Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Thừa Thứ 14

Thời gian mười bốn ngày đã trôi qua quá nửa, những câu chuyện cũng ngày một đặc sắc. Sự trùng hợp kì lạ giữa những câu chuyện từ đâu mà có? Là "đạo văn" hay ẩn giấu một bí mật gì? Cậu bé lao ra từ nghĩa địa hoang vắng bị một vụ tai nạn xóa sạch mọi kí ức. Không biết chữ, không có cảm giác đau, sức khỏe phi thường, sở thích ăn thịt sống... cậu ta rốt cục là người hay ma quỷ? Trò chơi tử thần vẫn tiếp tục, điều gì đang đợi những "người chơi"? "Người tổ chức" sẽ tung thêm những "chiêu" gì mới? Mục đích của kẻ đó là gì? Bí ẩn nào sắp được hé lộ? Nếu ai đó trước khi đọc hết bộ sách này mà suy luận ra “người tổ chức” là ai và phân tích được nguyên nhân, thì chắc chắn chỉ số IQ phải trên 150. Hãy nhớ rằng, kể từ khi lật mở trang sách đầu tiên, bạn đã rơi vào vòng xoáy của chính trò chơi này. *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14 Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam.   Bộ 1/14 gồm có: Trò Chơi Tử Thần Khách Trọ Và Xác Sống Lời Cảnh Báo Người Thừa Thứ 14 14 Ngày Kinh Hoàng *** P hía sau anh, một bóng đen đáng sợ đang từ từ đến gần. Mọi sự chú ý của anh lúc này đều đổ dồn vào xấp giấy kia, anh không mảy may phát hiện thấy gì. Bóng đen đó càng lúc càng áp sát, chỉ đến khi đổ bóng lên sàn nhà trước mặt, anh mới giật mình, quay ngoắt đầu lại. Là Sa Gia. Cô đang cúi người đứng ngay phía sau Nam Thiên, trợn trừng hai mắt, nhìn anh chằm chằm. Nam Thiên sợ đến mức lưng toát mồ hôi lạnh. Anh nuốt nước bọt, hỏi, “Sao cô vào đây?” “Tôi cũng muốn hỏi anh thế.” Sa Gia nói. Đúng rồi, mình đang ở trong phòng Từ Văn - bấy giờ Nam Thiên mới ý thức được. Anh liếc nhìn xác Từ Văn cạnh bên. May là một góc của chiếc chăn đơn đã che kín khuôn mặt xác chết. Anh định thần, quay sang dối diện Sa Gia, hỏi, “Vừa rồi cô làm gì đằng sau tôi vậy?” “Cửa phòng này không khóa. Tôi vào, thấy anh quay lưng lại phía mình, ngồi xổm dưới sàn nhà xem xét gì đó. Vì tò mò, tôi đã rón rén tới phía sau, định ngó xem anh đang nhìn gì.” “Sao cô lại vào phòng Từ Văn?” Sa Gia đứng dậy, cố tránh nhìn vào cái xác của Từ Văn, “Tôi đâu muốn vào đây. Thực ra tôi qua bên phòng tìm anh, thấy anh không có đó, mới nghĩ có thể anh ở bên này.” “Cô tìm tôi có việc gì?” Sa Gia thoáng trầm ngâm rồi mới nói, “Tôi sợ, định tìm anh nói chuyện một lát. Tôi muốn anh... ở cùng với tôi.” Nam Thiên suy xét, trước đó anh cảm thấy hình như Sa Gia rất có thiện cảm với mình. Thế nhưng, anh vẫn nghi hoặc. “Cô tin tôi vậy sao? Cô không sợ tôi chính là hắn - ‘người tổ chức’?” Sa Gia mím môi, im lặng hồi lâu, “Nói thật, tôi không tài nào đoán ra ai là hắn. Tôi thấy không ai giống, nhưng có lúc lại thấy ai cũng giống.” Cô ngẩng đầu, nhìn thẳng Nam Thiên, “Kể cả anh, tôi cũng không dám khẳng định. Vậy nhưng... anh có là hắn, thì tôi cũng biết rồi.” Nam Thiên sững sờ nhìn Sa Gia, “Vì sao?” Sa Gia nhìn Nam Thiên với ánh mắt dịu dàng, tình cảm, “Bị mời tới đây và tham gia trò chơi sống còn này, mỗi ngày tôi đều sống trong nghi kị sợ hãi. Tôi cảm thấy, đại đa số những người ở đây chỉ lo nghĩ cho sự an toàn và lợi ích của bản thân, với người khác lại có ý phòng bị và thù địch. Chỉ anh là khiến tôi cảm thấy có đôi phần ấm áp, ở cạnh anh tôi thậm chí còn thấy an toàn. Trực giác mách bảo tôi, anh là người đáng tin tưởng và trông cậy.” Nam Thiên nhớ lại, lúc mới tới nơi tách biệt này, mười bốn người họ chuẩn bị ngồi vào mười bốn chiếc ghế ở đại sảnh, biểu hiện của Sa Gia rõ ràng là có phần lo lắng bất an. Khi đó, trong anh đã có một thôi thúc được bảo vệ người con gái này, nên đã kéo tay cô, bảo cô ngồi ở ghế của mình. Có lẽ chính hành động nhỏ này đã khiến cô cảm động? Dẫu thế nào thì ở nơi đặc biệt này, giành được sự tin tưởng của ai đó đều là chuyện rất đáng mừng. Nam Thiên cảm kích nhìn Sa Gia, “Cảm ơn cô đã tin tôi.” “Hi vọng anh cũng có thể tin tưởng tôi.” Sa Gia nhìn thẳng vào mắt Nam Thiên nói, “Ở đây, tôi không hi vọng tất cả mọi người đều đối xử chân tình với mình, chỉ cần chúng ta tin tưởng nhau là tôi mãn nguyện rồi.” Nam Thiên có thể cảm nhận thấy sự chân thành từ câu nói của Sa Gia. Anh cũng như Sa Gia, không cách gì đoán biết được người trước mặt mình có phải là “người tổ chức” hay không. Nhưng, anh tình nguyện đánh cược, kết đồng minh với cô gái dịu dàng đáng yêu này hẳn sẽ an toàn và đáng tin hơn là với Hoang Mộc Chu mưu sâu kế hiểm hay Chris thần bí khó đoán. Ít nhất, anh có thể nhận ra tình cảm của Sa Gia đối với mình, là chân thành và không hại anh. Nghĩ tới đây, Nam Thiên nói, “Được, hi vọng chúng ta có thể hợp tác, đối đãi thật lòng thật dạ, cùng nhau tìm ra hắn. Sáu ngày sau, chúng ta cần phải sống để rời khỏi nơi này!” “Ừm!” Sa Gia lộ vẻ tán thành. Đã chọn tin tưởng Sa Gia, Nam Thiên quyết định nói cho cô nghe phát hiện và phân tích về hoàn cảnh hiện giờ của mình. Anh nói, “Cô có biết vì sao tôi đến phòng của Từ Văn không?” Sa Gia bất giác liếc mắt nhìn xác Từ Văn, rùng mình, “Tôi đoán, anh muốn xem qua xác Từ Văn, xem liệu có phát hiện thêm gì không.” “Không phải, tôi vào đây không phải để xem xét thi thể anh ấy, mà là để xem xét căn phòng này.” Sa Gia trừng lớn mắt, “Phòng anh ấy có gì đặc biệt à?” “Hôm qua (chính xác là ngày trước nữa, Nam Thiên không nhận ra giờ đã quá 0 giờ), và cũng chính là ngày Thiên Thu kể chuyện. Tôi tới phòng này tìm anh ấy. Tôi dự định nói chuyện với từng người theo số thứ tự, hi vọng thăm dò được một số thông tin, hay tìm ra gợi ý gì đó.” “Anh định chủ động tấn công, tìm ra hắn thông qua cách tiếp xúc với mọi người?” Sa Gia hỏi. “Đúng vậy. Tôi nghĩ mình không thể ngồi yên chờ chết. Tôi buộc phải thử tìm ra cách vạch mặt hắn trong mấy ngày còn lại!” “Đúng, ta không thể thụ động chờ chết.” Sa Gia tán thành nói, ngẫm nghĩ một hồi, cô lại lộ vẻ lo lắng, “Thế nhưng nếu làm vậy, liệu anh có thu hút sự chú ý của hắn, khiến bản thân rơi vào nguy hiểm không?” “Tôi nghĩ chắc không đâu.” “Tại sao?” “Vì tôi vẫn chưa kể chuyện.” Sa Gia sững lại, “Là ý gì?” “Cô thử nghĩ xem, hắn hao tổn tâm sức ‘mời’ chúng ta đến đây, chính bởi muốn mười bốn người chúng ta ‘chơi’ trò này cùng nhau, như vậy trò chơi hắn thiết kế mới thành công! Nếu hắn giết ai đó, trước khi anh ta kể câu chuyện của mình chỉ vì vài hành động của người này đã khiến hắn tức giận, trò chơi này sẽ không còn hoàn chỉnh với hắn nữa. Tôi đoán, với kẻ cố chấp như hắn, thích sự kích thích và thách thức kiểu dạng này, đây nhất định không phải kết quả mà hắn muốn. Thế nên, tôi có thể lợi dụng điểm này để tiến hành điều tra!” Nam Thiên nhấn mạnh, “Và giờ xem ra, tôi là người thích hợp làm chuyện này nhất rồi.” “Tại sao?” “Vì tôi là người thứ mười bốn, người kể chuyện cuối cùng.” Sa Gia khẽ há miệng. “Nói tiếp chuyện ban nãy, hôm qua lúc tôi tới tìm Từ Văn, quả thực anh ấy đã cho tôi biết một vài thông tin cực kì quan trọng. Anh ấy nói, phòng anh ấy có ma quỷ quấy nhiễu.” “Cái gì, trong phòng này... có ma quỷ quấy nhiễu ư?”, Sa Gia lộ vẻ kinh hãi, cô ôm chặt cánh tay, rùng mình một cái, “Thật không?” Nam Thiên lắc đầu nói, “Tôi nghĩ, chuyện ma quỷ quấy nhiễu là do ảo giác của anh ấy. Nhưng trong căn phòng này nhất định đã xảy ra chuyện gì đó khác thường! Anh ấy nói, thỉnh thoảng vào buổi tối anh ấy nhìn thấy một bóng người đen thui xuất hiện trong phòng, đôi khi còn nghe thấy cả những âm thanh kì lạ, và tất cả những điều này đều giống với các tình tiết anh ấy kể trong Mối nghi ngờ bóng ma!” Sa Gia bị dọa sợ đến mức mặt mày trắng bệch, hãi hùng tột độ. Nam Thiên tiếp tục nói, “Nghe anh ấy nói vậy, tôi nhận ra căn phòng này có vấn đề nên tôi nghĩ ra chủ ý là đổi phòng của tôi và anh ấy cho nhau. Nhưng Từ Văn lại từ chối. Có lẽ anh ấy không thật sự tin tôi.” Nam Thiên thở dài. Sa Gia nói, “Tôi nhớ anh bảo... trước lúc chết, Từ Văn đã sang phòng anh tìm anh, nhưng anh ấy tìm anh có việc gì?” Nam Thiên thoáng nghĩ, “Đúng rồi! Lúc sang gõ cửa phòng tôi, anh ấy vô cùng khiếp sợ, còn nói mấy lời gì đó rất khó hiểu. Anh ấy nói, buổi tối tôi đã qua phòng tìm và ngủ cùng anh ấy, chính là ở đây.” Sau vài giây hồi tưởng, Nam Thiên tiếp tục, “Từ Văn bảo tôi ngủ trên giường, còn anh ấy nằm bên dưới. Lúc nửa đêm, Từ Văn thấy dưới gầm giường có một đôi mắt đang nhìn mình chằm chằm. Anh ấy sợ điếng người, bò dậy thì phát hiện ra tôi không còn ở trên giường, mới hoảng hốt tới tìm tôi...” Nam Thiên nhìn Sa Gia, “Cô biết không? Tôi hoàn toàn bị những điều anh ấy nói làm cho hồ đồ! Bởi vốn dĩ tôi không đi tìm anh ấy, đừng nói là ngủ chung phòng. Tôi chỉ có thể cho là anh ấy gặp ác mộng. Sau đó, tôi quyết định qua phòng anh ấy xem thử thì chẳng phát hiện thấy gì. Lúc quay lại phòng mình, tôi phát hiện anh ấy đã chết ở phòng tôi! Tiếp đến Hạ Hầu Thân xuất hiện ở cửa phòng. Rồi mấy phút sau, mấy người bọn cô, Long Mã, Bạch Kình, và Hoang Mộc Chu lần theo tiếng động chạy tới. Mọi chuyện là vậy! Sa Gia sợ sệt co người lại, “Trước khi chết, Từ Văn đã xảy ra vài điều kì lạ, quả thực là...” “Quả thực quá lạ lùng, đúng không?” Nam Thiên nói, “Nghĩ mà xem, anh ấy gặp ác mộng, rồi đến tìm tôi, tiếp đó tôi sang phòng anh ấy, bảo anh ấy ở lại phòng tôi và trong mấy phút ngắn ngủi, hung thủ đã xuất hiện như bóng ma, giết chết anh ấy rồi biến mất, quay trở lại phòng mình. Tất cả những chuyện này đúng như vở kịch được sắp xếp bố trí vô cùng khéo léo! Nếu cô tin tôi không phải hung thủ giết Từ Văn thì mức độ li kì của vụ án này quả đúng là phải khiến người ta thán phục!” Nam Thiên bắt đầu trở nên kích động nói, “Như thể hung thủ biết Từ Văn sẽ gặp ác mộng, rồi qua tìm tôi. Đồng thời còn đoán được tôi sẽ ra khỏi phòng mình! Nếu không, sao hắn biết sẽ chỉ có mình Từ Văn trong phòng tôi? Và điểm mấu chốt, nếu mục đích của hắn là giết Từ Văn, vậy tại sao không ra tay trong phòng Từ Văn mà phải dẫn dụ anh ấy sang phòng tôi rồi mới hạ thủ?” Sa Gia ngẫm nghĩ, “Có lẽ, hắn muốn vu oan giá họa cho anh. Hoặc...” Thấy Sa Gia ngừng lại không nói tiếp, Nam Thiên hỏi, “Hoặc sao...?” Sa Gia do dự nói, “Mục tiêu hắn muốn giết liệu có phải là anh chăng?” Nam Thiên chợt thấy rùng mình, “Ý cô là, do sai sót ngẫu nhiên, hắn đã giết nhầm người?” Nói xong, anh lập tức lắc đầu, “Không, tôi không cảm thấy thế. Một kẻ cẩn thận như hắn sao có thể phạm phải kiểu sai lầm như vậy? Hơn nữa, tôi cũng không cho rằng Từ Văn gặp ác mộng, mà là một sự trùng hợp. Bên trong chuyện này nhất định có uẩn khúc.” Sa Gia đột nhiên thốt ra một câu đáng kinh ngạc, “Sao anh biết tên hung thủ này chắc chắn là hắn - ‘người tổ chức’?” Nam Thiên ngây ra, “Ý gì chứ? Không phải hắn, những người còn lại có động cơ gì mà đi giết người?” Sa Gia đáp, “Động cơ thì đương nhiên là có rồi, bớt một người, bớt một kẻ cạnh tranh rồi.” Nam Thiên hít vào một hơi lạnh. Điều trước kia anh hoàn toàn chưa nghĩ đến. Anh bất giác thấy khâm phục cách thức tư duy vượt ra khỏi lề thói thông thường của Sa Gia. Đúng thực là... khả năng này cũng có thể có. Vậy nhưng, anh nghi ngờ hỏi, “Nếu vậy, sao hung thủ lại muốn giết tôi?” Sa Gia nhíu mày phân tích, “Có hai khả năng. Một là, hắn muốn thủ tiêu người có thể uy hiếp hắn giành được chiến thắng; Hai là, dựa trên tiền đề hung thủ không phải là ‘người tổ chức’, cho nên người hắn ta muốn giết chính là kẻ hắn ta tưởng là ‘người tổ chức’!” Nam Thiên vô cùng kinh ngạc, “Ý cô là, tên hung thủ cho rằng... tôi là ‘người tổ chức’?!” “Tôi chỉ đoán thôi.” Sa Gia nói, “Nhưng anh thử nghĩ mà xem, chỉ còn lại sáu ngày nữa. Trước khi trò chơi sống chết này kết thúc, người nghĩ đến cách chủ động tấn công chắc chắn không chỉ mỗi mình anh.” Nam Thiên bất ngờ nhận ra phân tích của Sa Gia đúng là một nhắc nhở vô cùng quan trọng. Anh ngạc nhiên nói, “Tôi chủ động tấn công, chỉ vì muốn âm thầm điều tra mà thôi. Lẽ nào cách thức chủ động tấn công của một người nào đó là giết chết người họ nghi ngờ? Nếu đúng như vậy thì thật đáng sợ!” “Đúng thế, địch thủ của chúng ta không còn chỉ là mỗi ‘người tổ chức’ nữa.” Sa Gia lo lắng nói. Trong môi trường bị giam nhốt, con người thường nghi ngờ, sát hại lẫn nhau... Tình tiết này sao lại khiến người ta thấy quen vậy. Sa Gia thấy Nam Thiên rơi vào trầm tư, hỏi, “Anh đang nghĩ gì?” Nam Thiên ngẩn ra nhìn Sa Gia, “Tôi nghĩ, sao tình huống chúng ta trải nghiệm hiện giờ lại giống câu chuyện Cuộc tấn công của căn bệnh lạ của Uất Trì Thành đã kể đến vậy?” Sa Gia lặng đi, “Ý anh là...” Nam Thiên nhíu chặt mày, “Nghĩ kĩ lại, lúc Uất Trì Thành chết, chúng ta đã kiểm tra thi thể, rút ra kết luận về thời gian tử vong, nhưng đã bỏ qua một vấn đề quan trọng, cái xác đó có chắc chắn là của Uất Trì Thành không? Liệu rằng, hung thủ có lợi dụng điểm mù về mặt tâm lý của chúng ta, khi phát hiện thi thể thấy trong phòng Uất Trì Thành thì nhất định là của Uất Trì Thành, mà dẫn chúng ta đi sai hướng không?” Sa Gia há hốc miệng, mày nhíu chặt lại. Tiếp đó Nam Thiên lại nói, “Sau đấy cũng không ai vào lại phòng Uất Trì Thành. Mãi đến sau khi Long Mã kể xong Dự luật xác sống, chúng ta mới nghĩ đến việc vào căn phòng đó xem xét lại. Nhưng lúc này, xác anh ấy đã biến mất một cách bí hiểm. Sa Gia! Cô không cho rằng trong chuyện này ẩn chứa bí mật sao?” Sắc mặt Sa Gia lại trắng bệch, “Anh nghi ngờ... Uất Trì Thành... thực ra vẫn chưa chết? Thi thể chúng ta nhìn thấy... là giả mạo?” “Không loại trừ khả năng này.” Nam Thiên nghiêm mặt nói, “Nếu đúng vậy, thì ‘người tổ chức’ chính là Uất Trì Thành, người ’chết’ đầu tiên mà tất cả chúng ta hoàn toàn chưa nghĩ tới!” “Còn anh ta ẩn mình trong bóng tối, trong căn phòng bí mật mà cô nhắc tới lúc trước, âm thầm ra ngoài hoạt động đồng thời thao túng trò chơi này...” Sa Gia bất ngờ kêu lên đầy sửng sốt, “A! Chúng ta đã tìm ra đáp án rồi?!” Nam Thiên chậm rãi lắc đầu, “Đừng có kết luận bậy bạ, chúng ta không có chứng cứ để chứng minh cho suy đoán này. Hơn nữa, tình hình hiện giờ lại vô cùng phức tạp. Còn một số chuyện càng khó giải thích hơn nữa.” “Là chuyện gì cơ?” Nam Thiên cẩn thận nhặt xấp giấy dưới đất mà trước đó anh đã tìm thấy ở chỗ chân giường của Từ Văn lên, đưa cho Sa Gia, “Vừa nãy vào phòng này xem xét, tôi phát hiện thấy thứ này ở dưới gầm giường, cô xem đi.” Sa Gia đón nhận, “Bản nháp kiểu này thì trong phòng tôi cũng có.” “Đúng, trong phòng ai trong số chúng ta cũng đều có. Cô xem qua nội dung đi.” Sa Gia lật xem từng trang. Đến trang thứ sáu, cô đột nhiên trợn trừng mắt, bưng chặt miệng, đương nhiên Nam Thiên biết là bởi tại sao, vì trên trang đó ghi: Ý tưởng mới ngày 28 tháng Tư ’Khách đến từ phần mộ’. “Trời ạ, chuyện này là thế nào?” Sa Gia sững sờ hỏi, “Đây không phải câu chuyện Bạch Kình kể à? Sao bản thảo ghi ý tưởng mới của câu chuyện này lại ở trong phòng Từ Văn?” “Hơn thế, tôi còn có thể cho cô biết, đây chính là bút tích của Từ Văn.” Nam Thiên nói, “Sáng hôm qua tôi đến tìm anh ấy thì đã nhìn thấy xấp giấy này. Lúc đó tôi không lật xem phía dưới, mới đọc được dàn ý câu chuyện Mối nghi ngờ bóng ma. Tôi còn khen chữ Từ Văn đẹp. Và anh ấy cũng bảo tôi, anh ấy là người bảo thủ, khi sáng tác luôn luôn dùng giấy bút. Điều đó giúp tôi chứng minh, nội dung xấp giấy này do anh ấy chính tay viết ra.“ “Trời ơi...”, Sa Gia hãi hùng nói, “Từ Văn bị giết trước khi Bạch Kình kể chuyện. Bạch Kình có thể dễ dàng mang câu chuyện này ra kể mà chẳng ngại ngùng gì. Lẽ nào người giết Từ Văn là Bạch Kình? Còn mục đích của cậu ta là giành đoạt được câu chuyện này?” Nam Thiên nhíu chặt mày, “Tôi cũng đã nghĩ qua khả năng này, nhưng có hai điểm có phần không hợp logic. Thứ nhất, Từ Văn là người kể chuyện vào tối thứ hai, đã kể xong câu chuyện của mình rồi, tại sao anh ta còn sáng tác một câu chuyện mới? Đồng thời tại sao bản thảo ghi chép câu chuyện này lại bị Bạch Kình phát hiện ra?” Ngừng lại một lát, như để cho Sa Gia có thời gian nghiền ngẫm, Nam Thiên tiếp tục nói, “Điểm không hợp logic thứ hai là, nếu Bạch Kình lén lấy được ý tưởng câu chuyện của Từ Văn, đồng thời vì chuyện này mà giết anh ấy, vậy sao còn để xấp giấy này lại trong phòng? Cần biết đây là bằng chứng chí mạng! Có sơ suất hơn đi nữa, không thể ngay điều này cậu ta cũng bỏ qua chứ nhỉ?” “Đúng vậy, điều này rất không hợp lẽ thường...” Sa Gia vùi đầu ngẫm nghĩ, “Lẽ nào, có người cố tình giá họa cho Bạch Kình, đồng thời tạo chứng cứ vi phạm giả cho cậu ấy?” “Vấn đề là, làm cách nào lại làm được chuyện này?” Nam Thiên lúng túng nói, “Cứ coi như ai đó có khả năng bắt chước bút tích của Từ Văn, nhưng người đó sao có thể viết ra được những nội dung này trước khi Bạch Kình kể chuyện?” Hai người cùng im lặng, đắm chìm trong dòng suy nghĩ. Độ chừng một phút sau, Nam Thiên nhìn thấy người Sa Gia hơi run rẩy, mắt trừng to sợ hãi, liền vội vàng hỏi, “Sao thế?” “Anh... có nghe thấy âm thanh gì không?” Sa Gia xích lại gần Nam Thiên, mặt lộ vẻ kinh hoàng, ngó trái nhìn phải. “Âm thanh gì?” Nam Thiên vừa tập trung suy nghĩ, không nghe thấy gì. “Hình như tôi nghe thấy trong phòng này có tiếng nói thì thầm... như thể ai đó đang nói chuyện.” Sa Gia sợ hãi ôm chặt lấy Nam Thiên. “Tiếng nói thì thầm? Trong phòng này hiện chỉ có hai người chúng ta mà!?” Nam Thiên cảnh giác nhìn ngó xung quanh, thần kinh căng ra. Hai người họ nín thở, ngay cả hít thở mạnh cũng không dám. Trong phòng dường như có thể nghe thấy nhịp tim đập gấp gáp của bọn họ. Nhưng đã mấy phút trôi qua mà vẫn không nghe thấy âm thanh kì lạ nào. Nam Thiên hỏi Sa Gia, “Vừa nãy có thật là cô nghe thấy tiếng người đang nói chuyện không? Không nghe nhầm chứ?” Sa Gia có phần không chắc chắn, “Tôi... chắc không nghe nhầm đâu, không thể xuất hiện ảo thính một cách kì lạ như vậy chứ nhỉ?” Ngẩn ra mấy giây, lòng Nam Thiên đột nhiên giật thột, Từ Văn nói, lúc ở trong căn phòng này, thỉnh thoảng anh ấy cũng nghe thấy một vài tiếng động kì lạ. Lẽ nào, thứ vừa nãy Sa Gia nghe thấy chính là tiếng động ma quỷ gây ra? Sa Gia rõ ràng cũng đã nghĩ tới điểm này, cô nhào vào lòng Nam Thiên, ôm chặt anh, người run lẩy bẩy. Điều mình chờ đợi đã lâu và rất muốn tìm ra, là sự kì lạ trong phòng Từ Văn, cuối cùng đã xuất hiện rồi? Nam Thiên căng thẳng suy nghĩ. Vậy nhưng, sao âm thanh này chỉ xuất hiện chốc lát, rồi im bặt? Lẽ nào, Nam Thiên bất ngờ nhớ đến một khả năng, âm thanh này là do ma quỷ tạo ra, bởi phát hiện thấy trong phòng lúc này có hai người, nên mới bỗng dưng nín thinh? Nghĩ đến đây, Nam Thiên bóp chặt vai Sa Gia, gấp gáp hỏi, “Sa Gia, vừa rồi cô có nghe rõ tiếng nói đó không, là nói về cái gì...” Câu này còn chưa nói hết, trong đại sảnh ngoài phòng, bỗng nhiên vang lên một giọng nói đáng sợ đã lâu ngày không thấy, đó chính là giọng nói của hắn - “người tổ chức”. Giọng nói được xử lý qua bởi thiết bị biến đổi giọng nói, phát ra từ bốn thùng loa đặt ở trần phòng: “Các vị, xin lỗi đã đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ. Sở dĩ lúc này tôi làm phiền các vị là bởi hiện giờ, chứng cứ ‘phạm quy’ mới đã được hai người trong số chúng ta phát hiện ra. Hai người họ, hiện đang ở trong căn phòng của Từ Văn, người kể chuyện số 2. Nếu có hứng thú, các vị đến phòng này xem qua trước khi bọn họ rời đi. Được rồi, tôi chỉ nhắc một câu như vậy thôi, tạm biệt.” Lạy Chúa, Nam Thiên kinh ngạc tột cùng. Anh và Sa Gia trợn tròn mắt, căng thẳng nhìn nhau - Chuyện này là thế nào? Nhất cử nhất động của chúng ta đều nằm trong tầm mắt của hắn sao? “Chúng ta... làm thế nào bây giờ?” Sa Gia bất lực nhìn Nam Thiên, “Bọn họ chắc chắn sẽ nhanh chóng đến đây. Ta cứ ở đây... đợi à?” Nam Thiên cố gắng bình ổn tâm trạng, để khiến mình bình tĩnh lại, “Ừ, chúng ta không làm việc gì trái lương tâm, không cần phải trốn tránh.” Nam Thiên bước lên trước hai bước, dứt khoát mở cửa phòng, chào đón những người sắp đến với tâm trạng và tư thế tự nhiên thoải mái. Nửa phút sau, người đầu tiên vội vàng tới trước cửa phòng, chính là Long Mã. Trong tất cả mọi người, ông ta hiện giờ gần như là người quan tâm nhất đến việc ai là thủ phạm. Thấy Nam Thiên và Sa Gia ở trong phòng Từ Văn, ông ta ngạc nhiên nói, “Là hai người sao?” Nam Thiên và Sa Gia không tiếp lời. Họ đứng giữa phòng, nhìn mọi người, từng người từng người xuất hiện trước mặt mình, nhìn những ánh mắt nghi hoặc. Mấy phút sau, mọi người gần như đã tập trung đông đủ. Hoang Mộc Chu tới trước mặt Nam Thiên và Sa Gia, ngẩng đầu, dùng ánh mắt dò xét đánh giá họ. Ông ta lại nheo mắt nhìn thi thể Từ Văn nằm dưới sàn nhà, hỏi, “Hai người sao lại ở đây?” Nam Thiên quyết định nói thật, “Vốn dĩ tôi định lặng lẽ đến phòng Từ Văn một mình, xem xét căn phòng của anh ấy. Sa Gia qua phòng tôi tìm tôi, phát hiện tôi không có đấy, đoán tôi ở đây nên đã qua đây tìm được tôi.” Hoang Mộc Chu nheo mắt nói, “Xem xét căn phòng này? Sao? Phòng Từ Văn có gì không ổn ư?” “Tôi nghi vậy.” Nam Thiên bình tĩnh trả lời. “Vậy anh đã phát hiện thấy gì?” Nam Thiên đưa xấp giấy đang cầm trong tay ra, “Đây là thứ tôi tìm thấy dưới gầm giường Từ Văn ban nãy, anh xem qua đi.” Hoang Mộc Chu cầm lấy xấp giấy, những người khác cũng xúm lại xung quanh. Hoang Mộc Chu thấy trên trang đầu tiên đề bản tóm tắt nội dung Mối nghi ngờ bóng ma liền hỏi, “Đây là gì? Dàn ý câu chuyện của Từ Văn sao?” “Đúng. Anh cứ đọc tiếp đi.” Nam Thiên nói. Hoang Mộc Chu lật giở mấy trang sau, giở đến bản tóm tắt của câu chuyện Khách đến từ phần mộ, ông ta cùng những người bên cạnh đến trợn to mắt. “Ý tưởng mới ngày 28 tháng Tư Khách đến từ phần mộ...”, Thiên Thu kinh ngạc há hốc miệng, đồng thời nhìn về phía Bạch Kình, người kể câu chuyện này, “chuyện này là thế nào? Đây chẳng phải là câu chuyện cậu mới kể mấy tiếng trước (ngày 29 tháng Tư) sao? Sao lại trở thành câu chuyện được Từ Văn cấu tứ vào ngày 28 tháng Tư?” Bạch Kình lúc này trợn mắt líu lưỡi, toát mồ hôi lạnh, cậu ta thẫn thờ nhìn chằm chằm vào bản thảo trên tay Hoang Mộc Chu, như thể bị kinh động đến mức không thể thốt thành lời. Hồi lâu sau, cậu ta tức tối lồng lộn gào lên, “Đây là... vu cáo hãm hại và đổ tội oan! Câu chuyện này, một trăm phần trăm là do tôi nghĩ ra!” Mọi người đều không nói gì. Sự thật bày ra trước mắt, tất cả mọi người đều không dám khẳng định Bạch Kình lúc này liệu có đang cố gắng giảo biện cho mình hay không. Bạch Kình cảm giác rõ ràng thấy sự hoài nghi của mọi người đối với mình. Cậu ta hoàn toàn đánh mất khả năng phán đoán sắc bén, quay người hầm hầm nhìn Chris nói, “Chris! Lúc trước cậu cố tình gây khó dễ, gượng ép ám chỉ câu chuyện của tôi là sao chép, khiến mọi người nảy sinh nghi ngờ vô căn cứ về tôi. Giờ, còn làm ra cái loại ‘chứng cứ’ này nữa! Muốn vu oan giá họa cho tôi, đúng không!?” Mời các bạn đón đọc Người Thừa Thứ 14 của tác giả Ninh Hàng Nhất.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngôi Nhà Mũi Tên
Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.
Cô Gái Trong Lồng
Carl Mørck từng là một thanh tra hình sự năng nổ, một điều tra viên án mạng xuất sắc tại Copenhagen. Trong một lần khảo sát hiện trường, ông bị đạn sượt qua đầu, hai đồng đội của ông một bị bắn chết, một bị liệt toàn thân. Mặc cảm vì đã không rút súng bắn trả khiến Carl Mørck cảm thấy chán nản, nhụt chí. Ông trở thành một con người cộc cằn, cay độc và bất hợp tác với các cảnh sát khác. Trước thái độ tiêu cực của Carl Mørck, chánh thanh tra đã điều ông sang Đơn vị Q để đảm trách những vụ “án treo” (những vụ án chưa có lời giải từ nhiều năm trước). Đơn vị này chỉ có một mình Carl và người phụ tá là dân nhập cư tên Hafez al-Assad, làm việc độc lập với các phòng ban khác. Bộ đôi vô tình lật lại vụ mất tích khó hiểu của nữ nghị sĩ Merete Lynggaard năm năm trước đó đã khiến giới truyền thông tốn không ít giấy mực. Cảnh sát khi đó đã phát động một cuộc điều tra trên quy mô rộng nhưng không tìm được gì. Năm năm trôi qua, tất cả mọi người đều tin rằng Merete Lynggaard đã chết, có điều tra thêm cũng chỉ phí công. Tuy nhiên, với sự hăng hái của Assad và kinh nghiệm của Carl, những bí mật dần dần được hé lộ: nữ nghị sĩ… vẫn còn sống. [… Suốt một lúc lâu, cô nằm bất động dưới đất, chỉ muốn khóc nấc lên. Nhưng cô sẽ không khóc. Nếu bọn cai ngục nghe thấy cô khóc, chúng sẽ đắc ý. Chúng sẽ tưởng cô sắp bỏ cuộc. Nhưng cô không bỏ cuộc. Ngược lại là đằng khác. Cô sẽ chăm sóc bản thân. Với bọn chúng, cô là một cô gái bị nhốt trong lồng, nhưng không gian bên trong cái lồng này rộng hay hẹp là tùy thuộc ở cô. Một ngày nào đó, cô sẽ ra khỏi nơi này…] *** Cô cào những đầu ngón tay của mình vào các vách tường nhẵn thín cho đến khi bật máu, đập hai nắm đấm vào cửa kính dày cho đến khi không còn cảm giác ở tay nữa. Không dưới mười lần, cô đã mò mẫm tới chỗ cánh cửa thép, luồn móng tay vào khe cửa để cạy nó ra, nhưng cánh cửa có gờ sắc bén không mảy may nhúc nhích. Cuối cùng, khi các móng tay đã mòn đến thịt, cô ngồi thịch xuống mặt sàn lạnh ngắt, thở hổn hển. Cô nhìn bóng tối dày đặc một lúc, mắt mở to và tim đập như muốn vỡ tung. Rồi cô hét lên. Cô la hét cho đến khi hai tai ù đi và giọng khản đặc. Cô ngửa đầu ra sau và một lần nữa cảm thấy khí mát từ trên trần tuôn xuống. Nếu lấy đà, biết đâu cô có thể nhảy lên và nắm được thứ gì đó? Biết đâu sẽ có điều gì. Phải rồi, biết đâu đến nước ấy, lũ khốn khiếp ngoài kia sẽ phải đi vào? Và nếu chọc ngón tay vào mắt chúng, cô có thể làm chúng mù. Nếu đủ nhanh và quyết đoán, có thể cô sẽ làm được chuyện đó và trốn thoát. Cô mút mấy ngón tay rướm máu một lúc, rồi tì chúng xuống sàn, gượng dậy. Cô ngước nhìn trần nhà dù không thấy được gì ngoài bóng tối. Có thể nó cao quá tầm nhảy của cô. Cũng có thể nó chẳng có gì để bám víu. Nhưng cứ phải thử đã. Ngoài chuyện đó ra, cô còn biết làm gì đây? Cô cởi áo khoác và cẩn thận xếp vào một góc để không làm hỏng nó khi rơi xuống. Sau đó, cô lấy đà và nhảy lên, tay vươn cao hết mức, nhưng chẳng chạm được vào bất cứ thứ gì. Cô nhảy thêm hai lần nữa, trước khi rút về chỗ bức tường phía cuối phòng để ngồi nghỉ một chút, lấy lại hơi sức. Rồi cô lại lấy đà và dùng hết sức bình sinh để bật lên thật cao trong bóng tối, tay khua khoắng cầu may. Lúc rơi xuống trở lại, cô trượt chân trên mặt sàn nhẵn và ngã nghiêng. Cô hộc lên khi vai đập vào lớp bê tông và hét toáng khi đầu va vào tường đến nổ đom đóm mắt. Suốt một lúc lâu, cô nằm bất động dưới đất, chỉ muốn khóc nấc lên, nhưng cô sẽ không khóc. Nếu bọn cai ngục nghe thấy cô khóc, chúng sẽ đắc ý. Chúng sẽ tưởng cô sắp bỏ cuộc. Nhưng cô không bỏ cuộc. Ngược lại là đằng khác. Cô sẽ chăm sóc bản thân. Với bọn chúng, cô là một cô gái bị nhốt trong lồng, nhưng không gian bên trong cái lồng này rộng hay hẹp là tùy thuộc ở cô. Cô sẽ tập trung vào những suy nghĩ gợi mở ra thế giới bên ngoài để khỏi phát điên lên. Bọn chúng sẽ không bao giờ khuất phục được cô. Đó là điều cô đã quyết trong lúc nằm dưới sàn với cái vai đau nhói và một con mắt sưng vù không mở được. Một ngày nào đó, cô sẽ ra khỏi nơi này. *** Tác giả:Jussi Adler-Olsen. Thể loại: Trinh thám Bắc Âu. Điểm: 9.5/10 Carl Morck là thanh tra cảnh sát được xem như giỏi nhất tại Sở cảnh sát Copenhagen. Trong một lần cùng đồng đội nhận lệnh điều tra một vụ sát hại bằng súng bắn đinh, nhóm của anh bị tấn công bất ngờ, đồng đội của anh người thì thiệt mạng, người thì bị bắn vào cột sống dẫn đến liệt toàn thân, chỉ riêng Carl Morck hồi phục và tiếp tục hành nghề. 2 tháng sau khi anh bị bắn và 1 tuần sau khi quay lại làm việc, anh được đề bạt làm lãnh đạo của Đơn vị Q mới thành lập, chuyên điều tra những vụ án đã được xếp lại nhưng có tác động lớn đến công chúng. Sau vài ngày chán chường ngồi hút thuốc dưới tầng hầm – “văn phòng mới”của anh, dưới sự nhiệt tình và nghiêm túc của Assad – người trợ lý mới được tuyển vào, Carl Morck đã bắt tay vào điều tra vụ án của Merete Lynggaard – phó chủ tịch Đảng Dân Chủ đã mất tích cách đây 5 năm và được kết luận chết đuối không tìm được xác. Với tài năng thiên bẩm của mình trong việc phá án cộng với sự hỗ trợ hết sức hữu dụng của Assad, Carl đã phám phá ra nhiều tình tiết trọng yếu dẫn đến khả năng lật lại vụ án của Merete Lynggaard.   Sau một thời gian chờ đợi nhưng vẫn không có ai review cuốn “Cô gái trong lồng” này để Biển tham khảo, Biển quyết định đi nhà sách đọc thử và bị Cô Gái Trong Lồng níu tay không rời luôn. Không nhớ rõ đây là cuốn trinh thám Bắc Âu thứ bao nhiêu Biển từng đọc, nhưng cũng như những quyển truyện khác cùng thể loại, quyển này có một phong vị rất riêng. Bối cảnh trong truyện trinh thám Bắc Âu thường diễn ra ở những vùng đất lạnh lùng tuyết phủ, con người vì cố chống chọi với sự khắc nghiệt của môi trường sống nên tâm tính trở nên vừa chai sạn nhưng cũng rất dữ dội, trong đó không thiếu những kẻ đầu óc biến thái sẵn sàng hành hạ đồng loại theo những cách tàn bạo nhất. Nhân vật chính Carl Morck là hình tượng người cảnh sát dũng cảm, nhanh trí, có tư chất bẩm sinh đối với ngành nghề của anh nhưng đồng thời cũng bị tác động mạnh mẽ bởi phụ nữ đến mức khả năng suy luận của anh bị tắt nguồn khi gặp phụ nữ quyến rũ! Nhân vật “cô gái trong lồng” là một cô gái trẻ xinh đẹp tài giỏi, tuy tuổi thơ từng trải qua tai nạn khủng khiếp nhưng cô vẫn kiên cường sống tiếp. Tác giả Jussi Adler-Olsen đã khắc họa hình tượng các nhân vật của ông đúng với công việc họ làm, miêu tả tâm lý nhân vật nhất quán với tính cách của họ. Dù là nhân vật chính hay phụ đều có đất diễn. Đúng theo thể loại trinh thám Bắc Âu, tác phẩm “Cô gái trong lòng” cũng đi sâu vào quá trình phá án, nhịp truyện đủ chậm để độc giả theo kịp nhưng cũng đủ dồn dập để không gây chán, những chi tiết hồi hộp không cố tình được đẩy lên cao trào nhưng mạch truyện vẫn đủ căng thẳng và lôi cuốn. Thỉnh thoảng, tác giả đưa vào những lối so sánh rất thú vị và những chi tiết hài hước đúng lúc góp phần “cột chặt” người đọc vào quyển sách. Có vài phân đoạn rất ngắn đề cập đến cái chết nhân đạo: Carl Morck trăn trở với suy nghĩ rằng anh có nên giúp kết thúc sự sống của người đồng nghiệp đang nằm liệt giường không bao giờ có thể hồi phục hay không. Tác giả Jussi Adler-Olsen cũng có một câu rất hay và ngắn gọn để nói về chính trị “Tiền bạc và quyền lực quan trọng hơn kết quả”. Biển xin trích một đoạn cho những bạn muốn đọc thử: “Cô đang nằm trên sàn nghĩ về những cuốn sách. Đó là điều mà cô thường làm để khỏi nhớ về cuộc sống mình có thể đã có nếu lựa chọn khác đi. Khi nghĩ về những cuốn sách, cô có thể đi sang một thế giới hoàn toàn khác. Chỉ cần nhớ lại cảm giác khi sờ lên bề mặt khô ráo và nham nháp khó tả của một trang sách là đủ để khơi lên ngọn lửa khao khát trong cô”. Theo đánh giá cá nhân Biển thì quyển “Cô gái trong lồng” có cốt truyện xuất sắc, gợi nhớ đến cuốn “Alex” của Pierre Lemaitre nhưng nội dung hoàn toàn khác hẳn. Bìa sách được thiết kế khá đẹp, chữ in rõ, giấy trắng, trình bày sạch đẹp, không có lỗi chính tả hoặc lỗi đánh máy. Tuy vậy, có một chỗ chú thích không được làm rõ, Biển nghĩ “thiết bị theo dõi sinh hiệu” có thể được giải thích ra là “thiết bị theo dõi dấu hiệu của sự sống”. Biển từng có dịp gặp dịch giả Hoàng Anh, nay xin bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với công trình dịch thuật này của anh. Quyển sách to, dày gần 500 trang với nội dung hay tuyệt này là một ấn phẩm mà các mọt trinh thám sẽ yêu thích. (Sea,Friday 13-7-2018) Camellia Phoenix review Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Lồng của tác giả Jussi Adler-Olsen.
Ba Nhát Đâm Bí Ẩn
Trong the Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa hoc đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thí nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh hoạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân an uổng của họ..... ... Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn.... *** Một trong những tác gia có sách bán chạy nhất ở Mỹ liên tục trong hai chục năm qua, là Jonathan Kellerman. Vậy J. Kellerman là ai? Sinh năm 1949 tại New York, nhưng Los Angeles là nơi ông gắn bó, nơi ông thành đạt trong nghề nghiệp bác sĩ và với tư cách một tác gia tiểu thuyết. Khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi, song phần lớn những năm tuổi trẻ ông dành để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Năm 24 tuổi, ông nhận bằng tiến sĩ, chuyên ngành tâm lý trẻ em. Sau đó là những năm làm việc trong các bệnh viện, trung tâm bệnh trẻ em ở Los Angeles, điều trị tâm lý cho các trẻ em bị ngược đãi, lạm dụng... Năm 1980-1981, ông xuất bản những cuốn sách về y học liên quan đến trẻ em: Psychological aspects of childhood cancer và Helping the pearful child. Năm 1985, J. Kellerman xuất bản cuốn sách hư cấu đầu tiên When the bough breaks (Khi cành cây gãy - tên bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2007 là Ba bóng đen). Ngay lập tức cuốn sách trở thành hiện tượng bestseller được bầu chọn trên tờ New York times, và tác giả nhận được giải thưởng Edgar Poe và giải thưởng Anthony Boucher cho tiểu thuyết đầu tay hay nhất. Tiểu thuyết này năm 1986 được dựng thành phim truyền hình phát trên kênh NBC và đã thu hút 28 triệu người xem. Từ đó đến nay, mỗi năm một cuốn sách (có năm 2 cuốn), in ở nhiều nước trên thế giới và bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, tên tuổi Jonathan Kellerman liên tục có mặt trên bảng xếp hạng của New York times. The master of psychological suspense - bậc thầy của tiểu thuyết trinh thám tâm lý, báo chí nói về ông như thế khi lần đầu tiên ông xuất hiện trên văn đàn, và sự tôn vinh ấy đã không ngừng được nhắc lại hơn hai chục năm nay, trên các báo, trên các website, và quan trọng nhất, ông vẫn là một nhà văn không hề cũ đối với công chúng. Nhân vật chính trong các tiểu thuyết của ông, Alex Delaware, phần nào đó là hình bóng của chính nhà văn. Nhận bằng tiến sĩ năm 24 tuổi, là bác sĩ tâm lý trẻ em, Alex khám phá ra đằng sau những sự cố của trẻ nhỏ luôn ẩn chứa những vấn đề của người lớn, của xã hội. Trong cuốn sách đầu tiên When the bough breaks, Alex Delaware 30 tuổi, sống độc thân và bắt đầu hẹn hò với Robin. Vì có người bạn thân là thanh tra Milo Sturgis ở trong Sở cảnh sát, anh được mời chữa trị cho các em nhỏ nạn nhân của một vụ xâm hại, rồi làm tư vấn đặc biệt cho cảnh sát. Vụ đầu tiên anh tham gia là vụ một bác sĩ tâm lý bị giết cùng người bạn gái là cô giáo dạy ở trường dành cho các trẻ có khiếm khuyết. Nhân chứng duy nhất của vụ án là một bé gái 7 tuổi bị bác sĩ cho uống quá liều thuốc an thần đã trở nên gần như ngơ ngẩn. Những ám ảnh của bé gái có ý nghĩa gì? Liệu thực sự cô bé đã chứng kiến một tội ác? Lần theo mối dây của các nạn nhân, Alex tìm tới một trung tâm từ thiện nuôi dạy các trẻ mồ côi và khuyết tật lớn ở Los Angeles. Xới tung hàng chục mối quan hệ, lần lại những trang hồ sơ cũ, đào bới quá khứ của những gương mặt đang hiện diện ở tầng thượng lưu của xã hội, Alex Delaware đã tìm ra sự thật về những con quỷ đội lốt người, những kẻ có xu hướng tình dục bệnh hoạn, những kẻ say mê quyền lực, những kẻ bị khống chế bởi quá khứ tội lỗi, đã biến trung tâm từ thiện kia thành hang ổ truy lạc, lạm dụng tình dục của hàng trăm trẻ nhỏ. Trong Blood test (Thử máu - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2005), khi cố gắng giúp đỡ cậu bé Woody mắc bệnh ung thư, Delaware phải đối mặt với hàng bao rắc rối và dò trong mớ bòng bong các quan hệ, anh đã đi đến tận cùng sự thật khủng khiếp trong gia đình cậu bé: những tín ngưỡng rùng rợn và quan hệ loạn luân được che đậy trong rất nhiều năm, mà bất hạnh đổ lên số phận những đứa trẻ là chị em và cũng là mẹ con Nona và Woody. Trong Bad love (Tình yêu dối trá - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2004), vụ án Delaware khám phá liên quan tới một hội nghị khoa học mà các nghi can đều là những nhà khoa học liên quan đến tâm lý - giáo dục trẻ em. Trong The Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa học đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thử nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh loạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân oan uổng của họ. Cộng tác với cảnh sát với tư cách là chuyên gia tâm lý, nhưng trong tất cả các vụ án, bác sĩ Delaware đã tham dự như một thám tử chuyên nghiệp, mà bên cạnh anh chàng thám tử to béo Milo Sturgin chỉ còn giữ vai trò bổ khuyết cho vai chính. Không giắt súng trong lưng, không có phương tiện hỗ trợ như một cảnh sát thực thụ, nhưng Delaware có sự mẫn cảm đặc biệt để dò ra những ngóc ngách tâm lý, những mối quan hệ của con người, dù quan hệ đó có được che giấu tinh vi thế nào đi nữa. Không có nhiều những pha bắn giết hay rượt đuổi, cách của J. Kellerman là bóc tách dần các chân dung, các quan hệ. Ông đẩy độ căng thẳng lên dần dần, ông lừa người đọc vào những cao trào khiến người ta lầm tưởng đó đã là cú cuối, song thực sự cú cuối chỉ nằm ở trang cuối, khi bạn đọc sắp sửa gấp sách lại. Kellerman thường bẫy người đọc trong những câu chuyện có vẻ rời rạc ban đầu, tung ra nhiều nhân vật, đưa nhiều lộ trình, tạo ra một mớ rối tung quan hệ, nhưng rồi những hướng rời rạc sẽ gắn kết ở một điểm, ở đó những gương mặt nhân vật, những lộ trình hành vi đột ngột sáng tỏ. Tuy nhiên, không như một tác phẩm trinh thám thông thường đích cuối của câu chuyện là vạch mặt thủ phạm, với J. Kellerman, thủ phạm không phải là sự thật ghê gớm nhất; sự thật shock nhất nằm ở cú vỡ bung cuối cùng soi sáng tận cùng nguyên do của tội ác. Blood test, Over the edge, Private eyes, Bad love, Devil’s Waltz - Vũ điệu quỷ, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2007, cho đến cuốn sách mới nhất Gone, mỗi một vụ án là một ca tâm lý, mỗi một nhân vật là một dạng tâm bệnh che đậy, bắt đầu từ thời thơ ấu. Có thể thấy quan điểm của Kellerman, không có tội ác nào trong hiện tại lại không có nguyên do từ một hoàn cảnh bất thường hay một xu hướng bệnh hoạn trong thời thơ ấu. Những câu chuyện của ông chứa đựng một lời cảnh báo: hãy quan tâm đến trẻ nhỏ, bạo hành, stress, lạm dụng... đối với trẻ nhỏ, tức là đang gieo mầm cho bạo hành, lạm dụng, giết người... cho tương lai. Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn. Bối cảnh tiểu thuyết của ông là Los Angeles thời hiện đại, với đầy rẫy những bạo hành, stress, lạm dụng; một Los Angeles có vô vàn những vấn đề tâm bệnh, nơi mà xã hội thượng lưu khoác mặt nạ che đậy bên dưới hàng bao dối trá, dục vọng. Kellerman không mô tả tội ác ở những tầng lớp dân nghèo, ông nhằm vào phân tích sự mục ruỗng, méo mó nhân cách ở những tầng lớp trên, nơi những người có tiền, có quyền, có tri thức. Bằng vào sự nhạy cảm, khả năng phân tích, suy luận của nhân vật Alex Delaware, ông dò tìm những bí mật của tâm lý - hành vi ẩn dưới đời sống đĩnh đạc của những bác sĩ, giáo sư đại học, của những thẩm phán, luật sư, cha cố... Kinh nghiệm của một bác sĩ tâm lý đã giúp ông trở thành một nhà văn phân tích hành vi xuất sắc. Hành vi con người, đó là mối quan tâm của ông, là điều ông theo đuổi trong suốt cuộc đời và vì nó mà ông đã viết - trong một bài trả lời phỏng vấn, ông đã nói đại ý như thế. Có thể nói, tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là tiểu thuyết trinh thám - hành vi, một sự kết hợp tài tình giữa tiểu thuyết trinh thám điển hình và tiểu thuyết tâm lý. Nếu con đường của văn chương là khám phá bí mật về con người, thì J. Kellerman đang đi trên con đường đó, từng ngày, bằng những cuốn sách của mình, ông cuốn hút hàng triệu độc giả ở khắp hành tinh trong hành trình mê mỏi khám phá không ngừng nghỉ bí ẩn của hành vi con người. Trần Thanh Hà *** Chẳng mấy khi những đường phố xảy ra các vụ án mạng lại đẹp. Nhưng có một đường phố ngoại lệ. Đó là một con đường tản bộ cong cong êm ái rợp bóng cây đu cạnh trường Đại học California - Los Angeles, hai bên là những bãi cỏ rộng có các xưởng máy và các khu nhà, mượt như mặt bàn bi-a mới. Dưới một cây đu khổng lồ bên đường là nơi Hope Devane bị đâm chết. Nơi đó cách nhà bà một đoạn đường về phía Tây Nam. Tôi ngó lại một lần nữa, chỉ thấy được lờ mờ dưới ánh trăng lười nhác. Sự yên lặng về đêm ở đây chỉ bị phá vỡ bởi những tiếng dế mèn và thỉnh thoảng là tiếng xe hơi đời mới tiếng nổ nhẹ như một làn khói. Dân địa phương đang trở về sau buổi làm việc. Vài tháng nay, đã có nhiều người tò mò tới đây để ngó qua cái sân khấu này. Milo châm điếu xì gà và phụt khói ra ngoài cửa kính xe. Xoay cái cửa kính xuống, tôi tiếp tục nhìn cây đu ấy. Một cái thân cây xoắn, to như cây cột điện cao thế bên Xa lộ. Tán lá của nó có bán kính rộng tới 18 mét, tối tăm. Những cành cây chắc chắn, tham lam hiện ra dưới ánh trăng băng giá, một số cành quá nặng, thỉnh thoảng lại quét xuống mặt đất. Có lẽ phải đến 5 năm nay thành phố không cử người tới tỉa cành cho cây cối hai bên đường. Chắc là do thất thu thuế. Người ta nhận định rằng tên giết người đã núp dưới vòm cây, mặc dù không ai tìm thấy dấu hiệu hiện diện của hắn ngoài những vết xe đạp cách đó vài mét. Ba tháng sau khi phát hiện ra xác chết, tất cả vẫn chỉ dừng lại ở nhận định, không có tiến triển gì. Chiếc xe Ford cũ của Milo nằm cùng đoạn đường với hai chiếc xe khác, cả hai đều là Mercedes, đều bị phết phiếu đậu xe sai quy định ở trên kính chắn gió. Sau khi xảy ra vụ giết người, thành phố đã hứa sẽ tỉa cành cho cây cối bên đường, nhưng lời hứa ấy đến nay vẫn chưa hề được thực hiện. Có lần Milo cay đắng thông báo cho tôi về điều này, miệng không ngớt chửi rủa những nhà chính trị, nhưng lời nguyền rủa thực sự của anh lại nhắm vào vụ giết người máu lạnh này. - Một vài bài viết về vụ án, rồi chấm hết. - Các sự kiện thời sự giống như các món ăn nhanh ấy mà - Tôi nói - nhanh, dễ nuốt và dễ quên… - Chúng ta là những người yếm thế quá chăng? - Nghề của tôi là phải biết sống với những người bệnh hoạn mà. Câu nói ấy đã làm Milo bật cười. Nhưng giờ thì anh đang nhăn trán, quệt tay vuốt những sợi tóc vương trên mặt, và thở ra những vòng tròn khói thuốc rung rung. Nhích chiếc xe thêm một đoạn đường nữa, Milo cho dừng lại. Anh chỉ tay vào một trong những ngôi nhà nho nhỏ nhưng trông gọn ghẽ: - Nhà bà ấy đấy. Ngôi nhà có mặt tiền màu trắng, có bốn cột, các cánh cửa chớp màu đen, các đồ trang trí lấp lánh trên cánh cửa bóng loáng. Cao hơn lề đường ba bậc là lối nhỏ có lát đá xuyên qua bãi cỏ. Một cánh cổng có các mũi sắt nhọn chặn trên đường lái ô tô vào nhà. Hai cánh cửa sổ tầng hai có màu hổ phách lấp phía sau các tấm rèm màu tai tái. - Hình như có người ở nhà - Tôi nói. - Xe của ông ấy đang đậu trên lối cho ô tô vào nhà đấy. Một chiếc xe vừa chở khách, vừa chở hàng màu sáng đậu trên lối xe hơi vào nhà. - Ông ta luôn ở nhà - Milo nói - Cứ về nhà rồi là ông ta không đi đâu nữa. - Ông ta vẫn còn để tang ư? Milo nhún vai: - Bà ấy đi xe Mustang nhỏ màu đỏ. Bà ta trẻ hơn ông ấy khá nhiều. - Nhiều là bao nhiêu? - 15 tuổi. - Điều gì ở ông ấy khiến anh quan tâm? - Là hành động của ông ta khi nói chuyện với tôi. - Ông ấy tỏ vẻ bối rối chăng? - Không hợp tác. Paz và Fellows cũng nghĩ như thế. Nghĩa là chẳng có điều gì ông ấy nói giúp ích được cho cuộc điều tra. Milo không đánh giá cao những điều tra viên đã tiến hành vụ này trước khi nó được trao cho anh. Với suy nghĩ rằng mình cũng sẽ rơi vào tình trạng bất lực như họ nên anh rất ưu tư. - Mà này - Tôi nói - Phải chăng người chồng luôn là nghi can đầu tiên trong các vụ án? Cho dù đâm bà ta ở ngoài đường phố nghe có vẻ không tiêu biểu lắm. Anh lấy tay dụi mắt: - Đúng vậy. Đập nát óc bà ta trong phòng ngủ có lẽ tiêu biểu cho một vụ án hôn nhân hơn. Nhưng chuyện đã xảy ra rồi. - Milo xoay xoay điếu xì gà rồi tiếp - Cuộc sống dài lắm, mọi thứ đều có thể xảy ra. - Chính xác những vết xe đạp đã được phát hiện ở chỗ nào? - Ngay phía Bắc của cái xác nhưng tôi không coi trọng bằng chứng này nhiều. Mấy tay trong phòng thí nghiệm nói rằng những vết xe ấy có thể đã ở đó từ một cho đến mười ngày. Có thể đó là vết xe của một thằng nhóc hàng xóm, sinh viên hay một người luyện tập thể dục. Thêm vào đó, khi tiến hành xét hỏi từng gia đình ở khu vực này mọi người đều nói họ không nhìn thấy một người đi xe đạp lạ nào trong cả tuần đó. - Một người đi xe đạp lạ nghĩa là sao? - Nghĩa là một người nào đó không phù hợp. - Ý nói một ai đó da không trắng phải không? - Đại để là như vậy. - Một khu vực yên tĩnh như thế này mà không ai nghe thấy hay nhìn thấy điều gì đó vào lúc 11 giờ đêm thì thật đáng ngạc nhiên. - Tôi nói. - Điều tra viên nói rằng có thể là bà ta không kêu được. Không có vết thương chứng tỏ có sự phản vệ, vì vậy có lẽ bà ấy đã không kháng cự nhiều. - Ra thế. Tôi đã đọc các kết quả pháp y, hồ sơ, từ báo cáo sơ bộ của Paz và Fellows đến kết luận của nhà nghiên cứu bệnh học và tập ảnh khám nghiệm tử thi. Không biết tôi đã phải nhìn bao nhiêu ảnh loại này trong những năm qua. Đây là lần tôi có cảm giác tởm lợm nhất. - Không kêu được chắc là do bị đâm đúng vào tim? - Tôi hỏi. - Điều tra viên nói rằng có thể cú đâm đó đã làm cho tim bị nát khiến bà ta rơi vào tình trạng đột sốc. Anh bật ngón tay thô kệch kêu một tiếng tách nhẹ rồi đưa cả bàn tay lên vuốt mặt. Nhìn nghiêng, khuôn mặt anh giống của một con hà mã, đầy hút trứng cá và mệt mỏi. Anh rít thêm một vài hơi thuốc nữa. Tôi lại nghĩ tới những tấm ảnh chụp trước khi khám nghiệm tử thi: Xác Hope Devane trắng như băng dưới ánh đèn của điều tra viên; ba vết đâm sâu, tím bầm được chụp cận cảnh - một vết ở ngực, một vết ở đáy xương chậu, một vết ngay phía trên thận trái. Kịch bản phía pháp y đưa ra là Hope đã bị đánh bất ngờ và ngất ngay lập tức bằng một cú đâm trúng tim, rồi tiếp đến là nhát đâm thứ hai ở âm đạo, cuối cùng bị đặt nằm sấp bên lề đường và đâm một nhát vào lưng. - Một người chồng đã làm như vậy à. - Tôi nói - Chắc anh tưởng tượng ra điều còn tồi tệ hơn thế nhưng như thế thì chắc phải có nhiều sự tính toán đấy. - Ông chồng này là một trí thức, phải vậy không? Một người biết nghĩ đấy chứ. Khói thuốc phụt ra khỏi xe thành những dải nhỏ, tan biến ngay khi gặp cơn gió ban đêm. - Anh Alex ạ, thực ra, tôi muốn kẻ giết người đó là Seacrest bởi những lý do cá nhân. Vì nếu không phải là ông ta thì vụ trời đánh này sẽ đúng là một cơn ác mộng. - Có quá nhiều nghi can à? - Chính vậy - Milo nói như hát - Có rất nhiều người có thể được xem là không ưa bà ấy.   Mời các bạn đón đọc Ba Nhát Đâm Bí Ẩn của tác giả Jonathan Kellerman.
Bọn Làm Bạc Giả
Paris, những năm đầu thế kỷ 20, định mệnh đã mang tên thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt… Không có một cốt truyện rõ ràng, không có một đường dây xuyên suốt, từ đầu đến cuối Bọn làm bạc giả là dòng chảy tùy hứng của số phận mà qua đó, bằng ngòi bút tài tình André Gide đã tạo nên một thế giới nhân sinh sâu thẳm, đi tới tận cùng vùng tăm tối trong bản thể con người. Được xem là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của Gide, cuốn sách này hàm ẩn cái chân lý văn chương trác tuyệt của ông và nhờ vậy mà trở nên bất tử. Nhận định "Bọn làm bạc giả là một cuốn bách khoa hiếm hoi về sự hỗn hoạn, nhu nhược và tuyệt vọng của nhân loại." - Nhà xuất bản Penguin Books "Tiểu thuyết của Gide mải mê chiêu đãi chúng ta một bữa tiệc đầy ắp những nốt nhạc và thanh âm, một mạng lưới chồng chéo những âm mưu và định mệnh. Nhưng sự hòa trộn đó không tạo nên một bản tạp âm chối tai mà là một phức điệu đích thực, một sự hỗn độn trong trật tự, hệt như một khúc fugue đầy biến động và vô phương hướng của Bach." - Giáo sư Robert Wexelblatt *** “Hình như họ muốn làm chúng ta tưởng rằng con người không có lối thoát nào khác ra khỏi tính ích kỷ, ngoài một lòng vị tha còn gớm ghiếc hơn! Tôi cho rằng nếu có cái gì đấy bỉ ổi hơn con người, và đê hèn hơn, thì đấy là số đông người. Chẳng có lí lẽ nào có thể thuyết phục được tôi là đem cộng những cá thể nhớp nhúa lại sẽ cho ra được một tổng thể tuyệt vời. Chẳng lần nào bước chân lên xe điện hoặc xe lửa mà tôi không ao ước xảy ra một tai nạn khủng khiếp biến cái đám người rác rưởi đó thành một đống nhão nhoét; ồ, kể cả tôi, tất nhiên…” ------------------- “Bọn làm bạc giả” là cuốn tiểu thuyết được coi như dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của André Gide. Chính bản thân tác giả cho rằng, đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong sự nghiệp của ông, bất chấp cả việc nó được viết  khi A. Gide đã 60 tuổi và có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ trước đó. “Bọn làm bạc giả” có nhiều tầng hình ảnh được đan lồng với nhau: những thiếu niên bị sa đà vào cuộc hoan vui; sự lưu hành tiền giả khiến người ta phải đặt ra câu hỏi: tiền giả chỉ đơn giản là tiền hay là sự phơi bày cảm xúc dối trá của con người; chuyện ngoại tình của các ông bố bà mẹ; chuyện sáng tác văn chương, chữa bệnh tâm thần bằng phương pháp tâm lí,…những vấn đề mang tính chất thời sự nóng hổi lúc bấy giờ. Cuốn tiểu thuyết mở ra từng dòng tự sự về thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt…Các nhân vật được xây dựng rất phức tạp với nhiều lớp lang về xuất thân, tư tưởng, hành động, tái hiện một bức tranh toàn cảnh đời sống tầng lớp thị dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.  “Bọn làm bạc giả” không được sắp xếp theo trình tự thời gian nhất định mà bị phá vỡ khi A.Gide đã đưa vào tác phẩm những trang nhật ký của nhân vật nhà văn Édouard. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm và tác phẩm tiếp theo đây cũng có cái tên “Bọn làm bạc giả”, nói cách khác, cuốn sách của A.Gide là tiểu thuyết bên trong tiểu thuyết .  *** Bernard tự nhủ: - Bây giờ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang thì phải. Hắn ngẩng đầu nghe ngóng. Không phải: cha và anh hắn ở lại tòa án, mẹ hắn bận đi thăm viếng, chị gái đi dự hòa nhạc; còn thằng út, thằng Caloub, thì trường học đã cầm chân hắn mỗi ngày sau khi bãi trường. Bernard Profitendieu ở nhà hì hục học thi tú tài, còn ba tuần lễ trước mặt hắn nữa thôi. Gia đình tôn trọng sự tịch mịch của hắn, ngạ quỷ thì không. Bernard đã cởi áo veston mặc ngoài mà vẫn khó thở. Từ khung cửa sổ mở ra đường, chỉ có sức nóng ùa vào. Trán hắn nhễ nhại. Một giọt mồ hôi chảy xuống sống mũi, và rơi xuống lá thư hắn đang cầm nơi tay. Hắn nghĩ: “Diễn trò nước mắt rồi đây. Nhưng thà chảy mồ hôi còn hơn là chảy nước mắt.” Phải, ngày tháng đã rành rành. Không nghi ngờ vào đâu được: thư liên quan đến Bernard, chính hắn. Thư gửi cho mẹ hắn, một lá thư tình mười bảy năm xưa, không kí tên. - Chữ cái này là nghĩa gì? Chữ V, cũng có thể là N lắm chứ... Có nên hỏi mẹ không?... Mình hằng tin tưởng ở sự biết điều của mẹ. Mình tự do tưởng tượng một ông hoàng nào đó. Còn hơn nếu vỡ lẽ mình là con của một tên ma cô nào thì sao? Không biết cha đẻ là ai, mình mới đỡ sợ phải giống ông ta. Mọi cuộc điều tra đều sinh trói buộc. Đáng kể chăng là sự nhẹ nhõm. Đừng đào sâu. Hôm nay thế cũng đủ cho ta rồi. Bernard gấp thư lại. Thư cùng một khổ giấy với mười hai lá thư khác trong gói. Một dải màu hồng buộc lại tất cả mà hắn không cần phải tháo ra, hắn chuồi thư vào đó để thắt cả xấp lại như cũ. Hắn đặt xấp thư vào chiếc hộp nhỏ rồi đặt chiếc hộp vào ngăn kéo bàn. Ngăn kéo không phải mở ra, nó đã tiết lộ bí mật bằng ngỏ trên. Bernard chắp nối những miếng rời của mặt gỗ đỡ tấm mã não phủ lên. Hắn nhẹ tay thận trọng, sập tấm mã não xuống, đặt lại lên trên đó hai giá đèn bằng pha lê cùng với chiếc đồng hồ kềnh càng mà hắn vừa mới đem ra sửa chơi. Đồng hồ gõ bốn tiếng. Hắn vặn lại cho đúng giờ. - Hai cha con ông dự thẩm và ông luật sư không về trước sáu giờ đâu. Ta đủ thì giờ. Thế nào cũng phải cho ông dự thẩm về thấy trên bàn tờ thư đẹp đẽ trong đó ta sẽ nói ý nghĩa sự ra đi của ta. Nhưng trước khi viết, mình thấy rất cần giải thông tư tưởng một chút đã và đi tìm gặp thằng bạn Olivier để cầm chắc một chỗ đậu, ít nữa là tạm thời. Olivier bạn thiết của ta ơi, đã đến lúc ta thử lửa tính chiều lòng của cậu và để cho cậu chứng tỏ giá trị của cậu với ta. Cái đẹp trong tình bạn của hai đứa chính là từ trước tới nay chúng ta chưa hề lợi dụng nhau. Nào! Yêu cầu giúp đỡ một việc ngộ nghĩnh chắc không đến nỗi tẻ nhạt. Phiền nỗi Olivier không ở một mình. Mặc, ta sẽ tìm cách tách riêng hắn ra. Ta muốn cho hắn hoảng kinh vì sự trầm tĩnh của ta. Chính trong cõi bất thường mình mới cảm thấy mình tự nhiên hơn hết. Con đường T..., nơi Bernard Profitendieu sống cho tới hôm nay ở gần sát vườn Luxembourg. Tại đây, cạnh hồ nước Médicis, trên lối đi nhìn xuống hồ nước, mấy đứa bạn hắn có thói quen hẹn nhau mỗi ngày thứ tư từ bốn đến sáu giờ, chuyện trò về nghệ thuật, triết học, thể thao, chính trị và văn học, Bernard bước đi rất nhanh, nhưng khi qua khỏi cổng vườn, hắn nhác thấy Olivier Molinier và lập tức chậm chân lại. Cuộc hội họp hôm đó đông đảo hơn lệ thường, có lẽ vì đẹp trời. Có vài đứa nhập bọn mà Bernard chưa quen. Mỗi đứa trong bọn trẻ này, hễ đứng trước cả bọn, là đóng một vai trò và hầu như mất hết tự nhiên. Olivier bừng đỏ mặt khi thấy Bernard đi tới và, khá đột ngột, hắn bỏ người thiếu nữ đang chuyện trò, lảng ra xa. Bernard là bạn thân thiết nhất của hắn, vì thế Olivier vô cùng thận trọng không làm ra vẻ gì là kiếm tìm hắn; đôi khi hắn còn vờ vĩnh không trông thấy Bernard nữa là khác. Trước khi tới với Olivier, Bernard phải đối đầu với nhiều nhóm, và chính vì cũng giả vờ không tìm kiếm Olivier nên Bernard còn chần chờ. Bốn đứa bạn trong bọn đang đứng quanh một đứa nhỏ người để râu đeo kính xấp xỉ lớn tuổi hơn mấy đứa kia, đang cầm cuốn sách. Hắn tên Dhurmer. Dhurmer ngỏ lời với một đứa trong bọn một cách đặc biệt hơn, nhưng lấy làm sung sướng rõ rệt vì được cả bọn lắng nghe. Dhurmer nói: - Mày nghĩ coi. Tao gắng tới trang ba mươi vẫn không thấy màu sắc gì hết, một chữ để mô tả cũng không. Chàng ta nói về một người đàn bà, áo đỏ hay xanh tao cũng chẳng hay chứ đừng nói gì. Tao, hễ không có màu sắc thì giản dị lắm, tao chẳng nom thấy gì. Và vì cần đại ngôn, nhất là vì hắn cảm thấy mình bị coi như mất bớt vẻ chững chạc, hắn nhấn mạnh: - Tuyệt đối không thấy gì hết. Bernard không để tai tới thằng khoa ngôn nữa, hắn xét thấy không nên bỏ đi quá vội, nhưng hắn đã bắt đầu nghe bọn kia cãi cọ ở sau lưng và Olivier trở lại nhập bọn sau khi bỏ rơi người thiếu nữ; một đứa ngồi trên chiếc ghế dài đọc báo Action Française. Olivier Molinier, giữa bọn chúng, sao trông trịnh trọng thế! Hắn vẫn là một trong mấy đứa nhỏ tuổi nhất. Khuôn mặt còn trẻ thơ và ánh mắt của hắn biểu lộ sự sơ khai của tư tưởng. Hắn dễ đỏ mặt. Tính tình đằm thắm. Dù hắn tỏ ra hòa nhã đối với mọi người, không hiểu một sự dè dặt khó hiểu nào đó, một sự e ấp nào đó vẫn ngăn cách hắn với bạn bè. Hắn khổ tâm vì điều đó. Không có Bernard thì hắn đã khổ hơn. Giống như Bernard lúc này, Molinier ghé vào từng nhóm một lát vì nể bạn, nhưng những điều hắn nghe, không có gì khiến hắn lưu tâm. Hắn nhòm qua vai thằng đọc báo. Bernard, không quay lại, nghe Olivier nói: - Mày không nên đọc báo, nó làm mày ứ huyết. Và tên kia đáp trả lại chanh chua: - Còn mày, hễ ai nói tới Maurras(1) là mày xanh mặt. Tiếp theo, một tên thứ ba, giọng giễu, hỏi: - Bộ mày thích những bài của Maurras sao? Và tên thứ nhất đáp: - Chán ngấy, nhưng tao thấy Maurras có lí. Kế đó, một tên thứ tư mà Bernard không nhận ra giọng: - Còn cái gì không làm mày ngấy, mày đều tưởng là thiếu bề sâu? Tên thứ nhất cãi lại: - Mày tưởng chỉ cần ngốc là chọc cười được ư? - Lại đây! - Bernard vừa nói nhỏ giọng, vừa đột ngột nắm lấy tay Olivier. Hắn kéo Olivier đi ra xa mấy bước. - Trả lời mau, mình có chuyện gấp. Cậu có nói với mình là cậu không ngủ cùng một tầng lầu với hai ông bà, đúng không? - Mình đã chỉ cửa phòng mình cho cậu rồi, cửa phòng mở ra ngay cầu thang, đi một nửa tầng lầu là lên nhà chính. - Cậu có nói em cậu ngủ chung với cậu? - Phải, thằng Georges. - Cậu và Georges không thôi? - Ừ. - Thằng nhỏ biết kín miệng không? - Nếu cần. Tại sao thế? - Là thế này. Mình đã bỏ nhà, hay nói đúng hơn, tối hôm nay mình sẽ bỏ nhà. Mình chưa biết đi đâu. Cậu có thể chứa mình một đêm không? Olivier mặt tái bệch hẳn ra. Chấn động quá mãnh liệt, hắn không đủ sức nhìn Bernard. Olivier bảo: - Được, nhưng đừng đến trước mười một giờ. Mỗi đêm má xuống thăm hỏi trước khi đi ngủ rồi khóa cửa. - Thế thì làm sao... Olivier cười: - Mình có chìa khóa khác. Cậu sẽ gõ cửa khe khẽ để khỏi đánh thức Georges nếu hắn ngủ. - Liệu bác gác cổng có để mình vào không? - Mình sẽ báo cho bác biết. Yên trí! Mình với bác ăn ý nhau lắm. Chính bác cho mình cái chìa khóa kia đấy. Hẹn gặp lại. Hai người từ giã không bắt tay nhau. Và trong khi Bernard bỏ đi, nghiền ngẫm lá thư muốn viết mà ông dự thẩm sẽ phải bắt gặp khi trở về, thì Olivier, vốn không muốn người ta bắt gặp mình đứng riêng với Bernard, nên tìm tới Lucien Bercail mà bọn kia để cho đứng hơi riêng rời. Nếu không yêu Bernard nhất thì Olivier đã yêu thích Lucien lắm đấy. Bernard bạo gan bao nhiêu thì Lucien rụt rè bấy nhiêu. Ai nấy cảm thấy Lucien yếu ớt, dường như hắn chỉ sống bằng trái tim và trí tuệ. Hắn ít khi có can đảm sấn sổ tới, nhưng hắn đã mừng ra mặt ngay khi thấy Oilivier lại gần. Lucien có làm thơ chăng, mọi người đều nghi hoặc; tuy nhiên thiết tưởng Olivier là kẻ độc nhất được Lucien thổ lộ dự định. Cả hai lần ra mé khuôn viên. Lucien bảo: - Tôi muốn làm sao thuật lại, không phải chuyện một nhân vật, nhưng câu chuyện về một địa điểm, - đấy, chẳng hạn câu chuyện một lối đi công viên, như lối đi này, thuật lại những gì xảy ra - từ sáng tới chiều. Trước tiên bọn giữ em đến, rồi bọn vú em đeo những tấm dải... Không, không hẳn... trước tiên là người toàn màu xám tất cả, không phân biệt đàn ông đàn bà tuổi tác, để quét dọn lối đi, tưới cỏ, thay hoa, tóm lại để sửa soạn sân khấu và trang trí trước khi cổng mở, anh hiểu chứ? Bấy giờ bọn vú em vào. Bọn bé con vọc cát cãi cọ, bọn giữ em tát bọn nhỏ. Kế đó là các lớp học nhỏ bãi ra... thêm bọn đàn bà thợ thuyền nữa. Có những kẻ nghèo khó đến ngồi ăn trên ghế. Sau đó là bọn thanh niên kiếm tìm nhau, bọn khác trốn tránh nhau, bọn nữa đứng ngồi riêng, tư lự. Và kế đó là dân chúng, vào lúc nhạc trỗi lên và lúc các nhà hàng đóng cửa. Bọn học sinh, sinh viên như hiện giờ. Buổi chiều, bọn tình nhân hôn nhau, có những kẻ chia tay khóc lóc. Cuối cùng, hết ngày, một cặp người già... Và thình lình, một hồi trống khua: đóng cổng. Mọi người đi ra. Kịch chấm dứt. Anh hiểu chứ: một cái gì đó cho mình cái cảm giác thôi hết rồi của mọi thứ, cái cảm giác của sự chết... nhưng vẫn không nói tới cái chết, cố nhiên. - Phải, tôi hiểu lắm, - Olivier đáp, hắn đang nghĩ tới Bernard chứ có nghe lọt chữ nào đâu. Lucien hăng say nói tiếp: - Chưa hết, chưa hết! Tôi muốn, trong phần coi như màn vĩ thanh, chứng minh chính cái lối đi này đây, ban đêm, sau khi mọi người bỏ đi hết rồi, thì thanh vắng, đẹp hơn ban ngày nhiều; trong cảnh im lặng mênh mông, mọi tiếng động trong thiên nhiên xuất thần: tiếng vòi nước, tiếng gió trong lá, và tiếng lảnh lót của con chim đêm. Ban đầu tôi nghĩ tới chuyện thêm vào đó những bóng tối, có lẽ thêm những bức tượng... nhưng tôi cho rằng như thế lại nhạt nhẽo hơn; cậu nghĩ sao? Mời các bạn đón đọc Bọn Làm Bạc Giả của tác giả André Gide.