Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Những Người An Nam Ở Paris Hay Sự Thật Về Đông Dương

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tây Hồ Giai Thoại - Tập 1
"Tây Hồ Giai Thoại" là một bộ sách ước khoảng 16 vạn chữ Hán do NXB "Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã" xuất bản lần thứ nhất vào tháng 9 năm 1980, viết bằng cổ văn rất sâu sắc và lý thú. Bộ sách kể về 16 sự tích như: sự tích tiên, sự tích say, sự tích tài, sự tích ẩn, sự tích mộng, sự tích cười, sự tích hận, sự tích quái.v.v.. Ở Việt Nam trước đây đã có dịch in một số thơ của Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha..v.v...Độc giả Việt Nam được biết đến nàng Tiểu Thanh qua "Độc Tiểu Thanh ký" của Nguyễn Du. Biết Nhạc Phi qua "Tần Cối tượng" của Nguyễn Du..Nhưng thật sự chưa được biết sâu sắc. Bạn đọc Việt Nam đọc "Tây Hồ Giai Thoại" sẽ được hiểu biết tỉ mỉ sự nghiệp văn thơ, sự nghiệp chính trị, sự nghiệp quân sự, sự nghiệp tu hành và cả đời thường của các nhân vật anh hùng, thi sĩ, hòa thượng, văn nhân, kỹ nữ...v.v.. Phần hay là do tác phẩm, phần dở là lỗi người dịch. Xin được độc giả lượng thứ...Xin chân thành cảm ơn và giới thiệu cùng độc giả. Dịch giả Dương Thu Ái. Mời các bạn đón đọc Tây Hồ Giai Thoại của tác giả Cổ Ngô Mạc Lãng Tử.
Namaskar! Xin Chào Ấn Độ
Namaskar! Xin chào Ấn Độ của Hồ Anh Thái được xuất bản lần đầu vào năm 2008, nay được NXB Trẻ tái bản lại cùng lúc với cuốn Salam! Chào Ba Tư - một sáng tác mới của tác giả, làm thành một bộ 2 cuốn về hai nền văn hóa lâu đời của thế giới.Namaska! Xin chào Ấn Độ phác họa đất nước Ấn Độ khái quát từ chiều dài lịch sử đến bề rộng, chiều sâu về văn hóa, tôn giáo,… được trình bày theo lối nghĩ khoa học, sắc bén của một nhà ngoại giao, tiến sĩ văn hóa Phương Đông qua lối viết mềm mại của nhà văn Hồ Anh Thái. Được đánh giá là một cuốn sách độc đáo có ích dành cho những ai lần đầu tiên đến Ấn Độ, hoặc muốn khám phá đất nước - văn hóa - con người Ấn Độ, vì đọc Namaska! Xin chào Ấn Độ có thể tìm thấy ngay những điều cần quan tâm: Lịch sử hay Kinh sách; Tôn giáo hay Văn hóa hay Văn chương… Những khái niệm về Ấn Độ đã được tóm lược một cách súc tích, ngắn gọn nhưng sáng rõ ở mức dễ tiếp nhận nhất, được trình bày theo quan niệm của đạo Hindu: Tư tưởng, sản phẩm văn hóa, biểu tượng ký hiệu, phong tục tập quán... Cuốn sách hấp dẫn hơn một cuốn nhập môn là bởi giọng văn Hồ Anh Thái. Anh sử dụng nhiều thể loại cho từng phần: du ký dành cho các miền văn hóa, tản văn khi viết về tính cách Ấn, khảo cứu, tiểu luận khi đề cập tôn giáo,lịch sử, phong tục tập quán. Sách còn đẹp vì còn có nhiều minh họa - là những bức tranh thần thánh Hindu theo phong cách tranh thờ dân gian hoặc tranh tượng hiện đại, và hình các biểu trưng. *** Vốn có một sự đam mê cuồng nhiệt với Ấn Độ nên chỉ cần có quyển sách nào viết về Ấn là tôi sẽ lôi về đọc thử, có lẽ đó cũng như là một sự thương nhớ Ấn, đọc để soi mình trong đó, để tìm thấy những điểm chung rồi “à, mình biết” hoặc để tìm thấy những điều mình không biết rồi bứt rứt và lên kế hoạch cho những lần đến Ấn Độ sau đó. “Namaskar!” cũng vậy. Hồ Anh Thái là một cái tên lạ lẫm nhưng đọc phần tiểu sử thấy ông đã từng có những năm tháng sống và làm việc ở Ấn Độ nên cũng háo hức mượn Yến về đọc thử. Cảm nhận đầu tiên à, sách dày, giấy nhẹ được bọc rất cẩn thận, khổ cầm vừa tay, các phần tiêu đề khá promising và tràn cảm xúc cũng như suy nghĩ của người Viết. Khởi đầu cũng không tệ. Đọc thử xem sao. Đọc hết quyển rồi đóng sách lại, ấn tượng duy nhất của mình về quyển sách là một mớ kiến thức chen lẫn với những cảm xúc của người viết, một cách lộn xộn. Để rồi đọc xong vẫn không hình dung được Ấn Độ, vẫn thấy những mơ hồ chen lấn, tựa như dòng suy nghĩ của người viết cũng lộn xộn. Theo từ điển định nghĩa “khảo luận” là dạng “nghiên cứu và bàn luận sâu một vấn đề gì, thường là dưới dạng luận, dạng một cuốn sách” Vây mà những kiến thức được trình bài trong này lại không sâu, đọc và có cảm giác như mình đang đọc một mớ kiến thức wiki được tổng hợp lại, những thứ kiến thức bề mặt, chỉ search internet là ra. Những kiến thức không có sự đối chiếu từ nhiều nguồn cũng như sự reflect thông qua những trải nghiệm của bản thân người viết (với dân bản xứ chẳng hạn) để có cái nhìn từ nhiều khía cạnh của vấn đề. Cũng phải thôi, cả một nền văn hóa mà gọi gọn trong mấy trăm trang sách là điều không thể thế nhưng quả thật cách viết một vấn đề theo những thông tin quá bề mặt như vậy thực sự làm mình thấy khó chịu. Là một người đã từng ở Ấn, đã từng đến thăm hàng loạt đền thờ, nhảy múa trong lễ hội với dân địa phương nên những điều tác giả viết về các vị thần ở Ấn thật sự khiến mình thất vọng khi nó cứ đều đều và thậm chí còn chẳng giống những câu chuyện dân gian mà mình từng được nghe các bạn Ấn kể. Thấy đất nước Ấn Độ của Hồ Anh Thái hiện ra xa lạ. Một phần mình thấy không ổn trong cuốn sách đó là sự ưu ái mà tác giả dành cho ngôi chùa Việt Nam cùng sư chủ trì của ngôi chùa ở đất Phật Ấn Độ. Nếu như trong những phần trước, Hồ Anh Thái chỉ đóng vai trò là người gom nhặt, liệt kê các thông tin thì trong những câu chuyện về ngôi chùa, Hồ Anh Thái đã đóng vai trò như một nhân vật của câu chuyện, và cuốn khảo luận trở nên giống một cuốn du ký hơn khi Hồ Anh Thái kể lại những câu chuyện của mình, những mẩu đối thoại, suy nghĩ mang tính cảm xúc hơn là suy luận, phân tích. Nhưng một lần nữa, mình không thấy Ấn Độ của mình trong những câu chuyện này, câu chuyện vậy là cứ trôi tuột. Hơn nữa, mình đọc vì Ấn Độ, để xem con người Ấn Độ, văn hóa Ấn Độ được thể hiện trong từng bữa ăn, nhịp thở, từng cử chỉ hàng ngày. Hoàn toàn không phải để đọc về văn hóa Phât giáo Việt đã được mang vào Ấn như thế nào và phát triển ra sao. Hồ Anh Thái chỉ là không cho người đọc cái quyền lựa chọn ấy. Cứ thê, câu chuyện về ngôi chùa và vị sư chủ trì kéo dài, kéo dài. Cuối cùng là nói về kết cấu cuốn sách. Mỗi phần của cuốn sách được phân ra theo tiêu đề của các chủ đề sẽ được nói đến trong cuốn sách. Chủ đề hay nhưng sắp xếp loạn, không theo một logic nào hết khiến người đọc không tạo được dòng suy nghĩ, không xâu chuỗi được sự việc. Cuốn sách cứ dài thượt mà sau này tìm lai mục phần có thông tin quan trọng chắc là điều bất khả thi lắm. Mình suggest cuốn sách này cho ai nhỉ? Cho những bạn mới biết ít về Ấn Độ hoặc đang thu thập thông tin chuẩn bị cho cuộc dạo chơi ở vùng đất này nhé. Còn với những bạn yêu Ấn, hiểu Ấn, đã từng ở Ấn thì có lẽ cuốn sách là một sự thừa thãi mà bạn chưa chắc đã nhất tiết phải đọc. Cứ giữ Ấn Độ của bạn trong tim thôi/ Review lifeandjourneys.wordpress.com *** Ấn Độ là một bảo tàng sống. Hầu như rất nhiều phong tục tập quán có từ mấy nghìn năm được lưu giữ trọn vẹn cho đến tận bây giờ. Chẳng hạn, hãy nhìn thiếu nữ đi trên đường kia. Tấm sari cô mang trên người cũng chính là tấm sari của mấy nghìn năm trước. Cái dáng đi khoan thai, có phần hơi chậm rãi, đi mà như ngày rất dài, đời rất dài, cũng chính là dáng đi mấy nghìn năm của người Ấn Độ. Bao nhiêu ý kiến của các tổ chức phụ nữ, các đoàn thể yêu cầu cải tiến trang phục cho hợp với đời sống lao động hiện đại, nhưng hầu như rất ít được hưởng ứng... Nhờ thế và nhờ nhiều điều như thế, Ấn Độ luôn luôn là một bảo tàng sống. Đấy là nhận xét của phần lớn những người nghiên cứu văn hóa phương Đông. Lớp chúng tôi ngày ấy đa số là người Âu - Mỹ, khi hỏi vì sao họ chọn Ấn Độ để nghiên cứu, mà không phải là Trung Quốc, không phải là Ai Cập? Họ đều bảo chính là vì Ấn Độ còn lưu giữ hầu như nguyên vẹn mọi thứ. Không phải lưu giữ hiện vật chết trong bảo tàng, mà lưu bằng cả một đất nước, một xã hội sống động. Những cái nôi văn minh khác đều đã bị tàn phá ít nhiều bởi thiên tai và những cuộc cách mạng, bởi những biến động lịch sử. Riêng ở việc bảo tồn sống động này, liệu ta có phải biết ơn tính bảo thủ của người Ấn? Những ngày đầu ở Ấn Độ, tôi như chìm giữa một biển sương mù. Cái nóng làm cho người ta u mê, ý nghĩ chậm chạp, cử động chậm chạp, phản ứng chậm chạp. Một buổi chiều sau giờ học, tôi ngồi một mình ở bến xe buýt, trong cái nóng chỉ chực làm cho mình mê đi, dẫu có tỉnh cũng chỉ là cái tỉnh của cơn mộng du. Chính vào lúc ấy, hình như có một bóng người đi qua trước mặt. Một cánh tay đột ngột chìa tới như định cào vào mặt tôi. Lập tức gạt phắt cánh tay ra. Cánh tay ấy lại cố gắng chìa vào mặt tôi lần nữa. Tôi lại hất ra. Choàng tỉnh từ cơn u mê, tôi thấy một ông già râu dài tóc búi như hiện về từ cổ đại, trên trán quệt mấy vệt màu đỏ màu trắng, cổ đeo tràng hạt, tay cầm cây đinh ba nhỏ bằng đồng sáng bóng, một bình nước cũng bằng đồng sáng bóng. Chính ông vừa hai lần xỉa tay vào mặt tôi và hai lần bị tôi hất tay ra. Ông từ bỏ hành động lạ lùng ấy, lặng lẽ bước đi. Ông đi một lúc rồi mà trống ngực tôi vẫn đập thình thình. Đấy là một kỷ niệm khiến tôi ngượng mãi. Về sau, nghiên cứu tìm hiểu và trải nghiệm trong đời sống Ấn Độ, tôi mới biết ông già gặp ở bến xe hôm ấy là một du sĩ. Những giáo sĩ lang thang như thế ta có thể gặp ở khắp thủ đô New Delhi, khắp Ấn Độ. Ông có thể từng là một công chức, có thể là một doanh nhân thành đạt, sau khi đã gây dựng gia đình, dựng vợ gả chồng cho con cái, tự thấy đã trọn việc đời, thì quyết định xa lánh đời trần tục, lên đường theo đuổi đời sống tinh thần. Hành động chìa tay vào mặt tôi lúc ấy, đơn giản chỉ là ông muốn quệt lên trán tôi một vệt phẩm màu, để ban phước. Một lần khác, tôi đưa một ông sếp đi thăm mấy ngôi đền Hindu và Phật giáo, nhân ông đi công tác ngang qua Ấn Độ. Chuyến tham quan vui vẻ, người hướng dẫn lẫn người đi chiêm bái đều hài lòng. Chỉ có điều, sau khi ra khỏi một ngôi đền, ông đứng trước bậc thềm, vừa xỏ lại đôi giày vừa ngập ngừng hỏi như không tin vào điều ông mới nhìn thấy: Sao đền chùa ở đây nó lại vẽ cả hình thập ngoặc phát xít? Tất nhiên tôi đã giải thích ngay cho ông về cái chữ vạn (swastika), một chữ thiêng của người Aryan, sau này thành thiêng liêng đối với nhiều tôn giáo như Hindu, đạo Phật, đạo Jain và việc vì sao nó lại bị sử dụng thành chữ thập ngoặc phát xít... Nhưng từ đó những chuyện lúng túng khi bất ngờ va phải văn hóa Ấn Độ và đời sống Ấn Độ khiến tôi nung nấu ý tưởng phải làm gì đó giúp cho những người đến sau. Việt Nam được coi là chịu ảnh hưởng của hai luồng văn hóa Trung và Ấn, ta ở trên bán đảo Trung-Ấn, nhưng thử hỏi đã có bao nhiêu phần văn hóa Ấn Độ được phổ cập? Kiến thức của người Việt về Ấn Độ có lẽ không bao giờ so sánh được với hiểu biết về Trung Hoa. Tôi đã tận dụng thời gian để góp nhặt kiến thức về Ấn Độ trong một thời kỳ dài sau đó. Sáu năm trời dọc ngang khắp các vùng miền trên tiểu lục địa Ấn Độ. Nhiều năm sau đó ở các nước khác, nhưng vẫn tiếp tục đề tài, tận dụng những phương pháp của các nước mà soi chiếu ngược trở về Ấn Độ. Tự nguyện xâm nhập vào văn hóa Ấn Độ giống như tự nguyện nhảy xuống biển, cả một đại dương văn hóa khiến cho ta càng bơi càng không thấy bờ. Tôi đã choáng váng mất mấy năm đầu trước một đất nước quá xa lạ. Khác hẳn cảm giác sau này khi tôi lần đầu đến Trung Quốc, cứ như mình trở về nhà sau một chuyến đi dài hàng trăm năm. Trước Ấn Độ ta thấy mình thật nhỏ bé. Ở đó cái gì cũng to, người to tướng, da ngăm đen và da trắng bóc pha trộn; nhà to, đền đài cung điện thành quách... cho đến cây trái đều to. Hình như người Ấn tư duy cái gì cũng lớn, cũng mang tính toàn cảnh bao quát. Lúc không trầm tư mặc tưởng ù trì thì hành động cũng hoành tráng. Còn bí ẩn thì không cần phải nói nhiều, tư tưởng Ấn Độ, tâm trạng Ấn Độ là thứ mà càng tìm hiểu lại càng không hiểu nổi. Dường như vậy. Người ta có thể đi thăm một đất nước bất kỳ trong ít ngày, trở về viết được một bài báo, bài bút ký dày dặn. Tôi thì phải sau bốn năm ở Ấn Độ mới dám viết truyện ngắn đầu tiên, tìm cách lý giải cho mình và cho độc giả về tính cách Ấn Độ. Và bây giờ, sau hai chục năm, sau khi ở Ấn Độ và qua nhiều nước Âu - Mỹ tiếp tục nghiên cứu về Ấn Độ, tôi mới tập hợp những bài viết thành một cuốn sách mang tính biên khảo. Đây là kết quả của những nghiên cứu, những chuyến đi thực địa, những điều lượm lặt từ sách vở và từ những cuộc đàm đạo với các bậc đạo sư, các vị học giả, những cuộc cùng ăn cùng ở cùng làm với người bình dân Ấn Độ. Có những điều khi nghe dân chúng nói, về đối chiếu lại thấy có sai khác, phải sử dụng đến trực giác, thực nghiệm và lý thuyết để phân định. Tuy vậy, như đã nói ở trên, Ấn Độ là như thế mà không phải như thế. Ta đã chấp nhận bơi giữa đại dương thì cũng phải chấp nhận càng bơi càng khó thấy bờ. Những điều tôi ghi lại ở đây, chỉ nhằm giúp cho ai đó muốn có chút kiến thức nhập môn về Ấn Độ. Đại dương Ấn Độ đã được đưa vào trong một cái chai nhỏ. Hay là như một nhà báo Việt Nam đi cùng tôi vào sa mạc Thar ở vùng Jaisalmer, chị đã lấy một ít cát kỷ niệm vào cái lọ nho nhỏ, cả một sa mạc nằm trong lòng tay. Những khái niệm đã được tóm lược và đơn giản hóa ở mức dễ tiếp nhận nhất. Độc giả sẽ gặp những tư tưởng, những sản phẩm văn hóa, những biểu tượng ký hiệu, những phong tục tập quán... được trình bày theo quan niệm của đạo Hindu. Từ đó, người đọc sẽ có điều kiện so sánh ảnh hưởng của chúng đối với các tôn giáo khác như đạo Phật, đạo Jain, đạo Sikh; và ảnh hưởng đối với các nền văn hóa khác, những đất nước khác trong khu vực. Cách trình bày này có thể còn để thiếu nhiều thứ. Cấu trúc của cuốn sách này cũng để mở cho việc bổ sung nhiều vấn đề trong những lần tái bản. Nói tóm lại, tôi mong muốn cuốn sách này có ích cho những ai nhập môn Ấn Độ học hoặc lần đầu tiên đến Ấn Độ. Họ sẽ không lặp lại kỷ niệm vụng về của tôi hai mươi năm trước. Khi một bàn tay thiện chí chìa về phía ta, ta không lo sợ mà gạt phắt nó ra.   Mời các bạn đón đọc Namaskar! Xin Chào Ấn Độ của tác giả Hồ Anh Thái.
Người Không Quê Hương
Người không quê hương là tuyển tập các tiểu luận và bài phát biểu của Vonnegut với những trang minh họa của chính tác giả, được dày công thực hiện trong suốt năm năm. Đứng trên lập trường của một nhà nhân văn và tư tưởng gia tự do, ông đã công khai thể hiện quan điểm sắc bén về nước Mỹ trên nhiều lĩnh vực, chính trị, nghệ thuật, tình dục…Xuyên suốt cuốn sách mỏng là một Vonnegut trào phúng mà sâu sắc, một người tự nhận mình là “người không quê hương” nhưng lại không hề bàng quan trước thực tại đất nước. Kurt Vonnegut (1922-2007), là một trong những nhà văn Mỹ xuất sắc nhất thế kỷ XX. Vai trò của ông được đánh giá cao đến nỗi nếu thiếu ông, thuật ngữ văn học Mỹ sẽ chẳng còn trọn vẹn. Ông sinh tại Indianapolis, tiểu bang Indiana, theo học chuyên ngành Hóa-Sinh, Đại học Cornell từ năm 1940-1942, sau đó đăng lính phục vụ trong Thế Chiến II. Xuất ngũ trở về, Vonnegut theo học Đại học Chicago và bắt tay vào sự nghiệp cầm bút. Tiểu thuyết đầu tay của ông, Player Piano, xuất bản năm 1952. Các tác phẩm tiêu biểu khác bao gồm Slaughterhouse-Five, Cat’s Cradle, Jailbird, Deadeye Dick…Vonnegut nổi tiếng vì văn phong đặc biệt với những câu văn dài và rất ít dấu câu, thẫm đẫm tinh thần hài hước. Người không quê hương (2005) là tác phẩm cuối cùng trong văn nghiệp của ông. *** Kurt Vonnegut (1922-2007), là một trong những nhà văn Mỹ xuất sắc nhất thế kỷ XX. Vai trò của ông được đánh giá cao đến nỗi nếu thiếu ông, thuật ngữ văn học Mỹ sẽ chẳng còn trọn vẹn. Ông sinh tại Indianapolis, tiểu bang Indiana, trong một gia đình người Mỹ gốc Đức, và sớm phải đối mặt với sóng gió cuộc đời. Cuộc Đại Khủng Hoảng 1930 đã khiến gia đình ông khánh kiệt, cha ông suy sụp, mẹ mất vì dùng thuốc ngủ quá liều. Chủ đề “Giấc mơ Mỹ - đạt được và đánh mất” xuất hiện khá nhiều trong những tác phẩm của ông sau này. Vonnegut theo học chuyên nghành Hóa-Sinh, Đại học Cornell từ năm 1940-1942, sau đó đăng lính phục vụ trong Thế Chiến II. Ông từng tham gia trận Bulge lịch sử và bị bắt làm tù binh tại Dresden, Đức. Trải nghiệm khốc liệt đó được tái hiện trong cuốn sách nổi tiếng nhất của ông, Slaughterhouse-Five (1969). Xuất ngũ trở về, ông theo học ngành Nhân chủng học, Đại học Chicago, sau đó chuyển đến làm việc tại công ty General Electric, Schenectady. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết báo và truyện ngắn. Năm 1951, ông từ chức và dành toàn bộ tâm sức vào văn nghiệp. *** Khi còn bé tôi là thành viên nhỏ tuổi nhất trong gia đình, và đứa trẻ nhỏ tuổi nhất trong bất kỳ gia đình nào cũng luôn thích đùa, vì nói đùa là cách duy nhất để nó có thể tham gia câu chuyện của người lớn. Chị tôi lớn hơn tôi năm tuổi, anh tôi hơn tôi chín tuổi, và cả bố lẫn mẹ tôi đều là những người hoạt ngôn. Vì thế hồi tôi còn nhỏ xíu, mỗi khi ăn tối với cả nhà, tôi luôn khiến mọi người chán chết. Họ không muốn nghe mấy chuyện trẻ con ngốc nghếch đã xảy ra trong ngày với tôi. Họ muốn nói về những thứ thực sự quan trọng xảy ra ở trường phổ thông không thì cũng ở trường đại học hay chốn công sở. Vì vậy cách duy nhất để tôi có thể tham gia một câu chuyện là nói cái gì đó vui vui. Tôi nghĩ mới đầu chắc chỉ do tôi tình cờ thôi, tình cờ chơi chữ trong lời nói khiến cuộc đàm thoại phải ngừng lại, đại loại vậy. Và sau đó tôi nhận ra rằng bông đùa là một cách để xen vào cuộc trò chuyện của người lớn. Tôi lớn lên trong thời kỳ mà hài kịch ở đất nuớc này rất huy hoàng - thời kỳ Đại Suy Thoái. Có rất nhiều diễn viên hài kỳ cựu hàng đầu trên sóng phát thanh. Và dù không chủ định, tôi đã thực sự học hỏi họ. Tôi thường nghe hài kịch ít nhất một tiếng đồng hồ mỗi đêm suốt cả thời trai trẻ và rất quan tâm muốn biết thế nào là chuyện đùa, làm cách nào nó lại gây cười. Khi nói đùa, tôi cố gắng không xúc phạm đến ai. Tôi nghĩ phần lớn những gì mình làm chưa gây phản cảm cho người nào. Tôi nghĩ mình chưa làm nhiều người phải ngượng ngùng hay căng thẳng. Cách nói chuyện gây sốc duy nhất mà tôi sử dụng là thỉnh thoảng dùng một từ dung tục. Có vài thứ chẳng thể gây cười. Chẳng hạn, tôi không thể tưởng tượng ra nổi một cuốn sách hay một vở kịch trào phúng nào nói về trại tập trung Auschwitz. Tôi cũng chẳng thể nào đùa giỡn về cái chết của John F. Kennedy hay Martin Luther King. Ngoài những thứ đó ra, chưa có đề tài nào mà tôi lại tránh né hay không thể tận dụng. Những thảm họa lớn cũng hài hước chết đi được, như Voltaire đã từng chứng minh. Các bạn biết đó, vụ động đất ở Lisbon thật buồn cười[1]. Tôi đã chứng kiến Dresden bị tàn phá. Tôi đã thấy cái thành phố đó trước khi trốn vào hầm tránh bom và thấy lại nó sau khi ra khỏi hầm, và dĩ nhiên tiếng cười là một phản ứng. Có Chúa chứng giám, ấy là linh hồn tìm kiếm chút khuây khỏa. Bất cứ đề tài nào cũng có thể gây cười, và tôi cho rằng có một loại tiếng cười rất kinh hãi - tiếng cười của những nạn nhân ở trại Auschwitz. Tiếng cười là một phản ứng gần như bản năng của cơ thể trước nỗi sợ hãi. Freud[2] nói tiếng cười là một trong những phản ứng trước sự thất vọng. Ông nói một con chó khi không thể ra khỏi cổng sẽ cào cửa và bắt đầu đào bới rồi có những động tác vô nghĩa, có lẽ là gầm gừ hay làm gì đó, để đối phó với sự thất vọng hay ngạc nhiên hay sợ hãi. Và rất nhiều tiếng cười phát sinh từ nỗi sợ. Mấy năm trước tôi tham gia thực hiện một chương trình truyền hình hài dài tập. Chúng tôi cố gắng cùng tạo nên một chương trình theo nguyên tắc cơ bản: luôn đề cập tới cái chết trong mỗi tập. Yếu tố này làm cho tiếng cười trở nên sâu sắc hơn mà khán giả không nhận ra được cách thức chúng tôi tạo ra những tiếng cười thắt ruột. Có một loại tiếng cười hời hợt. Bob Hope chẳng hạn, ông không hẳn là nhà hài hước. Ông là diễn viên hài với thiên tư rất mỏng, chưa bao giờ đề cập đến bất cứ vấn đề gì nhức nhối. Trước đây tôi thường cười ngặt nghẽo khi xem Laurel và Hardy[3] diễn xuất. Có một sự bi ai thê lương phảng phất đâu đó trong cách diễn của họ. Những con người ấy quá hiền lành để có thể tồn tại trong thế giới này và luôn đứng trước nguy cơ rất lớn. Họ có thể dễ dàng bị thủ tiêu. *** Ngay cả những chuyện đùa đơn giản nhất cũng dựa trên những cái giật mình sợ hãi khe khẽ, chẳng hạn như câu hỏi, “Cái thứ màu trăng trắng trong phân chim là gì?” Người nghe, như thể bị gọi trả bài trong trường, ngập ngừng trong giây lát vì sợ sẽ nói ra điều gì đó ngu ngốc. Khi nghe được câu trả lời, “Cũng là phân chim thôi!”, họ xua tan nỗi sợ bản năng bằng tiếng cười. Dù sao thì họ cũng chưa từng bị làm vật thí nghiệm bao giờ mà. “Tại sao lính cứu hỏa lại mặc dây đeo quần màu đỏ?” Và “Tại sao người ta lại chôn George Washington trên sườn đồi?” Vân vân và vân vân. Lẽ đương nhiên, còn có những chuyện đùa không cười nổi, cái mà Freud gọi là “hài hước giá treo cổ”[4]. Có những tình huống thật ngoài đời vô vọng đến nỗi không bao giờ người ta có thể thấy khuây khỏa. Khi chúng tôi bị dội bom ở Dresden, ngồi trong hầm trú, hai tay ôm đầu đề phòng trần hầm sụp xuống, chúng tôi nghe một anh chiến sĩ nói như thể mình là nữ công tước trong lâu đài vào một đêm mưa lạnh lẽo, “Ta tự hỏi những người dân nghèo đang làm gì tối nay.” Chẳng ai cười, nhưng chúng tôi ai cũng vẫn mừng là anh đã nói câu ấy. Ít ra thì chúng tôi vẫn còn sống! Anh đã chứng minh được điều đó. Mời các bạn đón đọc Người Không Quê Hương của tác giả Kurt Vonnegut Jr..
Và Mùa Thu Chầm Chậm Đi Qua
“Tôi sinh ra ở làng quê, lớn lên trong thành phố! Nhiều năm qua, mải miết giữa phố và làng. Ở phố ngày nhộn nhịp và về làng tìm những phút bình yên. Tôi tự hào về cái gốc gác quê mùa ấy của mình đến nỗi bạn bè tôi dù Tây hay ta, quen nhau vài bữa là tôi đã khoe ngay tôi không phải người thành thị. Ấn tượng về làng của tôi là những mối quan hệ chằng chịt và sâu nặng giữa những người láng giềng, là tính chất tư hữu và bè phái, là óc gia trưởng tôn ti hằn sâu trong từng nếp nghĩ. Là những đình đền chùa bao quanh mà bao giờ những ngày rằm, dịp lễ mẹ tôi vẫn đi cho đủ. Là ông cụ từ đền râu bạc trắng như cước hàng ngày vẫn qua trước ngõ. Là hình ảnh bà tôi những ngày cưới con cháu, ngồi trên sập gụ, bỏm bẻm nhai trầu, đôi môi thắm đỏ và mái tóc phai màu thời gian. Hình ảnh ấy mãi neo lại trong tâm trí tôi như một ấn tượng bền vững mà sau này mỗi dịp đi xa tôi vẫn thấy nhớ quay quắt. Tôi tự hỏi mình nếu một mai này, mẹ tôi, vì thể theo những lời cằn nhằn của tôi mà bỏ đi hết những xoong nồi đen cáu nhọ nồi và bồ hóng, thím tôi không còn quấy bánh đúc lạc những dịp hội hè, thì cái “người nhà quê” trong thế hệ chúng tôi sẽ còn hay mất? Tôi viết những dòng nhật ký này đầu những năm 2007. Sau đó không lâu mẹ tôi cũng bỏ đi hết những xoong nồi đen cáu nhọ nồi và bồ hóng, còn tôi bắt đầu chuyến đi lớn đầu tiên trong đời đến Kenya. Rồi tôi cũng không còn sống ở cái làng to to tên là Hà Nội nữa mà chuyển tới một cái làng - toàn - cầu hơn, to và rộng hơn tên là London. Mười năm qua những chuyến đi của tôi đã được nối dài hơn, thường xuyên hơn. Ước mơ của cô gái nhỏ “sinh ra từ làng” được đi khắp năm châu bốn biển dần trở thành hiện thực. Cuốn sách nhỏ này bạn đang cầm trên tay là tập hợp những trang nhật ký viết vội trên những nẻo đường tôi đã đi qua. Bạn sẽ thấy những non nớt, bỡ ngỡ trong những bài viết đầu tiên, bao băn khoăn những năm tôi hai mươi, những ngày mùa đông cô đơn đi cùng những ngày xuân duyên dáng. Tôi trân trọng chia sẻ cùng bạn những ký ức ấy trong hành trình của tôi từ làng ra phố và rong chơi trên những cánh đồng! London những ngày thu 2017 Thùy Dương *** Kruger - Những hồi ức châu Phi Châu Phi với mỗi người trong số chúng ta là gì nhỉ? Là đỉnh Kilimanjaro quanh năm tuyết phủ tráng lệ, là cánh rừng già kỳ vĩ mà xa lạ, hay là những ngọn đồi xanh trong trang văn đậm chất phiêu lưu của Ernest Hemingway? Với tôi, châu Phi là mảnh đất hoang dã và bí ẩn được tái hiện trong thước phim đầy chất thơ “Lion King” của hãng Walt Disney. Hình ảnh chú sư tử mạnh mẽ trên bình nguyên bao la, đàn voi thong thả bước đi trong ánh chiều rực rỡ và buổi bình minh huy hoàng trên đồng cỏ đã ám ảnh tôi trong những giấc mơ về một miền đất lôi cuốn. Vì thế trong lần đầu đặt chân đến Nam Phi, bỏ qua những thành phố nhộn nhịp, những cánh đồng nho và xứ sở sản xuất rượu vang ngọt ngào, tôi thực hiện chuyến safari đầu tiên của mình tới công viên quốc gia Kruger như một dịp hồi tưởng và trải nghiệm thực tế những hình ảnh châu Phi vẫn còn đọng sâu trong ký ức từ bộ phim thuở nào. Chặng đường lái xe chín tiếng đồng hồ từ sân bay Johannesburg tới Kruger tưởng chừng dài như vô tận. Chúng tôi có dịp qua nhiều thành phố, thị trấn nhỏ của Nam Phi. Càng về phía Đông Bắc, không gian càng trải rộng với những cánh đồng cỏ savannah màu nâu nhạt, thấp thoáng những tán cây bụi xơ xác. Rồi hẻm núi Bryde River hiện ra sừng sững trước mặt. Lúc này, mặt trời đã ngả chênh chếch về hướng Tây, ánh nắng dát vàng lên vách núi, phía xa một dòng thác bạc đổ xuống róc rách từ lưng chừng. Thêm mấy chục vòng cua quanh hẻm núi, dăm bận hỏi đường, liên tục nhấn ga để chạy đua cùng mặt trời, chúng tôi cũng vừa kịp qua cổng Numbi, một trong số chín cổng chính dẫn vào công viên Kruger và về đến trại nghỉ trước khi trời tối sập xuống. Ngôi nhà chúng tôi ở được xây cách tân theo phong cách lều trại của người Zulu, tường gạch với mái lợp rơm hình chóp nón, trong nhà trang trí rất nhiều họa tiết của các bộ lạc châu Phi. Đêm trong rừng, không gian tĩnh mịch và im ắng tới lạ thường, phải để ý lắm mới nghe thấy những tiếng lích rích trong cỏ, tiếng lá khô xào xạc lối đi. Vầng trăng khuyết cong veo lạc giữa một thảm sao dày đặc trên bầu trời. Sáng hôm sau, khi trời vừa rạng, chúng tôi bắt đầu ngày đầu tiên chinh phục Kruger. “Tôi chưa bao giờ biết một buổi sáng châu Phi khi thức dậy mà lòng không hạnh phúc”. Hemingway từng viết những dòng đầy hào hứng như vậy về những tháng ngày rong ruổi trên lục địa đen này. Và giờ đây, ngày mới của tôi cũng bắt đầu đầy rộn ràng như thế. Nắng đã chiếu rạng rỡ trên con đường nhỏ chạy sâu vào rừng, nhưng trên trời vệt trăng lưỡi liềm vẫn còn mờ như một ảo ảnh. Gọi là công viên nhưng Kruger rộng hàng ngàn hecta tương đương với diện tích của một quốc gia như Israel hay xứ Wales. Đây là một trong những khu bảo tồn thiên nhiên hoang dã lớn nhất trên thế giới với thảm thực vật phong phú và hàng trăm loài động vật khác nhau. Mùa này là cuối đông đầu xuân, mặt đất trống toàn cỏ khô, điểm xuyết những bụi cây đơn độc. Chẳng mấy chốc tôi gặp cây bao báp đầu tiên, cô đơn mà kiêu hãnh giữa đồng cỏ bao la. Bao báp vươn cành khẳng khiu giống như một khối điêu khắc với hình thù kỳ dị của tạo hóa từ hàng nghìn năm qua tạc trên nền trời xanh thẳm. Từ sau một bụi cây xanh tươi, một cái cổ dài thò ra lấp ló, hóa ra hai chú hươu cao cổ đang lững thững vặt lá cây từ bụi này sang bụi khác. Cả thân hình khổng lồ cao tới vài thước mà chúng bước đi uyển chuyển như đang trình diễn vũ điệu. Chạy xe thêm vài kilomet, chúng tôi bất chợt bắt gặp một hồ nước lớn. Từ đây tất cả diễn ra như một thước phim quay chậm. Trên nền vàng sẫm của cỏ savannah, đàn ngựa vằn thong thả gặm cỏ bên cạnh lũ linh dương nhởn nhơ giữa đám cây khô, phía xa đám lợn rừng chậm chạp đi thành một hàng. Xe đã tắt máy, chúng tôi lặng im ngắm nhìn khung cảnh thơ mộng của thiên nhiên, cảm tưởng như chỉ khẽ lay động một chút thôi, khung cảnh huyền ảo trước mắt sẽ tan biến. Vài chú voi lững thững tiến đến mép hồ uống nước, chú hoẵng nhỏ ngơ ngác ngước lên nhìn những người khách lạ rồi chạy biến về bên mẹ. Không gian thanh vắng tới lạ kỳ, chỉ có tiếng gió rung cây, tiếng khua nước nhè nhẹ. Một con chim sặc sỡ bay vút từ đâu đậu xuống một cành khô giữa hồ mải mê rỉa lông rỉa cánh. Về trưa, sau bữa sáng kiếm mồi, những con vật đã lùi vào bóng cây nghỉ ngơi. Dưới tán cọ bên sông, đàn trâu rừng với những cặp sừng cong veo như lưỡi hái nhẩn nha hóng mát. Bên vệ đường hai chú sư tử đang nằm ngủ ngon lành, bộ lông vàng óng lẫn vào trong cỏ. Chúa sơn lâm bình thường oai hùng là thế mà bây giờ trông hiền lành như những chú cún con mèo con? Thấy vậy nhưng tôi cũng chỉ dám chiêm ngưỡng từ xa, không dám lại gần ngộ nhỡ làm chúng thức giấc. Khi chiều buông, những con vật lại bắt đầu hành trình kiếm ăn trong hoàng hôn. Bầy hà mã phì phò tắm bên bờ suối. Ở một vũng nước mưa lớn, lũ voi con tinh nghịch quạt nước trêu đùa, xa xa lừng lững bóng một con tê giác đơn độc. Mặt trời đỏ ối từ từ rớt xuống trên thảo nguyên bao la. Cánh rừng ban trưa vốn im ắng là thế mà nay bỗng trở nên sống động, chim rộn ràng gọi nhau về tổ, những con vật săn mồi đổ ra từ trong những bụi cây chuẩn bị tìm thức ăn, có thể sẽ là một chú dê rừng hay hoẵng cho bữa tối nay. Những ngày ở Kruger nối tiếp nhau đi qua, mỗi ngày như một giấc mơ. Chưa ở đâu tôi được sống với thiên nhiên gần gũi và sống động như thế, chưa bao giờ tôi thấy màu sắc và âm thanh của thế giới hoang dã giao hòa với nhau đồng điệu hơn thế. Thật lạ kỳ, đôi khi ở một nơi xa Hà Nội tới hàng ngàn kilomet, lại khiến tôi có cảm giác thân thuộc như ở nhà. Chẳng phải hàng ngàn năm trước những tán cây này, cánh rừng, dòng sông này đã từng là nhà của chúng ta sao? Tôi ngỡ như mình được trở về những năm tháng tuổi thơ chưa bao giờ thôi mơ về những miền đất lạ, những câu chuyện núi đồi và rừng thẳm, những buổi bình minh trong lành hay hoàng hôn xa xăm, có đàn chim bay về tự chân trời. Xuân, hạ, thu, đông rồi lại xuân... Cuộc sống vẫn trôi theo dòng, bốn mùa ở Kruger vẫn tiếp diễn như hàng ngàn đời nay vẫn thế. Chẳng mấy nữa, rồi mùa xuân sẽ về, cây cối sẽ ra lá xanh um, những dòng suối cạn rồi sẽ đầy ắp nước, mặt đất thôi khô khốc và mềm mại hơn dưới cơn mưa đầu mùa. Những con linh dương ăn lá rồi đến lượt chúng trở thành mồi cho đàn sư tử đi săn. Hoàng hôn buông để ngày mai lại bắt đầu buổi bình minh mới. Những mùa trăng nối tiếp nhau và cuộc sống giống như một bài ca vô tận… *** Giương buồm lên hay những suy nghĩ ở Mũi Hảo Vọng Năm lên sáu, khi bắt đầu biết nhận mặt chữ cái, tôi đọc cuốn sách đầu tiên trong đời có tên “Giương buồm lên”, kể về hành trình khám phá thế giới của những nhà hàng hải vĩ đại trong lịch sử. Cuốn sách khổ lớn với những câu chuyện lôi cuốn và hình ảnh minh họa bay bổng đã in sâu vào tâm trí tôi để rồi kể từ đó những cái tên như Ferdinand Magellan, Vasco da Gama, James Cook, Vitus Jonassen Bering, Marco Polo, Christopher Columbus đã trở nên thân thuộc và khơi gợi niềm cảm hứng vô biên trong tôi về những cuộc phiêu lưu tới những miền xứ lạ. Sau này, cuộc sống hào phóng đã cho tôi đặt chân tới nhiều địa danh khác nhau trên thế giới, theo dấu những nhà hàng hải năm xưa mà tôi hằng ngưỡng mộ. Tôi đã tới Genoa, nơi sinh thành của Columbus, tới Trinity House, London nơi James Cook gắn bó trước khi bắt đầu hành trình khám phá Thái Bình Dương, tới nhà thờ San Lorenzo ở Venice, nơi chôn cất của Marco Polo. Và hôm nay, tôi may mắn có mặt ở một tọa độ nổi tiếng: 34°21’23 vĩ nam, 18°29’15 kinh đông, nơi gắn bó với tên tuổi của hai nhà thám hiểm xứ Bồ Đào Nha Bartolomeu Dias và Vasco da Gama. Tôi đang ở Mũi Hảo Vọng, cực Nam châu Phi. Nằm cách trung tâm thành phố Cape Town chừng một giờ lái xe, đây là địa danh mà bất kỳ du khách nào cũng muốn được một lần đặt chân trong đời. Con đường từ Cape Town xuôi theo hướng Nam dọc bờ biển Đại Tây Dương có lẽ là một trong những cung đường lãng mạn nhất trên thế giới mà tôi từng đi qua. Một bên là núi non trùng điệp, một bên là biển xanh miên man. Phía xa, những dãy núi đá uy nghiêm vững vàng in bóng trên nền trời xanh thẳm. Chớm xuân, hoa đã lác đác nở trên triền núi, những vạt hoa dại vàng len lỏi vươn mình trên vách đá, mỏng manh mà kiêu hãnh, mặc cho những đợt gió lồng lộng từ biển thổi vào. Ngoài khơi, sóng nối đuôi nhau táp vào bờ tung bọt trắng xóa. Xe chúng tôi chạy qua Chapman’s Peak, cung đường với những khúc cua tay áo liên tiếp men theo vách đá ven biển, qua vịnh Camps, vịnh Hout, vịnh False đẹp tới mê hồn, qua những bờ biển rực rỡ như biển Clifton, biển Boulders nổi tiếng với những chú chim cánh cụt châu Phi lạch bạch chạy trên cát. Càng tới gần mũi Hảo Vọng, không gian càng trở nên khoáng đạt. Con đường nhỏ chạy dài tới miên man, ngoài xa, đường chân trời mờ mờ xa ngái. Một chú chim đà điểu nhẩn nhơ bước thấp bước cao bên bờ biển. Trước mắt chúng tôi, ngọn hải đăng trên đỉnh Cape Point đang dần hiện ra. Và một lần rẽ nữa thôi, tấm biển báo “Cape of Good Hope” đã hiện ra trước mắt. Trời đổ về chiều, gió lạnh hơn, mặt trời trút những ánh vàng lai láng cuối cùng nhuộm vàng rặng đá lô xô hướng đầu ra biển, hải âu bay thành từng đàn, tạo thành những vệt đen dài trên nền trời đầy mây cuộn lại. Tôi hít một hơi thật sâu, nếm trong gió vị mặn mòi của đại dương, lắng nghe những con sóng gầm gào vỗ vào ghềnh đá. Theo vạt đường mòn từng in dấu chân bao du khách, tôi leo lên mũi đá cao nhất, phóng tầm mắt ngút ngàn về phương xa. Ngắm nhìn đại dương mênh mông vô tận, trong lòng tôi tràn đầy niềm cảm phục vô bờ đối với những nhà thám hiểm vĩ đại. 500 năm trước đây, họ đã giong buồm ra khơi trên những con thuyền gỗ, vượt qua những hành trình lênh đênh trên biển cả, đón bao mùa trăng lên chỉ để thỏa mãn ước mơ khám phá và chinh phục những mảnh đất nơi miền viễn xứ xa xôi. Người đầu tiên đi vòng từ châu Âu qua khu vực này là nhà hàng hải người Bồ Đào Nha Bartolomeu Dias vào năm 1488 với hy vọng mở đường tiến tới vùng Viễn Đông. Sóng dữ và địa hình khắc nghiệt của vùng nước này khiến Dias đặt cho nó tên gọi Cabo das Tormentas (Cape of Storms - Mũi Bão Táp). Tuy nhiên nhà vua Bồ Đào Nha John II khi ấy đã tin rằng nếu vượt qua được mũi Bão Táp, đến vùng phương Đông trù phú thì sẽ có hy vọng mang về được những hàng hóa quý giá như vàng, tơ lụa, những loại hương liệu hiếm như quế và tiêu. Vì vậy ông đổi tên mũi đất này thành mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope). Sau đó không lâu, một nhà thám hiểm Bồ Đào Nha khác là Vasco Da Gama đã vòng qua mũi Hảo Vọng thành công, đi vào Ấn Độ Dương và cập bến Calicut, Ấn Độ. Ông trở thành người châu Âu đầu tiên đến Ấn Độ bằng đường biển, người đầu tiên kết nối châu Âu với châu Á qua chuyến hành trình xuyên đại dương, mở ra con đường quý giá đưa phương Tây và phương Đông xích lại gần nhau. Thế giới đã hoàn toàn thay đổi nhờ những phát kiến địa lý vĩ đại ấy của những người như Dias và Da Gama. Phong cảnh nơi tôi đứng hôm nay gần như không khác gì so với 500 năm trước. Trước mắt tôi, biển dạt dào như hàng ngàn năm vẫn thế. Dias và Da Gama đã chinh phục biển thành công, nhưng tôi biết, ẩn trong lòng đại dương còn là câu chuyện về hàng ngàn thủy thủ không tên, hàng trăm con tàu đắm đã bỏ mạng trong những hành trình không mệt mỏi của con người trên biển khơi. Không phải vô cớ mà mũi Hảo Vọng lại là nơi bắt nguồn của câu chuyện bí ẩn về con tàu “Người Hà Lan bay”, theo truyền thuyết, con tàu được điều khiển bởi những bóng ma thủy thủ cứ phải đi luẩn quẩn trong vùng nước mênh mông mà không bao giờ cập vào được bến bờ. Có lẽ con tàu “Người Hà Lan bay” chỉ là một ảo ảnh, một sự tích dân gian được thêu dệt nên, nhưng tôi tin rằng mũi đá chơi vơi bên bờ biển này là minh chứng cho những ước mơ rất thật của con người nhằm chinh phục đại dương mênh mông và khám phá những miền đất bí ẩn. Chiều buông dần, gió lạnh hơn, sóng gào lên dữ dội. Trên núi, chỉ còn lại mình tôi với trời nước mênh mông. Một niềm vui nho nhỏ len vào tâm trí tôi giữa khung cảnh tuyệt đẹp của hoàng hôn nơi cực Nam châu Phi khi chỉ còn “một mảnh tình riêng ta với ta”. Vọng về trong tôi là hình ảnh những cánh buồm đỏ thắm trong trang sách khi xưa. Tôi biết rằng những cuộc phiêu lưu của mình chỉ vừa mới bắt đầu! Khi viết lại những dòng này, tôi đã chia tay miền đất Nam Phi đầy gió, trở lại với cuộc sống bận rộn thường ngày ở Hà Nội. Mỗi sớm mai tôi đều dành thời gian uống một tách trà và ngắm nhìn cuộc sống từ ban công tầng ba. Dòng đời vẫn chảy đi hối hả, những em bé tất bật cắp sách cho một ngày mới đến trường. Chợt nhớ lại tuổi thơ tôi những ngày xưa cũ say mê bên những trang sách vỡ lòng. Tôi tin rằng với những cô bé, cậu bé lên năm, lên sáu vừa chập chững những bước đầu tiên tới trường này, ba chữ “Giương Buồm Lên” quả là câu thần chú kỳ diệu. Mời các bạn đón đọc Và Mùa Thu Chầm Chậm Đi Qua của tác giả Thùy Dương.