Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kết Hôn Với Winterborne

Một ông trùm tàn nhẫn Tham vọng man rợ đã mang lại cho Rhys Winterborne có xuất thân bình dân trở nên giàu có và thành công. Trong kinh doanh và hơn thế nữa, Rhys đạt được chính xác những gì anh mong muốn. Và ngay từ khi gặp được Quý cô Helen Ravenel, một Tiểu thư quý tộc nhút nhát, anh đã quyết tâm chiếm hữu nàng. Nếu anh phải lấy đức hạnh của nàng để đảm bảo nàng phải kết hôn với anh, thì càng tốt. . . Một vẻ đẹp cần được che chở Helen đã có rất ít tiếp xúc với thế giới lấp lánh, hoài nghi của xã hội London. Tuy nhiên, sự quyến rũ kiên quyết của Rhys đã đánh thức một niềm đam mê mãnh liệt lẫn nhau giữa hai người. Lớn lên trong sự nuôi dạy dịu dàng Helen mang một niềm tin cứng đầu rằng chỉ có nàng mới có thể thuần phục được người chồng ngỗ ngược của mình. Khi kẻ thù của Rhys âm mưu chống lại họ, Helen phải tin tưởng anh khi thổ lộ bí mật đen tối nhất của nàng. Những rủi ro là không thể tưởng tượng được. . . phần thưởng, một đời hạnh phúc không gì sánh được. Và tất cả bắt đầu với… Kết hôn với Winterborne *** "Ngài Winterboner, một người phụ nữ đang ở đây để gặp ngài.” Rhys nhìn lên từ đống thư trên bàn với vẻ cau có. Thư ký riêng của anh, bà Fernsby, đứng trước ngưỡng cửa văn phòng riêng của anh, đôi mắt sắc bén sau cặp kính tròn. Bà là một người phụ nữ gọn gàng, đứng tuổi và hơi bụ bẫm. “Bà biết tôi không tiếp khách vào giờ này mà.” Đó là nghi thức buổi sáng của anh để dành nửa giờ đầu tiên trong ngày để đọc thư trong sự im lặng không bị gián đoạn. “Vâng, thưa ngài, nhưng người khách là một Quý cô, và cô ấy – “ “Tôi không quan tâm nếu cô ta có là Nữ hoàng máu lạnh,” anh cắt ngang. “Bảo cô ta đi đi.” Đôi môi của bà Fernsby mím lại thành một dấu gạch ngang không tán thành. Bà rời đi ngay lập tức, gót giày chạm sàn lộp cộp của tiếng súng. Rhys quay sự chú ý của mình vào bức thư trước mặt. Mất bình tĩnh là điều xa xỉ, anh hiếm khi cho phép bản thân, nhưng trong tuần qua, anh đã bị xâm chiếm bởi một sự u ám buồn bã đè nặng lên mọi suy nghĩ và nhịp tim, và khiến anh muốn đả kích bất cứ ai trong tầm tay. Tất cả chỉ vì một người phụ nữ mà anh biết rõ hơn là anh muốn. Tiểu thư Helen Ravenel. . . một người cô gái có giáo dục, hồn nhiên, nhút nhát, quý phái. Tất cả mọi thứ mà anh không có. Cuộc đính hôn của họ đã kéo dài chỉ hai tuần trước khi Rhys tìm cách hủy hoại nó. Lần cuối cùng nhìn thấy Helen, anh đã thiếu kiên nhẫn và hung hăng, cuối cùng đã hôn nàng theo cách mà anh muốn rất lâu. Nàng cứng ngắc trong vòng tay anh, từ chối anh. Sự khinh bỉ của nàng không thể rõ ràng hơn. Cảnh tượng đã kết thúc trong nước mắt của nàng, sự giận dữ của anh. Ngày hôm sau, Kathleen, Quý bà Trenear, người đã kết hôn với anh trai quá cố của Helen, đã đến thông báo với anh rằng Helen rất đau khổ, nàng nằm liệt giường vì chứng đau nửa đầu. “Cô ấy không bao giờ muốn gặp lại anh nữa,” Quý bà Kathleen đã thẳng thừng thông báo cho anh. Rhys không thể đổ lỗi cho Helen vì đã huỷ bỏ lễ đính hôn. Rõ ràng họ là một sự không phù hợp. Nó chống lại các sắp đặt của Chúa rằng anh nên lấy con gái của một gia đình người Anh có tước vị về làm vợ. Mặc dù có tài sản lớn, Rhys lại không có cách cư xử hoặc sự giáo dục của một quý ông. Anh cũng không có vẻ ngoài của một quý ông, với nước da ngăm đen, mái tóc đen, và cơ bắp của một người quen với lao động nặng nhọc. Đến năm ba mươi tuổi, anh đã xây dựng trung tâm thương mại Winterborne’s, từ cửa hàng nhỏ của cha mình trên phố High, thành cửa hàng bách hóa lớn nhất thế giới. Anh sở hữu các nhà máy, nhà kho, đất nông nghiệp, chuồng ngựa, cửa hiệu giặt ủi, và các tòa nhà dân cư. Anh ở trong hội đồng quản trị của các công ty vận chuyển và đường sắt. Nhưng bất kể anh đạt được gì, anh sẽ không bao giờ vượt qua được những hạn chế của việc sinh ra là con trai một chủ hiệu tạp hóa xứ Wales. Suy nghĩ của anh bị gián đoạn bởi một tiếng gõ cửa khác. Ngẫu nhiên, anh liếc nhìn lên khi bà Fernsby trở lại văn phòng của mình. "Bà muốn gì?" anh căn vặn. Người thư ký nâng gọng kính khi bà trả lời một cách kiên quyết. “Trừ khi ngài muốn tống cổ Quý cô ấy bằng vũ lực, cô ấy vẫn khăng khăng ở lại cho đến khi ngài nói chuyện với cô ấy.” Sự khó chịu của Rhys đã biến thành bối rối. Không có người phụ nữ nào đáng kính quen biết anh, hay nói cách khác, lại dám tiếp cận anh một cách táo bạo như vậy. "Tên của cô ta là gì?" “Cô ấy không nói.” Anh lắc đầu không tin. Làm thế nào mà người khách này lại đi qua được các văn phòng bên ngoài? Anh đã trả tiền thuê một đội quân nhỏ để ngăn anh phải đối phó với sự gián đoạn kiểu này. Một ý tưởng ngớ ngẩn đã nảy ra với anh, và mặc dù anh đã bác bỏ nó ngay lập tức, mạch đập của anh tăng lên nhanh chóng. "Cô ấy trông như thế nào?" anh lẩm bẩm hỏi. “Cô ấy mặc bộ đồ tang, với tấm màn che trên mặt. Dáng người mảnh khảnh, và giọng nói nhẹ nhàng.” Sau một hồi do dự, bà nói thêm với một giọng khô khan, “Đặc biệt nhấn mạnh về “phòng vẽ””. Chợt nhận ra, Rhys cảm thấy ngực mình thắt lại xung quanh một cơn khát khao sâu thẳm. ”Chúa ơi,” anh lẩm bẩm. Có vẻ như không có khả năng Helen sẽ đến với anh. Nhưng bằng cách nào đó anh biết là cô đã ở đây, anh biết điều đó đến tận xương tuỷ của anh. Không nói thêm lời nào nữa, anh đứng dậy và đi qua bà Fernsby với những sải chân dài. "Ngài Winterborne,” bà thư ký kêu lên, đi theo anh. “Ngài đang mặc áo sơ mi. Áo khoác của ngài – “ Rhys hiếm khi nghe lời bà khi anh rời khỏi cái góc của anh trong văn phòng và bước vào một căn phòng giải trí với những chiếc ghế bọc da. Anh dừng lại đột ngột khi nhìn thấy vị khách, hơi thở của anh trở nên gấp gáp. Mặc dù tấm màn tang che giấu khuôn mặt Helen, nhưng anh nhận ra tư thế hoàn hảo và dáng người mảnh dẻ của nàng. Anh buộc mình phải thu hẹp khoảng cách giữa họ. Không thể nói một lời, anh đứng trước mặt nàng, gần như nghẹn ngào vì phẫn nộ, và hít vào mùi hương ngọt ngào của nàng với sự tham lam bất lực. Anh ngay lập tức bị kích thích bởi sự hiện diện của nàng, da thịt anh nóng lên, nhịp tim đập nhanh và dữ dội. Từ một trong những căn phòng gắn liền với phòng giải trí, tiếng gõ nhẹ của máy đánh chữ lấp vào sự im lặng. Thật là điên rồ khi Helen đến đây mà không có người đi kèm. Danh tiếng của nàng sẽ bị phá hủy. Nàng phải rời khỏi phòng giải trí và được gửi về nhà trước khi bất cứ ai nhận ra nàng là ai. Nhưng trước tiên Rhys phải tìm ra nàng muốn gì. Mặc dù nàng được che chở và ngây thơ, nhưng nàng không phải là một kẻ ngốc. Nàng sẽ không phạm phải một rủi ro lớn như vậy mà không có lý do chính đáng. Anh liếc nhìn bà Fernsby. “Khách của tôi sẽ sớm rời đi. Trong khi đó, hãy chắc chắn rằng chúng tôi không bị làm phiền.” "Vâng thưa ngài." Ánh mắt anh quay lại với Helen. “Đến đây,” anh nói cộc cằn và dẫn đường đến văn phòng của anh. Nàng đi cùng anh mà không nói lời nào, váy nàng xào xạc khi chúng cọ vào hai bên hành lang. Trang phục của nàng đã lỗi thời và hơi tồi tàn, vẻ ngoài dường như rơi vào thời điểm khó khăn. Có phải đó là lý do nàng ở đây? Có phải gia đình Ravenel rất cần tiền đến mức tuyệt vọng đến nỗi nàng đã thay đổi suy nghĩ về việc hạ thấp bản thân để trở thành vợ của anh? Chúa ơi, Rhys nghĩ với dự đoán nghiệt ngã, anh sẽ thích nàng phải cầu xin anh tiếp nhận lại nàng. Dĩ nhiên, anh sẽ không, nhưng anh sẽ cho nàng nếm trải sự đau khổ mà anh đã phải chịu đựng trong tuần qua. Bất cứ ai đã từng dám qua mặt anh sẽ đảm bảo với nàng rằng sẽ không có sự tha thứ hay thương xót nào sau đó. Họ bước vào văn phòng của anh, một nơi rộng rãi và yên tĩnh với cửa sổ kính hai lớp rộng và thảm dày, mềm mại. Ở trung tâm của căn phòng, một bàn làm việc gỗ óc chó đã được chất đống với các chồng thư từ và tài liệu. Sau khi đóng cửa, Rhys đi đến bàn của mình, nhặt một chiếc đồng hồ cát và nâng nó lên trong một cử chỉ có chủ ý. Cát sẽ chảy xuống khoang dưới trong chính xác mười lăm phút. Anh cảm thấy cần phải đưa ra quan điểm rằng hiện giờ họ đang ở trong thế giới của anh, nơi thời gian là quan trọng, và anh đang kiểm soát. Anh quay sang Helen với một cái nhíu mày nhạo báng. “Tuần trước tôi đã được nói rằng em – “ Nhưng giọng nói của anh tắt ngấm khi Helen đẩy tấm mạng che lên và nhìn chằm chằm vào anh với sự kiên nhẫn, dịu dàng đã tàn phá anh ngay từ lần đầu tiên. Đôi mắt nàng là một màu xanh bạc của những đám mây trôi qua ánh trăng. Những lọn tóc thẳng, mượt mà, mái tóc vàng óng ả, đã được tết lại gọn gàng vào một búi tóc, nhưng một lọn sáng lấp lánh đã trượt khỏi những chiếc lược gài và lủng lẳng trước tai trái của nàng. Chết tiệt nàng, chết tiệt nàng vì quá xinh đẹp. “Hãy tha thứ cho em,” Helen nói, ánh mắt cô nhìn thẳng vào anh. “Đây là cơ hội đầu tiên em có thể tìm đến với anh.” “Em không nên ở đây.” “Có những điều em cần phải thảo luận với anh.” Nàng liếc nhìn một cái ghế rụt rè. “Làm ơn, nếu anh không thấy phiền . . .” “Aye, mời ngồi.” Nhưng Rhys không có động thái giúp nàng. Vì Helen sẽ không bao giờ coi anh là một quý ông, anh sẽ bị nguyền rủa nếu anh hành động như một quý ông. Anh nửa ngồi, nửa dựa vào bàn, khoanh tay trước ngực. “Em không có nhiều thời gian,” anh nói một cách kiên quyết, hất đầu về phía chiếc đồng hồ cát. “Em nên sử dụng nó tốt hơn.” Helen ngồi trên ghế, sắp xếp lại váy và tháo găng tay ra bằng những ngón tay khéo léo ở đầu ngón tay.   Mời các bạn đón đọc Marrying Winterborne của tác giả Lisa Kleypas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lam Ngọc
Với gấp đôi rắc rối, gấp ba hành động, và gấp bốn tình yêu, trong Lam ngọc, cô nữ sinh trung học Gwendolyn Shepherd càng lúc càng bị cuốn theo vào một bí mật xoắn vào các chiều thời gian xuyên nhiều thế kỷ. Có thể bất thình lình bị ném về quá khứ, hoặc đơn độc, hoặc vẫn đồng hành cùng Gideon mắt xanh đẹp trai choáng váng, có lúc sẽ sém rơi nước  mắt, có lúc sẽ vui, vì giờ đây bên cạnh Gwen gần như đã kè kè con quỷ đá Xemerius ranh mãnh đáng yêu ra đời từ thế kỷ 11. Nhưng mọi chuyện không dễ, vì đội cận vệ cùng ông bá tước nguy hiểm và anh chàng Gideon ra sức tìm cách ngăn cản Gwen tiếp cận những bí mật của họ. Thật không dễ khi Gwen con không tài nào hiểu: liệu Gideon coi cô là kẻ phản bội hay thực sự tin tưởng cô? Và, đôi mắt xanh chết người của hắn nhiều lúc đã làm con tim thiếu nữ ngây thơ của Gwen nhưu quên đập...   ...Tất cả các bà mẹ đều say mê Kerstin Gier, giờ thì con gái họ cũng vậy... *** Kerstin Gier chính là cây bút châu Âu có thể khiến người ta quên ngay Stephanie Meyer bằng một chuyện tình Romeo - Juliet quyến rũ xảy giữa các vùng thời gian, làm xáo động các độc giả hiện đại theo một cách khác biệt! Hồng ngọc (Rubinrot) đã trở thành hiện tượng xuất bản ở Đức trong khoảng 5 năm trở lại đây, được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng và dựng phim năm 2013. *** Khúc dạo đầu London, 14 tháng Năm năm 1602 Những con hẻm của Southwark chìm trong bóng đêm, tối tăm và hiu quạnh. Không khí phảng phất mùi rong rêu, cống rãnh và cá chết. Anh bất giác siết chặt tay cô rồi kéo cô đi tiếp. “Lẽ ra chúng ta cứ đi men theo bờ sông. Trong ngõ ngách hỗn độn này người ta không lạc đường mới lạ,” anh thì thào. “Đúng thế, và ở mỗi góc tối đều có bọn trộm cướp và sát nhân rình rập.” Giọng cô vang lên thích thú. “Tuyệt quá phải không? Còn tốt hơn ngàn lần so với việc ngồi làm bài tập về nhà trong bốn bức tường ngột ngạt!” Cô vén chiếc váy nặng và vội vã đi tiếp. Anh bất giác nhếch miệng cười. Lucy quả là có năng khiếu độc nhất vô nhị, lúc nào cũng tìm ra được mặt tích cực của hoàn cảnh. Ngay cả cái gọi là thời hoàng kim của nước Anh đang bị thực tại tăm tối bóc trần vẻ dối trá cũng không khiến cô kinh sợ, ngược lại là đằng khác. “Tiếc thật, chẳng bao giờ mình có hơn ba tiếng đồng hồ,” cô nói khi anh bắt kịp. “Hamlet chắc sẽ hay hơn nếu không phải xem vào nhiều kỳ.” Cô khéo léo né một vũng bùn kinh tởm, ít nhất thì anh cũng mong đó chỉ là bùn. Rồi cô tung tẩy nhảy vài bước và xoay tròn một vòng. “Lý trí đã biến tất cả chúng ta thành những kẻ nhát gan… tài thật, nhỉ?” Anh gật đầu, cố kiềm chế để không nhếch mép cười lần nữa. Anh luôn như thế bên Lucy. Nếu không cẩn thận thì trông anh sẽ như một thằng ngớ ngẩn! Họ đang trên đường tới cầu London. Lẽ ra đi qua cầu Southwark thì tiện hơn, nhưng rủi thay ở thời này nó còn chưa được xây. Nhưng họ phải nhanh chân lên, nếu không muốn cuộc ngang tắt về thế kỷ 17 của mình bại lộ. Trời ạ, nếu có thể lột phăng cái cổ áo trắng cứng đơ này ra thì giá nào anh cũng trả! Nó đâu khác gì cái vòng nhựa đeo quanh cổ lũ chó sau khi phẫu thuật. Lucy rẽ sang con phố đâm ra bờ sông. Có vẻ như đầu óc cô vẫn vấn vương với Shakespeare. “Anh phải cho ông ta bao nhiêu để được phép vào Globe Theatre thế, Paul?” “Bốn đồng xu to, nhưng anh cũng không biết thế là bao nhiêu.” Anh cười. “Có lẽ bằng cả năm tiền lương của hắn.” “Dù sao cũng đạt mục đích. Chỗ ngồi lý tưởng.” Họ đi như chạy đến cầu London. Cũng như lúc đến đây, Lucy dừng lại, ngắm nghía những ngôi nhà xây trên cầu, nhưng anh kéo cô đi tiếp. “Em có nhớ lời ông George dặn không: Hễ dừng chân quá lâu dưới cửa sổ thì sẽ bị giội bô lên đầu đấy,” anh nhắc. “Hơn nữa em còn đánh động làm người ta để ý!” “Không giống như mình đang đứng trên cầu nhỉ, trông chẳng khác gì một con phố bình thường. Ô, anh nhìn kìa, tắc đường! Đã đến lúc họ phải xây thêm vài cây cầu nữa rồi.” Khác với những ngõ hẻm, trên cầu đông nghịt, song đám xe kéo, võng lọng và xe ngựa đi về phía bờ kia sông Thames không nhích lên được phân nào. Xa xa đằng trước vẳng lại tiếng cười nói, tiếng chửi bới, tiếng ngựa hí, nhưng không ai rõ tại sao lại tắc ứ như vậy. Sát bên họ, một người đội mũ đen ngồi trong xe ngựa thò đầu ra. Cổ áo đăng ten trắng hồ cứng của ông ta uốn cong lên tới tận tai. “Không có đường nào khác đi qua con sông hôi thối này sao?” Ông ta gọi vống lên với người đánh xe bằng tiếng Pháp. Gã xà ích lắc đầu. “Kể cả nếu có thì cũng không quay đầu được nữa, ta đang mắc kẹt ở đây! Tôi sẽ chạy lên phía trước xem có chuyện gì. Chắc là sẽ sớm đi tiếp được thôi, thưa ngài.” Người đàn ông gầm gừ bức bối rồi rụt cái đầu đội mũ cùng chiếc cổ áo vào xe, trong khi xà ích đã trèo xuống, cố len qua đám đông nhốn nháo. “Anh nghe chưa, Paul? Người Pháp,” Lucy thì thào háo hức. “Khách du lịch đấy!” “Ừ. Hay thật. Nhưng mình phải đi tiếp, không còn nhiều thì giờ nữa.” Anh nhớ mang máng đã từng đọc ở đâu đó rằng sẽ có lúc người ta phá cây cầu này và xây lại nó ở cách vị trí cũ mười lăm mét. Đây thật không phải một chỗ tốt để vượt thời gian. Họ bám theo gã đánh xe người Pháp. Nhưng đi được mấy bước thì người và xe chen chúc không làm sao chen qua nổi. “Nghe đâu có một xe chở dầu bị bắt lửa,” người đàn bà phía trước họ nói bâng quơ. “Không cẩn thận khéo lại thiêu rụi cả cây cầu mất.” “Theo như tôi biết thì không phải là hôm nay,” Paul lẩm bẩm và tóm tay Lucy. “Đi nào, chúng ta sẽ trở ngược lại và đợi vượt thời gian ở bờ bên kia.” “Anh còn nhớ mật khẩu chứ? Phòng trường hợp chúng ta không tới kịp.” “Hình như cút đi là vừa thì phải.” “Gutta cavat lapidem[1], ngốc ạ.” Cô khúc khích cười ngẩng lên nhìn anh. Đôi mắt xanh của cô lấp lánh phấn khích. Anh sực nhớ Falk đã nói gì khi anh hỏi về thời điểm hoàn hảo. “Anh sẽ chẳng phí sức lảm nhảm. Anh cứ hành động thôi. Sau đó có thể cô ấy sẽ cho chú một cái tát và thế là chú hiểu ngay.” Đương nhiên Falk muốn biết anh ám chỉ ai. Nhưng Paul không mấy hứng thú với những cuộc tranh luận mở đầu bằng “Chú thừa biết những mối quan hệ giữa dòng họ de Villiers và Montrose chỉ nên mang tính công việc!” và kết thúc, “Hơn nữa đám con gái nhà Montrose đều đanh đá, sau này họ đều thành tinh như quý bà Arista cả.” Đanh đá gì chứ! Các cô Montrose khác thì rất có thể, nhưng Lucy thì chắc chắn không. Lucy, người mỗi ngày đều khiến anh càng thêm yêu thương, người được anh tin cậy gửi gắm những điều anh chưa từng nói với bất cứ ai. Lucy, người mà… Anh hít một hơi sâu. “Sao anh đứng lại?” Lucy hỏi, nhưng anh đã cúi xuống áp môi mình lên môi cô. Suốt ba giây, anh lo sợ sẽ bị cô đẩy ra, nhưng dường như cô đã vượt qua được sự bất ngờ và đáp lại nụ hôn của anh, ban đầu dè dặt, rồi mỗi lúc một nồng nàn hơn. Thực ra đây không hề là thời điểm hoàn hảo và thực ra họ đang quá vội, vì bất cứ lúc nào họ cũng có thể vượt thời gian, và thực ra thì… Điều thứ ba thực ra là gì thì Paul quên khuấy. Giờ chỉ có Lucy là tất cả. Nhưng rồi khi ánh mắt lướt qua một bóng người đội mũ tối màu sùm sụp, anh kinh hoàng nhảy lùi lại. Lucy ngơ ngác nhìn anh một thoáng, rồi cô đỏ mặt cúi gằm xuống chân. “Em xin lỗi,” cô ngượng ngùng lẩm bẩm. “Larry Coleman cũng bảo em hôn giống như xát cả vốc phúc bồn tử gai xanh vào mặt người ta.” “Phúc bồn tử gai?” Anh lắc đầu. “Mà Larry Coleman là thằng quỷ tha ma bắt nào?” Giờ thì cô ngơ ngác thực sự và anh cũng chẳng ngạc nhiên. Bằng cách nào đó anh phải cố trấn áp cơn rối loạn đang hoành hành trong đầu. Anh kéo Lucy ra khỏi vầng sáng của những ngọn đuốc, giữ vai và nhìn sâu vào mắt cô. “Nghe này, Lucy. Thứ nhất: Hôn em giống như là… như là… ăn dâu tây. Thứ hai: Anh mà tóm được thằng Larry Coleman đó, anh sẽ đấm dập mũi hắn. Thứ ba: Em hãy nhớ thật kỹ lúc chúng mình dừng lại. Nhưng bây giờ mình đang có một vấn đề nho nhỏ.” Anh lặng im hất hàm về người đàn ông cao lớn đang ưng dung bước ra từ dưới bóng chiếc xe thồ và cúi xuống bên cửa sổ cỗ xe ngựa của người Pháp nọ. Lucy tròn mắt khiếp đảm. “Xin chào, nam tước,” hắn nói bằng tiếng Pháp. Nghe giọng hắn, Lucy bấu chặt tay Paul. “Rất vui được gặp được ngài. Đường từ Flanders tới đây xa thật.” Hắn gạt chiếc mũ trùm đầu xuống. Trong xe vang lên một tiếng kêu thảng thốt. “Tên bá tước mạo danh! Ngươi làm gì ở đây? Sao lại thế này?” “Em cũng rất muốn biết,” Lucy thì thầm. “Ngài chào hỏi hậu duệ của mình như vậy sao?” Người kia vui vẻ đáp. “Dù sao thì ta cũng là cháu nội của cháu nội cháu nội ngài. Và mặc dù ta vẫn thường bị gọi là kẻ vô danh, ta đảm bảo với ngài là ta có tên đàng hoàng. Thậm chí còn nhiều tên là đằng khác. Ngài cho phép ta lên xe hàn huyên chứ? Đứng đây không được thoải mái cho lắm, và cầu còn tắc lâu.” Không cần đợi câu trả lời hoặc ngoái nhìn xung quanh lấy một lần, hắn mở cửa trèo vào xe. Lucy kéo Paul né sang bên, cách xa ánh đuốc thêm hai bước nữa. “Đúng ông ta đấy! Nhưng trẻ hơn nhiều. Chúng ta nên làm gì bây giờ?” “Không làm gì cả,” Paul thì thầm. “Chúng ta đâu thể tới đó chào hỏi! Đúng ra chúng ta không được phép có mặt ở đây.” “Nhưng sao ông ấy lại ở đây?” “Một sự tình cờ ngu xuẩn. Dù thế nào cũng không được để ông ấy nhìn thấy mình. Đi thôi, chúng ta phải tới bờ sông.” Nhưng không ai nhúc nhích. Cả hai cùng nhìn như bị thôi miên vào ô cửa sổ xe ngựa tối mò, cảm thấy còn hiếu kỳ hơn cả khi nhìn lên sân khấu Globe Theatre ban nãy. “Trong lần gặp trước, ta đã nói rõ cho ngươi biết ta nghĩ gì về ngươi,” giọng nam tước người Pháp vọng ra từ trong xe. “Ồ, đúng là ngài đã làm thế thật!” Tiếng cười khẽ của vị khách khiến Paul nổi da gà, dù anh không nói được vì sao. “Quyết định bất di bất dịch!” Nam tước hơi lạc giọng. “Ta sẽ giao cỗ máy ma quái đó cho bên liên minh, bất kể các ngươi có dùng mưu ma chước quỷ nào để ngăn cản ta. Ta biết ngươi cùng hội cùng thuyền với quỷ dữ.” “Ông ta nói thế nghĩa là sao?” Lucy thì thầm. Paul chỉ lắc đầu. Lại một tiếng cười khẽ vang lên. “Cụ tổ cạn nghĩ và mù quáng của ta ơi! Cuộc đời của ngài - và cả của ta - sẽ thảnh thơi biết bao nếu ngài chịu nghe ta thay vì nghe lão giáo chủ hay những kẻ cuồng tín đáng thương bên liên minh. Giá mà ngài biết dùng trí tuệ thay vì chuỗi tràng hạt, giá mà ngài nhận thức được rằng vai trò của mình còn lớn hơn những gì cha cố của ngài giảng giải.” Có vẻ như nam tước kia đọc “Kinh Lạy Cha” thay cho câu trả lời. Lucy và Paul chỉ nghe thấy ông ta khẽ lẩm bẩm. “Amen!” Người khách thở dài. “Vậy đây là lời cuối của ngài về chuyện này?” “Ngươi là quỷ dữ hiện hình!” Nam tước thốt lên. “Ra khỏi xe ngay và đừng bao giờ xuất hiện trước mắt ta.” “Tùy ngài thôi. Vậy chỉ còn một việc nhỏ. Lâu nay ta chưa nói ra vì không muốn khiến ngài lo lắng không cần thiết. Nhưng chính mắt ta trông thấy trên mộ ngài ghi ngày mất là 14 tháng Năm năm 1602.” “Nhưng đó là…” Nam tước nói. “… hôm nay, chính xác. Từ giờ tới nửa đêm cũng không còn dài.” Một tiếng khò khè vang lên từ phía nam tước. “Ông ấy đang làm gì thế?” Lucy thì thào. “Ông ấy đang phá vỡ luật lệ của chính mình.” Paul nổi da gà tới tận gáy. “Ông ấy nói về…” Anh ngừng bặt vì cảm giác nôn nao quen thuộc lan truyền trong lòng dạ. “Xà ích của ta sẽ quay lại ngay,” nam tước nói, giọng lúc này đã lo sợ thực sự. “Ừ, ta cũng biết thế,” Vị khách đáp khá thờ ơ. “Thế nên ta cũng đang vội đây.” Lucy áp tay lên bụng. “Paul!” “Anh biết, anh cũng cảm thấy rồi. Chết tiệt… Phải chạy thôi, nếu không chúng ta sẽ rơi xuống sông mất.” Anh tóm lấy tay cô kéo đi, thận trọng không để lộ mặt về phía cửa sổ xe ngựa. “Lẽ ra ngài mất tại quê nhà, do một trận cúm đáng ghét biến chứng,” Họ nghe thấy tiếng người khách trong lúc len lén đi qua. “Nhưng hiện giờ ngài lại đang có mặt ở London với sức khỏe dồi dào - nói cho cùng là nhờ những lần thăm hỏi của ta - nên đã có gì đó bị lệch lạc nghiêm trọng. Là con người chu đáo, ta thấy phải có trách nhiệm giúp Thần Chết một tay.” Paul đang mải quan tâm đến cảm giác nôn nao trong dạ và nhẩm tính xem còn bao nhiêu mét nữa là tới bờ, thế nhưng ý nghĩa của những lời nói kia len lỏi vào tâm thức khiến anh khựng lại. Lucy khẽ huých vào sườn anh. “Chạy đi!” cô kêu lên rồi vùng chạy. “Chỉ còn vài giây nữa thôi!” Anh cố nhấc đầu gối bải hoải, và trong lúc chạy, khi bờ sông gần kề bắt đầu nhòe đi trước mắt, anh nghe thấy từ trong xe vọng ra một tiếng thét rùng rợn cố nén, tiếp theo là tiếng khò khè: “Quỷ dữ!” - rồi chỉ còn sự im lặng chết chóc. Mời các bạn mượn đọc sách Lam Ngọc của tác giả Kerstin Gier & Đỗ Phương Thùy (dịch).
Hạnh Nhân
Một cái hạch hạnh nhân nhỏ bất thường khiến Yoon Jae phải sống một cuộc đời khác biệt: không cảm nhận và cũng không biết cách bộc lộ những cảm xúc cơ bản nhất của con người.Mỗi ngày đến trường với cậu là những bước đi cẩn trọng nép trong vô vàn “giáo án” đã chuẩn bị sẵn để sống sót được với xung quanh. Nhưng rồi một ngày, số phận gửi Gon tới như một sứ giả. Gon, hoàn toàn trái ngược với cậu, có thể cảm nhận và bộc phát mãnh liệt mọi cung bậc cảm xúc bằng từng tế bào cơ thể…   Hai thế giới sở hữu hai hạch hạnh nhân kích cỡ quá chênh lệch khi va chạm thì sẽ thế nào? Tương tàn, hủy diệt hay hàn gắn, kết nối? Câu trả lời trực diện, thẳng thắn mà vẫn bất ngờ và cực kỳ khó quên nằm ngay trong gói Hạnh nhân đang chỉ chờ bạn bóc ra và thưởng thức này đấy!   “Một cuốn sách có khả năng lay động mạnh mẽ, sẽ đánh thức cả những nỗi đau và lòng đồng cảm tiềm ẩn trong mỗi độc giả.” - Han Ki Ho, nhà phê bình văn học *** [Review] Hạnh Nhân – Bi Kịch Hay Hài Kịch? Sách X26/06/2020 [Review] Hạnh nhân – Bi kịch hay hài kịch? “…trên thực tế cả tôi, cả bạn hay bất kỳ ai cũng mãi mãi không thể biết được một câu chuyện nào đó rốt cuộc là bi kịch hay hài kịch.” Chỉ có bản thân bạn khi đọc xong câu chuyện này mới có thể trả lời thiên hướng xuôi về là bi hay hài, nhưng mình muốn nói rằng, dù là gì đi nữa, đây là một câu chuyện hay, đẹp và đầy tính nhân văn. Tác giả: Sohn Won-Pyung  Quốc gia, ngôn ngữ gốc: Hàn Quốc NXB: Nhã Nam Thể loại: Tâm lý  Tóm tắt: Câu chuyện kể về cuộc đời của Yoon Jae, cậu bé bẩm sinh đã có chứng mất khả năng diễn đạt cảm xúc do kích thước hạch hạnh nhân nhỏ. Nhờ sự giúp đỡ của mẹ và bà ngoại, cậu học cách thích nghi và ẩn mình. Sau một biến cố, Yoon Jae chỉ còn một mình, chống chọi lại với thế giới. Sự xuất hiện của Gon và Dora tạo ra nhiều biến đổi trong sự trưởng thành và cả trong cảm xúc của cậu.  Dòng cảm xúc điềm nhiên  Cả cuốn sách được thuật lại theo dòng thời gian dưới lời kể của nhân vật chính. Mọi sự việc, cảm xúc cũng được miêu tả một cách điềm nhiên như cách cậu cảm nhận. Dù không có khả năng cảm nhận nhưng cậu rất tự ý thức học hỏi và thích ứng. Yoon Jae thường nghĩ đến việc mẹ đã dạy thế này, mẹ sẽ trả lời thế kia… để tìm những hình thái phù hợp trước một sự kiện. Bởi sự ngây thơ và cố gắng ấy mà đưa lại rất nhiều xúc động cho người đọc.  Những sự kiện cao trào như ngày mà bà bị giết, mẹ bị đâm hay khi Gon và Yoon Jae bị đánh nhừ tử cũng được tái hiện một cách nhẹ nhàng đến mức có lúc…dửng dưng. Khiến câu chuyện không bị phá sóng khỏi một nhịp chung. Thay vì giận Yoon Jae, chúng ta sẽ thấy thương cậu nhiều hơn. Vì suy cho cùng, những cảm xúc là điều then chốt tâm hồn chúng ta cần trong quá trình trưởng thành. Cách cảm nhận mọi thứ của Yoon Jae cũng rất khác, không chứa cảm xúc, mà chỉ là bình dị và đơn giản. “Thế giới trong phim điện ảnh, truyền hình hay truyện tranh đều quá cụ thể, vì thế chẳng còn kẽ hở nào cho tôi chen vào…Sách thì khác. Vì trong sách có rất nhiều khoảng trống. Giữa các từ cũng có khoảng cách và giữa các dòng cũng vậy. Tôi có thể bước vào trong đó để ngồi hay đi bộ, hay thậm chí viết ra cả những suy nghĩ của mình. Dù tôi không hiểu hết ý nghĩa của những câu chữ trong sách cũng chẳng sao.” Trái ngược với Yoon Jea, Gon, bạn của cậu, như một người có “kích thước hạnh nhân to” khi cậu luôn phóng đại cảm xúc mình và thể hiện ầm ĩ bên ngoài.  Điều tuyệt vời là cuốn sách làm được là kể bằng lời một người không biểu lộ cảm xúc, nhưng lại đưa đến cho người đọc nhiều cảm giác chứ không hề trống rỗng và vô vị. Bài học về tình yêu thương  Mặc dù là một chủ đề đã cũ nhưng tình mẫu tử được khắc hoạ một cách rất đặc biệt. Mẹ YJ luôn cố gắng hết sức để cậu có một cuộc sống “bình yên”, không bị chú ý. Cô dạy YJ tất cả mọi tình huống có thể gặp, luôn nắm chặt tay cậu khi ra ngoài, tính đến những trường hợp xấu nhất. Cô chưa bao giờ bỏ cuộc hay nản chí. “Cảm ơn con vì đã sinh ra đời”– cô nói vào đêm giáng sinh định mệnh như vậy. Bà ngoại YJ cũng vậy, dù đã từ mặt con gái vì chuyện quá khứ, và vẫn chuyển về giúp hai mẹ con khi cô cần. Bà ngoại được khắc hoạ như một người khá khô khan, nhưng luôn âm thầm giúp đỡ mẹ YJ và cậu trên mọi hành trình của YJ. Vào đêm gia đình cậu bị tấn công. YJ vẫn không hề có cảm xúc đau buồn hay bi luỵ, cậu chỉ nghĩ là: “Giờ đây ngoài tôi ra, sẽ chẳng một ai nhớ đến cuộc đời hai người nữa. Chính vì thế mà tôi phải sống.” YJ chưa bao giờ có bạn. Cậu chỉ có thể là đối tượng bị trêu chọc hoặc ẩn mình giữa đám đông. Nhưng cho đến khi Gon xuất hiện và xáo trộn cuộc sống YJ lên. Dù không hiểu được điều Gon muốn bày tỏ, nhưng YJ đã có thể khẳng định Gon là bạn và đi tìm cậu. Đây là đoạn mà mình thích nhất cuốn sách. Khi một cậu bé không nhận thức được mình đang cảm thấy như thế nào nhưng lại quyết định được mình cần phải làm gì. Những chuyển biến nhất định trong tâm trí cậu đã bắt đầu xuất hiện.  Và rồi đến Dora, một cô gái cá tính và khác biệt. Cô đã làm cho YJ cảm thấy “người tôi nóng rực. Mạch dưới tai đập dữ dội. Cả các đầu ngón tay và ngón chân cũng vậy…trái tim tôi nhức nhối như bị gai đâm.”Nếu Gon dạy cho YJ về tội lỗi và đau thương thì Dora dạy cậu về vẻ đẹp, về gió và mơ ước.” Những điều kỳ diệu  Cuối cùng thì YJ lại có những thay đổi đáng kể sau lần bị đánh bất tỉnh khi cứu Gon, và mẹ cậu cũng được phù hộ một điều kỳ diệu để chiến đấu với cuộc sống thực vật. Và đến cuối cùng, theo mình thì, câu chuyện này không phải bi kịch, cũng không phải hài kịch. Mà là một bài ca về tình yêu thương của cuộc sống này. YJ nhờ có mẹ, Gon, Dora và những người khác mà cuối cùng cũng có thể cảm nhận được những cảm xúc bình thường và thiêng liêng đến vậy.  Câu chuyện như một cách gợi mở chúng ta biết ơn hơn về những điều mà mình đã và đang được trải qua. Dù cho đó là hạnh phúc hay buồn bã, tủi hờn thì cũng là một điều may mắn vì ta đang được cảm nhận. Và trong quá trình chia sẻ ấy, biết đâu chúng ta có thể ảnh hưởng tới những người có hạch hạnh nhân nhỏ, đưa họ đến những con đường trải nghiệm tất cả cảm xúc bình dị của đời người? Cuối cuốn sách là trải lòng của tác giả về quá trình viết, khi cô trải qua thời kỳ khủng hoảng sau sinh. Điều này làm mình muốn cất và đọc lại Hạnh nhân khi mình đã có con. Để có thể hiểu và cảm nhận sâu hơn dưới những chiều ý nghĩa khác.  Cuốn sách nhẹ nhàng, lời văn đẹp và ý nghĩa nhân văn sâu. Nhiều chi tiết được nhìn nhận rất đặc biệt. Mình không thường đọc văn học Hàn Quốc, nhưng tác giả Sohn Won-Pyung đã giúp mình cảm thấy khá nhẹ nhõm trong giai đoạn căng thẳng. Câu chuyện tưởng chừng như của trẻ con nhưng để lại nhiều suy nghĩ đến như vậy. Lê Na *** LỜI TỰA   • Alexithymia, hay Chứng mất khả năng diễn đạt cảm xúc là một dạng khuyết tật về cảm xúc, được báo cáo lần đầu vào năm 1970. Theo đó, chứng bệnh này thường xảy ra ở người gặp khó khăn trong giai đoạn phát triển cảm xúc hay gặp phải sang chấn về tâm lý thời nhỏ, hoặc có kích thước hạch hạnh nhân nhỏ bẩm sinh. Trường hợp kích thước hạch hạnh nhân nhỏ, trong số các cảm xúc, người bệnh đặc biệt không cảm nhận được nỗi sợ hãi. Tuy nhiên, cũng có báo cáo chỉ ra rằng một phần của hạch hạnh nhân liên quan đến nỗi sợ hãi hay sự bất an có thể phát triển nhờ vào luyện tập thường xuyên. Trong tiểu thuyết này, tôi miêu tả bệnh Alexithymia dựa trên căn cứ thực tế có pha thêm một chút tưởng tượng của riêng mình. • P. J. Nolan là nhân vật giả tưởng. • Cuốn truyện cổ tích được nhắc đến ở chương 57 là cuốn The Littlest Dinosaurs của tác giả Bernard Most. Tôi miêu tả khủng long dựa theo nội dung cuốn truyện này, ngoại trừ kích thước thực tế của chúng là được miêu tả theo kết quả tôi nghiên cứu. Mời các bạn mượn đọc sách Hạnh Nhân của tác giả Sohn Won-Pyung & Bích Ngọc (dịch).
Trúng Độc Yêu
Minaduki từng trải qua một đời chồng, và dù đã chia tay nhưng cô vẫn nhớ nhung người chồng cũ, thậm chí vì yêu mà phạm tội với nhân tình của chồng cũ. Thế nhưng, khi gặp được nhà văn, diễn viên là thần tượng tuổi mới lớn một thời của mình, cô cũng hết lòng yêu thương tha thiết. Người nghệ sĩ đó, thần tượng của cô, cũng rất yêu cô nhưng trái tim của anh còn dành cho nhiều cô gái khác nữa, mặc dù anh đã có vợ, và tình yêu nào đối với anh cũng chân thành. Dù biết sự thật nhưng cô vẫn yêu sống yêu chết, thủy chung đến mức sẵn sàng làm mọi thứ để có được tình yêu. Thậm chí khi cô bị ruồng bỏ, cô vẫn không từ bỏ tình yêu của mình, cho nên mới nói cô bị “trúng độc yêu”. Cuối cùng họ chia tay nhau, nhưng thi thoảng lại gặp nhau, mối quan hệ đó không chấm dứt. Bằng giọng văn giản dị, tác giả đã mang lại cho người đọc một cảm giác dễ chịu, thân thuộc. Vui vì niềm hạnh phúc của nhân vật, đau vì nỗi đau của nhân vật, để rồi tự nhận thấy mình cũng có một phần ở trong đó. Người ta nói yêu cũng như trúng độc vậy, ai đã trúng độc rồi thì khó thoát ra được. Tình yêu là một viên thuốc vừa đắng vừa ngọt nhưng ai cũng muốn được thử một lần trong đời và khi thử xong rồi thì muốn giữ mãi trong lòng. Cuốn sách sẽ khiến cho bất cứ ai, những người đã yêu, đang yêu và muốn yêu đều không thể dứt ra được. *** Chạm… Tôi luôn có một cảm giác bị mắc lại ở một nơi nào đó trong thế giới văn chương của Fumio Yamamoto. Từ Bến bờ thơm mùi dứa, Trúng độc yêu, Xanh màu lá,… cho tới tập truyện ngắn mới nhất Trốn thoát khỏi thực tại. Thứ cảm xúc vừa rõ ràng vừa mơ hồ này đôi khi đầy lên thành một ám ảnh không hồi kết. Fumio Yamamoto đã lưu trữ mình một cách không rõ ràng như thế. Và có lẽ, vì không thể nói ra hết được tư cảm đang đầy lên này nên bà dồn hết vào chữ nghĩa. “Tôi ảm đạm vì không thể nói cười”, đó gần như là một diễn đạt khác về văn chương của người đàn bà ở xứ mặt trời mọc. Văn Fumio Yamamoto không phải là thứ văn mỹ miều của những đường chữ đẹp, thơ mộng. Bà cũng không phải thuộc típ nhà văn nữ quyền để thỉnh thoảng gây hấn hoặc gây sốc. Văn mạch của bà điềm nhiên, có chỗ tỉnh queo, lúc lại sắc lạnh, thậm chí hơi gắt với nhiều câu trần thuật mộc mạc, ngắn gọn. Trong đó, có cảm giác, tác giả vừa muốn đi đến cùng để cắt nghĩa vùng u ám đó, lại như mặc kệ để nó diễn ra theo quy luật của “phi tiểu thuyết” hay những “tiểu tự sự” nhỏ vụn. Để rồi tất cả trống huơ hoắc trong một thế giới cô đơn, ít thấu hiểu và rời rạc. Để rồi, ở đó, những tự sự chồng lên nhau, lặp đi lặp lại một cách tầm thường, mòn vẹt và chán nản. Hakura, cô gái mắc bệnh ung thư vú, tự xem mình có dáng dấp của đồ cặn bã, lười nhác, sống tầm gửi, tâm lý bất định, đầy nhạy cảm, chán nản và nếu có kiếp sau, cô muốn làm một con giun dẹp bởi “giun dẹp sống trong khe suối trong vắt nơi rừng sâu, có bị băm thành trăm mảnh cũng sẽ không chết”. Izumi, người phụ nữ ngấp nhé tuổi 35, trải qua một đời chồng, đang sống trong một chung cư cũ kỹ và rơi vào khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, hay sầu muộn vô cớ, nhàn rỗi đến lạc lõng, không còn khái niệm thời gian rõ ràng, có thể làm tình và thỏa mãn ham muốn nhục dục với một cậu đồng nghiệp cũ kém cả tuổi mình. Catherine, một bà nội trợ đúng nghĩa, có người chồng vừa bị mất việc nên ngoài công việc nhà ban ngày, cô làm nhân viên bán hàng cho một tiệm tạp hóa buổi tối để kiếm thêm tiền. Cuộc sống của cô cứ như một mớ bòng bong, quanh đi quẩn lại vì chồng, con cái, bố mẹ; lắm lúc mỏi mệt, khủng hoảng, cô đơn và trơ trọi ngay trong mái ấm gia đình mình. Mido, cô gái trẻ 25 tuổi rơi vào “thế lưỡng nan của tù nhân”, đã có người yêu hơn 7 năm nhưng vẫn ngủ với những người đàn ông khác. Ngày ngày trôi trong nhịp sống tùy tiện, không buồn không vui, nhiều hồ nghi và vô nghĩa của mình. …Cứ thế, mỗi nhân vật của Fumio Yamamoto là một phần nứt toác của vỏ đương đại có vẻ bằng phẳng, đẹp đẽ đó. Họ là những con người đáng thương bị rớt lại trong đời sống nhộn nhạo, trôi tuột này. Những con người ấy từng xót thương cho người khác nhưng rồi chính họ, cũng không biết từ bao giờ, lại bước vào hoàn cảnh tương tự. Và bao nhiễu nhương, tù đọng và cô đơn vây bủa đó làm họ thỏa hiệp, thây kệ rồi trở nên nhàm chán, chết dần chết mòn. Và lửng lơ, và ám ảnh… Qua những mẩu chuyện nhỏ của những con người không liên quan đến nhau ấy, Fumio Yamamoto đã vẽ nốt những vệt màu còn khiếm khuyết trong bức tranh Nhật Bản hiện đại bằng ngôn ngữ. Một vệt màu trầm cảm triền miên. Một “sự tự sát” từ những vô định không có lời đáp. Bà đưa những người phụ nữ nhỏ bé, những người sống bên rìa xã hội vào vị trí trung tâm và để họ kể những câu chuyện của riêng mình. Kế thừa đặc điểm truyền thống của văn học Nhật nên không quá ngạc nhiên khi văn của Fumio Yamamoto mang đậm tính nữ. Bà đi vào ngóc ngách tâm lý li ti của phụ nữ bằng trải nghiệm và sự đồng cảm của một trái tim nhiều thổn thức. Bà để nhân vật nói những tiếng nói tự do nhất mà trong đời sống đôi lúc họ không có quyền lên tiếng hoặc chán phải lên tiếng. Bà tham dự vào những câu chuyện đó như một người có mặt và vắng mặt. Để rồi, mảng hiện thực của đời sống vừa quen vừa lạ ấy khoét vào ta những vết thương tỉnh thức, về một băn khoăn, bối rối đương đại. Cho đến khi gấp cuốn sách lại, tôi vẫn còn nguyên đó một lưỡng lự. Sự dở dang khó hiểu này rốt cuộc là gì? Vẫn còn một điều mơ hồ nào đó, tôi chưa hiểu lắm. Có khi nào, đó là những điều Fumio Yamamoto không muốn người khác chạm vào chăng? Hay thực ra, nó cũng trống rỗng hết thảy – như những nhân vật của bà cất tiếng. Nó khiến tôi bỗng dưng nhớ đến Woman in the Dunes (tạm dịch: Người đàn bà trong cồn cát) của đạo diễn Nhật sinh năm 1964 – Hiroshi Teshigahara – viên ngọc quý của lịch sử điện ảnh thế giới, sinh muộn hơn bà hai năm. Yamamoto ẩn mình trong “cồn cát” ngôn ngữ để nói về thế giới nội tâm sâu thẳm của người Nhật Bản hôm nay nói riêng và những người phụ nữ đâu đó trên khắp thế giới này. “Vì không nói ra được nên đã mang một nỗi buồn ảm đạm. Tôi ảm đạm vì không thể nói cười”. Năm 1999, Yamamoto đã vinh dự nhận được giải thưởng văn học Yoshikawa Eiji lần thứ 20 dành cho các tác phẩm mới xuất sắc và hiện là một trong những nhà văn đương đại có tác phẩm được đón chờ không chỉ trong phạm vi nước Nhật. *** Tình yêu có thể hủy hoại con người. Đó là điều tôi ngộ ra được một cách sâu sắc sau lần nhảy việc này. Không những thế, thứ mà tình yêu hủy hoại không phải chỉ có con người. Sau bao lần tranh cãi không điểm dừng, không biết bao nhiêu chiếc đồng hồ báo thức, bao nhiêu chiếc cốc cà phê đã bị đập vỡ; rồi những lúc tôi không có nhà, không biết đã có bao nhiêu chiếc áo vest và áo sơ mi bị băm nát. Để thoát khỏi sự đeo bám của cô ta, tôi đã phải lặng lẽ chuyển nhà, đánh mất lòng tin của cấp trên và rất nhiều đồng nghiệp, thậm chí tôi đã phải xin nghỉ việc. Thế nhưng, thứ thực sự bị hủy hoại có lẽ không phải là cuộc sống của tôi mà chính là cuộc sống của cô ta. Vì tùy tiện nghỉ làm quá nhiều nên cuối cùng cô ta bị mất việc; vì chậm đóng tiền nhà quá lâu nên cuối cùng cũng mất luôn cả chỗ ở. Và cô ta còn mất một thứ không thể nào bù đắp được, đó chính là tôi, mặc dù nói như vậy có vẻ hơi ngạo mạn. Chuyện tình giữa tôi và cô ta, nếu đem quay thành một bộ phim dài tập thì e rằng quá vô vị và nhàm chán. Thế nên, tôi chưa từng nghĩ sẽ kể cho bất cứ ai nghe chuyện của chúng tôi, vì quả thực, nó quá đỗi tầm thường. Thấm thoát, tôi đã nhảy việc được hai tháng. Với công việc mới ở một phòng biên tập nhỏ, tôi lao đầu vào làm việc hết sức chăm chỉ, chăm chỉ một cách chưa từng thấy. Công việc đòi hỏi tôi phải thường xuyên đi tiếp khách và nhậu nhẹt, hơn nữa, ngày nào cũng có không ít những cô gái trạc tuổi tôi đi ra đi vào, thậm chí có những nàng còn chủ động hẹn hò hoặc dụ dỗ tôi lên giường. Nhưng tôi vẫn kiên quyết giữ khoảng cách nhất định với tất cả, điều này đã làm xuất hiện những lời đồn đại kiểu như “Iguchi là gay”. Tôi đã không còn uống rượu đến sáng như trước kia nữa mà hôm nào cũng đi làm rất sớm, thường xuyên là người đầu tiên đến văn phòng, làm việc hết sức nghiêm túc. Nhưng hôm nay, nhất định tôi phải đặc biệt cẩn thận. Mới sáng sớm, tôi đã đứng ngồi không yên, đi đi lại lại trong văn phòng. Vốn dĩ hôm nay tôi không định đến công ty, nhưng thật không may cuộc hẹn bàn công việc đã bị huỷ, và tổng biên tập đột nhiên thông báo sẽ họp vào ba giờ chiều – cái giờ lửng lơ chẳng sớm cũng chẳng muộn. Hôm nay là sinh nhật lần thứ hai mươi lăm của tôi. Ba tháng trước, vì muốn thoát khỏi cô bạn gái lằng nhằng nhất quyết không chịu chia tay, tôi đã phải xin nghỉ việc ở công ty cũ, lặng lẽ biến khỏi tầm nhìn của cô ta, và từ đó đến nay, chúng tôi cũng không hề liên lạc với nhau. Tôi đã thay số điện thoại di động, nơi ở mới cũng không lắp điện thoại cố định. Nhưng nếu cô ta thực sự muốn biết thì chắc chắn sẽ tra ra được số của bộ phận biên tập nơi tôi đang làm. Tôi không thể nào yêu cầu tất cả người quen của mình không được tiết lộ thông tin về tôi. Vậy nên nếu muốn liên lạc với tôi, nhất định cô ta sẽ liên lạc trong ngày hôm nay. Bình thường tôi làm việc rất chăm chỉ, nếu hôm nay có giả vờ ốm xin nghỉ thì cũng chẳng có vấn đề gì, có điều nếu làm như vậy thì cảm thấy quá là hèn nhát. Không thể cứ lẩn trốn mãi được. Tôi cũng không muốn phải thay đổi chỗ làm thêm một lần nào nữa chỉ vì một đứa con gái! Quyết định vậy đi! Rõ ràng là đã quyết tâm thế rồi, vậy mà khi đến công ty, tôi vẫn không thể nào bình tâm được. Cứ chốc chốc lại chạy đi photocopy, pha cà phê, rồi còn hì hục cọ rửa khay đựng bình nước nóng. Trong lúc đó, có mấy lần điện thoại đổ chuông. Mỗi lần nghe thấy tiếng gọi “Iguchi, điện thoại” là tôi lại giật bắn mình. “Tại sao hôm nay cậu không nghe điện thoại?” Sau khi kết thúc cuộc điện thoại với bên in ấn, cô Minaduki quay sang hỏi tôi với giọng đầy vẻ băn khoăn. “À, chả là… tôi xin lỗi.” Trong khi tôi còn đang ấp a ấp úng thì cô ấy đã chêm vào một câu “cũng chẳng có vấn đề gì”, rồi lại quay mặt vào màn hình máy tính, bộ dạng không một chút quan tâm đến chuyện của tôi, rồi bắt đầu gõ lạch cạch trên bàn phím. Ngoài tôi ra, những cuộc điện thoại gọi từ bên ngoài vào chủ yếu đều do cô ấy nghe. Những người khác vẫn chưa đến, chi bằng nhân cơ hội này nói thẳng với cô ấy xem sao: “Ừmm… Cô Minaduki này…” Mời các bạn mượn đọc sách Trúng Độc Yêu của tác giả Fumio Yamamoto & Trương Thị Hảo (dịch).
Quán Ăn Tìm Lại Tình Yêu
"Tìm lại tình yêu" - nghe có vẻ xa xôi nhưng đó lại là câu chuyện có thật ở một quán ăn nhỏ vùng quê mang tên “Ốc sên”. Điều đặc biệt là quán ăn này chỉ có một bàn và không có thực đơn. Bởi cô chủ Rinko sẽ quyết định món ăn cho thực khách sau khi lắng nghe câu chuyện của họ. Thật kì lạ và quả nhiên kì diệu, những món ăn của Rinko đã trở thành thần dược cho trái tim những vị khách từng ghé qua nơi đây, và cũng là cho chính tâm hồn cô, trên hành trình tìm lại tình yêu tưởng chừng đã đánh mất.. ----- OGAWA ITO Sinh năm 1973 tại tỉnh Yamagata, Nhật Bản. Bà là tác giả của nhiều tiểu thuyết và một số tác phẩm dành cho thiếu nhi. "Quán ăn tìm lại tình yêu" là tiểu thuyết best-seller đầu tay của bà, đã được chuyển thể thành phim vào năm 2010. *** Review "Quán ăn tìm lại tình yêu": Hành trình tìm lại chính mình Một ngày, cô gái trẻ độc thân Rinko quyết định khởi nghiệp bằng một quán ăn đầu tiên trong cuộc đời mình. Ogawa Ito cũng khởi đầu sự nghiệp tiểu thuyết gia bằng cách kể lại hành trình của cô gái trẻ và quán ăn mang tên "Ốc sên" trong tiểu thuyết "Quán ăn tìm lại tình yêu" (Vũ Phương Anh dịch, Wingsbook và NXB Kim Đồng - 2019). Nếu ẩm thực mang lại hạnh phúc thì "Quán ăn tìm lại tình yêu" là nơi để mỗi con người tìm những điều hạnh phúc mới, để xoa dịu những vết thương cũ. "Quán ăn tìm lại tình yêu" của Ogawa Ito không phải đơn thuần là một "quán ăn" mà là câu chuyện về sự cảm thông và thấu hiểu, là hành trình tìm lại chính mình của một cô gái sau quá nhiều mất mát tổn thương. Bằng niềm khát khao đã ấp ủ bấy lâu và sự giúp đỡ của mẹ cùng những người quen xung quanh, Rinko đã mở quán ăn nhỏ mang tên "Ốc sên". Đây là động lực để cô có thể vực dậy tinh thần, bỏ qua những nỗi đau để bắt đầu một cuộc đời mới ở vùng đất mới và là khởi đầu cho những hy vọng mới. Chắc hẳn bạn sẽ phải ngạc nhiên, bởi vì quán ăn "Ốc sên" chỉ có một bàn ăn duy nhất, chỉ phục vụ một món ăn duy nhất cho một vị khách duy nhất. Mỗi một món ăn mang một màu sắc, mùi vị khác nhau. Mỗi món ăn phù hợp với câu chuyện của riêng từng thực khách và giúp người thưởng thức tìm lại những điều ý nghĩa, những cảm xúc tưởng chừng đã đánh mất. Cũng như Rinko, quán ăn "Ốc sên" đã giúp cô tìm lại bản thân mình, tìm thấy liều thuốc để chữa lành những vết thương. Độc giả Việt Nam khi đọc sách này hẳn thấy những điều thú vị gần gũi vì không dưới hai lần, tác giả Ogawa Ito nhắc đến Việt Nam giữa hàng loạt những nền văn hóa ẩm thực khác nhau, từ trà sen, bánh đa cho đến chiếc bát men xanh, những chi tiết nhỏ ấy cũng phần nào cho thấy văn hóa Việt Nam đã vươn ra thế giới một cách từ tốn nhưng chắc chắn, hiện diện hài hòa bên cạnh các nền văn hóa khác. *** Quán ăn tìm lại tình yêu: chỉ 'dành cho tuổi trưởng thành'! LAM ĐIỀN Review Khi nhìn thấy dòng chữ 'dành cho tuổi trưởng thành' in ở trang bìa lót quyển Quán ăn tìm lại tình yêu hẳn nhiều người sẽ hình dung đây là một loại chuyện tình kiểu Nhật Bản. Quán ăn tình yêu do Vũ Phương Anh dịch, là tiểu thuyết đầu tay bán chạy của Ogawa Ito. Nhưng không hẳn vậy, mạch truyện đột khởi gay cấn ngay từ đầu như một cách tác giả khéo léo dùng để "giữ mắt" bạn đọc. Sau đó, câu chuyện như trôi vào một mạch văn đầy chất thơ, giàu tính nhân văn và thấp thoáng yếu tố tâm linh. Sách sẽ là món "khoái khẩu" cho những ai yêu thích thiên nhiên hồn hậu, bởi truyện được xây dựng trong một không gian thiên nhiên thuần phác đáng yêu. Ở đó có hoa quả hạt, rau củ; có vườn, đồi, núi và cánh đồng; có những con người giàu tính thiện lương. Ở đó là quê hương của cô gái Rinko hai mươi lăm tuổi vừa bị một cú sốc nặng đến mức đột ngột bị mất giọng: số tiền lên đến hàng triệu yen Rinko dành dụm mấy năm trời và vật dụng làm bếp, một gia tài đang được hình thành để ươm mầm cho ước mơ mở một quán ăn và trở thành đầu bếp chuyên nghiệp, phút chốc bốc hơi cùng với chàng trai người Ấn phản phúc. Rinko làm một hành trình chẳng đặng đừng là gom hết tiền lẻ còn trong túi ra đón xe khách quay về nhà mẹ ở quê - nơi mà cô đã bỏ đi chưa một lần quay lại từ năm mười lăm tuổi. Mười lăm tuổi, do bất đồng với mẹ và do tinh thần nổi loạn của một cô bé mới lớn, Rinko rời nhà lên thành phố sống với bà ngoại. Nhờ vậy mà cô được thừa hưởng những bí kíp nấu ăn từ bà, thừa hưởng cả tinh thần xem việc chế biến món ăn như một "đạo" với niềm tin vị thần ẩm thực sẽ theo giúp những ai có hạnh nguyện đem lại hạnh phúc cho người khác thông qua công việc chế biến món ăn. Thế rồi bà ngoại mất, Rinko tự lập, sau mười năm cô rơi vào tình trạng trắng tay, mất sạch ngay cả đến giọng nói của mình. Cô quay về, trong cơn cùng quẫn đó, tự dưng ý tưởng về việc mở một quán ăn ngay tại mảnh vườn nhà ở quê - một vùng nông thôn lấn sâu trong núi - hiện ra trước mắt. Mặc dù ở đúng nơi "khỉ ho cò gáy", nhưng quán ăn Ốc Sên cực dễ thương của một cô chủ bị mất giọng cùng với thực đơn vô cùng sinh động được chế biến thật khéo léo ý vị đã nhanh chóng lan xa đến nhiều nơi. Kỳ diệu hơn, chính từ quán ăn Ốc Sên này, những cảm tình quên lãng được tìm thấy lại, những cặp đôi được nên duyên. Nhưng điều kỳ diệu hơn cả là chính mẹ của Rinko đã gặp lại người yêu đầu đời... Ogawa Ito đã phả đầy chất thơ vào tác phẩm bằng cách đặt trục nội tâm của nhân vật lên một trục khác, là quang cảnh thiên nhiên tuyệt diệu xung quanh. Cho nên độc giả, trong một lúc nào đó mải say sưa theo dõi mạch truyện, sẽ bất chợt bị đánh động bởi thiên nhiên trong các trang văn. Sẽ choáng ngợp khi hình dung cây nấm tùng với mùi hương cao quý, cà ri lựu từ vườn nhà và món Nukazuke táo hấp dẫn ra sao... Có thể nói, chính tình yêu ẩm thực và nét đẹp thiên nhiên quê nhà đã nâng nhân vật Rinko lên thành một biểu tượng trong văn Ogawa Ito. Nói về món ăn mà như nhặt lấy từ thiên nhiên ra cái tinh thần vốn được sinh ra để giao hòa với thế giới con người, điều ấy hé lộ bút pháp của một tác giả giàu nội lực nhân văn. Tiểu thuyết này từng được chuyển thể thành phim năm 2010, nhưng ấn tượng từ trang văn để lại cho người đọc mới thật là sâu sắc ngọt ngào. Mời các bạn mượn đọc sách Quán Ăn Tìm Lại Tình Yêu của tác giả Ito Ogawa & Vũ Phương Anh (dịch).