lên khắp sình lầy, bãi hoang, lên những ngọn cây tùng trong khu vườn, lên những bức tường rêu phong của tòa lâu đài. Bãi cỏ cao lúc đầu bao phủ một lớp phấn trắng giá lạnh, ửng hồng dưới những tia nắng đầu tiên. Cả tường nhà cũng ửng hồng, tươi trẻ ra, dường như bừng tỉnh sau giấc ngủ mê nặng nề ngự trị trên tòa lâu đài suốt ba năm trời. Những ô kính ngũ sắc lấp lánh tươi vui dưới những tia nắng dịu ban mai, mặt đất cạnh tường đổ mồ hôi, thảm cỏ trở nên ướt át. Hai chúng tôi ra đi. Cỗ xe đỗ trước cửa lâu đài. Của nả chẳng có là bao, đã buộc sẵn sau xe. Tôi dắt Nađêia mình choàng một tấm áo lông nhẹ, đưa ra khỏi nhà, đỡ nàng lên xe và leo lên ngồi xuống cạnh nàng, chúng tôi cùng đưa mắt nhìn tòa lâu đài lần cuối, nơi chúng tôi đã cùng nếm trải khổ đau và bất ngờ tìm thấy một tình yêu đáng để hiến dâng cả cuộc sống mà không hề hối tiếc. – Em định làm gì với toàn bộ cái của này? – Tôi hỏi. Nađêia rùng mình như thể bị lạnh. – Những đồ cổ, hiến cho các bảo tàng; còn đâu, để cho anh em mugik đã đứng dậy bảo vệ cửa nhà của chính mà và đã cứu sống em. Tòa lâu đài, hiến làm bệnh viện, trường học hay cái gì cũng được. – Nàng mỉm cười chua chát: - Gia tộc sản! Biết bao máu đổ, cả một mớ những hành vi đê hèn, những tội lỗi, mưu mô hiểm độc... Vì mục đích gì kia chứ? Vì một chút vàng bạc... Thôi, xin trả lại cho Chúa cái gia tộc sản này. Tôi ôm đôi vai mảnh dẻ của nàng. – Anh biết mà. Đúng là phải xử trí như vậy. Chúng ta cần gì cái của nợ ấy, nếu như chúng ta đã tìm được nhau. Chúng tôi trao tòa lâu đài cho người quản gia mới là chị nông dân góa bụa có đứa con nhỏ mà tôi đã có lần bắt gặp bên lề đường, đưa về. Đám gia nhân vẫn nguyên vị. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi tòa lâu đài khuất sau rặng cây. Cơn ác mộng đã vĩnh viễn kết thúc. Mời các bạn đón đọc Đội Săn Của Quốc Vương Xtac của tác giả Vladimir Korotkevich.
Sư Tử, Phù Thủy Và Cái Tủ Áo - C. S. Lewis
HỌ MỞ MỘT CÁNH CỬA BƯỚC VÀO CẢ MỘT THẾ GIỚI Narnia…một vùng đất bị đóng băng bởi mùa đông vĩnh cửu…một vùng đất đang chờ đợi để được giải phóng. Bốn nhà thám hiểm bước qua cánh cửa của chiếc tủ áo và rơi vào vùng đất của Narnia - một vùng đất đang chịu sự thống trị bởi quyền năng của mụ Phù thuỷ Trắng. Nhưng khi mọi hy vọng gần như đã bị dập tắt thì Sư tử vĩ đại Aslan trở về, được xem là bắt đầu của những thay đổi lớn lao… *** Biên niên sử về Narnia viết về một thế giới tưởng tượng, những phép màu và một thế giới song song cùng tồn tại với thế giới của chúng ta. Biên niên sử về Narnia dựng nên một thế giới tưởng tượng, kỳ ảo nhưng có những cơ sở của hiện thực - điểm khác biệt với Harry Potter. Biên niên sử về Narnia là một tác phẩm hư cấu có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều phương diện: Một tác phẩm có cấu trúc cân đối, hoàn chỉnh, tính tư tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối ; là tinh thần đấu tranh cho chính nghĩa, cho con người, đặc biệt là một tình yêu thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên, coi cỏ cây hoa lá, muông thú cũng có tính bản thiện và có nhu cầu được cộng sinh trong thế giới của muôn loài và cho muôn loài. Một tư tưởng rất nhân bản và đang được nhân loại đề cao. Bộ sách Biên niên sử về Narnia giúp bạn đọc có ý thức tốt hơn về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hoá. Và đặc biệt có thể nhìn cuộc đời với một đôi mắt " ngây thơ " hơn. Biên niên sử về Narnia hấp dẫn nhờ một cốt truyện cổ điển, có mâu thuẫn, cao trào và giải quyết mâu thuẫn, thể hiện một trí tưởng tượng rất cao, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo của nhà văn. Từ tập 1 đến tập 7 của Biên niên sử về Narnia, thế giới tưởng tượng được xây dựng và phát triển một cách vừa khác biệt vừa nhất quán với toàn bộ và theo cấp độ tăng tiến, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những hình tượng độc đáo, kỳ thú không hề bị lặp lại. Bộ sách Biên niên sử về Narnia gồm có: Tập 1: Cháu trai Pháp Sư Tập 2: Sư Tử Phù Thủy và cái Tủ Áo Tập 3: Con Ngựa và Cậu Bé Tập 4: Hoàng Tử Caspian Tập 5: Trên con tàu hướng tới Bình Minh Tập 6: Chiếc ghế Bạc Tập 7: Trận chiến cuối cùng Biên niên sử về Narnia đưa ra một hệ thống nhân vật phong phú, có cá tính : không có nhân vật nào lẫn với nhân vật nào, dù là con vật hay con người đều có những nét đặc biệt đáng ghi nhớ. Lối giải quyết mâu thuẫn của tác giả, tự nhiên, không gượng ép và đặc biệt là nhẹ nhàng, thoải mái không gây nên những cảnh quá dữ dội có thể ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơ. Theo bình chọn của tạp chí Big Reader : Biên niên sử về Narnia có tên trong danh sách 21 cuốn sách được độc giả Anh yêu thích nhất (trong danh sách 100 tiểu thuyết thế giới). Bộ truyện được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh trở thành là bộ phim ăn khách của thế kỷ 21. *** Clive Staples Lewis sinh năm 1898 tại Belfast. Ông làm nghiên cứu sinh và là trợ giảng bộ môn Văn học Anh tại trường Magdalen, Oxford và sau này là giáo sư bộ môn Văn học thời kỳ Trung cổ và Phục hưng tại Đại học Cambridge, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào năm 1963. Clive Staples Lewis viết rất nhiều sách về phê bình văn học và Đạo cơ đốc, với tác phẩm nổi tiếng “The Screwtape Letters”, cùng với bốn cuốn tiểu thuyết khác dành cho người lớn. Bộ truyện “Biên niên sử Narnia”, gồm 7 tập, là bộ truyện duy nhất ông viết cho trẻ em. *** Đ ã từng có bốn đứa trẻ tên là Peter, Susan, Edmund và Lucy. Câu chuyện này kể về một chuyện đã xảy ra với chúng trong thời gian chúng bị đưa đi khỏi London để tránh những trận công kích. Chúng sơ tán đến nhà một giáo sư già sống ở trung tâm đất nước, cách ga xe lửa gần nhất 10 dặm và cách bưu điện 2 dặm. Ông không có vợ con và sống trong một tòa nhà rộng mênh mông với một bà quản gia tên là Macready và ba người giúp việc. (Tên họ là Iry, Margaret và Betty nhưng họ không xuất hiện trong chuyện này nhiều). Giáo sư tuổi đã già, rất già, tóc râu bờm xờm, bạc trắng cả trên mặt lẫn trên đầu và bọn trẻ đem lòng quý mến ông ngay lập tức. Nhưng vào cái buổi tối đầu tiên, khi ông đứng chờ đón chúng ở cửa trước, trông ông lạ đến nỗi Lucy (cô em út) cảm thấy hơi sờ sợ, còn Edmund (đứa áp út) thì lại buồn cười và nó phải giả tảng là đang hỉ mũi để che giấu điều này. Ngay sau khi chúc giáo sư ngủ ngon, bọn trẻ lên lầu ngủ đêm đầu tiên và bọn con trai đã kéo sang phòng con gái để tán chuyện. - Chúng ta đã đi đến nơi đến chốn. – Peter nói.- Mọi chuyện rồi sẽ tuyệt lắm đấy! Chà chà, ông già này sẽ để cho chúng ta muốn làm gì tùy thích. - Em nghĩ đấy là một ông già đáng mến!- Susan nói. - Ồ, đừng giở cái giọng ấy ra đi!- Edmund nói, nó đang mệt mà lại phải giả vờ là không mệt, điều này bao giờ cũng khiến nó trở nên cáu bẳn, khó chịu.- Đừng có tiếp tục cái kiểu ăn nói như thế. - Như thế là thế nào? – Susan hỏi.- Dù sao thì cũng đến giờ em đi ngủ rồi đấy. - Cứ làm như mẹ người ta ấy, Edmund dấm dẳn. – Chị là cái thớ gì mà bảo tôi đi ngủ? Chị đi ngủ đi! - Cả mấy anh em mình cùng đi ngủ không hơn sao?- Lucy hỏi.- Chắc chắn là lại cãi vã nếu chúng ta tiếp tục nói chuyện theo kiểu này. - Không, khoan hãy đi ngủ.- Peter nói.- Để anh bảo cho các em biết, đây là một kiểu gia đình không có ai để ý đến việc chúng ta làm đâu. Dù sao họ cũng không nghe thấy chúng ta đâu. Từ đây đi xuống phòng ăn cũng mất đến mười phút cùng với đủ loại cầu thang và hành lang. - Có tiếng động gì vậy?- Lucy giật mình lên tiếng. Đó là ngôi nhà lớn hơn bất cứ căn nhà nào mà nó đã thấy và ý nghĩ về tất cả những hành lang dài dằng dặc cùng một dãy các cánh cửa dẫn vào những căn phòng trống trải khiến nó cảm thấy hơn rờn rợn. - Chỉ là một con chim thôi, đồ ngốc,- Edmund nói. - Đó là một con cú, - Peter nói. – Đấy là một nơi tuyệt vời dành cho chim chóc. Anh đi ngủ đây. Anh nói thế đấy, hãy mở một cuộc thám hiểm nơi này vào sáng ngày mai. Các em có thể tìm thấy bất cứ cái gì ở một nơi như thế này. Có nhìn thấy những dãy núi trên đường chúng ta đi đến không? Còn những cánh rừng nữa? Có thể có đại bàng. Có thể có hươu đực. Sẽ có cả chim ưng nữa. - Và con lửng! – Lucy reo lên. - Cáo!- Edmund đế thêm. - Và thỏ nữa!- Susan nói. Nhưng sáng hôm sau chỉ có một cơn mưa dai dẳng, xám xịt làm thành một bức màn dày và khi nhìn qua cửa sổ bạn chẳng nhìn thấy núi, cũng chẳng nhìn thấy rừng cây thậm chí cả dòng suối chảy qua vườn cũng không. Mời các bạn đón đọc Sư Tử, Phù Thủy Và Cái Tủ Áo của tác giả C. S. Lewis.