Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Đàn Bà Đang Yêu

“Người đàn bà đang yêu” xuất bản năm 1920. Cuốn tiểu thuyết được coi là phần tiếp theo của tác phẩm “Cầu vồng” đã ra mắt trước đó, với nội dung tiếp tục kể về câu chuyện tình của hai chị em nhà Brangwen, Gudrun, một họa sĩ theo đuổi mối tình với Gerald - một nhà tư bản. Lawrence miêu tả mối tình của của Ursula và Birkin - một kẻ thông minh đến bất thường. Tình cảm của hai cô gái càng được nhấn mạnh và khắc sâu hơn bởi sự quyến rũ mãnh liệt của hai chàng trai ấy. Thông qua mối tình và quan hệ của họ, Lawrence khắc tả về xã hội Anh trước Thế Chiến thứ hai. Như phần lớn các cuốn tiểu thuyết khác của Lawrence, vấn đề về tình dục trong Người đàn bà đang yêu đã gây ra những tranh luận và phản ứng gay gắt. Năm 1998, Người đàn bà đang yêu được xếp thứ 49 trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất thế kỷ 20. *** TÁC GIẢ David Herbert Richards Lawrence (11/9/1885 - 2/3/1920) là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch và nhà phê bình văn học người Anh. Các tác phẩm của ông chủ yếu phản ánh những vấn đề mất nhân tính trong xã hội hiện đại ở Anh một thời. Ở đó con người dường như luôn phải biết cách đối mặt với những cảm xúc, sự sống và bản năng của chính mình. Nhưng chính những quan điểm của Lawrence đã khiến ông có rất nhiều kẻ thù, vì thế ông phải chịu đựng sự khắc nghiệt, kiểm duyệt của chính quyền, và cả sự xuyên tạc những tác phẩm của ông trong suốt cuộc đời. Phần lớn những quan điểm sống khác biệt đó ông có được trong quãng thời gian xa quê hương mà ông gọi là "cuộc hành hương hoang dã". Gần cuối đời, ông bị coi là người chuyên viết sách báo khiêu dâm và nhiều người còn cho rằng ông đã quá lãng phí tài năng của mình. Còn E.M. Forster, một nhà văn lớn của Anh, đã miêu tả ông như "Nhà tiểu thuyết giàu tưởng tượng vĩ đại nhất trong thế hệ của chúng ta." Người đàn bà đang yêu xuất bản năm 1920. Cuốn tiểu thuyết được coi là phần tiếp theo của tác phẩm Cầu vồng đã ra mắt trước đó, với nội dung tiếp tục kể về câu chuyện tình của hai chị em nhà Brangwen, Gudrun, một họa sĩ theo đuổi mối tình với Gerald - một nhà tư bản. Lawrence miêu tả mối tình của của Ursula và Birkin - một kẻ thông minh đến bất thường. Và qua tình yêu của họ, Lawrence khắc họa lại hình ảnh xã hội Anh trước Thế Chiến thứ hai. Như phần lớn các cuốn tiểu thuyết khác của Lawrence, vấn đề tình dục trong Người đàn bà đang yêu đã gây ra những tranh luận và phản ứng gay gắt. Năm 1998, Người đàn bà đang yêu được xếp thứ 49 trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất thế kỷ 20. *** CHỊ EM GÁI Buổi sáng, Ursula và Gudrun Brangwen ngồi bên khung cửa sổ ngôi nhà của bố mẹ ở Beldover, vừa làm việc vừa chuyện trò. Ursula đang tỉ mỉ khâu móc một mẫu thêu với những họa tiết màu sắc sặc sỡ, còn Gudrun đang chăm chú phác thảo một bức tranh trên giá vẽ nho nhỏ đặt trên đầu gối. Cả hai gần như chìm đắm trong im lặng, chỉ thỉnh thoảng lên tiếng trao đổi với nhau những ý nghĩ lơ đễnh tản mát trong tâm trí mỗi người. “Ursula này” Gudrun lên tiếng trước, “Thực sự chị vẫn KHÔNG MUỐN kết hôn sao?” Ursula nhẹ nhàng đặt mẫu thêu vào lòng, ngẩng đầu. Cô tỏ vẻ bình thản và thận trọng. “Chị không biết,” cô trả lời. “Còn tùy thuộc ý em là gì.” Gudrun khẽ xoay người ra sau. Ánh mắt cô chăm chăm nhìn chị gái. “Ừm,” cô tiếp tục câu chuyện bằng giọng điệu mỉa mai, “Em chỉ có ý đề cập đến duy nhất một chuyện! Nhưng dù sao đi nữa thì chị không hề có ý nghĩ, chị sẽ...” Nói đến đây nét mặt cô đột nhiên u ám “có một vị trí tốt đẹp hơn so với hiện tại sao.” Khuôn mặt Ursula bỗng chốc sa sầm. “Có thể,” cô trả lời. “Nhưng chị không chắc.” Đáp lại, Gudrun chỉ im lặng, có vẻ bực bội. Rõ ràng cô nên im lặng. “Thế chị không nghĩ mỗi người đều phải TRẢI NGHIỆM trong vấn đề hôn nhân sao?” Cô hỏi. “Thế em có nghĩ chuyện ấy là cần thiết phải giống như một sự trảinghiệm hay không?” Ursula trả lời. “Chắc chắn, trong một số trường hợp nào đấy,” Gudrun nói, vẻ thờ ơ. “Có thể sẽ mang lại đôi chút rắc rối phiền toái, nhưng ắt hẳn cũng sẽ mang lại không ít kinh nghiệm.” “Không hẳn,” Ursula đáp trả. “Giống kết thúc của sự trải nghiệmnhiều hơn.” Gudrun ngồi bất động, miên man với những ý nghĩ trong đầu. “Tất nhiên,” cô nói, “đấy chính là điều cần phải suy nghĩ thật kỹ.” Câu chuyện kết thúc ở đấy. Gudrun, đầy hờn dỗi và giận dữ, nhặt lấy cục tẩy,nghiến răng xát mạnh lên bức vẽ của mình. Ursula tiếp tục chăm chú vào đường kim trong tay. “Chị vẫn nhất định không cân nhắc đến một lời đề nghị tốt đẹp nàosao?” Gudrun tiếp tục hỏi. “Chị nghĩ mình đã từ chối một số.” Ursula thản nhiên trả lời. “THẬT SAO!” Gudrun sa sầm... “Có điều gì là thực sự quan trọng? Chị nói thật chứ?” “Một ngàn lần một năm và một người đàn ông tuyệt vời. Chị mê mẩn anh ấy đến phát điên,” Ursula trả lời. “Thật thế sao! Không phải là chị bị quyến rũ đến quên cả đường đi lối về đấy chứ?” “Về mặt lý thuyết chứ không phải thực tế.” Ursula trả lời. “Khi đến thời điểm, thậm chí không một ai bị cám dỗ... Ôi, nếu quả thật chị bị quyến rũ, chắc chắn chị đã kết hôn ngay lập tức, không một chút lưỡng lự. Chị là người duy nhất không gục ngã trước cám dỗ.” Khuôn mặt của hai chị em bỗng chốc bừng sáng, rạng rỡ. “Đấy không phải là điều ngạc nhiên thú vị sao,” Gudrun reo lên, “sức mạnh của sự cám dỗ, không hề!” Cả hai đưa mắt nhìn nhau, cười vang. Trong thâm tâm, nỗi sợ hãi đang trào dâng bóp nghẹn trái tim hai chị em. Không gian bên ô cửa sổ chìm trong tĩnh lặng, Ursula trở về với mũi kim và mẫu thêu trên tay, Gudrun tiếp tục chăm chú vào bức tranh vẽ dở của mình. Hai chị em họ là đàn bà, Ursula hai sáu tuổi, còn Gudrun hai lăm. Cả hai đều mang trong mình những quan điểm mới mẻ của các thiếu nữ hiện đại, cả hai thuộc tuýp những cô gái giống Artemis hơn là Hebe . Gudrun cực kỳ xinh đẹp, thuộc tuýp các cô gái thụ động, làn da mượt mà, hai cánh tay mềm mại đầy nữ tính. Cô mặc một chiếc váy lụa màu xanh thẫm, với những dải đăng ten tua rua màu xanh da trời và màu xanh lá cây điểm xuyết ở cổ và tay áo; đôi tất màu ngọc lục bảo xỏ duới chân. Lúc nào cũng phơi phới tự tin, hoàn toàn trái ngược với một Ursula đầy nhạy cảm và mong manh đến nao lòng. Đám người tỉnh lẻ quê mùa thô kệch trong vùng trước thần thái lúc nào cũng điềm tĩnh như không, trước thái độ kể cả ra vẻ bề trên của Gudrun, đã tỏ ra khúm núm và sợ hãi, bọn họ nói về cô như thế này: “Đấy là một cô gái rất thông minh.” Gudrun vừa từ London trở về, suốt mấy năm qua cô đã miệt mài học tập ở đấy, tại trường mỹ thuật, cô đã có những tháng ngày gắn bó với những xưởng vẽ, xưởng điêu khắc. “Giờ thì em chỉ hy vọng sẽ cùng người đàn ông của đời mình đi đến hết cuộc đời,” Gudrun nói, đột nhiên cắn chặt môi dưới, vờ nhăn mặt, nửa như mỉm cười, nửa đau đớn. Ursula cảm thấy bất an, mơ hồ sợ hãi. “Thế nên em mới quay về và chờ đợi anh ấy ở đây?” Cô cười lớn. “Ôi chị tôi,” Gudrun hét lên, the thé, “em không từ bỏ con đường mà mình đã chọn để kiếm tìm anh ấy. Nhưng giả dụ có một chàng trai khiến em mê mẩn, một chàng trai đủ sức lôi cuốn em, có ý nghĩa với cuộc đời em, ừm...” thái độ mỉa mai nhạt dần sau từng giọng nói. Đôi mắt cô nhìn Ursula, sắc sảo, như thể xuyên thấu tâm can chị gái mình. “Chị không cảm thấy tẻ nhạt sao?” Cô hỏi dồn chị gái. “Chẳng lẽ chị không nhận thấy rằng những điều ấy sẽ không thể trở thành hiện thực hay sao? KHỒNG HỀ LÀ THẬT! “Tất cả rồi sẽ tàn phai héo úa trong chồi non lộc biếc.” “Cái gì sẽ tàn phai héo úa trong chồi non lộc biếc?” Ursula hỏi. “Ôi, mọi thứ - tự mình - tất cả.” Im lặng. Cô chị mơ màng mường tượng đến số phận mình. “Đấy không phải là điều gì ghê gớm khiến ta phải sợ hãi.” Ursula nói, rồi lại rơi vào im lặng. “Thế liệu em có hy vọng sẽ đạt được điều gì đấy, chạm đến một nơi nào đấy chỉ nhờ vào hôn nhân?” “Có vẻ đấy là bước tiếp theo không thể nào tránh khỏi,” Gudrun trả lời. Ursula trầm tư, miên man về điều cô em gái vừa nói, cảm giác cay đắng chua xót chợt len lén ùa về trong cô. Cô là giáo viên, ở trường trung học Willey Green, chỉ vài năm trước. “Chị hiểu,” cô nói, “điều này có vẻ giống như khi ta suy nghĩ về mặt lý thuyết. Nhưng thực ra lại tưởng tượng về nó: tưởng tượng về bất kỳ một người đàn ông nào đấy mà ta biết, ta tưởng tượng đến hình ảnh anh ấy trở về nhà vào mỗi tối, nhoẻn miệng cất lên hai tiếng “chào em,” rồi trao cho ta một nụ hôn...” Im lặng. “Đúng thế,” giọng Gudrun từ tốn. “Chỉ là điều bất khả thi. Chính loài người chúng ta khiến nó trở thành không thể.” “Tất nhiên sẽ có cả những đứa con...” Giọng Ursula đầy hoài nghi. Khuôn mặt Gudrun chợt đanh lại. “Chị có THỰC SỰ muốn có con không, Ursula?” Giọng Gudrun lạnh băng, hờ hững. Nét mặt Ursula bỗng rạng rỡ. “Có cảm giác vượt ra ngoài khả năng của chị” cô trả lời. “Chị có thích có con không?” Gudrun vẫn không chịu dừng lại. “Em không thể suy nghĩ được điều gì hay ho mỗi khi thao thức với ý nghĩ phải chịu đựng bọn trẻ.” Gudrun nhìn Ursula bằng đôi mắt vô cảm, khuôn mặt thẫn thờ đến ngây ngô. Ursula khẽ nhíu mày. “Cũng có thể điều đấy chưa hẳn đã đúng,” cô ấp úng. “Có thể ai đấy không thực sự muốn có những đứa con của mình, tự trong sâu thẳm tâm hồn... đó chỉ là quan điểm nông cạn và hời hợt.” Khuôn mặt Gudrun đanh lại. Cô không hề muốn trở thành một kẻ quá trần trụi. “Khi một người nghĩ đến những đứa trẻ, là con của ai đấy...” Ursula tiếp tục. Ánh mắt của Gudrun lại dán vào chị mình, giận dữ. “Chính xác.” Cô chỏng lỏn, để kết thúc câu chuyện. Hai chị em tiếp tục làm việc trong im lặng, luôn là vậy, trong con người Ursula lúc nào cũng hừng hực đến lạ kỳ với ngọn lửa đang bùng cháy, bão bùng và đầy mâu thuẫn. Cô đã sống cùng một thỏa thuận khá nghiêm ngặt với chính bản thân mình, cho chính bản thân cô, làm việc, miệt mài từ ngày này sang ngày khác, không ngừng tư duy, nỗ lực hết mình để sắp xếp, kiểm soát cuộc đời mình, để thấu hiểu nó bằng chính tri thức của riêng cô. Cuộc sống năng động của cô đã rời xa, rất xa, nhưng ẩn sâu bên dưới nó, ngay trong bóng tối, có những điều đang duềnh dàng kéo đến chực chờ tuôn trào. Chỉ cần cô phá vỡ lớp vỏ bọc cuối cùng! Có vẻ cô cũng đã cố gắng và đã chìa tay ra ngoài, hệt như một bào thai còn nằm trong tử cung và rồi cô đã không thể, không làm được điều đấy. Cô đã nhìn thấu trước những viễn cảnh hết sức xa lạ, về một điềm báo cho biết những điều chưa hề xuất hiện trong đời. Cô tạm ngừng công việc thêu thùa, đưa mắt nhìn em gái. Trong mắt cô, Gudrun mới QUYẾN RŨ làm sao, cực kỳ quyến rũ, trong hình hài mềm mại và thanh tú ấy, với những đường cong duyên dáng, mong manh và dịu dàng quá đỗi. Gudrun còn là một cô gái tinh nghịch, có khướu hài hước, đôi khi hơi mỉa mai song vẫn phảng phất nét duyên ngầm. Ursula ngưỡng mộ cô em gái bằng tất cả trái tim mình. “Thế sao em lại quyết định trở về nhà, Prune?” Cô hỏi. Gudrun hiểu cô đang được ngưỡng mộ. Cô ngồi quay lưng với bản vẽ của mình, đôi mắt ẩn sâu dưới hai hàng mi cong vút nhìn chằm chằm vào chị gái. “Tại sao em lại quay về, hở Ursula?” Cô lặp lại câu hỏi của chị. “Em đã tự hỏi chính mình cả ngàn lần trước đấy.” “Và em vẫn chưa tìm được câu trả lời?” “Rồi, em nghĩ mình đã tìm thấy. Em nghĩ quyết định trở về nhà của mình chỉ đơn giản là LÙI MỘT BƯỚC ĐỂ TIẾN THÊM NHIỀU BƯỚC.” Ánh mắt cô chậm rãi nhìn Ursula, thấu hiểu. “Chị biết!” Ursula reo lên, khuôn mặt cô giãn ra, rạng rỡ, tuy nhiên vẫn giả vờ như thể cô KHÔNG hiểu. “Nhưng ta có thể tiến đến đâu?” “Ôi, không quan trọng,” Gudrun cao giọng, vẻ bề trên. “Nếu ta tiến đến ngoài rìa, ta sẽ nhảy lên cao và đáp xuống một nơi nào đấy.” “Như thế không mạo hiểm sao?” Ursula hỏi. Một nụ cười mỉa mai vụt hiện lên trên khóe miệng Gudrun. “A!” Cô cười lớn. “Chẳng nghĩa lý gì cả!” Một lần nữa, cô lại kết thúc câu chuyện. Nhưng Ursula vẫn ủ ê với những ý nghĩ trong đầu. “Làm thế nào em tìm được một tổ ấm, bây giờ em có phải quay về nơi ấy?” Cô hỏi. Gudrun im lặng, lạnh lùng trước khi cô trả lời chị. Ít phút sau, rất chân thành, cô trả lời: “Em thấy mình hoàn toàn đứng ngoài một tổ ấm.” “Thế còn bố?” Gudrun nhìn Ursula bằng đôi mắt đầy ắp oán giận, như thể cô muốn gào lên. “Em không hề nghĩ về ông ấy: Em đã cố nhịn.” Giọng cô lạnh băng. “Ừ,” Ursula dao động. Câu chuyện thực sự kết thúc. Cả hai chị em đều có chung cảm giác như đang đứng bên bờ vực thẳm, trống rỗng và kinh hoàng, như thể đang cúi đầu nhìn xuống khoảng trống hoang hoác và sâu hun hút dưới chân. Cả hai vẫn cặm cụi làm việc trong im lặng, đôi gò má của Gudrun ửng hồng bởi những cảm xúc đang dồn nén chất chồng trong lòng. Cảm giác bực bội cứ xâm chiếm trong cô. “Liệu chúng ta có nên ra ngoài đến dự đám cưới ấy không nhỉ?” Cô hỏi, giọng thản nhiên, ra vẻ tình cờ. “Tất nhiên!” Ursula reo lên, hơn cả hăm hở, vứt mẫu thêu và kim chỉ sang một bên, nhanh nhẹn vụt đứng dậy, như thể cô đang cố trốn thoát khỏi điều gì đấy và vì thế, cô đã vô tình để lộ ra ngoài cảm giác căng thẳng đang xâm chiếm trong mình, dẫn đến cảm giác bẳn gắt ghét bỏ kích thích trong từng tế bào thần kinh của Gudrun. Khi vừa bước chân lên những bậc cầu thang, Ursula đã nhìn thấy ngôi nhà của gia đình cô, nằm im lìm vây quanh chỗ cô đứng. Cảm giác ghê tởm ùa về trong cô, cả cảm giác bẩn thỉu nhớp nhúa nữa, một không gian quá quen thuộc! Cô cảm thấy sợ hãi bởi sâu thẳm trong lòng mình, những dòng cảm xúc ghét bỏ chính ngôi nhà đang cuộn lên trong cô, là hoàn cảnh, là không khí và điều kiện của một cuộc sống cũ kỹ, lỗi thời và lạc hậu. Những dòng cảm xúc khiến cô sợ hãi. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Đang Yêu của tác giả D. H. Lawrence.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khởi Đầu
Sherrilyn Kenyon là tác giả có sách bán chạy nhất trên bảng xếp hạng của tờ New York Times, Sherrilyn Kenyon rất tự hảo với nguồn gốc Cherokee (người bản địa châu Mỹ) pha trộn của mình và cuộc sống với những cuộc phiêu lưu đầy cảm hứng. Hiện bà sống cùng chồng và ba con trai, một đàn thú cưng và một bộ sưu tập kiếm. Trong những lúc rảnh rỗi, bà thường ngồi lì trước máy tính để chơi cùng những người bạn tưởng tượng của mình. Với hơn ba mươi triệu bản sách in đã bán tại hơn một trăm quốc gia, Sherrilyn chắc chắn có rất nhiều bạn bè khắp năm châu. Sách của bà thường chiếm vị trí số một các bảng xếp hạng. Tác giả đặc biệt ăn khách này tiếp tục thống trị các thể loại tiểu thuyết. Hiện tại bà đang theo đuổi các sê-ri: Thợ săn đêm, The League, Chronicles of Nick và Beladors. Từ năm 2004, bà đã đưa hơn 80 đầu tiểu thuyết lên vị trí top ten của tờ New York Times ở mọi thể loại, bao gồm cả truyện tranh. “Ngòi bút của Kenyon đầy sức sống, giàu sức châm biếm, gợi tả và khơi lên trí tưởng tượng đến bất tận.” - Trích tờ Boston Globe *** Trọn bộ series Thợ săn đêm (Dark Hunter): -  Sự Khởi Đầu (The Begining) -  Đêm khoái lạc (Night Pleasures) -  Gặp lại kiếp này (Night Embrace) -  Điệu múa với tử thần (Dance with the Devil) -  Nụ Hôn Tử Thần (Kiss of the night) -  Đêm Khoái Lạc (Night Play) ***   Ngươi là ai?” kẻ cao nhất hỏi ngay khi hắn thấy anh. Người đàn ông này không nghi ngờ gì là người Dorian với mái tóc dài màu đen. Cơ thể hắn cao ráo, cường tráng, được trùm trong bộ áo giáp chiến đấu đang rất cần ai đó chăm sóc và sửa chữa. Hai người đàn ông cùng với hắn là những người Hi Lạp tóc vàng. Áo giáp của họ cũng không khá hơn gì so với người đầu tiên. Người trẻ nhất trong số họ áo giáp chắn trước ngực còn có một lỗ nơi anh ta đã bị mũi giáo xuyên thủng. Những người đàn ông này không thể bước ra ngoài và trà trộn với những kẻ còn sống khi đang ăn mặc như thế này. Mỗi người họ cần được chăm sóc. Nghỉ ngơi. Hướng dẫn. Acheron hạ chiếc mũ trùm đầu của chiếc áo himation màu đen xuống, rồi nhìn họ từng người từng người một. Lúc họ chú ý đến sắc màu bạc đang cuộn sóng trong đôi mắt anh, mặt ba người đàn ông trắng bệch đi. “Ngài có phải là một vị thần?” người cao nhất hỏi. “Có người bảo chúng tôi những vị thần sẽ giết chúng tôi nếu chúng tôi xuất hiện trước mặt họ.” “Ta là Acheron Parthenopaeus,” anh khẽ nói. “Artemis gửi ta đến để huấn luyện các ngươi.” “Tôi là Callabrax ở vùng Likonos,” người cao nhất nói. Anh ta chỉ về người bên phải. “Kyros ở vùng Seklos.” Rồi người trẻ nhất trong nhóm bọn họ, “và Ias ở vùng Groesia.” Ias đứng tách biệt, đôi mắt đen của anh ta trống rỗng. Acheron có thể lắng nghe suy nghĩ của người đàn ông này rõ như thể chúng nằm chính trong tâm trí anh vậy. Sự đau đớn của anh ta chạm đến anh, khiến chính ruột gan anh quặn thắt trong đồng cảm. “Các ngươi được tạo ra đã bao lâu rồi?” Acheron hỏi họ. “Tôi được vài tuần rồi,” Kyros nói. Callabrax gật đầu. “Tôi cũng được tạo ra trong khoảng đó.” ... Mời các bạn đón đọc The Beginning của tác giả Sherrilyn Kenyon.
Anh em Nhà Karamazov - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Anh em nhà Karamazov (tiếng Nga: Братья Карамазовы) là tác phẩm cuối cùng của Fyodor Dostoyevsky (Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky). Fyodor Dostoyevsky thuộc loại thiên tài hiếm hoi mà càng về cuối đời thì sự nghiệp sáng tác càng lên tới đỉnh cao hơn. Anh em nhà Karamazov là tác phẩm vĩ đại nhất của ông. Trước khi bắt tay vào viết tác phẩm mà thật ra ông đã ấp ủ ý đồ từ nhiều năm trước, Dostoyevsky đã linh cảm thấy mình nắm bắt được một đề tài xứng đáng với tầm vóc của mình. Ông viết: "Ít khi tôi gặp trường hợp nói lên được những điều mới mẻ, đầy đủ, độc đáo như thế này". Tiếp đó là quá trình làm việc hết sức căng thẳng. Trong một lá thư đề ngày 23 tháng 7 năm 1879, ông viết: "Cuốn tiểu thuyết tôi đang viết (Anh em nhà Karamazov) hiện thời nuốt hết mọi sức lực và thời giờ của tôi… Tôi viết không hối hả, không vội làm cho xong việc, sửa đi sửa lại, gọt tỉa, tôi muốn tận tâm hoàn tất tác phẩm, bởi vì chưa hề có tác phẩm nào mà tôi nhìn nhận một cách nghiêm túc hơn tác phẩm này" *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình *** Alecxei Fedorovich Karamazov là con thứ ba một địa chủ hạt chúng tôi tên là Fedor Pavlovich Karamazov, người đã có thời làm xôn xao dư luận (mà đến tận bây giờ cũng còn được nhắc đến ở vùng chúng tôi) do cái chết bi thảm và mờ ám của ông ta xảy ra đúng mười ba năm trước, rồi đến một lúc nào đó tôi sẽ kể chuyện này. Còn bây giờ, về ông “địa chủ” đó, người ta gọi ông ta như vậy, tuy suốt đời ông ta hầu như không cư ngụ tại điền địa của mình, tôi chỉ nói rằng đấy là một kẻ thuộc loại người lạ lùng tuy là khá thường gặp, chính là loại người chẳng những đồi bại và trác táng mà còn vô lối biết lo liệu rất khôn khéo mọi việc lắt léo liên quan đến tài sản của mình. Chẳng hạn Fedor Pavlovich bước vào đời gần như là tay trắng, vốn điền sản của ông ta rất nhỏ nhoi, ông ta chuyên đi chực bữa nhà người, khét tiếng là kẻ ăn boóng, vậy mà lúc chết ông ta còn có đến một trăm ngàn rúp tiền mặt. Tuy thế suốt đời ông ta cứ là kẻ ngông cuồng nhất trong hạt chúng tôi. Tôi xin nhắc lại lần nữa: đây không phải là ngu xuẩn; phần lớn những kẻ ngông cuồng ấy khá tinh khôn và ranh mãnh, mà đây là vô lối nhưng là cái vô lối khá đặc biệt, mang màu sắc dân tộc. Ông ta đã hai đời vợ và có ba con trai: con cả, Dmitri Fedorovich, là con người vợ thứ nhất, hai đứa còn lại Ivan và Alecxei, là con người vợ sau. Người vợ đầu của Fedor Pavlovich là con một gia đình khá giàu có và danh tiếng thuộc dòng họ quý tộc Miuxov, cũng là địa chủ vùng chúng tôi. Làm sao một cô gái có của hồi môn, lại xinh đẹp, thêm nữa lại thuộc loại thông minh lanh lợi - loại thiếu nữ không lấy gì làm hiếm trong thế hệ hiện nay, nhưng thời trước cũng vẫn có - mà chịu lấy một gã “còm nhom” (như mọi người hồi ấy vẫn gọi gã) và hèn mọn như thế, điều này tôi sẽ không giải thích rườm rà. Tôi biết một cô gái thuộc thế hệ “lãng mạn” thời trước, sau mấy năm đeo đuổi mối tình bí ẩn với một người danh giá mà cô ta bao giờ cũng có thể rất yên tâm về làm vợ ông ta, nhưng rốt cuộc cô ta lại tưởng tượng ra những trở ngại không thể vượt qua được và một đêm bão bùng, từ mé bờ cao giống như một ghềnh đá cheo leo, cô ta gieo mình xuống dòng sông khá sâu chảy xiết: cô ta chết do tính đồng bóng của chính mình, chỉ cốt để được giống như Ophelia của Shakespeare, thậm chí nếu như bờ đá cheo leo ấy, mà cô đã để ý và ưa thích từ lâu, không được nên thơ như thế, nếu như thay vào đó chỉ là một bờ sông bằng phẳng tầm thường thì có lẽ không làm gì có chuyện tự vẫn. Đấy là việc có thực, và hẳn là trong đời sống Nga của chúng ta, hai hay ba thế hệ gần đây, những sự việc cùng loại đã xảy ra không ít. Cũng tương tự như vậy, hành động của Adelaida Ivanovna Miuxova chắc chắn là hồi âm của những luồng gió nước ngoài dội vào: đồng thời cũng là sự bực tức của tư tưởng bị cầm tù. Có lẽ nàng muốn biểu lộ ý chí độc lập của phụ nữ, đi ngược lại hoàn cảnh xã hội, chống lại sự chuyên chế của họ mạc và gia đình, và trí tưởng tượng hay chiều lòng người khiến nàng tin chắc, dù chỉ trong giây lát rằng Fedor Pavlovich tuy có tiếng là kẻ ăn chực, nhưng vẫn là một người can đảm nhất và tinh quái nhất trong cái thời đại đang chuyển mình theo chiều hướng tốt: nhưng thực ra gã chỉ là một thằng hề độc ác, không hơn không kém. Điều giật gân là sự việc xoay chuyển tới chỗ cô nàng bỏ nhà trốn theo gã và lấy thế làm khoái chí. Còn về phần Fedor Pavlovich thì thậm chí do địa vị xã hội của gã, gã hoàn toàn sẵn sàng thực hiện tất cả những trò vào loại đó, và gã háo hức muốn tiến thân bằng bất kì cách nào: chui luồn được vào một gia đình tử tế và kiếm được món hồi môn, là điều hết sức hấp dẫn. Còn về tình yêu đôi lứa thì hình như hoàn toàn không có, cả nàng cũng như chàng, mặc dù Adelaida Ivanovna rất xinh đẹp. Thành thử có lẽ đấy là trường hợp duy nhất thuộc loại này trong đời Fedor Pavlovich, một kẻ suốt đời háo sắc, sẵn sàng bám ngay lấy bất cứ cái váy nào vẫy gọi gã. Duy chỉ có người phụ nữ này không khơi gợi trong gã một hứng thú tình dục đặc biệt nào cả. ... Mời các bạn đón đọc Anh em Nhà Karamazov của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.
Du Hành Cùng Herodotus - Ryszard Kapuściński
Bạn có thể đọc vội, lướt qua, nhảy cóc hay bỏ đoạn một cuốn sách nào đó, nhưng xin đừng làm vậy với Du hành cùng Herodotus. Bởi như vậy, nghĩa là bạn đã tự khép lại trước mắt mình một cánh cửa độc đáo mở ra thế giới, đã rút ngắn một con đường mà kẻ ham hiểu biết cần đi, đã góp phần lãng quên một sử gia cần được hồi sinh, và nhất là, đã tự dập tắt khao khát bản năng và cháy bỏng trong mỗi con người: khao khát được xê dịch và khám phá! Nước Ba Lan xã hội chủ nghĩa những năm 1950, nghèo nàn và phong bế, phóng viên trẻ Kapuscinski chỉ có một ao ước duy nhất: được bước sang bên kia biên giới. Và khao khát ấy đột ngột trở thành hiện thực khi một năm sau, Kapuscinski được tổng biên tập cử đi công cán tại Ấn Độ, quà tặng lên đường không gì khác là tập Sử ký của Herodotus. Mang theo cuốn sách của người cha của lịch sử, niềm hứng khởi vô bờ trong tim và khuôn mặt ngơ ngác của kẻ lần đầu bước ra thế giới, Kapuscinski bắt đầu cuộc hành trình kép của mình. Một bên là những miền đất trải dài theo đường kinh độ và vĩ độ, sông ngòi và thác lũ, biển cả và núi non, còn bên kia là con đường qua từng trang sách để tìm lại dấu chân một trong những triết gia vĩ đại trong lịch sử nhân loại: Herodotus. Nếu bạn là người thích nối liền hai khoảng thời gian quá khứ và hiện tại, hãy theo con đường thứ hai, nơi Kapuscinski, bằng niềm ngưỡng vọng dành cho bậc triết nhân từ nhiều thế kỷ trước, đã nêu lên những câu hỏi, phỏng đoán và suy ngẫm về cuộc đời, thân thế, triết thuyết của Herodotus. Còn nếu bạn là người thích nối liền những khoảng cách không gian, hãy khoác ba lô lên và đồng hành cùng Kapuscinski trên con đường lầm bụi thứ nhất. Đó là Italy nhìn từ trên cao như một dòng sông ánh sáng, và duyên dáng với những piazza lúc lại gần, là Ấn Độ với đoàn người áo trắng lặng lẽ hành hương về sông Hằng thiêng, nơi những bè hỏa táng đang cháy rực trong đêm tối, là Bắc Kinh nghiêm cẩn xa lạ, khác với vẻ hào hoa cổ kính của đất Thượng Hải kề bên. Và cái nóng như tắm lửa buổi ban ngày và rét thấu xương của sa mạc đêm khiến bạn không thể quên Ai Cập. Có hai điểm nổi bật trong cách tiếp cận và khám phá một vùng đất mới của Kapuscinski, đó là: tiếp cận đối tượng từ góc độ thời sự và văn hóa. Bằng lối trần thuật tỉ mỉ, khách quan không khí, nếp sống, những bất ổn chính trị, Kapuscinski đã truyền cho người đọc hơi thở mỗi vùng đất ông qua. Algiers đang trong tâm bão của cuộc đảo chính những ngày Kapuscinski tới, im lặng và căng thẳng! Ngọn lửa nồng nhiệt của ông hoàng nhạc jazz Louis Amstrong không đủ làm loãng không khí nghi kỵ đặc quánh tại Ai Cập, và chế độ đẳng cấp tồn tại nghìn năm ở Ấn Độ, hiện lên sinh động hơn qua chân dung những người kéo xe, hầu phòng khách sạn hay đuổi ruồi đời con nối tiếp đời cha trong dinh thự lãnh chúa. Chuyển tải một cách trung thực những sự kiện trên trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm, Kapuscinski xứng đáng được tôn vinh trong vai trò của một thông tín viên quốc tế. Và giúp người đọc nhìn nhận mỗi vùng đất từ khía cạnh khác: khía cạnh văn hóa, Kaspuncinski xứng đáng được tôn vinh trong vai trò một nhà văn hóa. Hơn nửa thế kỷ trước, con người của xê dịch và du hành ấy đã nhìn thấy bên cạnh một Châu Phi bạo động bất ổn, là một Châu Phi của bản sắc văn hóa, với những diễn viên đường phố, những điệu nhảy cuồng nhiệt cùng hàng nghìn mặt nạ độc đáo góp phần tạo nên một thế giới bí ẩn và khác biệt. Những dòng so sánh sắc sảo, thú vị và hóm hỉnh giữa Ấn Độ và Trung Quốc cũng là điểm đáng dừng lại và đọc kỹ trong cuốn sách “Người Hindu là một cá thể thoải mái, người Trung Quốc- cứng nhắc và cảnh giác. Đám đông người Hindu là không định dạng, trôi nổi và chậm chạp, đám đông người Trung Quốc được xếp thành hàng, trật tự và bước đều bước. Tôi cảm thấy trên đám đông người Trung Quốc có một vị chỉ huy, một người có uy quyền, trái lại trên đám đông người Hindu là hội đồng tối cao các thánh thần không đếm xuể và có phần dễ dãi…”. Cuốn sách có tên là Du hành cùng Herodotus, và chuyến du hành ngược dòng thời gian cùng sử gia Hy Lạp là một trong hai mạch chủ đạo của tác phẩm. Song song với việc tái hiện những điểm chính trong cuốn sử ký của Herodotus, Kapuscinski góp phần làm sống lại một trong những sử gia vĩ đại nhất qua những suy đoán về cuộc đời, cá tính, hành trình chép sử của Herodotus cũng như nhận định về văn phong, cách xử lý tư liệu của sử gia cổ đại này. Ở cuối chuyến đi, Kapuscinski đã tới thăm quê nhà của Herodotus, như một cuộc gặp gỡ sau hơn hai mươi thế kỷ, nhưng mỗi người đọc đều phần nào nhận ra rằng, hai con người này, dường như đã gặp gỡ từ những trang đầu của cuốn sách, bởi những địa điểm họ cùng đặt chân tới, bởi khả năng đi, nhớ, ghi chép, kể lại, và đặc biệt, bởi niềm tin rằng: có thể miêu tả được thế giới này. Những lời sau đây Kapuscinski dành để nói về Horodotus cũng là những gì người đọc muốn dành để nói về Kapuscniski - phóng viên đã góp phần nối liền không chỉ một thế giới: “Cuốn sách của Herodotus hình thành chính là từ những chuyến đi, đó là thiên phóng sự vĩ đại đầu tiên trong nền văn học thế giới. Tác giả của nó có trực giác phóng viên, tai và mắt phóng viên. Ông không biết mệt mỏi, phải vượt biển, băng qua thảo nguyên, đi sâu vào sa mạc- chúng ta trân trọng điều này. Ông làm chúng ta khâm phục vì sự dẻo dai của mình, không bao giờ than vãn mệt mỏi, không gì làm ông ngã lòng, ông chưa một lần nào nói rằng mình sợ hãi điều gì đó. Điều gì đã thôi thúc ông, để ông không mệt mỏi và không sợ hãi dấn thân vào cuộc phiêu lưu vĩ đại của mình? Tôi nghĩ đó là niềm lạc quan mà chúng ta, những con người hiện đại đã đánh mất từ lâu: niềm tin rằng có thể miêu tả được thế giới”. *** Vài nét về Kapuscinski và Herodotus: - Kapuscinski Ryszard Kapuscinski (1932-2007) học lịch sử tại Warsaw rồi làm báo, trở thành phóng viên, chuyên viết về phóng sự nước ngoài, trong khoảng bốn mươi năm phụ trách các khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ Latin. Ông rất thành công trong sự nghiệp phóng viên với các tác phẩm về chế độ Shah ở Iran hay các chế độ độc tài. Những cuốn sách nổi tiếng nhất của ông gồm Du hành cùng Herodotus, Imperium, Gỗ mun... - Herodotus Sử gia người Hy Lạp, sống ở thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, ông được coi là người cha của môn sử học trong văn hóa phương Tây. Herodotus là nhà sử học đầu tiên sưu tầm tài liệu một cách có hệ thống, tự kiểm chứng độ chính xác và sắp xếp thành những thể truyện sống động, hấp dẫn. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm Sử ký - một tài liệu ghi chép những tra cứu về nguồn gốc cuộc chiến tranh Ba Tư - Hy Lạp xảy ra vào giai đoạn 490 đến 479 trước công nguyên, cũng như phong tục của các sắc dân sinh sống tại Châu Á, Phi, Âu. *** Du ký là mảnh đất màu mỡ lúc xa xôi khi lạ lẫm vẫn là ấn tượng của con người vì thế giới rộng lớn bên ngoài. Tưởng chừng sự hoàn thành quá trình tìm hiểu cặn kẽ những miền đất lạ đã tước đi chỗ đứng của những nhà văn ưa phiêu lưu như Pierre Loti, Blaise Cendrars hay Rudyard Kipling, chấm dứt cái thời Paul Morand cảm khái mà thốt lên rằng: “Đi là chết một ít, nhưng ở lại là vỡ tan thành trăm mảnh” (Những cuộc du hành). Vậy nhưng, thế giới hiện đại của chúng ta vẫn còn những người như V.S. Naipaul và nhất là Ryszard Kapuscinski, một con người xê dịch, một thiên tài của quan sát và sự xâu chuỗi quá khứ với hiện tại. Nhà văn Ba Lan nhiều lần có tên trong danh sách ứng cử viên giải Nobel Văn học đã kể cho ta về châu Á, châu Phi trong một giọng văn đầy hứng khởi nhưng tỉnh táo và tỉ mỉ, mô tả con người ở khắp các ngóc ngách thế giới bằng một chủ nghĩa nhân văn được truyền lại theo con đường kỳ bí nào đó từ phần sáng chói của lịch sử nhân loại. Và không chỉ có vậy, ông còn mang trở lại cho chúng ta một sử gia Hy Lạp ít nhiều bị lãng quên: Herodotus. *** “Rất ít nhà văn viết được đẹp đến vậy về những điều không thể nói ra. Rất ít nhà văn có được sự can đảm của ông, gần như không ai sở hữu tài năng lớn như ông. Những cuốn sách của ông thay đổi cách thức mà nhiều người chúng ta thường nghĩ về phi hư cấu.” - The New York Times “Mỗi khi có biến cố nào xảy ra trên thế giới, ông lại muốn lẻn một chiếc máy bay để tới. Nếu nghe nói về một con đường không ai đi nổi mà sống sót, ông sẽ đi vào đó, chỉ để xem mình có vượt qua được hay không. Cách hiểu thế giới của ông là đi tới điểm nóng, nơi mọi thứ đang sôi sục lên. Và quả thực tôi nghĩ không ai tự đẩy mình vào vòng hiểm nguy nhiều như ông lại hoàn toàn bình thường cho được.” - Salman Rushdie “Dù thế nào đi nữa ông cũng vẫn là một thiên tài đặc biệt có một không hai ở thời hiện đại, có lẽ ngoai trừ Kafka.” - Jonathan Miller, Guardian   Mời các bạn đón đọc Du Hành Cùng Herodotus của tác giả Ryszard Kapuściński.