Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Lolita

Đầu tiên, theo tư vấn của một ông bạn già thận trọng, tôi đã đủ ngoan ngoãn đến mức đặt điều kiện xuất bản cuốn sách dưới bút danh khác. Tôi không biết mình sẽ có lúc nào đó thấy ân hận là  ít lâu sau, do hiểu rõ rằng cái mặt nạ có thể dễ dàng để lộ nguyên cớ của chính tôi như thế nào, tôi lại quyết định ký tên thật cho Lolita. Bốn nhà xuất bản Mỹ — W,X,Y,Z — lần lượt được tôi chào bản đánh máy và đưa cho những người đọc của họ liếc qua nó, đã bị sốc bởi Lolita đến mức mà thậm chí ngài F.P., ông bạn già thận trọng của tôi, cũng không tính đến. Mặc dù đúng là ở châu Âu cổ đại, và tận cho đến thế kỷ mười tám (những ví dụ dễ thấy đến từ nước Pháp), sự dâm tục cố ý đã không mâu thuẫn với những giây phút lóe sáng trong hài kịch, hoặc văn chương châm biếm đầy khí lực, hoặc thậm chí cảm hứng của một thi sỹ tài hoa đang trong tâm trạng phóng đãng, và cũng đúng là trong thời hiện đại thì thuật ngữ "văn hóa phẩm khiêu dâm" có nghĩa là tầm thường, hám lợi, và những quy tắc kể chuyện chặt chẽ nhất định. Hành động khiêu dâm cần cho bắt cặp với lời lẽ sáo rỗng bởi lẽ mọi kiểu tận hưởng khoái cảm mỹ học phải bị thay thế trọn vẹn bởi sự kích thích tình dục đơn giản, thứ đòi hỏi lời lẽ truyền thống để tác động trực tiếp lên bệnh nhân. Người sáng tác văn hóa phẩm khiêu dâm phải tuân thủ các quy tắc cũ kỹ và cứng nhắc để làm cho bệnh nhân của anh ta được bao bọc bởi cùng một bầu không khí thỏa mãn an toàn, bầu không khí vốn dĩ quen thuộc với những người mê truyện trinh thám — những truyện mà trong đó, nếu bạn không coi chừng, kẻ sát nhân thật sự có thể hóa ra là, trước sự phẫn uất của người hâm mộ, tính độc đáo nghệ sỹ (ai mà lại muốn, tỷ như, một truyện trinh thám không có đến dù chỉ một cuộc đối thoại?) Bởi vậy, trong các tiểu thuyết khiêu dâm, hành động bị giới hạn trong sự giao cấu giữa những lời khuôn sáo. Phong cách, cấu trúc, tính hình tượng không bao giờ được phép làm sao lãng độc giả khỏi thú tính đầm ấm của anh ta. Cuốn tiểu thuyết phải bao gồm sự thay thế luân phiên những cảnh nhục dục. Những đoạn văn ở giữa phải được rút gọn lại thành những đường khâu cảm xúc, những cầu nối hợp lý có thiết kế tối giản, những giải thích và trình bày ngắn gọn, mà độc giả hầu như chắc chắn sẽ bỏ qua nhưng phải được biết là chúng có tồn tại để không cảm thấy bị lừa dối (sự nhồi sọ từ lề thói của các chuyện thần tiên "có thật" ở thời thơ ấu). Hơn nữa, những cảnh nhục dục trong sách phải bám theo một mạch tăng dần, với những biến thể mới, những phối hợp mới, những giới tính mới, và sự gia tăng đều đặn số lượng người tham gia (trong một vở kịch của Sade, họ còn gọi cả người làm vườn vào), và bởi vậy mà phần kết thúc cuốn sách phải thừa mứa những tri thức dâm dật hơn là các chương đầu tiên. Một vài kỹ thuật ở phần đầu Lolita (giả dụ như Nhật Ký của Humbert) làm cho mấy độc giả đầu tiên của tôi lầm tưởng rằng họ sẽ được đọc một cuốn dâm thư. Họ trông chờ vào chuỗi gia tăng các cảnh gợi tình; khi những cái này ngưng lại, độc giả cũng ngưng đọc luôn, và cảm thấy buồn chán và thất vọng. Tôi ngờ rằng điều này là một trong những lý do tại sao không phải tất cả bốn hãng chịu đọc bản đánh máy ấy đến cuối. Dù họ có thấy nó khiêu dâm hay không thì điều đó cũng chẳng làm tôi quan tâm. Sự khước từ của họ với việc mua sách không dựa trên cách tôi xử lý chủ đề mà dựa trên chính chủ đề, bởi có đến ít nhất là ba chủ đề tuyệt đối cấm kỵ đến mức hầu hết các nhà xuất bản Mỹ đều lo ngại. Hai cái khác là: một cuộc hôn nhân Nhọ-Trắng lại thành công trọn vẹn và mỹ mãn và đơm hoa kết trái thành con đàn cháu đống; và kẻ vô thần tuyệt đối lại sống cuộc đời hạnh phúc và có ích, rồi chết trong lúc đang ngủ, thọ 106 tuổi. Một số phản ứng rất tức cười: một độc giả gợi ý là hãng của anh ta có thể cân nhắc chuyện xuất bản nếu như tôi biến nàng Lolita của tôi thành cậu bé mười hai tuổi và để cậu ta bị dụ bởi Humbert, một gã nông dân, trong chuồng gia súc, giữa phong cảnh thê lương và cằn cỗi, mọi điều này được trình bày bằng những câu văn ngắn, mạnh, "hiện thực" ("Hắn hành động điên rồ. Tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều hành động điên rồ. Tôi nghĩ Chúa cũng hành động điên rồ." Vân vân.). Mặc dù mọi người nên biết là tôi ghét cay ghét đắng những biểu tượng và phúng dụ (một phần do mối thù cũ của tôi với tà phép của Freud và một phần do nỗi kinh tởm của tôi với sự khái quát được sáng chế bởi những người sáng tác văn chương thần thoại và những nhà xã hội học), một độc giả sáng dạ khác thường đọc lướt qua Phần Một rồi miêu tảLolita như "châu Âu già dắt nước Mỹ trẻ vào đời trụy lạc," ấy thế mà một độc giả ba chớp ba nháng khác lại thấy trong nó "nước Mỹ trẻ dắt châu Âu già vào đời trụy lạc." Ông chủ nhà xuất bản X, người có các vị cố vấn chán ngấy Humbert đến nỗi họ không bao giờ đọc được quá nửa cuốn sách, đã ngây thơ viết cho tôi rằng Phần Hai quá dài. Mặt khác, ông chủ nhà xuất bản Y lại lấy làm tiếc, rằng không có người tốt nào trong cuốn sách. Ông chủ nhà xuất bản Z bảo, nếu ông in Lolita, thì ông và tôi sẽ đi tù. Không có nhà văn nào ở một đất nước tự do lại cho rằng họ phải quan tâm đến ranh giới chính xác giữa gợi cảm và gợi dục; đó là điều hết sức vô lý; tôi chỉ có thể ngưỡng mộ chứ không thể ganh đua với độ chính xác trong cách nhìn của những người tạo dáng các động vật hữu nhũ trẻ trung xinh đẹp để chụp ảnh đăng lên tạp chí sao cho toàn bộ đường viền cổ áo chỉ vừa đủ thấp để khơi gợi một tiếng cười thầm của tay bưởng trưởng và vừa đủ cao để không làm ông bưu cục trưởng phải nhăn mặt. Tôi cho là, vẫn tồn tại những độc giả thấy hưng phấn với sự hiện diện những lời lẽ chợ búa trong những cuốn tiểu thuyết khổng lồ và sáo rỗng đến tuyệt vọng, những cuốn tiểu thuyết được đánh máy bằng những ngón tay cái của những kẻ tầm thường cương cứng và được đánh giá là "có ảnh hưởng lớn" và "nổi bật" bởi những tay phê bình bồi bút. Có những tâm hồn hiền lành tuyên bố Lolita vô nghĩa do nó không dạy họ được bất cứ điều gì. Tôi chẳng phải độc giả mà cũng chẳng phải nhà văn thể loại văn chương hư cấu ra vẻ mô phạm, và, bất chấp xác nhận của John Ray, Lolita chẳng có bài học nào đi cùng. Với tôi thì một tác phẩm hư cấu chỉ tồn tại trong chừng mực nó cho tôi cái mà tôi sẽ gọi huỵch toẹt ra là khoái cảm thẩm mỹ, đó là cảm giác được — bằng cách nào đó, ở nơi nào đó — kết nối với những trạng thái khác của sự tồn tại, nơi mà nghệ thuật (sự hiếu kỳ, tính nhạy cảm, lòng nhân hậu, niềm hoan lạc) là tiêu chuẩn. Không có nhiều cuốn sách như vậy. Tất cả những cuốn còn lại hoặc là lá cải thời thượng hoặc là những thứ vẫn được một số người gọi là Văn Chương Ý Tưởng, những thứ mà trong rất nhiều trường hợp lại chính là lá cải thời thượng cô lại thành các khối thạch cao khổng lồ được truyền cẩn thận từ đời này qua đời khác cho đến khi có ai đó xông lên với cây búa và thử làm một choác ra trò lên Balzac, lên Gorki, lên Mann.   VLADIMIR NABOKOV ***  “Lolita, hay Lời thú tội của một người đàn ông da trắng góa vợ”, là hai nhan đề mở đầu các trang bản thảo kì lạ mà người đang viết những dòng này nhận được. “Humbert Humbert”, tác giả của chúng, đã chết trong trại tạm giam, do bệnh nghẽn động mạch vành, vào ngày 16 tháng Mười Một năm 1952, ít hôm trước khi phiên tòa xét xử dự định diễn ra. Ngài Clarence Choate Clark, hiện thuộc đoàn luật sư Đặc khu Columbia, luật sư của ông ấy, người bạn tốt và cũng là người bà con của tôi, đề nghị tôi biên tập lại bản thảo này dựa trên một điều khoản trong di chúc của thân chủ trao cho ông anh họ xuất chúng của tôi toàn quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc xuất bản “Lolita”. Quyết định này của ngài Clark có lẽ chịu ảnh hưởng từ việc nhà biên tập mà ông ấy chọn vừa nhận được giải thưởng Polling cho một nghiên cứu khiêm tốn (“Có thể đồng cảm với cảm xúc không?”) bàn về một số trạng thái bệnh hoạn và loạn dâm. Nhiệm vụ của tôi hóa ra đơn giản hơn cả hai chúng tôi đã dự đoán. Ngoại trừ việc sửa những lỗi ngữ pháp dễ thấy và thận trọng lược bỏ vài chi tiết dai dẳng mà bất chấp những cố gắng của “H.H.” vẫn tồn tại trong nguyên bản như những tấm biển báo và bia mộ (để lộ những nơi hoặc những người mà lẽ ra nên giấu đi cho nhã, hoặc nên thương tình bỏ qua), thì tập hồi ký khác thường này được giới thiệu nguyên vẹn. Biệt danh kỳ quái của tác giả hồi ký là sáng chế của chính ông ta; và, dĩ nhiên, chiếc mặt nạ này — mà qua nó, đôi mắt thôi miên của ông ta dường như rực sáng — vẫn được giữ nguyên không cởi bỏ, đúng như ý nguyện của người đeo nó. Trong khi “Haze” chỉ ăn vần với họ thật của nữ nhân vật chính, thì tên của cô ấy lại quyện với từng sợi xơ giấy sâu kín nhất của cuốn sách đến độ không ai được phép thay đổi; và (như độc giả sẽ tự thấy) cũng không có lý do thiết thực nào để làm vậy. Những tư liệu liên quan đến tội ác của “H.H.” có thể dò tìm trong các tờ nhật báo hồi tháng Chín, tháng Mười năm 1952; nguyên nhân và mục đích của tội đó ắt sẽ vẫn tiếp tục là điều hoàn toàn bí ẩn, nếu tập hồi ký này không được cho phép đến nằm dưới ngọn đèn đọc sách của tôi. Để giúp các độc giả cựu trào có mong muốn dõi theo số phận những người “có thực” bên ngoài câu chuyện “thật”, vài chi tiết có thể được đưa ra dựa theo những gì nhận được từ ông “Windmuller” ở “Ramsdale”, ông này muốn giữ kín nhân thân để “chiếc bóng dài u ám của câu chuyện buồn thảm và nhớp nhúa này” không chạm tới cái cộng đồng mà ông hãnh diện được là thành viên. Con gái ông, “Louise”, hiện là sinh viên đại học năm thứ hai. “Mona Dahl” là sinh viên ở Paris. “Rita” vừa mới kết hôn với một ông chủ khách sạn ở Florida. Bà “Richard F Schiller” đã qua đời ngay trên bàn đẻ, khi đang sinh một bé gái chết non, vào đúng ngày Giáng Sinh năm 1952, ở Gray Star, một khu dân cư miền Tây Bắc vô cùng hẻo lánh. “Vivian Darkbloom” đã viết xong cuốn tiểu sử, nhan đề “My Cue”, sẽ được xuất bản nay mai, và những nhà phê bình đã nghiền ngẫm bản thảo đều cho đó là cuốn sách hay nhất của bà. Những người trông coi các nghĩa trang khác nhau có liên quan tới câu chuyện cho biết không thấy bóng ma nào lảng vảng. Nhìn đơn giản như một tiểu thuyết, “Lolita” đề cập đến những tình huống và những cảm xúc mà nếu làm úa vàng bằng các thủ pháp né tránh nhàm chán thì sẽ khiến người đọc thấy mơ hồ đến phát cáu. Đúng là không thể tìm được chữ khiêu dâm nào trong toàn bộ tác phẩm; kẻ mọi rợ vai u thịt bắp được những lề thói ngày nay dạy cho quen thói chấp nhận không chút đắn đo hàng loạt từ ngữ tục tĩu trắng trợn trong những cuốn tiểu thuyết ba xu, ắt sẽ kinh ngạc khi không thấy chúng ở đây. Song, nếu người biên tập, vì chiều lòng kẻ đoan chính ngược đời này, phải tìm cách giảm bớt hoặc lược bỏ những cảnh mà loại đầu óc nào đó có thể gọi là “kích dục” (liên quan đến việc này, xin xem phán quyết bất hủ được Ngài John Woolsey đưa ra ngày 6 tháng Mười Hai năm 1933 về một cuốn sách khác còn bộc tuệch hơn nhiều), thì sẽ phải thôi luôn việc xuất bản “Lolita” vì chính những cảnh mà người ta cẩu thả kết tội rằng tự thân chúng mang biểu hiện sắc dục, lại là những yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất trong tiến triển của một bi kịch kiên định hướng đến mục tiêu không gì khác hơn là tôn vinh đạo đức. Kẻ yếm thế có thể nói rằng văn hóa phẩm khiêu dâm thương mại cũng tuyên bố y như thế; người hiểu biết có thể phản bác bằng cách khẳng định rằng lời thú tội đầy nhiệt huyết của “H.H.” chỉ là cơn bão trong ống nghiệm; rằng ít nhất 12% đàn ông trưởng thành ở Mỹ — ước tính “dè dặt” theo tiến sĩ Blanche Schwarzmann (thông báo miệng) — năm nào cũng tận hưởng, bằng cách này hay cách khác, cái trải nghiệm đặc biệt mà “H.H.” mô tả với sự tuyệt vọng đến vậy; rằng nếu người viết nhật ký điên khùng của chúng ta, vào cái mùa hè định mệnh năm 1947 ấy, tìm đến một bác sĩ chuyên khoa tâm thần giỏi tay nghề, thì chắc sẽ không có thảm họa nào xảy ra; nhưng nếu vậy, cũng sẽ chẳng có cuốn sách này. Có thể miễn cho kẻ viết bình luận này việc nhắc lại những gì đã từng được nhấn mạnh trong các cuốn sách và bài giảng của mình, cụ thể là “gớm ghiếc” nhiều khi chỉ là từ đồng nghĩa với “khác thường”, và tác phẩm nghệ thuật vĩ đại dĩ nhiên bao giờ cũng độc đáo, và vì thế, nó phải tạo được, bởi bản chất của mình, ít nhiều bất ngờ gây sốc. Tôi không hề có ý định ngợi ca “H.H.” Không nghi ngờ gì nữa, ông ta kinh khủng, ông ta đáng khinh bỉ, ông ta là một tấm gương sáng ngời về bệnh phong hủi đạo đức, là hỗn hợp của hung bạo và hài hước, những cái, có lẽ, đã để lộ ra nỗi khốn khổ cùng cực của ông ta, nhưng không giúp thu hút được cảm tình. Ông ta đồng bóng nặng. Nhiều ý kiến tình cờ của ông ta về con người và cảnh vật đất nước này tỏ ra rất lố bịch. Sự thành thật tuyệt vọng đập suốt lời thú tội không miễn trách ông ta khỏi những tội lỗi xảo trá quỷ quyệt. Ông ta bất bình thường. Ông ta không phải là người quân tử. Nhưng ma quái làm sao, cây vĩ cầm ngân nga của ông ta có thể gợi nên niềm trìu mến và thương cảm đối với Lolita, khiến ta vừa mê mẩn với cuốn sách, vừa ghê tởm chính tác giả của nó!   Là hồ sơ bệnh án, “Lolita” chắc chắn sẽ trở thành tư liệu kinh điển trong giới tâm thần học. Là tác phẩm nghệ thuật, nó vượt lên trên những khía cạnh sám hối của mình; và đối với chúng tôi, điều còn quan trọng hơn cả ý nghĩa khoa học và giá trị văn chương, là tác động đạo đức của cuốn sách lên những độc giả nghiêm túc; bởi trong nghiên cứu cá nhân đắng cay này có ẩn náu một bài học phổ quát; đứa bé ương ngạnh, người mẹ ích kỉ, gã biến thái hổn hển khát dục, họ không chỉ là những nhân vật sống động trong câu chuyện độc nhất vô nhị: họ cảnh báo ta về các khuynh hướng nguy hiểm; họ chỉ ra những cái ác đang sung mãn. “Lolita” khiến tất cả chúng ta — các bậc cha mẹ, các nhà hoạt động xã hội, các nhà giáo dục — phải dốc toàn tâm toàn ý, với tinh thần cảnh giác cao hơn và tầm nhìn xa rộng hơn nữa, cho nhiệm vụ nuôi dạy một thế hệ tốt đẹp hơn trong một thế giới an toàn hơn.   Widworth, Mass. Tiến sĩ John Ray, Jr.   5 tháng Tám năm 1955   Lolita là một trong những kiệt tác văn chương nhân loại, đã được dịch qua hàng chục ngôn ngữ. Với mục đích mang Lolita đến với độc giả Việt Nam, tôi tình nguyện dịch lại toàn bộ tác phẩm.   Mọi trích dẫn đều phải ghi rõ nguồn, và không được dùng vào mục đích thương mại khi chưa có sự cho phép của người dịch.     Thiên Lương   Mời các bạn đón đọc Nàng Lolita (Tiếng Việt) của tác giả Vladimir Nabokov & Thiên Lương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ivan - Vladimir Bogomolov
Cuộc chiến tranh Vệ quốc nổ ra quá bất ngờ. Cậu bé trinh sát viên 12 tuổi Ivan luôn bị ám ảnh bởi cái chết của mẹ và em gái, giữa khung cảnh tàn khốc của cuộc chiến tranh, Ivan luôn mơ ước được trở về với tuổi thơ thanh bình như trước kia của em. Theo motif truyện vừa Ivan của Bogomolov, năm 1962, đạo diễn Andrei Tarcovxki đã dựng thành phim Tuổi thơ của Ivan và đoạt giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim quốc tế Venezia. Trong tập sách nhỏ này bên cạnh truyện vừa Ivan chúng tôi giới thiệu thêm một truyện ngắn khá đặc sắc của ông về đề tài chiến tranh - Mối tình đầu. *** Vladimir Bogomolov sinh ngày 3 tháng 7 năm 1926 trong một gia đình nông dân ở làng Kirilovka tỉnh Matxcơva. Khi Chiến tranh Vệ quốc bắt đầu, ông tình nguyện ra mặt trận khi mới tốt nghiệp lớp 7 trung học (năm 1941). Ông trải qua suốt chặng đường chiến tranh, từ lính trơn lên đến chức vụ trung đội trưởng, rồi đại đội trưởng trinh sát và giải ngũ năm 1952. Tác phẩm lớn nhất, nổi tiếng nhất của ông - tiểu thuyết trinh thám “Tháng tám năm bốn tư” (1973) kể về những chiến dịch phản gián có thật đã từng xảy ra trước cuộc phản công của quân đội Xô viết, được dựng thành phim năm 2000. Câu chuyện được kể bằng lời nhiều nhân vật khác nhau, chứa đựng rất nhiều đoạn tài liệu mật thời chiến, đã trở thành một tác phẩm kinh điển của văn học chiến tranh Nga. Nó được tái bản không dưới một trăm lần, và được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Các truyện ngắn nổi tiếng nhất của Bogomolov về đề tài chiến tranh là “Mối tình đầu” (1958), “Nghĩa trang gần Belostok” (1963) và “Nỗi đau trong tim” (1963) Ông mất ngày 30 tháng 12 năm 2003 và được chôn cất tại nghĩa trang Vagankovsky.    Mời các bạn đón đọc Ivan của tác giả Vladimir Bogomolov.
Người Đan Chữ Xếp Thuyền - Miura Shion
Đó là một góc nhỏ giữalòng Tokyo, bị bỏ quên giữa sự nhộn nhịp của một trong những đô thị sầm uất và hiện đại bậc nhất. Góc nhỏ ấy là thế giới của cậu chàng Majime vụng về nhút nhát, của cô gái Kaguya hay chàng Nijime đào hoa phóng túng… Một thế giới nhỏ với con số xác định những địa danh quen thuộc, những sự việc lặp đi lặp lại như một vòng bất biến, và những cuộc đời mà ngày qua ngày ta càng thêm thấu hiểu. Majime là một anh nhân viên phòng kinh doanh của một công ty sách nọ. Anh chàng lập dị cao lênh khênh, mái trên đầu lúc nào cũng rối tung về các hướng, kính cận màu xanh lá cây mà điệu bộ lúc nào cũng như đang phiêu diêu ở một chân trời khác. Giữa phòng kinh doanh, Majime là chàng người ngoài hành tinh dị biệt, và anh chàng vẫn sẽ tiếp tục đóng vai kẻ lập dị cho tới ngày anh gặp bác Araki - vị trưởng phòng biên tập từ điển vừa đến tuổi về hưu. Bác Araki đã nhìn thấy được từ những khuyết điểm của Majime ưu điểm thích hợp hoàn hảo cho công việc biên soạn từ điển. Chàng được thuyên chuyển về phòng biên tập từ điển, trở thành đồng nghiệp của bác Araki, của chàng Nijime, chị Suzuki và giáo sư Matsumoto đáng kính. Từ đây, cuộc đời chàng Majime đã bước sang một trang mới. Rất nhẹ và rất êm, như con thuyền giấy nhẹ trôi trên mặt hồ, như cánh hoa anh đào trôi lửng lơ trong một chiều xuân nhiều nắng ấm và gió thoảng, những nhân vật trong Người đan chữ xếp thuyền thay phiên nhau cất lên tiếng nói của mình, để giãi bày, để được lắng nghe, và cùng chia sẻ. Góc nhìn của mỗi mảnh ghép sự kiện ấy đều phản ánh rõ nét tính cách của người kể - nhân vật chính, cho thấy những vấn đề trăn trở riêng của họ, và cả niềm đam mê của họ dành cho công việc mà mình đang theo đuổi. Niềm đam mê ấy chính là ngọn hải đăng sáng rực rỡ, xâu chuỗi, dần dắt những phần ban đầu tưởng như rời rạc trong cuốn sách vào một hình dáng, một câu chuyện cụ thể. Nếu ví von cuộc đời mỗi nhân vật trong Người đan chữ xếp thuyền như một đoá hoa anh đào, thì ngày mà đoá hoa ấy vào độ mãn khai rực rỡ nhất, chính là ngày cuốn từ điển Đại hải trình - “đứa con chung” được chắt chiu từ bao năm tháng của họ được ra mắt. Khoảnh khắc ấy có thể ngắn ngủi - như chính độ khai nở rực rỡ nhất của một bông hoa anh đào, nhưng điều ấy nào đâu phải thứ gì bi kịch. Ngắm nhìn những cánh hoa rơi - mà như trôi lững lờ trong không gian không phải là một khung cảnh tuyệt diệu hay sao? Vẻ đẹp ấy tuy ngắn ngủi nhưng chói sáng, và luôn khiến người ta khao khát mong chờ. Mùa Xuân có những cánh hoa anh đào bay ấy chính là đích đến của chuyến hành trong Người đan chữ xếp thuyền. *** ▹ Bìa sách có phần kém sự chỉn chu so với nội dung cuốn truyện (nếu đã đọc quyển này rồi thì không thể ưa thêm cái bìa được nữa). Tớ lướt goodread thấy bìa sách bản dịch tiếng anh và Hàn vừa đẹp vừa có sự liên quan tới nội dung sách, hoặc bản bìa xanh đậm giản dị của Nhật mà giàu ý vị. Tựa tiếng nhật là “舟を編む” dịch tạm là “Đan một chiếc thuyền”; bên Hàn là “배를 엮다” – Đan thuyền; tựa tiếng Trung là “啟航吧!編舟計畫” tạm dịch nghĩa là Kế hoạch giương buồm; bản dịch tiếng Anh hơi lái một chút là “The Great Passage” – có thể hiểu là “Đại hải trình”; tựa tiếng Việt của chúng ta là “Người đan chữ xếp thuyền”, thú vị nhỉ? (Mấy từ trên là tớ nhờ nhiều bạn dịch hộ nhé, chứ không phải Muỗng biết nhiều thứ tiếng đâu =))) ▹ Muỗng có recommend? Có ???? Khi đọc được một phần nhỏ của ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’, Muỗng đã phải đi tìm lại cuốn từ điển tiếng việt duy nhất mà tớ có trong hai mươi mấy năm trời đèn sách, và bạn biết gì không? Cuốn từ điển be bé của NXB Từ điển Bách Khoa mà cô giáo bắt (có thể dùng từ ‘yêu cầu’ cho lịch sự nhưng thôi tớ trung thực :))) cả lớp mua từ hồi lớp hai nay đã bung gáy, nằm phủ đầy bụi dưới một góc ở giá sách của chị gái, nơi tớ không bao giờ mò tới. Nhớ lại thì khi mới mua từ điển, tớ đã xin mẹ dán nhãn màu những đầu mục chữ cái: a, b, c… để tiện cho việc tra cứu, lại dán thêm băng dính để bảo vệ hai mặt bìa. Hôm nào có tiết Tiếng Việt là sẽ sắp nó vào cặp, khi cô giá bảo các em hãy tra từ này, từ kia là lại lật giở từng trang, có khi cũng ngồi nghịch ngợm tra tra từ, hoặc khi nhàm chán mà đọc vài trang từ điển. Rồi sau đó ? Cuốn từ điển ấy dần chìm vào lãng quên, bởi đơn giản là khi công nghệ thông tin phát triển, người ta sẽ tra từ bằng cách google, hoặc hỏi người xung quanh cho tiện chứ ít khi giở cuốn từ điển giày cộp ra mà tra cứu. Có lẽ Muỗng còn có thể lãng quên cuốn từ điển màu vàng có hình trống đồng ấy thêm một khoảng thời gian dài nữa nếu không đọc ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’. Một câu chuyện kể về quá trình dài 13 năm để biên tập cuốn từ điển Daitokai của các thành viên phòng biên tập từ điển công ty sách Genbu. Vào những năm 90 với lý do kinh tế Nhật Bản suy thoái, công ty sách Genbu liên tục trì hoãn quá trình biên tập và xuất bản Daitokai, mọi việc còn khó khăn hơn khi nhân viên phòng biên tập từ điển người thì về hưu, người thì là nhân viên hợp đồng hoặc là cố vấn ngoài công ty, anh chàng nhân viên chính thức duy nhất là Nishioka lại lông bông quá thể. Bác Araki trước khi nghỉ hưu đã hứa với người thầy Matsumoto rằng sẽ tìm được  người có năng lực, yêu từ điển để thay bác biên tập cuốn từ điển Daitokai. Với gợi ý của Nishioka và sự kiểm chứng của Araki, Majime Mitsuya, chàng trai kỳ lạ ở phòng kinh doanh đã được điều về làm biên tập viên từ điển. Vốn là người có lối suy nghĩ chẳng giống ai, lại kiệm lời khiến Majime khó hòa nhập với mọi người, những ngôn từ và kinh nghiệm mà anh tích cóp được trong gần 30 năm cũng không đủ để sử dụng trong quá trình biên tập từ điển. Đã thế anh chàng còn vô cùng bối rối khi chót đem lòng yêu mến cô cháu gái xinh đẹp của bà chủ nhà trọ, những ngày tháng mới làm việc ở phòng biên tập từ điển khiến Majime nản lòng rồi nghi hoặc về chính bản thân mình. Nhưng nhờ sự ủng hộ của bà chủ nhà và các đồng nghiệp mà Majime đã vực dậy chuyên tâm học hỏi và biên tập từ điển, anh cũng bạo dạn mà bày tỏ với Kaguya qua thư: “Những gì không nói được bằng lời thì nên viết ra.” Majime đã nghĩ vậy đấy. Thế nhưng quá trình biên tập Daitokai bị trì hoãn do công ty sách muốn phòng biên tập từ điển phải cải đính các cuốn từ điển đã xuất bản trước đó, lại còn cắt giảm nguồn lực đã vốn eo hẹp của phòng. Ai cũng âu sầu nhưng không vì thế mà từ bỏ Daitokai, mỗi thành viên trong tổ biên tập từ thầy Matsumoto, bác Araki, cô Suzuki và Majime đều cố gắng hết sức để làm phần việc của mình, ngay cả anh chàng màu mè Nishioka mà bác Araki coi nhẹ cũng vậy, dù y vừa thán phục lẫn ghen tị với Majime. “Mình cũng muốn dùng thành ý của mình để đáp lại thành ý của đối phương.” Nishioka tự nhủ. Sau bao tháng ngày bị trì hoãn, Daitokai cuối cùng cũng đã được công ty đồng ý xuất bản, vì vậy mà họ cử Kisibe, một quý cô sành điệu của tạp chí cho nữ giới sang phòng biên tập từ điển. Ngỡ tưởng mình sẽ không tài nào hòa nhập được với công việc biên tập từ điển khô khan mà phức tạp, lại thêm ông chủ nhiệm Majime kỳ cục nhưng Kisibe lại dần làm quen được với công việc nhờ sự giúp đỡ của đồng nghiệp và một vị tiền bối. Lại qua nhiều tháng ngày thẩm định kỹ càng và công sức của bao con người, cuốn từ điển Đại Độ Hải – Daitokai cuối cùng cũng đã được xuất bản dưới niềm hạnh phúc, tự hào và cả nuối tiếc của những con người đã góp phần xây dựng nên cuốn từ điển này. Song không vì vậy mà quá trình biên tập từ điển đã kết thúc, con thuyền Daitokai sẽ còn được cải đính trong tương lai để thêm vững chắc mà vượt trên biển ngôn từ bao la… Daitokai – Đại Độ Hải là công sức, là một phần linh hồn của thầy Matsumoto, bác Araki, cô Suzuki, Majime, Nishioka, Kisibe, của các phòng ban khác trong công ty sách Genbu, của những vị cộng tác viên nhiều kinh nhiệm và những bạn sinh viên, của công ty sản xuất giấy Akebo… Chiếc thuyền Daitokai đã được những con người cần mẫn ấy tạo dựng nên từ cái khung, nét sơn rồi liên tục được cân nhắc, suy tính tỉ mỉ để đan đầy nó bằng ngôn từ như vậy đấy. Đọc ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’ mới thấy việc biên tập từ điển khó khăn mà quan trọng đến mức nào: Phải căn chỉnh sao cho lượng từ đúng chuẩn trên một trang giấy, phải xem xét tính phổ biến của từ ngữ, phải tìm cách giải nghĩa và cho ví dụ chuẩn và hợp lý, đến giai đoạn in ấn thì cũng phải lựa chọn loại giấy in phù hợp, vân vân… Từ điển được tạo ra là để mọi người tra cứu dễ dàng, tham khảo và lấy làm chuẩn mực nhất định. Thời trước các cụ khi đặt tên cho con cháu là hay giở sách vở, từ điển để chọn tên hay nghĩa đẹp mà gửi gắm mong ước của mình cho thế hệ sau. Giờ đây từ điển không còn có vị thế quan trọng như xưa nhưng Muỗng nghĩ trong khoảng 10 năm tới – khi mà Tiếng Việt đang được nghiên cứu và bổ xung thì sớm muộn người ta cũng nên làm một cuốn từ điển mới và hoàn thiện hơn. Tuy rằng Majime mới là nhân vật chính nhưng tớ thích Nishioka hơn, những đoạn biến chuyển tâm lý của anh này đọc rất vui và cảm động. Trong mắt người khác Nishioka luôn có vẻ phất phơ đỏm dáng, không bao giờ dành tâm huyết để làm một việc gì cả nhưng thực ra anh chàng rất tinh ý và cố gắng làm những việc cần thiết để giúp đỡ đồng nghiệp. Đọc mà mong một ngày mình cũng dần trưởng thành và biết sẻ chia như Nishioka ???? *** Cuộc đời của Araki Kouhei - nếu các bạn nghĩ rằng dùng từ “cuộc đời” là hơi cường điệu - vậy thì nên sửa lại thành: nếu nói sự nghiệp của Araki Kouhei chỉ để cống hiến cho việc biên tập từ điển, thật không phải nói quá. Araki từ thuở bé đã rất có hứng thú với ngôn từ. Tỉ dụ như từ “chó” chẳng hạn. Tuy thấy nó ở đó, nhưng lại không có*. Ha ha, buồn cười thật đấy. Giả mà bây giờ bác nói như vậy thì thể nào cũng bị các nữ nhân viên bảo, Nguyên văn là そこにいるのに, いぬ (Soko ni iru noni, inu). Câu này bác Araki chơi chữ: động từ iru gần đuôi phủ định -nu vào sẽ từ “có” thành “không có”. Nhưng từ “inu” trong tiếng Nhật cũng có nghĩa là “con chó”. Vậy câu này có thể hiểu theo 2 nghĩa: 1. “Ở đó có con chó.” Và 2. “Nó ở đó, mà lại không ở đó.” “Araki à, anh có ngưng ngay trò đùa của mấy ông già đó đi không”, nhưng nếu hồi còn nhỏ mà đã nghĩ ra được câu này, hẳn bác sẽ rất khoái chí. “Chó” không phải chỉ đơn thuần là từ chỉ một loài động vật. Trong một bộ phim mà bác được bố dẫn đi xem lúc bé, có một gã xã hội đen do bị phản bội nên lâm vào cảnh thập tử nhất sinh, khi hắn ta máu me đầy mình đã thét lên rằng, “Lũ chó chính phủ!” Lúc đó Araki đã ngộ ra rằng, mấy tên nội gián được tổ chức đối địch cài vào cũng bị gọi là “chó”. Ông trùm khi nhận được tin báo đàn em của mình đang hấp hối, liền đứng phắt dậy nói, “Tụi bây còn đứng trơ ra đó làm gì! Mang dao ra đây! Tao phải cho thằng đó chết không bằng chó!”. Lúc đó Araki lại ngộ ra rằng, từ “chó” cũng mang hàm ý tương đương với “chết một cách vô nghĩa”. Đối với con người, loài chó là một người bạn vừa khôn ngoan, lại vừa đáng yêu và đáng tin cậy. Ấy vậy mà, cùng một từ “chó” lại có thể dùng để chỉ tên nội gián vô lại hoặc sự vô nghĩa của một việc thì thật là khó hiểu. Loài chó vốn trung thành, đôi khi đến mức lệ thuộc. Đặc tính nổi bật của chúng là luôn cố gắng tận sức vì loài người mà không cần báo đáp. Có lẽ cũng vì thế nên từ “chó” mới bị gán cho những nghĩa tiêu cực như trên. Tuy Araki đã sớm nảy sinh hứng thú với những chuyện này, nhưng nhận thức của bác về từ điển đến muộn hơn một chút, đó là khi bác được người chú tặng cho quyển “Từ điển quốc ngữ Iwanami” làm quà mừng vào cấp II. Lần đầu tiên Araki được sở hữu một quyển từ điển của riêng mình, bác rất lấy làm thích thú và thường xuyên giở nó ra tra cứu. Mời các bạn đón đọc Người Đan Chữ Xếp Thuyền của tác giả Miura Shion.
Đời Như Một Trò Đùa
Bạn đã bao giờ nghe câu chuyện về người đàn ông một mực tin rằng mình đã chết? Hay về một con ếch không thể thuyết phục gã kỹ sư bắt được mình tặng cho một nụ hôn để trở lại thành công chúa? Hay một con lợn quên thân cứu chủ, và người chủ đã cảm kích đến nỗi mỗi lần chỉ chặt một phần cơ thể nó để ăn, thay vì làm thịt nó luôn một lúc? Hay một gã buôn lậu xe đạp qua mặt cảnh sát nhờ luôn vác hai bao cát trên vai. Hay người vợ nhất định không cho ông chồng sắp chết ăn chiếc bánh mà ông ta đang thèm, vì chỗ bánh đó là để dành cho đám tang ông… Đời quả đúng như một trò đùa! Chẳng phải hầu hết các tình huống éo le chúng ta gặp trong đời đều chứa đựng khía cạnh khôi hài hay sao? Chúng ta vốn quen với việc rút ra bài học kinh nghiệm sau thất bại, đắng cay, thậm chí là nước mắt và mất mát; nhưng ở đây, chúng ta sẽ học lối tư duy mới mẻ có phần lạ lẫm của anh em nhà Javna, tìm ra những bài học cuộc sống qua tiếng cười. *** Điều khác biệt giữa một trò đùa thú vị và một trò đùa tuyệt đỉnh là gì? Trò đùa tuyệt đỉnh không chỉ khiến bạn cười – nó làm bạn suy nghĩ. Trong nhiều năm, chúng ta vẫn dùng những câu chuyện cười để truyền tải các bài học cuộc sống thực tiễn cho con cái và bạn bè. Và nó thật sự hiệu quả. Khi cười, người ta cởi mở với các ý tưởng mà có thể họ chỉ đơn giản là lờ đi khi được đưa ra dưới dạng lời khuyên “nghiêm túc”. Một số chỗ, nó xuất hiện trước chúng ta có thể dưới dạng nội dung chính của một cuốn sách đơn thuần – thậm chí có thể là một thể loại hoàn toàn mới như một sự kết hợp giữa chuyện cười và sách self-help. Đó chính là cách Đời như một trò đùa ra đời. Tập hợp này gồm rất nhiều câu chuyện cười yêu thích của chúng tôi, cùng với một số chuyện từ gia đình, bạn bè… thậm chí từ các nhà tâm lý học. Bạn có thể đã từng được nghe một số chuyện – chúng đã là kinh điển rồi – nhưng chúng tôi cá rằng bạn chưa bao giờ nhìn chúng theo cách này. Chúng tôi nghĩ bạn sẽ ngạc nhiên trước việc chúng có thể liên quan tới cuộc sống thường nhật như thế nào. Chúng tôi cũng đã ngạc nhiên như vậy. Chúng tôi phát hiện ra mình đang đưa ra vô số chiêm nghiệm đằng sau câu chuyện thể hiện những trải nghiệm cá nhân – chúng tôi thường trích dẫn những dòng yêu thích nhất từ các bài hát hoặc bộ phim. Hóa ra chuyện cười và bài học từ chúng thực sự là một truyền thống của con người. Tất cả các nền văn hóa đều sử dụng những câu chuyện nho nhỏ để dạy dỗ và truyền lại các tri kiến. Ví dụ như Aesop đã viết những truyện ngụ ngôn ở Hy Lạp cổ đại từ 2.500 năm trước. Và Phật giáo Trung Hoa bắt đầu sử dụng những lời đàm luận được gọi là những công án (koan) khoảng 1.000 năm trước, tiết lộ sự thật về thế giới. Vì vậy, chúng tôi nghĩ những truyện cười tuyệt đỉnh chính là những công án của phương Tây. Hoặc có thể là Phật giáo Do Thái. *** “Hài hước là một yếu tố quan trọng để thành công” không còn quá xa lạ với các bạn trẻ. Việc hài hước hiện nay đang chiếm xu thế bởi những hành động ngộ nghĩnh, những lời nói ngô nghê, giản dị hay có thể đan xen vài yếu tố thô tục,… đều khiến cho mọi người lăn đùng ra cười, bầu không khí trở nên náo nhiệt. Nhưng ít ai biết rằng, những trò đùa thú vị ấy chỉ mang tính giải trí trong ngắn hạn, chỉ có thể phá tan khoảng không gian lạnh giá trong khoảng thời gian nhất định. Với Anh em nhà Javna - Gordon và John, việc hài hước trong con chữ và những câu truyện cười lại mang đến lợi ích to lớn hơn hết. Điều khác biệt giữa trò đùa thú vị và trò đùa tuyệt đỉnh là gì? Trò đùa tuyệt đỉnh không chỉ khiến bạn cười – nó làm bạn suy nghĩ.  Đời như một trò đùa. Tác giả: Gordon và John Dịch giả: Đặng Ly Gồm 341 trang, 100 câu chuyện kèm theo bài học cuộc sống và chiêm nghiệm. Nội dung – Ý nghĩa sách Chúng ta có thể làm bất cứ thứ gì điên rồ, nói những điều tào lao nhất trên đời để khiến những người ta yêu thương nở nụ cười. Chúng ta cũng đã quen với nụ cười tinh thần sau những vấp ngã và rút ra hàng loạt những bài học kinh nghiệm, mất mát, khó khăn. Nhưng để tiếng cười của ta kết thúc ở vị trí nhân văn, con đường chúng ta đi qua tốt hơn hết là những suy nghĩ và chiêm nghiệm trong những câu chuyện, lời kể…đặc biệt là truyện ngụ ngôn, truyện cười… Khi cười, chúng ta sẽ cởi mở hơn với các ý tưởng mà ta có thể lờ đi với dạng lời khuyên “nghiêm túc”. Đó là lí do trong suốt nhiều năm, mọi người vẫn dùng những câu truyện cười để truyền tải những bài học cuộc sống có ý nghĩa lớn lao. Cuốn sách là tập hợp những câu chuyện hài hước trong tất cả lĩnh vực cuộc sống, từ gia đình, bạn bè, xã hội đến cả tâm lí học, đạo đức học. Bạn sẽ rất ngạc nhiên với việc chúng có liên quan đến cuộc sống thường nhật như thế nào. Bởi vì chúng được đúc kết từ những kinh nghiệm cá nhân và các hành trình tác giả đã đi qua. Đối tượng nên đọc sách Cuốn sách là sự kết hợp giữa những chuyện cười và sách self-help. Qua những câu chuyện nhân văn và ý nghĩa, tác giả sẽ cung cấp cho chúng ta những bài học cuộc sống và những chiêm nghiệm quý giá. Từ đó giúp các bạn có đam mê với việc “hài hước có ý thức”, các bạn đang chập chững bước vào nghề viết lách có thêm những kiến thức, vốn từ vựng và cách diễn đạt. Đối với những bạn đang tìm kiếm những câu chuyện ngắn có tính giáo dục và muốn truyền đạt với thế hệ trẻ, cuốn sách là một lựa chọn không thể bỏ qua. Hơn nữa, ngay chính một người đã trưởng thành và đứng tuổi cũng phải cần suy ngẫm và học hỏi rất nhiều từ những câu chuyện trong sách. Suy cho cùng, với những câu truyện cười ngắn và lối dẫn dắt độc giả đến suy ngẫm, cuốn sách phù hợp với mọi lứa tuổi. Một trong những câu chuyện đáng suy ngẫm TRONG “NGUY” CÓ “CƠ” “Tất cả chúng ta đều đối mặt với hàng loạt cơ hội lớn được ngụy trang tài tình như những tình huống bất khả thi.” -Charles Swindoll- Một người đàn ông trẻ từ một thành phố lớn đến vùng nông thôn và mua một con lừa của người nông dân địa phương với giá 200 đô la. Người nông dân cầm tiền và nói rằng ngày hôm sau ông ta sẽ mang con lừa tới. Chiều hôm sau người nông dân đến nhà người đàn ông với một chiếc xe ba gác trống không. “Xin lỗi, thưa ông. Tôi có tin xấu,” người nông dân nói. “Con lừa chết rồi.” “Ồ, vậy thì hãy trả tôi 200 đô la đây,” người đàn ông nói. “Xin lỗi ông,” người nông dân trả lời. “Tôi không thể trả lại tiền được – tôi đã tiêu hết rồi.” Người đàn ông nghĩ một lát rồi nói. “Thôi được rồi, vậy thì hãy trả lại con lừa chết cho tôi.” “Ông định làm gì với nó?” người nông dân hỏi. “Tôi sẽ đem nó ra làm phần thưởng cho trò xổ số,” người đàn ông trả lời. “Ông không thể đem một con lừa chết ra để chơi xổ số được,” người nông dân kêu lên. “Chắc chắn là tôi có thể,” người đàn ông bình tĩnh trả lời. “Tôi sẽ không nói cho bất cứ ai biết rằng nó đã chết.” Vài tuần sau đó, người nông dân bất ngờ gặp lại người đàn ông và hỏi chuyện gì đã xảy ra với con lừa chết. “Tôi đã đem nó ra làm phần thưởng cho trò xổ số,” người đàn ông nói với người nông dân. “Tôi đã bán được 300 vé với giá 2.5 đô la/vé và thu được tiền lãi là 547.5 đô la.” Choáng váng, người nông dân thốt lên, “Trời! Không có ai phàn nàn gì ư?” “Chỉ có gã trúng số,” người đàn ông đáp lời. “Vì vậy, tôi trả lại cho hắn ta 2.5 đô la.” BÀI HỌC CUỘC SỐNG - CHIÊM NGHIỆM Điều gã trai kia làm trong câu chuyện trên là trái đạo đức và pháp luật, nhưng bạn không thể làm gì ngoài việc ấn tượng với khả năng của gã trong việc xoay chuyển tình thế - nghĩa là biến tình huống tệ hại thành một cơ hội thành công. Đối mặt với một tình huống khó khăn, tất cả chúng ta có khuynh hướng nói rằng, “Thế đấy, mình hết cửa rồi!” Nhưng như gã trai kia đã chứng tỏ vẫn có một lựa chọn. Thay vì từ bỏ, hãy nắm lấy cơ hội để làm cho nổi kinh hoảng lắng xuống và cho bản thân mình một cơ hội để thích ứng với hoàn cảnh mới. Sau đó hãy hướng vào sự sáng tạo của bạn và xem những ý tưởng nào sẽ xuất hiện. Làm như vậy vài lần và nó sẽ bắt đầu thành bản năng thứ hai. Bạn sẽ ngạc nhiên và hài lòng trước tài khéo léo của mình. Đây là một trong những câu chuyện theo format của sách. Một câu chuyện kèm theo sau đó là bài học cuộc sống và chiêm nghiệm. Bố cục sách rất rõ ràng và dễ hiểu, nhưng để đọc sách thêm hiệu quả bạn cần cân nhắc một vài mẹo nhỏ. Một vài mẹo nhỏ khi đọc sách Mặc dù các câu truyện được đánh số nhưng đó không thực sự là xếp hạng của chúng. Bạn có thể tự do chọn những câu chuyện với những tiêu đề thu hút để đọc và nghiền ngẫm. Theo kinh nghiệm đọc sách của mình, mình xin khuyến khích các bạn chỉ đọc một câu chuyện mỗi lần để có thêm thời gian ngẫm nghĩ và nhấm nháp bài học. Điều này có thể giúp ta nhớ lâu hơn lời răn dạy của chuyện và khiến cho cuốn sách được đọc trong khoảng thời gian dài. Đời như một trò đùa bởi vì chỉ có những trò đùa tạo nên cuộc đời Khá là phi lý nhưng hoàn toàn là sự thật rằng khi ai đó được hỏi “Bạn nghĩ như thế nào là cuộc đời?” Hầu hết mọi người đều đánh giá: Cuộc đời là những chông gai, khó khăn, cạm bẫy, rào cản…ở phía trước, “Cuộc đời chưa bao giờ là những lời mời ngọt ngào” của bất kì ai. Nhưng mấy ai hiểu được rằng, cuộc đời của chúng ta vốn dĩ rất yên bình và nhẹ nhàng…nếu như chúng ta nghĩ thế. Một tinh thần sống lạc quan và một hành trang vững trãi sẽ không bao giờ là thừa nếu bạn sẵn lòng bước trên con đường của bạn. Suy cho cùng, những chông gai, khó khăn, cạm bẫy, rào cản ấy cũng chỉ là những trò đùa của cuộc đời sẵn sàng ngăn cản sự sẵn lòng của bạn. Đừng để những trò đùa ấy khiến bạn gục ngã nhé! Vì rốt cuộc, Đời chỉ là một trò đùa thôi! Review chi tiết bởi: Trịnh Cát Viên – Bookademy Mời bạn đón đọc Đời Như Một Trò Đùa của tác giả Anh Em Nhà Javna.
Ba Gã Say Luận Đàm Thế Sự
Ba gã say luận đàm thế sự ra đời năm 1887, đúng thời điểm đất nước Nhật Bản đang đứng giữa ngã ba đường của lịch sử, loay hoay tìm đường hướng phát triển quốc gia: Phải lựa chọn chế độ chính trị như thế nào? Cần theo đuổi chính sách ngoại giao ra sao để có thể trở thành một cường quốc ở châu Á? Là xác lập chủ nghĩa lý tưởng Tây phương, qua hình tượng chàng Thân sĩ Tây học, sống trong “khuê các tư tưởng”? Là đi theo chủ nghĩa quốc quyền, qua hình tượng vị Hào kiệt, con người của hành động, thao thao bất tuyệt về mưu toan bành trướng Trung Hoa? Hay là chủ nghĩa hiện thực với đường lối trung dung, tùy thời tiến thoái, như hình tượng vị Nam Hải tiên sinh? Được cấu tứ dựa trên ý tưởng một cuộc luận đàm về chính trị giữa ba gã say, Ba gã say luận đàm thế sự đã chỉ ra những ưu nhược điểm của chủ nghĩa phương Tây, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa quốc quyền, bành trướng, như một lời chỉ dẫn về con đường Nhật Bản nên đi và cũng được xem như điềm báo về sự thịnh suy của đế quốc Nhật Bản trong tương lai. Với văn phong cổ kính, ngôn từ hàm súc, sử dụng nhiều điển tích Đông Tây kim cổ, cuốn sách đã khắc họa một bức tranh đa diện, nhiều màu sắc về lịch sử văn minh thời Minh Trị, về những vấn đề mà giới tinh hoa Nhật Bản đang đau đáu bận tâm. Tác phẩm được coi như một danh tác tiêu biểu cho văn minh thời Duy tân Minh Trị. “Nói rằng nhiều vấn đề trọng đại của Nhật Bản hiện tại như hòa bình, tự do, phòng vệ, tiến bộ - bảo thủ, dân quyền - quốc quyền… được gói gọn trong Ba gã say luận đàm thế sự cũng không phải quá lời.”       --- Kuwabara Takeo *** VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM   Nakae Chōmin tên thật là Tokusuke, sinh ngày 1 tháng Mười một năm 1847 tại Kochi phiên Tosa (nay là tỉnh Kochi). Cha của ông là Tameshichi (sau đổi thành Motosuke, Yasosuke), mẹ là Yanagi và một người em trai tên Kōma. Tổ tiên của nhà Nakae có thể tính lùi về đến ông cố của Tokusuke là Densaku. Không có nhiều thông tin về lai lịch của Densaku, chỉ biết vào năm 1766 ông được tuyển làm Ashigaru của phiên Tosa, được cấp sinh hoạt phí gấp đôi và nhận bổng lộc bốn thạch lúa gạo. Tokusuke là đời thứ tư, sau người ông Katsuji và cha Tameshichi. Cha ông bị ràng buộc ở Edo nên thời thơ ấu được một tay mẹ nuôi dưỡng. Người ta truyền rằng ông vốn trầm tính như con gái và rất thích đọc sách. Năm 1861, cha mất, ông kế tục làm một Ashigaru. Năm sau, ông vào học Bunbukan (Văn Võ quán) khi nơi này vừa được thành lập, rồi nhận được sự chỉ dạy của Hosokawa Junjiro, một nhà Tây dương học nổi tiếng, người này sau làm Viện trưởng Đế quốc học sĩ. Nhờ sự tiến cử của Hosokawa, ông được gửi đến Nagasaki với tư cách là du học sinh của phiên và học tiếng Pháp với Hirai Gijūrō. Hai năm sau, ông lên Edo, theo học bậc thầy Pháp học Murakami Hidetoshi nhưng vì quá phóng đãng nên đã bị khai trừ. Khi Công sứ Léon Roches xuống phía tây vì vấn đề mở cửa Hyogo, ông đi theo với vai trò là tùy viên hỗ trợ phiên dịch. Trước và sau Minh Trị Duy tân, Chōmin không có hành động của một chí sĩ, ông chỉ học tiếng Pháp và nghiên cứu Pháp điển đồng thời khổ luyện âm khúc truyền thống Edo như Nagauta. Sau Duy tân, ông là học trò tại trường tư của Mitsukuri Rinsho, rồi trở thành người đứng đầu trường tư Nisshinsha (Nhật Tân xã) của Fukuchi Gen’ichirō, sau đó nhận giảng dạy tiếng Pháp tại Đại học Nankō (Nam Hiệu, sau là Đại học Tokyo). Năm Minh Trị thứ 4 (1871), ông có nguyện vọng sang Pháp du học, nhờ sự tận tình của Ōkubo Toshimichi, ông vào phục vụ ở Tư pháp sảnh [Bộ Tư pháp], rồi đồng hành cùng Iwakura Tomomi với tư cách là Đại sứ toàn quyền sang Tây dương. Trong thời gian lưu trú tại Pháp, ông từng giao du với Saionji Kinmochi và Komyoji Saburō, học hỏi nhà tư tưởng chính trị cấp tiến Acollas. Năm 1874, ông về nước và mở “Pháp Lan Tây học xá” để dạy Pháp học tại nhà, nhưng đến năm Minh Trị thứ 8 (1875) ông đến nhậm chức Hiệu trưởng trường Ngoại ngữ Tokyo. Chōmin nhận chức hiệu trưởng này chưa được ba tháng đã từ chức, có thuyết cho rằng vì ông chủ trương giáo dục Nho giáo nhưng bị phản đối. Việc này không có chứng cứ xác thực, nhưng có một sự thật là sau này vì yêu thích Hán học ông đã vào trường tư thục của Okamatsu Ōkoku. Genrōin (Nguyên lão viện) được thành lập, ông được thư ký quan của viện mời về làm việc, công việc ở đây cũng nhàn, lại thuận tiện cho việc kinh doanh “Pháp Lan Tây học xá” nên ông chuyển việc đến đó cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng ở Genrōin, ông lại xung đột với Mutsu Munemitsu, nên đã từ chức vào năm 1877. Sau đó, ông vẫn nhận công việc phiên dịch do chính phủ ủy thác nhưng không thuộc chế độ phục vụ suốt đời. Có vẻ như khí chất ông không thể chịu được cuộc sống viên chức. Cuộc vận động tự do dân quyền cũng bắt đầu vào năm Chōmin về nước, nhóm người Itagaki Taisuke dâng bản điều trần [kiến bạch thư] thiết lập dân tuyển nghị viện. Chōmin không lập tức tham gia cuộc vận động này, ông phổ cập tư tưởng chủ nghĩa dân chủ, xây dựng cơ sở lý luận cho nó dựa vào Pháp học. Ông thử nghiệm việc dịch Khế ước Xã hội, nhưng rồi sau đó ông cùng Saionji Kinmochi sáng lập tờ báo Tōyō Jiyū shimbun(Đông Dương Tự do tân văn), do Saionji làm chủ tòa soạn, còn bản thân ông thì làm chủ bút. Số đầu tiên ra ngày 18 tháng Ba năm Minh Trị thứ 14 (1881). Đây là lần đầu tiên từ “Tự do” xuất hiện trên mặt báo ở Nhật Bản. Chính phủ lo sợ cuộc vận động tự do dân quyền lan rộng, bèn dựa vào uy quyền của Thiên hoàng đàn áp tờ báo, ép Saionji từ chức, tờ báo không tránh khỏi bị đình bản sau khi đã ra được 34 số. Cuộc vận động dân quyền phát triển đến mức, Iwakura Tomomi cho rằng “dù là thời điểm trước cách mạng Pháp, e cũng không sánh được với tình thế hiện tại”. Thế nhưng phe phản chính phủ cũng có nhiều yếu điểm nên cuộc vận động sớm nảy sinh chia rẽ, một bộ phận phần tử cấp tiến đã tự ý hành động trực tiếp, chẳng hạn như các vụ bạo động ở Gunma, Kabasan; hệ quả tất yếu là trung ương bộ của Đảng Tự do tự giải tán (tháng Mười năm 1884). Trước sự kích động như thế, Chōmin hầu như chưa có hoạt động chính trị nào. Ông phản đối đường lối khởi sự thô bạo mà chỉ muốn đào sâu về lý luận, ông dốc sức dịch sách L’Esthetique của Eugene Veron (1883), Histoire de la Philosophic của Alfred Jules Émile Fouillee (1886) và viết Rigaku Kogen(Lý học câu huyền) và Kakumeizen France Niseki Kiji (Ký sự hai thế kỷ nước Pháp trước cách mạng), quyển Ba gã say luận đàm thế sự này cũng là một trong những thử nghiệm đó. Chúng tôi sẽ bàn về điều này sau. Tuy nhiên, trong thư phòng của Chōmin chắc chắn sẽ không có những nghiên cứu thấu triệt mà chuyên sâu làm thỏa mãn việc tranh luận về lý luận chính trị. Sau khi quyển sách này xuất bản không lâu, nhân dịp Ngoại tướng [Bộ trưởng Bộ Ngoại giao] Inoue Kaoru phản đối kế hoạch Cải chính Điều ước*, cuộc vận động tổng lực của phái tự do dân quyền đã bùng nổ trở lại, đả đảo chính phủ phiên phiệt. Chōmin tham gia tích cực vào cuộc vận động này, đóng vai trò chỉ đạo, chấp bút thượng tấu buộc tội chính phủ thay cho Gotō Shōjirō. Thế nhưng chính phủ lo sợ cuộc vận động này nên đã công bố Điều lệ Bảo an vào cuối năm Minh Trị thứ 20 (1887), liệt ông cùng 570 người nhóm Ozaki Yukio, Hoshi Tooru vào thành phần nguy hiểm và bị trục xuất khỏi Tokyo, ông đành phải dời về Osaka. Nhưng, ở Osaka ông lại lập tức thành lập và kiêm chủ bút tờ Shinonome shimbun (Đông Vân tân văn), ra sức phổ cập tư tưởng dân quyền, ủng hộ việc thiết lập quốc hội. Mạch chính trong chủ trương của Chōmin là đưa việc khâm định hiến pháp vào quốc hội, cho phê duyệt từng hạng mục [điểm duyệt], qua đó có thể thực hiện được chủ trương dân chủ hóa. Nhờ đợt ân xá vào thời điểm công bố Hiến pháp, lệnh trục xuất Chōmin được giải trừ, ông quay lại Tokyo, ra ứng cử Khu số 4 Osaka và trúng cử trong cuộc tuyển cử Chúng nghị viện lần thứ nhất. Trong quốc hội, thành phần chống đối chiếm đa số nhưng không thể gắn kết trong một chiến tuyến thống nhất, bị chia rẽ bởi chính sách mua chuộc của chính phủ, tháng Hai năm Minh Trị thứ 24 (1891), dự toán thỏa hiệp với chính phủ được xác lập do phe Tosa phản bội, Chōmin giận dữ, nộp đơn từ chức “Tiểu sinh sắp tới đây e là phát bệnh do trúng độc rượu, không tiện đi lại, khó tham dự cuộc bỏ phiếu, vậy nay trình đơn này xin phép được từ chức” và rời bỏ quốc hội. Dù rất nhiệt tâm nhưng ông không thành công trong cuộc vận động thực tiễn có tính tổ chức. Đó phần nào cũng do tính cách cá nhân của riêng ông, nhưng cũng là bởi tình hình quá tệ, ông từng mắng những nghị viên nhút nhát là bọn sâu mọt không máu, cuối cùng lại phải ôm mối tuyệt vọng với giới chính trị hủ bại và dời về Hokkaido, ông làm chủ bút tờ Hokumon Shinbo (Bắc Môn tân báo) ở thành phố Otaru. Mùa hè năm Minh Trị thứ 25 (1892), ông rút khỏi tờ Hokumon Shinbo,sau đó bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Xét thấy nếu không có tiền thì cả hoạt động chính trị lẫn sáng tác đều mất tự do và suy thoái, ông quyết định sẽ kiếm tiền trước, ông cai rượu, quyết tâm dấn thân vào nhiều ngành nghề nhưng phần nhiều bị cho là mang tính môi giới. Tất cả liên tục bị thất bại, Chōmin rơi vào cảnh nghèo túng. Trong thời gian kinh doanh ông đã dịch lại Die beiden Grundprobleme der Ethik của Authur Schopenhauer từ tiếng Pháp nhưng trước sự can thiệp của ba nước sau chiến tranh Nhật-Thanh, ông đã phẫn uất thốt lên rằng “đó là vết nhơ lớn hằn sâu vào trang sử của Đế quốc Nhật Bản chúng ta”. Sau đó vào năm Minh Trị thứ 31 (1898), hầu như một mình ông tự sáng lập Kokuminto (Quốc dân đảng), phát hành bản tin Hyaku rei ichi (Bách linh nhất). Tuy nhiên, cương lĩnh đó không phải là chủ nghĩa quốc quyền mà là chủ nghĩa tự do tiến bộ, là yêu sách về tuyển cử phổ thông, miễn phí giáo dục tiểu học, tự do ngôn luận, xuất bản. Năm Minh Trị thứ 33 (1900), ông gia nhập Kokumin Domeikai (Quốc dân Đồng minh hội) của Konoe Atsumaro nhằm tiến vào đại lục, đồng thời khích lệ Risodan (Lý tưởng đoàn) của Kuroiwa Shuroku, Uchimura Kanzo cân nhắc đến việc bãi bỏ quyền sở hữu đất đai và quyền kế thừa tài sản, lại gia nhập “Phổ thông tuyển cử kỳ thành Đồng minh hội” (1901). Qua đó để thấy có không ít hành động trong cuộc đời ông bộc lộ sự mâu thuẫn. Tháng Ba năm Minh Trị thứ 34 (1901), Chōmin đến Osaka vì công việc kinh doanh và ngã bệnh, ông được chẩn đoán là ung thư thực quản, thời gian còn lại chỉ là một năm rưỡi. Sau khi làm phẫu thuật, ông viết lchinen yūhan(Nhất niên hữu bán) và Zoku lchinen yūhan (Tục nhất niên hữu bán) trong cơn đau bệnh. Ngày 13 tháng Mười hai, ông kết thúc cuộc đời 54 năm tại nhà riêng ở quận Koishikawa, thị trấn Takeshima. Mời bạn đón đọc Ba Gã Say Luận Bàn Thế Sự của tác giả Nakae Chōmin & Nguyễn Mạnh Sơn , Võ Vương Ngọc Chân (dịch).