Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tên Kẻ Cắp Và Những Con Chó

Saít Maran ra khỏi nhà tù với hy vọng làm lại cuộc đời để bình yên sống với đứa con yêu quý của mình. Nhưng Saít phát hiện ra một xã hội khác trước, đã thay đổi đến mức anh không còn chỗ đứng. Bị lừa dối và bị từ chối khắp nơi, kể cả những người thân nhất của mình là vợ con anh. Thất vọng và bị lừa phản bởi chính người thầy tôn kính, Saít đã nổi loạn chống lại xã hội ấy trong đoạn đường sôi nổi trong thành phố Cairô mà cuốn truyện dẫn người đọc chúng ta đi theo từng bước chân, từng suy tư, từng nỗi băn khoăn và hy vọng trong nhiều cuộc tiếp xúc và gặp gỡ: với Nua, cô gái làm tiền xinh đẹp vốn là bè bạn với anh từ nhỏ, với Giáo trưởng Ghêniđi, với Tácgiăng, tên chủ quán rượu kiêm trộm cướp…   Tác giả Mahfouz viết cuốn sách này từ 1961 bằng tiếng Ả rập tại Cairô, đến 1985 được dịch ra tiếng Pháp và được nhiều nước in lại và phát hành rộng rãi, được dựng thành phim. Năm 1988, cuốn sách được giải thưởng Văn học Nô-ben một cách xứng đáng. *** Nhà văn Ai Cập Naguib Mahfouz sinh trong một gia đình viên chức nhỏ, năm 1934 xuất bản tập truyện Tiếng thì thầm cuồng dại và các tiểu thuyết lịch sử Radobis và Cuộc đấu tranh của Phib. Sau thế chiến II, ông chuyển sang đề tài hiện đại, về  đời sống của tầng lớp của tầng lớp dân chúng thủ đô Cairo. Từ năm 1947 – 1956, ông viết tiểu thuyết ba tập Bộ ba Cairo, trong đó hai tập đầu được tặng giải thưởng quốc gia Ai Cập năm 1957. Năm 1959, tiểu thuyết ám chỉ bóng gió đến Muhammad và Jesus của ông được coi là phạm thượng và cấm xuất bản. Từ đầu những năm 60, ông thay đổi bút pháp: viết ngắn, phát triển nhanh, đề tài gay cấn, ngôn ngữ cô đọng gần với tiểu thuyết hiện đại Châu Âu. Ông còn hoạt động điện ảnh, làm chủ tịch Hội phê bình văn học nghệ thuật, và cố vấn Bộ văn hóa cho đến năm 1971 về hưu. Năm 1972, ông xuất bản tiểu thuyết Tấm gương, gồm 55 chương cũng là 55 bộ mặt đại diện cho các tầng lớp người khác nhau của Ai Cập được nhìn qua lăng kính nhà văn. Năm 1988, ông là nhà văn đầu tiên của Ai Cập nhận giải Nobel. Quá trình sáng tạo và ý thức công dân của ông trải qua những hoàn cảnh phức tạp và nhiều thay đổi chính trị của đât nước, các sáng tác của ông tỏ ra lo lắng cho số phận của đồng bào, thức tỉnh nhận thức đại chúng, giúp họ nhận biết vị trí của mình trong xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, Ông được coi là nhà văn hiện đại lớn nhất của Ai Cập thế kỷ XX.  *** Nhà văn Naguib Mahfouz năm nay đã gần 80 tuổi. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và chuyển thành phim. Nhà xuất bản Sindbad – Pari đã xuất bản ba cuốn của ông: Cái ngõ lắm điều kỳ lạ, Câu chuyện phố tôi và Tên kẻ cắp và những con chó. Ông được tặng thưởng giải thưởng Nôben về văn học năm 1988.   Ba cuốn truyện với nội dung và phong cách khác nhau có thể coi là một bức tranh toàn cảnh về xã hội Ai Cập đương đại với nhiều chân dung phong phú, sinh động từ thầy tu, bác sĩ, giáo sư, đến các chủ hiệu, gái điếm, kẻ ăn mày, người thất nghiệp…   Kỳ lạ nhất là câu chuyện về một bác sĩ chuyên làm cái “dịch vụ” biến người lành thành tàn tật theo yêu cầu của khách. Khỏe mạnh, lành lặn không có việc làm kiếm sống. Đành phải nhờ bác sĩ biến thành mù lòa hoặc què quặt để đi ăn xin thì người ta mới cho! Một câu chuyện tưởng như không thể có lại là sự thật.   Tên kẻ cắp và những con chó được xuất bản năm 1961 ở Cai Rô, đã phản ánh xã hội Ai Cập trước và sau chiến tranh Ai Cập – Israel. Nhân vật chính là Said Mahbrane. Từ chỗ rất tin ở Thượng đế, ở nhà thờ, ở công lý và lương tâm – sau khi ra tù, anh đâm nghi ngờ và căm thù tất cả vì anh khám phá ra rằng xã hội đã từ bỏ anh, người ta đã phản bội anh.   Chính Aliebe, người bạn nghèo mà anh giúp đỡ đã âm mưu tố cáo với cảnh sát, đẩy anh vào tù và cướp vợ anh. Raouf Sluane là một giáo sư đại học mà đã có thời anh rất kính phục (nay là giám đốc một tờ báo lớn) đến bây giờ cũng chỉ là một tên đạo đức giả đáng khinh bỉ.   Niềm tin nơi anh bị đổ sụp khiến anh sinh tuyệt vọng và quyết định phải trả thù những kẻ phản bội. Nhưng không có nỗi đau và tuyệt vọng nào bằng việc chính con gái anh, nó không nhận anh. Như vậy đời anh còn ý nghĩa gì nữa? Nếu bọn phản bội không bị trừng phạt!   Cuốn truyện hấp dẫn không chỉ bằng những vụ án ban đêm, sự săn lùng của cảnh sát như một tiểu thuyết trinh thám. Cái hay và chiều sâu của truyện là ở những đoạn hồi tưởng, tường thuật xen kẽ những ý nghĩ, động cơ, tâm lý của nhân vật, mỗi người một vẻ rất sâu sắc. Mối tình của Noar cô gái điếm đối với Said trong ngôi nhà giữa những nấm mồ cũng thật là đẹp và kỳ lạ!   Ai là kẻ cắp! – Said hay chính là những tên phản bội kia?   Bọn chúng chó má hơn cả những con chó mà chúng đã dùng để ngửi hơi và lùng bắt anh.   oOo   Nếu không kể “Nghìn lẻ một đêm”, công chúng Việt Nam chưa tiếp xúc bao nhiêu với nền văn học Ả-rập. Sự hiểu biết của chúng ta đối với lịch sử, tôn giáo và văn học Ả-rập còn rất hạn chế! Đây là cuốn sách đầu tiên của một nhà văn nổi tiếng Ai-cập mà chúng tôi dịch để giới thiệu với bạn đọc, chắc không tránh được thiếu sót. Mong bạn đọc thông cảm.   Hà Nội, ngày 15 tháng Giêng năm 1990     Mời các bạn đón đọc Tên Kẻ Cắp Và Những Con Chó của tác giả Naguib Mahfouz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu - William Somerset Maugham
MẶT TRĂNG VÀ ĐỒNG SÁU XU mượn một phần tiểu sử của danh họa người Pháp Paul Gauguin, một trong những họa sĩ tiên phong, một tên tuổi rất lớn và đầy sáng tạo của hội họa hiện đại, xuất hiện gần như đồng thời với sự ra đời lừng lẫy của các họa sĩ trường phái Ấn tượng. S. Maugham đã mượn câu chuyện nửa thực nửa hư về cuộc đời của nhà danh họa để trình bày những ý nghĩ của mình về Nghệ thuật, Tình yêu và Con người. Chắc hẳn ông có dựa vào quyển hồi ký của chính nhà danh họa, nhưng ở nhiều chỗ ông đã hư cấu với thủ pháp quen thuộc của mình. Ở đây chúng ta gặp lại Maugham với những chủ đề ta đã từng gặp trong hai tác phẩm kia: con người, dục vọng, nghệ thuật… Có thể nói trong cả ba tác phẩm nổi bật nhất này của mình, Maugham đều viết về sự ràng buộc mà cái bản năng lớn nhất của con người là Dục vọng (và dĩ nhiên theo nó là Tình Yêu) tác động lên nhân vật chính của tác phẩm, là những người đàn ông. Ở Of Human Bondage đó là sự ràng buộc, của dục vọng - tình yêu, trên một người bình thường. Ở The Radzor’s Edge là ràng buộc trên một người đi tìm sự giải thoát và ở The Moon and Sixpence là ràng buộc trên một nghệ sĩ thiên tài. Câu chuyện của 3 tác phẩm nói chung là mô tả cách những người đàn ông đó đã phản ứng lại sự ràng buộc kia… Khoảng năm 1972 - 1973 ở Sài gòn xuất hiện bản dịch The Moon and Sixpence dưới cái tên “Đời nghệ sĩ” (nxb Ca dao). Một nhà phê bình khó tính đã than trời về bản dịch này. Tôi tình cờ kiếm được nguyên tác ở chợ sách son trên hè phố Sài Gòn và đã kiểm chứng được lời than phiền này. Quả là một bản dịch quá tệ, tôi thử so vài trang để sửa và kết quả là mỗi trang của bản dịch được tôi sửa chi chít đen kịt, đó chỉ là với khả năng của một người có vỏn vẹn ít năm học tiếng Anh ở trường trung học. Tình cờ ít năm sau đó cũng trên hè phố bán son, tôi lại “vớ” được quyển nhật ký của Paul Gauguin dịch ra tiếng Anh với cái nhan đề The Intimate Journal. Kể cũng là duyên phận. Sách in lại nhiều bức tranh của Gauguin để minh họa. *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu(The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: (Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925),Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’s Notebook)(1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958),… W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913). Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa. Trong Mặt trăng và đồng sáu xu, tác giả kể lại cuộc đời một nhà buôn cổ phần chứng khoán trở thanh họa sĩ thiên tài mà người đương thời chưa đánh giá đúng giá trị tác phẩm cho tới khi ông qua đời một cách thê thảm ở nơi đất khách quê người. Kinh doanh thành đạt, sống sung túc, được vợ con hết lòng yêu mến, Charles Strickland bất thình lình bỏ gia đình ra đi, không còn quan hệ với cái xã hội ông đã từng sống, quyết tâm hiến cả đời mình cho hội họa. Ông sống gian khổ trong nhiều năm phấn đấu không thành công ở Paris. Hoàn cảnh xui khiến, ông đi tìm môi trường sáng tác mới ở một nơi xa xôi ở cái tuổi gần năm mươi. Trên đảo Tahiti, trong một gian nhà nhỏ ở một vùng hẻo lánh, được chăm sóc bởi người vợ trẻ, ông miệt mài vẽ cho đến ngày chết vì bệnh hủi, mù cả hai mắt. Tác phẩm cuối cùng của ông là những bức tranh vẽ trên vách và trần nhà mà người được may mắn nhìn thấy đánh giá là kiệt xuất. Với tính khí khác thường vốn có, ông yêu cầu vợ đốt căn nhà, nhưng những bức tranh vẽ trên vải không đóng khung vứt lung tung trong nhà đủ cho những ai hiểu biết hội họa coi ông là một thiên tài. Mời các bạn đón đọc Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu của tác giả William Somerset Maugham.
Gánh Hàng Hoa
Tác phẩm miêu tả cuộc sống của tầng lớp trí thức nghèo tại Hà Nội trong những năm 30 của thế kỷ 19. Chàng thư sinh tên Minh có vợ là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng, người làng Ngọc Hà, làm nghề trồng hoa và bán hoa. Cuộc sống vợ chồng tuy vất vả nhưng vui vẻ và hạnh phúc. Vợ Minh, Liên, là bạn của anh từ thuở nhỏ, vô cùng yêu chồng, hết lòng kiếm tiền nuôi chồng ăn học để mong chồng đỗ đạt. Nhưng rồi Minh vì tính đa nghi ghen tuông lại nghĩ sai về tình cảm tốt đẹp của người bạn học với mình, anh Văn và Liên. Từ sau cuộc nhậu ở nhà Văn, Minh ngã bị thương vào mắt và tạm thời không thấy ánh sáng trong một khoảng thời gian, anh sinh ra tiêu cực, chán nản, càng đa nghi. Tuy vậy, chính Minh sau khi khỏi mắt cũng bị sắc đẹp của người con gái khác làm cho xao lòng, bỏ nhà ra đi.. *** Gánh Hàng Hoa gồm có: Hy Vọng Hạnh Phúc Sau Ngày Vui Hương Và Sắc Sáng Và Tối Hy Sinh Viết Báo Trong Vườn Bách Thảo Ánh Sáng Khủng Hoảng Hai Cảnh Mộng Con Đường Cũ Đời Vẫn Vui, Vẫn Đẹp Mời các bạn đón đọc Gánh Hàng Hoa của hai tác giả Khái Hưng & Nhất Linh.
Bông Huệ Đỏ - Anatole France
“Một trong những tác phẩm viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Pháp”. Sự đánh giá ấy đối với cuốn tiểu thuyết Bông huệ đỏ đã có từ lâu, và gần như được công nhận hoàn toàn trong đông đảo người đọc, cũng như trong giới phê bình Pháp.   Hay nhất, không phải vì nội dung tác phẩm, số phận nhân vật và tình yêu của họ đã vượt ra ngoài tầm cỡ con người bình thường, mà trái lại, là một bước dấn sâu hơn vào thế giới nội tâm phong phú phức tạp của những con người bình thường. Ba người ấy, nàng Thérèse diễm lệ và đa tình, chàng Le Ménil, rồi chàng Decharre, hoàn toàn không phải là những “siêu nhân”. Họ trần tục như hết thảy những người trần tục nhất. Họ đến với nhau, hòa quyện vào nhau, thiêu đốt nhau trong ngọn lửa đắm say cực kỳ mãnh liệt, để rồi cùng chính lúc ấy, họ gieo mầm khổ ải cho nhau bởi sự ham hố bất tận, tính ích kỷ và sự ghen tuông. Tình yêu là hạnh phúc, nhưng tình yêu cũng là khổ đau? Hạnh phúc trong khổ đau? Hay khổ đau trong hạnh phúc? Con người không phải không luôn luôn tự đặt ra những câu hỏi như vậy. Nhưng kết cục con người vẫn không thoát khỏi nỗi đam mê mà tấm lưới tình yêu đã giăng sẵn để đón chờ họ.   Bông huệ đỏ được viết sau hàng loạt các tác phẩm lừng danh của Anatole France, ghi nhận một bước chuyển khá quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của ông. Nếu như trong các tiểu thuyết Ðảo chim cụt, Thiên thần nổi loạn, Thais, v. v.., nhân vật của ông là những trí thức khép kín, mang nỗi đau khổ âm thầm của thời đại, thì trái lại, trong Bông huệ đỏ, Thérèse, Le Ménil, Decharre… đều bình thường, gần gũi. Có người cho rằng đó là sự phản ánh một phần tâm trạng thực của tác giả qua mối tình “hạnh phúc và đau khổ” của ông với bà Caillavel, người phụ nữ trí thức nổi tiếng thời bấy giờ.   NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ  ***   Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. *** Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.  - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.  - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.  - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:   + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)  + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)  + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)  + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)  - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.    Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972  - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.  - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.  - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.  - Thais- Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.  - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987.   Mời các bạn đón đọc Bông Huệ Đỏ của tác giả Anatole France.
Người Đưa Đường Thọt Chân - Bùi Việt Sỹ
Câu chuyên của cuốn sách dài 300 trang chỉ xoay quanh bản kê khai hải quan và chỉ diễn ra trong mấy giờ kiểm tra hàng hoá của một du học sinh Việt Nam sẽ gửi theo đường biển về nước. Thắng, vị tiến sĩ tân khoa là tuýp người điển hình cho cái thời gian khó ấy: Anh tháo vát, lanh lợi, chấp nhận hành xử hèn hèn để mưu cầu sự đổi đời cho mình và vợ con. Nhưng dù hoàn cảnh đã "uốn nắn" tính cách Thắng mềm đi đến mấy, Thắng vẫn còn hạt nhân lương tri và nó khiến anh day dứt khôn nguôi. Thắng khác hầu hết các nhân vật cùng loại, những chàng trọc phú hớn hở hợm hĩnh với mấy ngàn Dmak bồi thường không cả cần biết tới tương lai vô nghề nghiệp từng xuất hiện trên văn đàn thời đầu thập kỷ trước. Tiểu thuyết hấp dẫn chính nhờ tính cách hèn hèn nhưng vẫn đầy khát vọng cao sang của Thắng. Thắng mang hoa hồng đến làm thân với bà thiếu tá Hải quan Nga, chứ không mang tiền. Khi trả lời bà thiếu tá, đôi khi Thắng cũng nói dối cho qua chuyện, chẳng hạn với câu hỏi Mục đích đến Liên Xô, anh nghĩ rằng để đổi đời nhưng lại trả lời rằng để học tập; còn về cơ bản anh trả lời bằng các câu chuyện để qua nó làm mềm lòng người đàn bà thép với các câu hỏi tờ khai lạnh lùng. Để trả lời câu Từ đâu đến nước Nga và đã đến như thế nào? Thắng đã qua câu nói nổi tiếng của vợ một viên tướng trong phim Moscow không tin những giọt nước mắt: "Muốn có một vị tướng à? Thế thì trước hết hãy lấy một viên trung uý mới ra trường và theo hắn 15 năm hết các vùng biên cương này đến hải đảo xa xôi kia, cuối cùng còn phải chờ xem số phận có mỉm cười với mình không..." để kể lại hơn mười năm phấn đấu từ một học sinh xuất sắc, anh phải tham gia phục vụ chiến đấu trên mặt trận giao thông, lập nhiều công tích nhưng rồi vẫn phải hèn hèn làm thân với vợ chồng ông Viện trưởng, rồi lại phải mưu mẹo vượt qua các trò ma lanh khác để kiếm một suất sang đây. Để trả lời câu Mày làm gì ra mà nhiều tiền để mua nhiều hàng như thế, Thắng đã không đến nỗi nói rằng tôi sống bằng nước lã, nhưng anh cũng không dám nói toàn bộ sự thật về cuộc buôn bán chợ đen như một nền kinh tế thực sự hoạt động dưới cái vỏ của nó là nền kinh tế in giá cả lên hàng hoá nhưng mua xong bán lại thì vẫn kiếm lời từ chính nền kinh tế ấy. Những trang Thắng hồi tưởng về việc sản xuất áo lông thú giả cổ, việc bán nó và có thể đã bị lừa mất trắng, việc mua tủ đá chỉ dành bán cho những người có công huân... đã lột tả thật thê thảm hình ảnh một tiến sĩ học ở Liên Xô mà chỉ có hơn 70 từ tiếng Nga làm vốn và trả thi bằng những trò láu lỉnh được cho qua trong tinh thần hữu nghị, chiếu cố vì đất nước có chiến tranh... *** Chào một ngày tốt lành! Bà thiếu tá Hải quan Natalia vừa ngồi vào bàn, chuẩn bị cho một ngày làm việc mới, nghe thấy tiếng chào vội ngước mắt lên. Trước mắt bà là Thắng cùng với chàng thanh niên hôm ấy. Thắng vẫn ăn vận com lê lịch sự và trên tay vẫn có một bó hồng nhung đỏ tím, loại hoa quý và đắt tiền ở xứ lạnh. - Chào một ngày tốt lành! - Bà đáp lại và vội vã đứng lên. Đại uý Ivan, như lần trước, khoanh hay tay trước ngực, đứng tựa lưng vào cạnh bàn đối diện. - Thế nào, anh bạn trẻ thân mến của tôi! - Sau một chút xúc động, bà lấy lại được vẻ tự chủ và cất tiếng hỏi. - Cảm ơn bà! Mọi việc đều bình thường - Thắng mỉm cười, đáp vui vẻ tự tin. - Bình thường ư? - Bà hơi kéo dài giọng, cố ý nhấn mạnh câu trả lời của Thắng. Lạy chúa tôi. - Bà nói tiếp mà không làm dấu thánh. Còn về phần tôi thì thế này. Bà cân nhắc từng từ để nói tiếp. Tất cả hàng hoá của anh, tôi đã cho niêm phong và để vào góc kho. Đồng thời tôi cũng đã làm tờ trình, thỉnh thị ý kiến giải quyết của trên. Đó là tờ trình đầu tiên, sau hai mươi nhăm năm trong nghề của tôi. - ồ cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của bà! Giọng Thắng vẫn giữ được vẻ bình thản mà lịch sự. - Và tôi đã nhận được tờ phúc đáp như sau. Bà cúi xuống lục tìm trong một cặp hồ sơ. Và một phút sau, bà rút ra một tờ giấy cứng như một tờ bìa mầu trắng, trên đó có đánh máy các điều cần thực hiện. Rồi bà chậm rãi đọc: A. Chiếc Viđiô Sanyo người gửi hàng có thể đưa đến cửa hàng đồ cũ, ký gửi, sau đó mua lại. Khi đã có hoá đơn mua tại cửa hàng, khách gửi sẽ được làm thủ tục xuất theo luật lệ hiện hành. B. Về chiếc đàn Pianô của Italia, khách gửi phải làm đơn đưa lên Sở Văn hoá thành phố, Sở sẽ lập Hội đồng giám định xét duyệt xem có được cho xuất hay không? Chiểu theo quyết định đó, Hải quan cửa khẩu biển sẽ thi hành. ... Mời các bạn đón đọc Người Đưa Đường Thọt Chân của tác giả Bùi Việt Sỹ.