Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thám Tử Rời Sân Khấu - Agatha Christie

Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case hoặc Curtain) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được hãng Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh tháng 9 năm 1975. Đây là tiểu thuyết cuối cùng của Agatha Christie về nhân vật thám tử Hercule Poirot cũng như Arthur Hastings với bối cảnh là điền trang Styles, nơi từng diễn ra vụ án đầu tiên trong loạt truyện về Hercule Poirot. Tác phẩm này được Agatha Christie viết từ đầu thập niên 1940 trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai với ý định làm đoạn kết cho toàn bộ loạt truyện về Hercule Poirot, nữ nhà văn giữ nó trong nhà băng suốt hơn 30 năm rồi mới cho ấn hành chỉ một năm trước khi bà qua đời. *** Ghi chú của đại úy Arthur Hastings Bốn tháng sau cái chết của Hercule Poirot một văn phòng luật gia mời tôi đến gặp tại trụ sở. Tại đây, họ làm theo yêu cầu của khách hàng của họ, trao cho tôi một phong bì kín, bên trong có văn bản mà tôi chép lại sau đây: Văn bản của Hercule Poirot Bạn thân mến, khi anh đọc những dòng này, tôi đã mất được bốn tháng. Tôi chần chừ không muốn viết, nhưng sau lại thấy cần phải nói cho ai đó biết sự thật về những gì xảy ra ở Styles. Chắc rằng đến lúc đọc bài này, anh đã đặt ra đủ các loại giả thuyết một cách chật vật hòng đi đến kết quả. Song xin nói để anh biết rằng lẽ ra anh đã sớm tìm ra sự thật, vì tôi đã cố ý cung cấp những dấu hiệu để dẫn anh tới đó. Nếu anh chưa tìm ra được, ấy là tại vì bản chất anh quá tin người, trước sau anh vẫn vậy! Ít nhất anh cũng phải biết ai đã giết Norton chứ, dù là còn tù mù về cái chết của Barbara Franklin. Nhưng hãy nói từ đầu. Tôi mời anh đến Styles, nói là tôi cần anh. Đó là sự thực. Tôi bảo anh phải là tai, là mắt cho tôi. Đó cũng là sự thực, nhưng có lẽ không hẳn theo nghĩa mà anh hiểu. Anh phải nhìn thấy những gì tôi muốn anh nhìn, nghe thấy những gì tôi muốn anh nghe. Anh phàn nàn về chuyện tôi không nói thật hết với anh khi trình bày vụ việc. Đúng, tôi không chịu nói rõ lai lịch tên X. Nhưng tôi phải làm thế, mặc dù ở đây cũng vậy, lý do tôi viện ra với anh không phải là lý do thực. Lý do thực, rồi anh sẽ hiểu ngay bây giờ. Tôi đã chuyển cho anh bản tóm tắt năm vụ án khác nhau. Tôi đã nêu bật nhận xét rằng trong mỗi vụ án đó, người bị kết án hoặc bị nghi ngờ dường như không phải thủ phạm thực. Tôi lại nêu rõ một điều quan trọng nữa, trong mỗi vụ, X đã có mặt tại chỗ hoặc ở quanh quẩn đâu đó. Anh đã vội suy diễn ngay ra một điều, trớ trêu thay, vừa đúng vừa sai. Anh nghĩ X là người đã trực tiếp phạm các tội ác đó. Nhưng bạn ơi, hoàn cảnh xảy ra là trong mỗi vụ, duy nhất chỉ có người bị kết tội mới có cơ hội làm việc đó. Như vậy, sẽ giải thích sự có mặt của X như thế nào? Trừ phi là người có dính dáng đến cảnh sát hoặc là một nhóm người quyền chức sa đọa, rất khó cho một người nào lại dính liên tiếp đến năm vụ án khác nhau. Điều đó không thể xảy ra anh hiểu không? Không ai lại đến gặp anh mà nói: "Tôi trực tiếp quen biết năm kẻ giết người". Không, không thể có như vậy. Thực ra, chúng ta đứng trước một hiện tượng xúc tác kỳ cục. Phản ứng giữa hai chất chỉ xảy ra khi có mặt chất thứ ba, chất này có vẻ như không đóng vai trò gì và không hề bị biến đổi. Tình hình là như thế: khi X có mặt, là án mạng xảy ra, nhưng X không mó tay trực tiếp. Đây là một tình hình kỳ lạ, hoàn toàn bất bình thường. Và tôi hiểu ra là vào cuối đời, mình đã gặp một hung thủ tạm gọi là "hoàn hảo" hắn đã thực thi một kỹ thuật tinh vi làm cho hắn không bao giờ có thể bị vạch mặt. Kỹ thuật đó là đáng ngạc nhên, nhưng không mới. Đã có những trường hợp tương tự. Và đây là một chỉ dẫn đầu tiên tôi để lại cho anh. Vở kịch Othello. Trong kịch này, có một điển hình như hệt X. Đúng, Iago là tên giết người hoàn hảo. Cái chết của Desdémone, của Cassio rồi của cả Othello nữa, là những tội ác của Iago do hắn trù liệu. Vậy mà không ai chịu nghi ngờ hắn. Lẽ ra hắn còn được "tại ngoại" mãi, cho đến khi người đồng hương vĩ đại của anh - thi hào Shekaspeare - phải dùng đến một biện pháp thô thiển nhất, là đưa chiếc khăn tay ra mới lật mặt được hắn. Phải, án mạng được nâng lên thành nghệ thuật hoàn hảo. Không có một lời kích động trực tiếp nào. Iago còn khéo léo ngăn mọi người chớ dùng bạo lực và gieo mối nghi ngờ vào lòng người khác rồi lại làm bộ gân cổ bác bỏ! Cách làm ấy ta lại thấy trong màn ba tuyệt vời của vở John Fergueson, trong đó chàng ngố Clutie John kích động người khác giết người mà hắn không ưa. Kiểu gợi ý về tâm lý đó là một công trình tuyệt hảo. Anh Hastings, anh cần hiểu điều này: mỗi người chúng ta đều là một hung thủ tiềm ẩn. Trong mỗi chúng ta thỉnh thoảng lại nỗi lên sự muốn giết nhưng không nhất thiết kèm theo sự dám giết. Đã bao lần ta nghe thấy người này người kia nói: "Mụ ấy làm tôi tức lộn ruột, muốn giết mụ ngay lập tức!" - "Tôi sẽ giết nếu nó dám nói thế!" - "Tôi ấy à, tôi sẽ bẻ gẫy cổ hắn!" Nhưng lúc đó, ý của ta thật rõ ràng: muốn giết cho chết. Nhưng ta không làm việc ấy, vì lý trí ta không đồng tình với tình cảm. Ở trẻ nhỏ cái máy hãm lý trí ấy có khi không hiệu quả. Tôi biết một thằng bé bực mình với con mèo, thốt lên: "Nằm im, không tao đập cho một cái vào đầu chết tươi!". Nói rồi làm thật. Để sau đó mới hoảng hồn vì con mèo đẵ chết. Vì thật ra, thằng bé rất yêu con vật ấy. Tóm lại trong mỗi chúng ta đều có một tên hung thủ nằm ngủ. Và nghệ thuật của X không phải chỉ gợi lên ý muốn mà còn thủ tiêu sự kháng cự của lý trí. Nghệ thuật đó được rèn giũa trải qua thực tế lâu dài. Hắn biết dùng một từ chính xác, một câu nói thích hợp, giọng nói tính toán làm sao để gây áp lực liên tục lên một điểm yếu! Trong khi đó, nạn nhân không ngờ vực chút nào. Đây không phải là thôi miên; thôi miên chưa chắc đã ăn. Nó là một cái gì lắc léo hơn, đáng sợ hơn: sự tập hợp tất cả sức lực của một con người để mở rộng một khe hở chứ không bịt nó lại. Anh phải biết điều đó chứ, vì nó đã xảy ra với anh. Có thể anh đã bắt đầu hiểu ý nghĩ một số nhận xét của tôi mà anh cho là lạ. Khi tôi nói có một vụ án sắp xảy ra không phải lúc nào tôi cũng ám chỉ một vụ giống nhau. Tôi nói rằng tôi đến Styles nhằm một mục đích nhất định, vì ở đó sắp xảy ra án mạng. Và anh đã hết sức ngạc nhiên thấy tôi đoán chắc như thế. Nhưng sở dĩ tôi chắc như vậy, vì vụ án mạng đó sẽ do tôi tiến hành. Phải, kỳ lạ thật, anh nhỉ. Và kinh khủng nữa. Tôi là người phản đối tội ác, người luôn luôn tôn trọng cuộc sống con người, thế mà tôi lại kết thúc sự nghiệp của mình bằng gây ra án mạng! Hay bởi tôi quá đạo đức giả, quá ý thức về sự ngay thẳng của mình mà cuối cùng phải đứng trước sự lựa chọn sinh tử đó. Vì, anh Hastings ơi, bao giờ cũng có mặt phải, mặt trái. Nhiệm vụ của đời tôi là cứu người bị oan, ngăn ngừa tội phạm và tôi chỉ có thể làm được việc đó bằng một cách duy nhất. Vì - anh chớ quên điều này - X không thể bị pháp luật trừng trị. Hắn có chỗ trú an toàn. Tôi không nghĩ ra cách nào khác khác để đánh bại hắn, buộc hắn vĩnh viễn không thể tác oai tác quái. Song tôi vẫn do dự. Biết rõ cần làm gì, nhưng chưa dám quyết làm. Giống như Hamlet, tôi cứ trì hoãn mãi giờ phán xét cuối cùng. Thế là xảy ra một mưu toan khác, định làm hại bà Luttrell. Tôi nóng chờ xem anh, vốn thính nhạy với sự thật hiển nhiên, lần này có hiểu ra không. Và anh đã hiểu: phản ứng đầu tiên của anh là nghi cho Norton, dù rất mơ hồ. Anh đã đoán đúng: Norton chính là người chúng ta tìm. Không có bằng chứng gì để xác minh giả thuyết đó, trừ một nhận xét dụt dè của anh rằng hắn là con người vô vị. Song lúc đó chính là lúc anh đã tới gần sự thật. Tôi đã nghiên cứu kỹ lai lịch của hắn. Hắn là con của một bà mẹ độc đoán và áp chế, nên không lúc nào hắn có dịp tự khẳng định hoặc áp đặt tính cách của mình cho ai. Hắn bị tật nhẹ ở chân, nên ngay lúc đi học không tham gia tích cực được vào các trò chơi của bạn học. Một điều có ý nghĩ mà anh kể lại với tôi là hắn bị bạn bè chế nhạo vì buồn nôn khi nhìn con thỏ bị lột da. Tôi cho rằng chuyện ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng hắn. Hắn sợ máu và bạo lực, nên bị "kém thớ". Trong tiềm thức, hắn chờ dịp để tự khẳng định, báo thù lại bằng cách tỏ ra táo bạo, thậm chí tàn ác. Tôi hình dung hắn sớm nhận ra mình có khả năng gây ảnh hưởng tới người khác. Hắn biết bình tĩnh lắng nghe, gợi được cảm tình, mọi người không chú ý hắn lắm, song không ghét bỏ. Hắn nhận ra là nếu dùng những lời thích hợp và nhấn vào đúng chỗ, thì rất dễ gây ảnh hưởng tới người khác. Chỉ cần hiểu họ, nắm được ý nghĩ của họ,lường trước những phản ứng và những ý nghĩ âm ỉ của họ. Anh có thấy không, một sự khám phá như vậy làm cho hắn có cảm giác như thế nào về quyền lực của mình! Hắn là Stephen Norton, người vừa được yêu mến vừa bị coi thường, nay có khả năng thúc đẩy người khác làm những việc họ không muốn làm hoặc tưởng là không muốn làm. Tôi hình dung hắn bắt đầu đem cái sở trường đó ra thực hành, rồi lâu dần thành quen, thích thú với việc thông qua nguời khác để gây ra những hành vi bạo lực, những việc mà hắn không tự làm được vì thiếu sức mạnh thể chất. Và cái trò quỷ đó cứ lên mãi thành niềm đam mê, không làm không được. Như một thứ ma túy, nghiện rồi không thể bỏ. Norton con người vốn bản tính hiền lành, trở thành tên bạo sát dấu mặt. Giống như người nghiện, hắn phải có suất tiêm chích hằng ngày, luôn tìm hết nạn nhân này tới nạn nhân khác. Tôi tin là con nhiều vụ khác, ngoài năm vụ mà ta đã biết. Và trong mỗi vụ, hắn đều có vai trò giống nhau. Hắn quen biết Etherington; hắn đã ở suốt mùa hè ở cái làng Riggs ở,thỉnh thoảng uống rượu với anh này ở quán. Trong một chuyến du ngoạn, hắn làm quen với Freda Clay và làm như nói chuyện bâng quơ, đã gợi ý cho cô ta thấy nếu bà cô chết đi thì nhất cử lưỡng tiện: chẳng những bà già được giải thoát, mà cô sẽ được sống ung dung, thoải mái. Hắn cũng là bạn của Litchfield, và gợi cho Margaret thấy nếu giải thoát được cho các em gái, cô sẽ là người hùng. Tôi tin là, không ai trong số những người đó sẽ giết người, nếu không bị Norton tác động. Bây giờ ta trở lại những sự kiện ở Styles. Tôi đã theo dõi Norton một thời gian. Và khi hắn làm quen với Franklin, tôi thấy ngay mối nguy. Với Norton, vợ chồng Franklin mở ra những khả năng rất thú vị, có thể nói là đủ các loại khả năng. Bây giờ thì chắc anh đã hiểu điều mà bất cứ người nào đầu óc bình thường phải hiểu ngay, đó là Franklin và con gái anh yêu nhau. Cử chỉ bất thường của bác sĩ, cái cách ông ta không bao giờ nhìn thẳng vào Judith, bỏ qua mọi kiểu đối xử xã giao với Judith, tất cả những cái đó phải cho anh thấy là ông ta yêu con gái anh. Nhưng đó là một người có nghị lực và thẳng thắn. Có thể ăn nói hơi cục cằn, nhưng có những nguyên tắc nhất định. Theo ông, người chồng phải chung thủy với người vợ mình đã chọn. Về phía Judith nó mê tít ông bác sĩ. Tôi tưởng anh đã biết chuyện ấy rồi, và Judith cũng tưởng thế, cái hôm anh gặp nó trong vườn hồng. Do đó nó với cáu kỉnh. Tính cách như nó không chịu để ai thương hại, thậm chí thông cảm. Rồi Judith hiểu là anh tưởng nó yêu Allerton, và nó không cần đính chính, cứ để mặc cho khỏi gây lôi thôi. Nó chấp chới với Allerton như để tìm trong đó một niềm an ủi tuyệt vọng, mặc dù biết Allerton là loại người nào. Nó chỉ đùa cợt thế thôi, chứ không hàm ý tình cảm gì. Tất nhiên Norton hiểu tất cả, hắn dự kiến khai thác tình hình đó. Tôi cho là hắn đã tìm cách ảnh hưởng đến Franklin, nhưng thất bại. Bác sĩ là loại người duy nhất không chịu tác động gì từ phía Norton. Ông có trí óc cực kỳ tỉnh táo. Hơn nữa, niềm đam mê lớn nhất đời ông là công việc. Với Judith, Norton thành công hơn bằng cách khéo léo khích cái lý thuyết về những cuộc đời vô dụng. Judith thành thật tin vào thuyết này, và hắn tỏ ra cực kỳ gian manh, làm bộ chủ trương thuyết trái lại và nói khích Judith, cho là cô ta không đủ táo bạo để đưa lý thuyết vào thực hành. "Đó là loại lý thuyết ta hay có lúc trẻ, nhưng không bao giờ dám thực hiện". Cách nói ấy mang tính kích động thô thiển, ấy vậy mà có khi hiệu quả. Bọn trẻ ấy mà, chúng còn non nớt quá! Nếu bà Barbara vô dụng bị loại trừ, con đường với Franklin và Judith sẽ rộng mở. Điều ấy không được nói toạc ra, người ta còn bản rằng lý thuyết này không ám chỉ trường hợp cá nhân nào, vì nếu Judith biết là có ám chỉ, nó sẽ phản ứng quyết liệt. Nhưng với một môn đệ của tội ác như Norton thì một vụ là chưa đủ. Hắn đã tìm ra một chỗ nữa để thử tài, đó là vợ chồng Luttrell. Ta hãy quay trở lại trước nữa. Hastings, anh có nhớ ván bài anh tham gia tối hôm mới đến. Sau ván bài, Norton đã nói mấy câu rất to khiến anh lo là ông đại úy nghe thấy. Nhưng đó là hắn cố tình muốn vậy: Luttrell phải nghe thấy! Norton không bỏ lỡ cơ hội nào để bình phẩm tính cách bà Luttrell, cố tình nhấn mạnh một cách tự nhiên. Và cuối cùng ý đồ của hắn đã thành kết quả. Việc ấy xảy ra ngay trước mũi anh, mà anh không hay biết. Nền móng của sự việc đã được sắp đặt sẵn: sự áp bức quá đáng của bà vợ, sự xấu hổ, bực bõ của ông chồng... Anh hãy thử nhớ chính xác mà xem. Norton kêu khát. Hẳn là hắn biết bà Luttrell đang ở quanh đó và chắc chắn sẽ ra mặt. Ông đại tá đáp ứng ngay, tỏ rõ bản chất chủ nhà rộng rãi của mình. Ông xin đãi một chầu rượu và vào tìm chai. Các anh đều ngồi gần cửa sổ. Bà Luttrell bước vào phòng ăn, thế là xảy ra cuộc cãi vã, chì chiết. Luttrell biết là mọi người nghe thấy hết. Ông ta trở vào. Lẽ ra mọi người phải tìm cách xoa dịu sự việc. Hoặc Boyd Carrington, hoặc chính anh, Hastings có thể làm điều đó. Nhưng Norton đã cướp lời, và khéo léo đổ thêm dầu vào lửa. Hắn nói trở lại về ván bài - làm Luttrell cảm thấy mình bị lấn át - rồi nói chuyện tai nạn đi săn. Thế rồi, cái ông Boyd Carrington đần độn vô tình mắc bẫy, lao ngay vào kể chuyện tên cận vụ giết ông anh của mình. Câu chuyện đó, chính Norton đã để cho Boyd, hắn biết rằng Boyd sẽ kể lại như là của chính mình vào lúc nào có người khéo gợi. Thành ra gợi ý cuối cùng không phải do Norton nói ra! Vậy là mọi thứ đã được dọc sẵn. Và điểm bùng nổ đã tới. Bị sỉ nhục trước mặt mọi người, nghĩ rằng ai nấy đều cho mình là thiếu dũng khí chống lại, ông Luttrell nghĩ cách để thoát ra. Thì đấy - có ngay những chuyện tai nạn đi săn, chuyện anh lính giết anh ruột. Rồi bất thần đằng cuối vườn, sau lùm cây, thấp thoáng cái đầu của bà vợ... không sợ gì cả... coi như tai nạn... Ta phải tỏ cho họ biết ta là ai... cho bà ấy chết cho xong! Nhưng bà ấy không chết. Tôi cho là, lúc bóp cò, ông ta đã bắn trượt bởi trong thâm tâm, ông muốn bắn trượt. Lập tức ý tưởng phản ứng tan ra mây khói. Bởi vì dù thế nào, ông ta vẫn yêu vợ. Đó là một trong những vụ án mạng mà Norton đã dự liệu không thành. Nhưng còn âm mưu tiếp theo! Hastings biết không, lần này hắn nhằm vào anh đó! Hãy nhớ lại đi, ông bạn thật thà ạ. Norton đã thấy ra tất cả các điểm yếu của anh, và cả những tính tốt của anh là ngay thẳng và đạo đức. Allerton thuộc loại người mà anh căm ghét và e ngại một cách tự nhiên, như cólinh tính. Và những điều anh nghĩ về hắn, biết về hắn, đều đúng. Norton liền kể anh nghe một câu chuyện khác - chuyện này có thực, theo như tôi biết - về một con gái bị Allerton tình phụ. Chuyện đó ngay lập tức gây ấn tượng mạnh với anh. Allerton đúng là thằng tồi, thằng đểu chuyên quyến rũ, cưỡng bức con gái, dồn họ đến chỗ phải tự vẫn. Mặt khác, Allerton gợi ý Boyd Carrington nói chuyện với anh về Judith. Và anh cảm thấy cần nói chuyện nghiêm chỉnh với con gái. Và, như anh đã lường trước, nó cãi lại, nói rằng việc đời nó, nó lo. Anh càng cuống. Giờ anh hãy bình tĩnh xem xét Norton đã lợi dụng những gì ở anh: tình yêu con gái, ý thức trách nhiệm của người cha... anh tự nhủ: "Ta phải hành động ngay, kẻo hối không kịp". Anh lại nghĩ đến vợ, thấy không thể lẩn tránh trách nhiệm trông nom con cái mà người vợ yêu quý đã để lại. Còn có cả sự ghen tuông tự nhiên và vô lối của phần lớn các ông bố khi có kẻ địch cướp con gái mình. Thấy chưa, Norton đã nhấn vào những phím đàn nhạy cảm, đúng là một nhạc trưởng bậc thầy. Và anh cứ thế lao vào. Hastings, anh có tật cả tin vào bề ngoài của sự vật. Chẳng suy nghĩ gì, anh tin ngay là Allerton hẹn gặp Judith hôm sau ở London. Nhưng anh không nhìn thấy Judith, không nghe Judith nói. Vậy mà sáng sớm hôm sau, anh vẫn còn tin như thế, và tỏ ý mừng là Judith đã đổi ý. Song nếu anh chịu khó xem xét, anh sẽ thấy ngay là Judith không hề có ý định đi đâu hôm đó. Và anh cũng bỏ qua không thấy một sự việc nhỏ khác; có một người định đi hôm đó, nhưng không đi được, nên tỏ ra vô cùng bực dọc. Đó là cô Craven y tá. Đúng thế! Allerton không chỉ tán tình một phụ nữ. Quan hệ giữa hắn và cô Craven đã tiến triển khá xa, xa hơn nhiều so với việc hắn lơ mơ tí chút với Judith. Và người hắn hẹn gặp ở London chính là cô ta! Một mẹo nữa của Norton. Anh trông thấy Allerton hôn Judith, Norton liền thúc anh đi vòng quanh góc nhà, vì hắn biết Allerton hẹn hò cô Craven gần nhà kính. Sau khi làm bộ níu anh lại, Norton để anh đi. Nhưng hắn đi theo anh. Hắn hiểu câu nói mà anh vừa nghe được từ miệng Allerton góp thêm thuận lợi vào kế hoạch của hắn. Cho nên hắn vội kéo anh đi nhanh để anh không kịp nhận ra rằng người phụ nữ ở đó không phải là Judith. Đúng là mưu mẹo bậc thầy! Phản ứng của anh là tức thời: anh quyết giết Allerton. May thay, anh có một người bạn trí óc còn minh mẫn. Và không chỉ trí óc mà thôi, như anh sắp thấy đây. Ngay ở đầu bản viết này, tôi đã nói anh không tìm ra sự thật, vì tính anh dễ tin quá. Ai nói gì, anh tin ngay. Tôi, tôi nói gì, là anh tin. Song tìm ra sự thật, đâu có khó với anh. Tôi đã đuổi George đi. Tại sao? Thay bằng một anh hầu ít từng trải hơn, và rõ ràng kém thông minh hơn. Tại sao? Tôi vốn là người rất chăm lo súc khỏe, tôi không để bác sĩ nào theo dõi, và từ chối không chịu để bác sĩ nào khám như anh khẩn khoản yêu cầu. Tại sao? Bây giờ thì anh hiểu tại sao tôi cần anh đến Styles chứ? Tôi cần có một người tin như đinh đóng cột tất cả những gì tôi nói. Tôi nói đi dưỡng bệnh ở Ai Cập về, sức khỏe vẫn tồi như trước. Anh tin. Thựa ra là sai: tôi trở về Anh khá hơn rất nhiều. Chịu khó để ý một chút, anh sẽ thấy ngay. Nhưng không, anh đã tin. Sở dĩ tôi chia tay với George, là vì nếu nó ở lại, tôi không thể nói dối với nó rằng chân tôi bị liệt. Hastings, anh hiểu chưa? Tôi giả vờ bị tật, đánh lừa tất cả mọi người, kể cả Curtiss, thực ra tôi vẫn đi lại được. Hơi tập tễnh môt chút. Rồi đến cái tối đáng nhớ đó, tôi nghe tiếng chân anh lên gác, chần chừ một lát rồi lẻn vào phòng Allerton. Tôi cảnh giác ngay, vì đang rất lo cho tâm trạng của anh. Curtiss đang xuống ăn dưới nhà, tôi có một mình. Không bỏ phí một giây, tôi ra khỏi phòng, băng qua hành lang. Tôi nghe tiếng anh làm gì trong buồng tắm của Allerton, và phải dùng cái cách mà anh thường phản đối - quỳ xuống nhìn qua lỗ khóa. May quá, chìa không có trong ổ. Và tôi nhìn thấy anh. Anh mó máy mấy cái lọ, và tôi hiểu ngay anh đang mưu đồ gì. Phải hành động ngay. Tôi trở về phòng mình chuẩn bị các thứ. Lúc Curtiss lên, tôi sai hắn sang tìm anh. Anh vừa vào vừa ngáp, nói là đau đầu. Tôi liền gây chuyện rối tinh, yêu cầu anh phải uống thuốc. Để cho xong chuyện, anh đồng ý uống một tách sôcôla thật ngọt. Anh uống một ngụm hết, vì đang vội về. Có điều là, tôi cũng biết dùng những viên thuốc ngủ! Về phòng, anh đã ngủ ngồi trên ghế. Sáng hôm sau thức dậy, trí óc anh tỉnh táo trở lại, bây giờ anh mới phát hoảng vì chuyện tày đình định làm. Thế là anh thoát hiểm, vì không thể nào lặp lại việc ấy lần thứ hai khi người ta đã lấy lại lý trí. Nhưng điều ấy đã làm tôi, tôi phải quyết định. Vì tất cả những gì tôi biết về những người khác không áp dụng với anh. Anh không phải kẻ giết người, thế mà suýt nữa bị kết tội giết người, vụ giết này do người thứ ba chủ trương, nhưng hắn hoàn toàn vô tội trước pháp luật. Anh người trung thực, thật thà, tận tụy, đáng kính như thế, mà cũng suýt nhúng tay vào tội ác! Vậy tôi phải hành động ngay. Tôi biết mình không còn nhiều thời gian nữa, nhưng xét cho cùng, như thế lại tốt. Vì cái mệt nhất, ấn tượng nhất trong một vụ án mạng là tác động của nó đối với hung thủ. Mọi việc dẫn đến chỗ là tôi, Hercule Poirot tự thấy mình như một người được Thượng Đế chỉ định để trừng phạt những người khác. May thay, điều đó sẽ không xảy ra, vì đã đến lúc tôi cũng sắp phải ra đi. Nhưng tôi sợ Norton lại thàng công nữa cái trò ma quái của hắn khi nhằm vào một người thân của cả anh và tôi. Đó là con gái anh. Và bây giờ, ta nói đến cái chết của Barbara Franklin. Dù anh nghĩ thế nào mặc anh, tôi cho là anh chưa lúc nào ngờ tới sự thật. Vì Hastings ơi, chính anh đã giết Barbara. Phải, chính anh. Vì thực ra, còn một khía cạnh khác của hình tam giác một khía cạnh mà tới lúc đó, tôi chưa quan tâm đúng mức. Cả anh cả tôi đều không phát hiện hành tung của Norton theo hướng đó. Song tôi tin rằng hắn đều đã thực hiện cả. Anh có bao giờ tự hỏi, tại sao bà Franklin lại muốn đến ở Styles? Nơi này đâu phải là chỗ thích hợp với bà. Bà thích tiện nghi, thích ăn ngon, thích chơi bời giao thiệp... ở Styles làm gì có những thứ đó. Nhưng bà lại cố đòi đến nghỉ hè tại đây. Đó là, như tôi đã nói, còn một cạnh khác của hình tam giác: Boyd Carrington. Bà Franklin là một phụ nữ bị vỡ mộng, đó là nguyên nhân khiến bà bi tâm thần. Bà ôm nhiều tham vọng về bậc thang xã hội và về tài chính. Bà lấy bác sĩ Franklin hy vọng ông có tương lại, sự nghiệp xán lạn. Ông đúng là người xuất sắc theo kiểu ông, nhưng không như vợ mơ ước. Ông có tài, nhưng chẳng bao giờ được báo chí nói đến, chẳng bao giờ có nổi một phòng khám bệnh tư ở phố Harley. Ông chỉ được dăm bảy đồng nghiệp biết tiếng, và đăng các công trình khoa học của mình trên những tạp chí thông thái không mấy người đọc. Và ông sẽ không bao giờ giàu có. Nhưng rồi Boyd Carrington từ phương Đông về, lại mới được phong tước hiệu, thừa kế một dinh cơ đồ sộ và gia tài lớn. Ông ta vẫn giữ trong lòng tình cảm thắm thiết với cô gái mười bảy tuổi hồi xưa, mà ông suýt hỏi làm vợ. Ông ta định nghỉ tại Styles - trong khi chờ công việc trùng tu dinh thự Knatton hoàng thành - và gợi ý mới vợ chồng Franklin cùng tới nghỉ. Barbara đồng ý ngay. Hiển nhiên là dưới mắt người đàn ông giàu có và tráng kiện này, bà Franklin vẫn còn đầy xuân sắc và hấp dẫn. Song ông thuộc người của thế hệ trước, không thể xui bà ly dị chồng. John Franklin cũng không chấp nhận ly hôn. Nhưng nếu ông ta chết đi, Barbara Franklin có thể trở thành phu nhân Boyd Carrington hạnh phúc xiết bao. Và tôi hình dung Norton đã nhìn thấy ở bà một công cụ dễ sai khiến. Bây giờ ngẫm lại, sao mà mọi việc rõ ràng quá. Hãy nhớ lại bà Franklin luôn tỏ ra mình gắn bó như thế nào với chồng, còn tô đậm thêm, nói muốn chết để khỏi là gánh nặng cho chồng. Sau đó bà lại dùng chiến thuật khác: giả bộ lo lắng rằng chồng sẽ tự lấy thân mình làm thí nghiệm với các chất độc. Phải, lẽ ra ta phải thấy rõ! Bà ta chuẩn bị tư tưởng để mọi người thấy Franklin chết vì chất physostigmine. Ồ! Không có ai đầu độc ông ấy đâu! Chỉ là thí nghiệm khoa học. Ông ấy dại dột ống thử chất ancalôít đó, rồi tử nạn. Nhưng rồi, dồn dập có diễn biến. Chính anh cho tôi biết bà Franklin rất không bằng lòng thấy lúc họ đi Knatton về, Boyd Carrington để cho cô Craven xem tướng tay. Cô y tá này còn trẻ và khá hấp dẫn, rất khéo làm duyên với đàn ông. Cô đã thử bắt tình với bác sĩ Franklin, nhưng không xong. Vì thế cô ta ghen ghét với Judith. Cô ta lại bắt tình với Allerton, dù biết anh này là người không đúng đắn. Và cuối cùng cô ta xoay sang để ý đến Boyd Carrington, ông này còn đẹp mã lắm. Mà ông ta thì có lẽ sẵn sàng xiêu lòng, vì anh thấy rồi đấy, ông đã từng khen cô y tá là người tươi tắn, đáng yêu. Vì thế bà Barbara sinh lo và quyết định ra tay sớm. Hastings anh biết không, tôi cảm thấy cây đậu calabar thật là đáng nể. Lần này, nó đã thực sự phát huy quyền lực: tránh người vô tội, đánh kẻ ác tâm. Tối hôm đó, bà Franklin mời mọi người lên uống cà phê trong phòng mình, và bà ta đã chuẩn bị sẵn thuốc độc. Theo lời anh nói lại, tách của bà đặt ngay cạnh bà, còn tách ông chồng đặt phía bên kia tủ sách nhỏ. Rồi có chuyện ra xem sao đổi ngôi. Mọi người đổ xô ra ban công. Mình anh ở lại, lúi húi điền ô chữ và ngẫm nghĩ. Và anh xoay cái tủ sách để tìm một câu viết của Shakespeare. Mọi người trở vào. Bà Franklin uống tách cà phê lẽ ra dành cho chồng, còn chồng lại uống tách của bà Barbara. Tôi đã hiểu ngay chuyện gì đã xả ra, nhưng không thể chứng minh. Song nếu người ta cho bà Franklin chết không phải do tự tử, thì mọi nghi ngờ sẽ tập trung vào Franklin và Judith. Nghĩa là vào hai người hoàn toàn vô can. Vì thế tôi nghĩ mình có quyền bịa ra chuyện trông thấy bà Frankin cầm lọ trong tay và nhắc lại những lời bà thường than vãn - dù là vờ vĩnh - muốn chết cho xong. Có lẽ tôi là người duy nhất làm thế được, vì tôi được tiếng là có kinh nghiệm về hình sự, lời chứng của tôi nhất định có sức nặng. Tôi nói là tự tử, mọi người chấp nhận ngay và tỏ vẻ hài lòng. Nhưng, trời ơi, anh không hề nghi vấn gì vì mối hiểm nguy thực sự. Tôi chết đi rồi, anh còn suy nghĩ đến nó nữa không, như con rắn độc thỉnh thoảng ngóc đầu dậy và ton hót: "Hay Judith đã làm việc đó...". Có thể lắm. Vì vậy tôi quyết định phải viết ra. Cần phải để cho anh biết rõ sự thật. Có một ngưới khác không hài lòng về kết luận tự tử; đó là Norton. Vì hắn cảm thấy bị lấy mất "thành tích". Như tôi đã giải thích bên trên, hắn là một tên bạo sát, muốn hưởng tất cả lạc thú của sự kinh hoàng, ngờ vực, khiếp sợ mà vụ giết người gây ra. Đằng này không thế. Vụ giết người mà hắn dự tính đã xoay chuyển một cách thảm hại, không theo ý hắn. Tuy nhiên hắn tính được ngay cách để đền bù. Và hắn lại bắt đầu ton hót, lắt léo. Mấy hôm trước, hắn đã làm bộ nhìn thấy điều gì bất thường qua ống nhòm. Lúc đó hắn định để anh tưởng là Allerton và Judith trong tư thế thân mật nào đó. Nhưng do không nói rõ hắn có thể sử dụng sự việc đó theo cách khác. Ví dụ, hắn sẽ nói đã trông thấy Franklin cặp kè với Judith. Như vậy sẽ chiếu thêm ánh sáng mới - rất thú vị - lên cái chết của Barbara và gây nghi ngờ rằng bà này chết không phải vì tự tử. Vì thế, tôi quyết định ra tay ngay lập tức. Tôi nhờ anh bảo Norton đến gặp tôi tối hôm đó. Bây giờ tôi sẽ kể chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi. Hẳn Norton khấp khởi sẽ nói những gì hắn muốn để đánh lừa tôi. Tôi không để hắn kịp nói. Tôi nói toạc không vòng vo, những gì tôi biết về hắn và hành động của hắn. Hắn không chối điều nào. Hắn bình thản ngồi trên ghế, mỉm cười một cách mãn nguyện thách thức. Rồi hắn hỏi tôi định làm gì? Tôi đốp chát trả lởi luôn là tôi muốn chặn tay hắn lại, trừng trị hắn. - A! Hắn ngạo nghễ. Bằng lưỡi dao hay bằng thuốc độc? Lúc đó, chúng tôi đang chuẩn bị uống sôcôla. Hắn vốn nghiện món này mà. - Cách đơn giản nhất, là một chén thuốc độc. Và tôi đưa hắn tách sôcôla vừa rót. Hắn nói: - Nếu vậy, tôi muốn uống tách kia cơ, tách của ông, được không? - Không sao, tôi đáp. Quả là không sao thật. Như đã nói, tôi cũng hay dùng thuốc ngủ. Nhưng vì từ lâu tối nào cũng dùng, nên cơ thể tôi đã quen, liều đối với tôi không nghĩ lý gì, vẫn làm Norton ngủ mệt. Tôi đã cho thuốc ngủ vào liễn sôcôla, cả hai chúng tôi cùng uống. Tách của Norton sau đó sẽ có tác dụng, còn tác dụng rất ít đối với tôi, nhất là sau đó tôi lại uống một thuốc khác để trung hòa. Chúng ta sắp tới chương cuối. Khi Norton đã thiếp đi, tôi đặt hắn lên xe lăn của tôi, đẩy sát vào góc cửa sổ, phủ rèm che. Rồi Curtiss đến, giúp tôi lên giường. Chung quanh yên tĩnh rồi, tôi nhỏm dậy, đẩy Norton về phòng của hắn. Bây giờ chỉ còn trông vào tai mắt của ông bạn hastings nữa là xong. Chắc anh không để ý, tôi đã mang tóc giả từ nhiều năm nay. Và anh càng không biết nữa, là râu mép của tôi cũng giả. (Ngay George cũng không biết việc này). Thật vậy, ngay sau khi mượn Curtiss, tôi đã cố tình vô ý làm cháy râu, và cho thay bằng râu giả y hệt. Tôi liền khoác bộ áo ngủ của Norton, bộ áo này màu sắc đặc biệt không lẫn vào đâu được. Tôi làm cho tóc bù xù lên giống Norton, đi dọc hành lang, đến gõ cửa phòng anh. Đúng như tôi dự đoán, anh mở cửa nhìn ra ngoài, mắt còn ngái ngủ. Và anh nhìn thấy Norton từ phòng tắm đi ra, tập tễnh băng qua hành lang để về phòng. Cửa đóng rồi, anh còn nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ. Tôi liền cởi bỏ bộ áo, mặc lại cho Norton đang ngủ. Sau đó tôi bê hắn lên giường trừng phạt hắn bằng khẩu súng nhỏ tôi có từ khi ở nước ngoài. Từ khi đến Styles tôi đã cất giấu cẩn thận, trừ hai hai lần tôi biết Norton đang đi chơi xa, tôi mang súng cố tình đặt hớ hênh trên bàn của hắn, để cô hầu phòng nhìn thấy mà khai sau này. Tồi tôi bỏ chìa khóa vào túi Norton, lấy lại xe lăn, khóa cửa lại bằng chiếc khóa thứ hai mà tôi đã cho làm từ trước. Từ lúc ấy tôi lo thảo văn bản này dành cho anh. Tôi mệt lắm rồi: bao cố gắng nỗ lực đã làm tôi kiệt sức, và chắc chẳng còn bao lâu nữa tôi sẽ... Tuy nhiên, còn một số chi tiết nữa tôi cần nói rõ. Các vụ giết người do Norton chủ trương là những tội ác hoàn hảo, còn vụ giết người của tôi không được như thế. Cách dễ nhất, tốt nhất để thủ tiêu Norton là làm công khai, ví dụ gây ra một vụ tai nạn với khẩu súng của tôi. Lúc đó tôi sẽ giả bộ hốt hoảng, tiếc nuối, và mọi người sẽ bình phẩm: "Ông già thật lẩm cẩm, không nhớ là súng đã lên đạn." Tôi không muốn làm như vậy, và xin giải thích lý do. Bởi vì tôi muốn "chơi đẹp" như trong thể thao. Đúng, anh không đọc nhầm đâu. Lúc này tôi đang làm tất cả nhưng việc mà anh đã trách tôi không chịu làm. Tôi đang nói toẹt ra với anh. Thực ra anh đã có đủ các quân bài chủ trong tay để khám phá sự thật. Nếu còn chưa rõ, tôi xin kể sau đây những chỉ dẫn mà tôi đã để lại cho anh. Anh biết, vì tôi đã nói với anh là Norton đến đây sau tôi. Anh biết vì tôi đã nói với anh rằng sau khi tôi đến Styles chìa khóa phòng tôi bị mất và tôi phải làm một chìa khác. Vì vậy, khi anh tự hỏi: "Ai có thể giết Norton? Ai có thể đi ra khỏi một phòng đã khóa từ bên trong?" thì câu trả lời là như sau: - Là Hercule Poirot, vì hắn có chiếc chìa khóa thứ hai của một trong hai phòng. Bây giờ tôi nói về người anh trông thấy ngoài hành lang. Tôi đã hỏi anh có chắc là Norton không. Anh tỏ vẻ ngạc nhiên về câu hỏi ấy và hỏi tôi chẳng nhẽ tôi cho là người khác. Tôi đã trả lời đúng sự thật; đó không hề là ý định của tôi (tất nhiên, vì tôi đã phải thi thố nhiều mẹo để làm anh tưởng đó là Norton). Tiếp đó tôi đã nêu vần đề vóc dáng và đưa ra nhận xét rằng tất cả những người ở Styles đều cao hơn hắn. Nhưng có một người thấp hơn đó là Hercule Poirot. Song muốn cao hơn hai ba phân thì quá dễ: chỉ cần độn thêm đế vào giầy. Anh cũng hoàn toàn cho rằng tôi không thể đi lại một mình. Nhưng tại sao? Chỉ tại tôi bảo anh như thế. Cuối cùng, tôi đã cho George về, và để lại chỉ dẫn cuối cùng: "Hãy đi gặp George". Othello và Clutie John nói lên rằng tên X bí mật ấy không ai khác ngoài Norton. Vậy ai là người có thể giết Norton? Chỉ là Hercule Poirot! Chỉ cần anh thoáng ngờ vực như vậy là mọi mảnh sẽ khớp lại với nhau: những điều tôi đã nói và làm, cả những điều tôi dè dặt chưa nói, lời các bác sĩ Ai Cập và bác sĩ London nói là tôi không đi lại được, lời George nói là tôi mang tóc giả, và việc tôi đi tập tễnh hơn cả Norton. Tất cả chi tiết đó lẽ ra phải làm anh hiểu. Cuối cùng, có phát súng tôi bắn: đây là điểm yếu duy nhất của tôi. Tôi thừa biết rằng đáng lẽ phải áp nòng súng vào thái dương Norton. Nhưng tôi khó chấp nhận sự mất cân xứng ấy, cho nên tôi nhắm vào đúng giữa trán. Ôi, chỉ riêng việc đó đủ để làm anh thấy ra sự thật. Nhưng biết đâu anh đã chẳng ngờ ngợ thế rồi. Biết đâu anh đã chẳng biết rõ sự thật trước đọc những dòng này. Song... tôi lại nghĩ là chưa. Bởi vì anh thật thà quá, dễ tin quá, bởi vì bản chất anh quá tốt. Tôi còn nói gì nữa đây? Franklin và Judith - tôi chắc rồi anh sẽ thấy - biết rõ sự thật, nhưng họ không nói với anh đâu. Họ sẽ không giàu có, trước mắt phải lo đối mặt với muỗi và sốt rét, nhưng mỗi người chúng ta đều có những ý kiến riêng về cách quyết định về mình, phải không nào? Thế còn anh, anh Hastings cô đơn, tội nghiệp? Tim tôi đau quặn mỗi khi nghĩ tới anh. Một lần cuối, anh có muốn nghe lời khuyên của Poirot này không? Nếu muốn thì sau khi đọc hết những dòng này, hãy đáp xe lửa - hoặc xe hàng, xe hơi - đi gặp Elizabeth Cole tức Elizabeth Litchfield. Đọc cho cô ấy nghe văn bản này, giải thích cho cô ấy rằng, nếu là anh, anh cũng sẽ làm như Margaret chị cô. Tiếc rằng chị cô ấy không có một người như Poirot để bảo vệ. Nói tất cả cho Elizabeth để cô ấy rũ bỏ hết những ác mộng ám ảnh cô suốt bấy lâu nay. Làm cho cô ấy hiểu là bố cô không chết vì tay con gái lớn, mà là do ông bạn quý hóa của gia đình: Stephen Norton. Vì thật là không công bằng một phụ nữ còn trẻ, đẹp như cô ấy lại không muốn sống chỉ vì nghĩ mình là người có số mệnh đen đủi. Không phải vậy. Hãy nói thế nhé, anh bạn, anh vẫn còn dư sức hấp dẫn với phụ nữ... Thôi, tôi không còn gì để nói. Tôi không biết việc tôi làm có chính đáng hay không. Thực sự không biết. Trong thâm tâm tôi nghĩ là một người không có quyền làm thay pháp luật. Nhưng mặt khác, tôi cũng là một phần của pháp luật. Hồi trẻ, lúc còn phục vụ ở Sở Cảnh sát Bỉ, tôi đã bắn hạ một tên tội phạm, hắn đứng trên mái nhà bắn xuống người qua đường. Trong trường hợp khẩn cấp chí nguy, tôi đã cứu được nhiều mạng người khác... Thôi, vĩnh biệt anh bạn. Tôi đã vứt bỏ những ống thuốc trợ tim trước nay vẫn giữ trong tầm tay đề phòng trường hợp nguy cấp. Tôi muốn buông xuôi, phó mặc đời mình cho Chúa. Mong Người hãy trừng phạt - hay cứu vớt - thật nhanh. Chúng ta sẽ không cùng nhau sát cánh nữa. Anh nhớ không, vụ án đầu tiên mà chúng ta cùng hợp tác để phá, diễn ra tại đây. Và cũng lại ở đây, là vụ án cuối cùng... Ôi, cái thời tươi đẹp!... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Rời Sân Khấu của tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lễ Vật Kinh Hoàng
Câu chuyện mở đầu bằng cái chết của một bé gái sơ sinh cùng những phản ứng kỳ lạ của gia đình đứa trẻ. Ban đầu nguyên nhân tử vong được cho là do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS), nhưng một dấu hiệu đáng ngờ xuất hiện trên mặt bé dẫn cảnh sát đi đến kết luận: đây là một vụ giết người. Cha của bé gái bị bắt khi đang cố mang xác bé chạy trốn và cụ ngoại của bé khăng khăng rằng hung thủ là “Inguma” – một ác ma trong thần thoại xứ Basque, tước đoạt mạng sống của con người trong lúc họ đang ngủ. Qua 1500 trang sách, nhân vật chính Amaia Sazalar đã để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc yêu thương và ngưỡng mộ về một nữ thanh tra tài năng, gan góc nhưng lại có tuổi thơ bất hạnh đến ám ảnh. Chính những trải nghiệm của bản thân đã làm nên một Amaia quyết đoán và luôn hành động độc lập, và nó khiến cho các đồng nghiệp của chị cảm thấy không hài lòng. Khi Amaia quyết định mở rộng điều tra các trường hợp trẻ sơ sinh dưới hai tuổi chết do SIDS trong thung lũng Baztan những năm gần đây, chị nhanh chóng tìm ra điểm tương đồng đáng ngờ và khiến cuộc điều tra rơi vào mớ rắc rối đáng lo ngại. Sự dối trá, phản bội và nghi kỵ nhau bắt đầu len lỏi bên trong từng thành viên của đội điều tra án mạng. Tạm xa vai trò của một người vợ, người mẹ, Amaia trở về nơi mọi sự bắt đầu để đối mặt với bóng ma quá khứ của mình và khám phá ra sự thật khủng khiếp đã hủy hoại thung lũng Elizondo xinh đẹp trong nhiều năm qua. *** Sau Vệ sĩ vô hình và Mối bất hòa truyền kiếp, tác giả Dolores Redondo cho ra mắt bạn đọc tập tiếp theo và cũng là tập cuối cùng trong xê ri tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztán. Câu chuyện mở đầu bằng cái chết của một bé gái sơ sinh cùng những phản ứng kỳ lạ của gia đình đứa trẻ. Ban đầu nguyên nhân tử vong được cho là do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS), nhưng một dấu hiệu đáng ngờ xuất hiện trên mặt bé dẫn cảnh sát đi đến kết luận: đây là một vụ giết người. Cha của bé gái bị bắt khi đang cố mang xác bé chạy trốn và cụ ngoại của bé khăng khăng rằng hung thủ là “Inguma” – một ác ma trong thần thoại xứ Basque, tước đoạt mạng sống của con người trong lúc họ đang ngủ. Qua 1500 trang sách, nhân vật chính Amaia Sazalar đã để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc yêu thương và ngưỡng mộ về một nữ thanh tra tài năng, gan góc nhưng lại có tuổi thơ bất hạnh đến ám ảnh. Chính những trải nghiệm của bản thân đã làm nên một Amaia quyết đoán và luôn hành động độc lập, và nó khiến cho các đồng nghiệp của chị cảm thấy không hài lòng. Khi Amaia quyết định mở rộng điều tra các trường hợp trẻ sơ sinh dưới hai tuổi chết do SIDS trong thung lũng Baztan những năm gần đây, chị nhanh chóng tìm ra điểm tương đồng đáng ngờ và khiến cuộc điều tra rơi vào mớ rắc rối đáng lo ngại. Sự dối trá, phản bội và nghi kỵ nhau bắt đầu len lỏi bên trong từng thành viên của đội điều tra án mạng. Tạm xa vai trò của một người vợ, người mẹ, Amaia trở về nơi mọi sự bắt đầu để đối mặt với bóng ma quá khứ của mình và khám phá ra sự thật khủng khiếp đã hủy hoại thung lũng Elizondo xinh đẹp trong nhiều năm qua.  Tác giả Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả trinh thám được đọc nhiều nhất tại Tây Ban Nha năm 2017 Bà là một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. Nhận xét của báo chí: Một tác phẩm bộ ba xuất sắc… một cuốn tiểu thuyết nổi bật… vô cùng lôi cuốn.                                                             (Sunday Times – Sách trong tháng ) Nhiều khía cạnh trong nhân cách được miêu tả rất hấp dẫn và đầy sức thuyết phục.                                                                         (Publishing Perspectives) Văn phong rất đẹp, uyển chuyển và duyên dáng.                                                                         (Raven Crime Read blog) Trích đoạn hay: Trích đoạn 1: [Sau khi chọn rượu vang, James và Amaia hài lòng thưởng thức không khí trong nhà hàng một lát. Họ không đả động đến đề tài tang lễ, và tránh làm tăng thêm sự căng thẳng hiển hiện giữa họ chiều hôm ấy. Họ biết là cần nói chuyện, nhưng có một thỏa thuận ngầm là đợi cho đến khi chỉ còn hai người. – Cuộc điều tra thế nào rồi? – James hỏi thăm. Chị nhìn anh, cân nhắc nên trả lời ra sao. Từ khi gia nhập lực lượng cảnh sát, chị thận trọng không bao giờ bàn bạc công việc của mình với gia đình, và họ biết không nên hỏi. Chị không muốn nói chuyện với James về những khía cạnh đáng sợ trong nghề nghiệp của mình, cũng như tốt hơn hết là không nhắc tới những sự kiện trong quá khứ của mình, dù James đã biết. Chị thấy khó nói về thời thơ ấu, và trong nhiều năm chị chôn vùi sự thật dưới vỏ ngoài giả dối. Khi các rào chắn kìm giữ mọi nỗi kinh hoàng mở toang, đưa chị tới ngưỡng lành mạnh, có thể thổ lộ với James về kẽ nứt trên bức tường sợ hãi cho phép ánh sáng tràn vào, tạo ra một chỗ cho họ sát bên nhau, một chỗ đưa chị trở lại cõi đời mà nếu thận trọng, những bóng ma cũ có thể không chạm được đến chị. Song, Amaia luôn biết rằng nỗi sợ không bao giờ mất đi hoàn toàn, nó chỉ co lại vào một nơi tối tăm, nhớp nháp và chờ đợi, giảm bớt thành một tia sáng màu đỏ nhỏ xíu có thể vẫn trông thấy dù không muốn, dù ta không thừa nhận sự tồn tại của nó, vì nó cản trở ta khỏi cuộc sống. Chị cũng biết nỗi sợ là việc cá nhân, dù có nói đến đâu hoặc đặt tên nó là gì đi nữa, nó cũng không ra đi; câu nói cũ, sáo mòn “gánh nặng chia đôi sẽ còn một nửa” không áp dụng ở nơi dính líu đến nỗi sợ. Chị luôn tin rằng tình yêu sẽ chiến thắng mọi thứ, sẽ mở toang cánh cửa và chị sẽ tự bộc lộ với James mọi gánh nặng trong quá khứ. Giờ đây, ngồi đối diện với anh, chị vẫn nhận ra anh chàng điển trai mà chị yêu say đắm. Người nghệ sĩ tự tin, lạc quan không bị ai muốn giết, nhìn nhận mọi sự việc với cung cách đơn giản gần như trẻ thơ, cho phép anh đi theo một con đường không thay đổi, chắc chắn không bị những hành động tàn ác tấn công. Nó cho phép anh tin rằng chỉ cần lật sang trang, chôn vùi quá khứ hoặc nói chuyện với một bác sĩ tâm thần trong nhiều tháng về việc mẹ đẻ thèm ăn thịt mình là sẽ giúp chị vượt qua nỗi sợ, sống trong một cõi đời có những đồng cỏ xanh tươi và bầu trời xanh biếc, chống đỡ bằng những thiện ý đơn giản là nó phải như thế. Kỳ vọng hạnh phúc là một lựa chọn khiến chị ngỡ ngàng vì nó ngây thơ, gần như là xúc phạm.] Trích đoạn 2: [Toàn thân Amaia run rẩy. Chị cảm thấy các cơ lưng căng cứng, sự căng thẳng chạy suốt hệ thần kinh như một dòng điện, đổ về các đầu ngón tay, cho chị một cảm tưởng lạ lùng, bất cứ lúc nào chúng cũng có thể nổ tung, giải phóng sức sống mãnh liệt này. Bụng Amaia quặn thắt, miệng khô khốc, không khí trong xe không đủ rót đầy phổi chị. Chị đỗ xe bên ngoài nhà Markina, chắn lối ra, và trở lại con đường nhỏ lát đá, cảm thấy nôn nao theo từng bước, lúc tim chị đập thình thịch trong ngực, rộn ràng trong tai. Amaia bấm chuông, kiên quyết và ăn năn bằng nhau, chị hồi hộp đợi lúc cố làm dịu nỗi lo đang đe dọa nhấn chìm chị. Lúc Markina mở cửa, ông vẫn đi chân không, tóc ông đã khô, rối bù xõa xuống vầng trán. Ông không nói gì, chỉ đứng nhìn chị, mỉm cười bí ẩn. Chị cũng không nói gì, nhưng giơ bàn tay lạnh giá cho đến lúc những ngón tay chị chạm vào miệng ông, vào đôi môi mềm mại, ấm áp của ông. Dường như khóe miệng ông trở thành mục tiêu của chị, định mệnh của chị, nơi nghỉ ngơi duy nhất của chị. Ông siết chặt tay chị, như sợ bỏ lỡ mối kết nối này, rồi đẩy cửa khép lại sau chị, đưa chị vào trong nhà. Đứng trước mặt ông, những ngón tay chị ép vào môi ông, chị ngập ngừng vài giây, tìm lời có nghĩa để nói, nhưng chị biết lúc này không thể cất nên lời, chị phải chịu thua một giọng nói khác, một ngôn ngữ khác, và như một người ngoài cuộc, chị chưa bao giờ có thể chia sẻ với ai. Rút tay khỏi môi ông, chị soi mình trong mắt ông, nó nhìn lại chị với vẻ sợ hãi và phấn khích. Chị táo bạo tiến tới, cơ thể họ bùng nổ, mắt nhắm lại, ông ôm chị, run rẩy. Ngước nhìn Markina, Amaia biết rằng chị có thể yêu người đàn ông này… Chị tuột chiếc áo khoác ướt và nắm tay ông, đưa ông tới phòng ngủ. Ánh sáng lọt qua tấm rèm chỉ đủ để nhận ra đường nét của đồ đạc nặng nề; chị kéo rèm, để bầu trời u ám chiếu sáng cả phòng. Lúc đứng cạnh giường, ông ngắm chị với một vẻ khiến chị phát điên, song ông vẫn không mỉm cười. Chị cũng thế. Mặt chị để lộ vẻ bứt rứt vì biết mình đang bầu bạn với một người ngang sức ngang tài. Chị đến gần hơn, đăm đăm nhìn ông, bị sự thống khổ mới mẻ chiếm lĩnh. Chị ngượng nghịu mơn trớn ông, mất tự tin khi nhận ra mình trong ông, nhận biết rằng chị ở đó vì lần đầu tiên trong đời, chị có thể thực sự bộc lộ bản thân, không chỉ trút bỏ quần áo mà cả gánh nặng cuộc sống ngượng ngùng, và lúc làm thế chị thấy mình phản chiếu trong ông như trong một tấm gương vậy. Chị biết mình chưa bao giờ khao khát bất cứ người nào theo kiểu này, chưa bao giờ trải qua sự mong mỏi nung nấu này với cơ thể một người đàn ông…] Trích đoạn 3: [Jonan Etxaide, Jonan, người bạn thân nhất của chị, có lẽ là người tinh tế nhất mà chị biết, đang nằm ngửa, tay chân dang rộng giữa một vũng máu lớn. Anh bị bắn hai phát. Một vào ngực như Montes nói, ngay dưới xương ức. Vết đạn đen ngòm và tương đối sạch, hầu hết máu chảy từ chỗ thoát ra. Phát đạn kia vào trán, để lại một vết tròn, làm mớ tóc màu hạt dẻ trên đỉnh đầu anh bết lại thành một đống đông cứng. Amaia tới gần, vẫn nắm chặt vũ khí và sửng sốt thấy nhiều cảnh sát khác trong phòng khách. Vào lúc đó, Amaia đã cố hết sức không thở, song không thể giữ lâu hơn được nữa. Chị hít vào, đem lại sự sống cho sinh vật đó, nó dâng lên tận cổ họng, làm chị nghẹn thở lúc há miệng và đành để nỗi kinh hoàng trong lòng mình thoát ra. Amaia cảm thấy đang bị ngạt thở. Nỗi đau mãnh liệt đến mức làm mắt chị ngứa ngáy lúc ngụm không khí cuối cùng rời khỏi phổi chị, nung đốt cổ họng chị. Đầu chị quay cuồng, và chị quỵ xuống cạnh tấm thân không còn sự sống của Jonan Etxaide. Rồi, nỗi đau nặng trĩu trong lòng chị đã thoát. Khi những giọt lệ trào ra, Amaia ngả người, mở mắt và trông thấy bàn tay nhợt nhạt của Jonan đặt trong vũng máu đen ngòm, gương mặt tuấn tú của anh đeo mặt nạ của người chết, khuôn miệng tái nhợt của anh hé mở, đôi môi không còn màu sắc. Cơn đau nhói khiến chị siết chặt tay vào ngực. Chỉ đến lúc đó, Amaia mới nhận ra mình vẫn đang cầm súng. Chị nhìn xuống, không biết nên để vào đâu… Chúng ta không có kinh nghiệm để nhận ra điều đó. Có một khoảnh khắc, một sự kiện, một lời nói, một cử chỉ, một cuộc điện thoại làm thay đổi mọi thứ. Khi nó xuất hiện, khi nó xảy ra, khi được nói nên lời, nó phá vỡ nguyên tắc chúng ta tưởng đang dẫn dắt cuộc sống của mình, khiến ta phải đối mặt với thực tế, phá hủy mọi dự định ngây thơ cho tương lai. Mọi thứ ta ngỡ là vững chắc đã sụp đổ, mọi nỗi lo toan trên đời dường như ngớ ngẩn, vì thứ bất biến duy nhất là sự hỗn loạn buộc ta phải chịu thua một cách nhún nhường trước uy quyền tối thượng của thần chết. Amaia không thể ngừng nhìn cái xác, nếu không trí lực của chị sẽ ngay lập tức phủ nhận và gào lên: không, không, không! Vì thế, chị bắt mình phải nhìn, dằn vặt mình bằng cảnh tượng mắt Jonan nhắm nghiền, da anh, môi anh tái nhợt, lúc này khô nứt, những cái lỗ đen sì khủng khiếp, nơi cái chết lọt vào, thứ máu quý giá của anh đông bết lại thành vũng đen sì, nhầy nhụa. Chị vẫn quỳ cạnh anh, không nhúc nhích, ngắm gương mặt của người bạn thân nhất, chịu thua cảm giác đau thương đã bắt chị làm con tin, chị nhận ra mình sẽ không bao giờ phục hồi vì cái chết của Jonan, nỗi đau mất anh sẽ vĩnh viễn như một cái gai nhọn trong tim chị. Nhận thức này giống như một gánh nặng, song chị phải tiếp nhận tai họa, cảm kích vì đã quen biết anh một thời gian và nuối tiếc vì anh đã ra đi mãi mãi.  NXB Phụ Nữ Mời các bạn đón đọc Lễ Vật Kinh Hoàng của tác giả Dolores Redondo & Đinh Thanh Vân (dịch).
Bí Ẩn Ở Styles
Vụ án bí ẩn ở Styles là tiểu thuyết hình sự đầu tay của nhà văn trinh thám Anh Agatha Christie. Cuốn sách được nữ nhà văn viết năm 1916 và được hãng John Lane xuất bản lần đầu tại Hoa Kỳ tháng 10 năm 1920. Tại Anh, tác phẩm được nhà xuất bản The Bodley Head xuất bản lần đầu ngày 1 tháng 2 năm 1921. *** Review THẢM KỊCH BÍ ẨN Ở STYLES - Agatha Christie The Mysteriuos Affair at Styles  Người dịch: #Thảm_Kịch_Bí_Ẩn_Ở_Styles #Agatha_Christie #SeriesHerculePoirot #Trinhthamcodien ------------------ Nhân dịp Trẻ vừa phát hành thêm 2 cuốn mới về Poirot, xin được phép đăng review về lần xuất hiện đầu tiên của vị thám tử đầu quả trứng, coi như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng thân thiện để khuyến khích Trẻ xuất bản trọn bộ Agatha nhanh hơn. 
Ba Bóng Đen
Cám ơn Page Duyên Sách đã gửi đến DTV eBook cuốn sách này. Nơi "Bán sách cũ và nhận tìm các tựa sách hơi hơi hiếm :-)" Các bạn muốn tìm mua sách cũ, có thể qua page Duyên Sách để nhờ Admin kiếm giúp. JONATHAN KELLERMAN SỰ HẤP DẪN CỦA TIỂU THUYẾT TRINH THÁM PHÂN TÍCH HÀNH VI   Một trong những tác giả có sách bán chạy nhất ở Mỹ liên tục trong hai chục năm qua, là Jonathan Kellerman. Vậy J. Kellerman là ai? Sinh năm 1949 tại New York, nhưng Los Angeles là nơi ông gắn bó, nơi ông thành đạt trong nghề nghiệp bác sĩ và với tư cách một tác giả tiểu thuyết. Khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi, song phần lớn những năm tuổi trẻ ông dành để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Năm 24 tuổi, ông nhận bằng tiến sĩ, chuyên ngành tâm lý trẻ em. Sau đó là những năm làm việc trong các bệnh viện, trung tâm bệnh trẻ em ở Los Angeles, điều trị tâm lý cho các trẻ em bị ngược đãi, lạm dụng... Năm 1980-1981, ông xuất bản những cuốn sách về y học liên quan đến trẻ em: Psychological aspects of childhood cancer và Helping the pearful child. Năm 1985, J. Kellerman xuất bản cuốn sách hư cấu đầu tiên When the bough breaks (Khi cành cây gãy - tên bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2007 là Ba bóng đen). Ngay lập tức cuốn sách trở thành hiện tượng bestseller được bầu chọn trên tờ New York times, và tác giả nhận được giải thưởng Edgar Poe và giải thưởng Anthony Boucher cho tiểu thuyết đầu tay hay nhất. Tiểu thuyết này năm 1986 được dựng thành phim truyền hình phát trên kênh NBC và đã thu hút 28 triệu người xem. Từ đó đến nay, mỗi năm một cuốn sách (có năm 2 cuốn), in ở nhiều nước trên thế giới và bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, tên tuổi Jonathan Kellerman liên tục có mặt trên bảng xếp hạng của New York times. The master of psychological suspense - bậc thầy của tiểu thuyết trinh thám tâm lý, báo chí nói về ông như thế khi lần đầu tiên ông xuất hiện trên văn đàn, và sự tôn vinh ấy đã không ngừng được nhắc lại hơn hai chục năm nay, trên các báo, trên các website, và quan trọng nhất, ông vẫn là một nhà văn không hề cũ đối với công chúng. Nhân vật chính trong các tiểu thuyết của ông, Alex Delaware phần nào đó là hình bóng của chính nhà văn. Nhận bằng tiến sĩ năm 24 tuổi, là bác sĩ tâm lý trẻ em, Alex khám phá ra đằng sau những sự cố của trẻ nhỏ luôn ẩn chứa những vấn đề của người lớn, của xã hội. Trong cuốn sách đầu tiên When the bough breaks, Alex Delaware 30 tuổi, sống độc thân và bắt đầu hẹn hò với Robin. Vì có người bạn thân là thanh tra Milo Sturgis ở trong sở cảnh sát, anh được mời chữa trị cho các em nhỏ nạn nhân của một vụ xâm hại, rồi làm tư vấn đặc biệt cho cảnh sát. Vụ đầu tiên anh tham gia là vụ một bác sĩ tâm lý bị giết cùng người bạn gái là cô giáo dạy ở trường dành cho các trẻ có khiếm khuyết. Nhân chứng duy nhất của vụ án là một bé gái 7 tuổi bị bác sĩ cho uống quá liều thuốc an thần đã trở nên gần như ngơ ngẩn. Những ám ảnh của bé gái có ý nghĩa gì? Liệu thực sự cô bé đã chứng kiến một tội ác? Lần theo mối dây của các nạn nhân, Alex tìm tới một trung tâm từ thiện nuôi dạy các trẻ mồ côi và khuyết tật lớn ở Los Angeles. Xới tung hàng chục mối quan hệ, lần lại những trang hồ sơ cũ, đào bới quá khứ của những gương mặt đang hiện diện ở tầng thượng lưu của xã hội, Alex Delaware đã tìm ra sự thật về những con quỷ đội lốt người, những kẻ có xu hướng tình dục bệnh hoạn, nhưng kẻ say mê quyền lực, những kẻ bị khống chế bởi quá khứ tội lỗi, đã biến trung tâm từ thiện kia thành hang ổ trụy lạc, lạm dụng tình dục của hàng trăm trẻ nhỏ. Trong Blood test (Thử máu - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2005), khi cố gắng giúp đỡ cậu bé Woody mắc bệnh ung thư, Delaware phải đối mặt với hàng bao rắc rối và dò trong mớ bòng bong các quan hệ, anh đã đi đến tận cùng sự thật khủng khiếp trong gia đình cậu bé: những tín ngưỡng rùng rợn và quan hệ loạn luân được che đậy trong rất nhiều năm, mà bất hạnh đổ lên số phận những đứa trẻ là chị em và cũng là mẹ con Nona và Woody. Trong Bad love (Tình yêu dối trá - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2004), vụ án Delaware khám phá liên quan tới một hội nghị khoa học mà các nghi can đều là những nhà khoa học liên quan đến tâm lý -giáo dục trẻ em.   Trong The Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa học đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thí nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh hoạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân oan uổng của họ. Cộng tác với cảnh sát với tư cách là chuyên gia tâm lý, nhưng trong tất cả các vụ án, bác sĩ Delaware đã tham dự như một thám tử chuyên nghiệp, mà bên cạnh anh chàng thám tử to béo Milo Sturgis chỉ còn giữ vai trò bổ khuyết cho vai chính. Không giắt súng trong lưng, không có phương tiện hỗ trợ như một cảnh sát thực thụ, nhưng Delaware có sự mẫn cảm đặc biệt để dò ra những ngóc ngách tâm lý, những mối quan hệ của con người, dù quan hệ đó có được che giấu tinh vi thế nào đi nữa. Không có nhiều những pha bắn giết hay rượt đuổi, cách của J. Kellerman là bóc tách dần các chân dung, các quan hệ. Ông đẩy độ căng thẳng lên dần dần, ông lừa người đọc vào những cao trào khiến người ta lầm tưởng đó đã là cú cuối, song thực sự cú cuối chỉ nằm ở trang cuối, khi bạn đọc sắp sửa gấp sách lại. Kellerman thường bẫy người đọc trong những câu chuyện có vẻ rời rạc ở ban đầu, tung ra nhiều nhân vật, đưa nhiều lộ trình, tạo ra một mớ rối tung quan hệ, nhưng rồi những hướng rời rạc sẽ gắn kết ở một điểm, ở đó những gương mặt nhân vật, những lộ trình hành vi đột ngột sáng tỏ. Tuy nhiên, không như một tác phẩm trinh thám thông thường với đích cuối của câu chuyện là vạch mặt thủ phạm, với J. Kellerman, thủ phạm không phải là sự thật ghê gớm nhất; sự thật shock nhất nằm ở cú vỡ bung cuối cùng soi sáng tận cùng nguyên do của tội ác. Blood test, Over the edge, Private eyes, Bad love, Devil’s Waltz - Vũ điệu quỷ, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2007, cho đến cuốn sách mới nhất Gone, mỗi một vụ án là một ca tâm lý, mỗi một nhân vật là một dạng tâm bệnh che đậy, bắt đầu từ thời thơ ấu. Có thể thấy quan điểm của Kellerman, không có tội ác nào trong hiện tại lại không có nguyên do từ một hoàn cảnh bất thường hay một xu hướng bệnh hoạn trong thời thơ ấu. Những câu chuyện của ông chứa đựng một lời cảnh báo: hãy quan tâm đến trẻ nhỏ; bạo hành, stress, lạm dụng... đối với trẻ nhỏ, tức là đang gieo mầm cho bạo hành, lạm dụng, giết người... cho tương lai. Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn. Bối cảnh tiểu thuyết của ông là Los Angeles thời hiện đại, với đầy rẫy những bạo hành, stress, lạm dụng; một Los Angeles có vô vàn những vấn đề tâm bệnh, nơi mà xã hội thượng lưu khoác mặt nạ che đậy bên dưới hằng bao dối trá, dục vọng. Kellerman không mô tả tội ác ở những tầng lớp dân nghèo, ông nhằm vào phân tích sự mục ruỗng, méo mó nhân cách ở những tầng lớp trên, nơi những người có tiền, có quyền, có tri thức. Bằng vào sự nhạy cảm, khả năng phân tích, suy luận của nhân vật Alex Delaware, ông dò tìm những bí mật của tâm lý - hành vi ẩn dưới đời sống đĩnh đạc của những bác sĩ, giáo sư đại học, của những thẩm phán, luật sư, cha cố... Kinh nghiệm của một bác sĩ tâm lý đã giúp ông trở thành một nhà văn phân tích hành vi xuất sắc. Hành vi con người, đó là mối quan tâm của ông, là điều ông theo đuổi trong suốt cuộc đời và vì nó mà ông đã viết - trong một bài trả lời phỏng vấn, ông đã nói đại ý như thế. Có thể nói, tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là tiểu thuyết trinh thám - hành vi, một sự kết hợp tài tình giữa tiểu thuyết trinh thám điển hình và tiểu thuyết tâm lý. Nếu con đường của văn chương là khám phá bí mật về con người, thì J. Kellerman đang đi trên con đường đó, từng ngày, bằng những cuốn sách của mình, ông cuốn hút hàng triệu độc giả ở khắp hành tinh trong hành trình mê mỏi khám phá không ngưng nghỉ bí ẩn của hành vi con người. Trần Thanh Hà   *** JONATHAN KELLERMAN Là nhà văn hàng đầu của Mỹ về hành vi phân tích, ông sinh năm 1949 tại New York, khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi. Đến nay đã có tới hơn 11 triệu bản tiểu thuyết của ông được in và bán trên khắp thế giới với những tác phẩm nổi tiếng như: Ba bóng đen (When the bough breaks), Thử máu, Vượt qua rào cản, Bom hẹn giờ, Thám tử tư, Tình yêu dối trá, Ba nhát đâm bí ẩn (The Clinic), Vũ điệu quỷ... Hiện ông sống cùng vợ - Faye Kellerman – nhà văn chuyên viết tiểu thuyết – và bốn người con tại Los Angeles.  *** Trời đang hửng sáng, hứa hẹn một ngày tươi đẹp. Cầu Chúa hôm nay không phải nghe đến hai từ “án mạng”. Hai ngày qua, dòng Thái Bình Dương đã liên tục chảy miết, đẩy những thứ rác rưởi tới Pasadena. Nhà tôi nằm nép mình dưới chân đồi phía Bắc Bel Air, đỉnh một đường mòn cương ngựa chạy ngoằn ngoèo quanh Beverly Glen, nơi sự giàu có và những điều đáng sợ nhất cùng chung sống. Đó là khu vực của những chiếc xe Porsches và những kẻ vô lại, hệ thống thoát nước tồi tàn và những dòng lạch đơn độc. Nhà tôi rộng 74 mét vuông, xung quanh có những cây gỗ tím vỏ màu bạc, những viên đá cuội đã bị nắng mưa bào nhẵn và kính màu. Ở ngoại ô, đây chỉ như một cái lều nhỏ; còn ở đây dưới những quả đồi, đó là một nơi ẩn náu dân đã. Xung quanh có nhiều thùng, vũng và mô đất nhấp nhô, nhiều chỗ tạo cho người ta sự bất ngờ khi mục kích. Ngôi nhà trước kia của một nghệ sỹ do ông tự thiết kế. Sau đó ông bị phá sản phải đem bán tất cả những tác phẩm nghệ thuật của mình cho các nhà trưng bày nghệ thuật ở La Cienega. Vào những ngày đẹp trời - giống như hôm nay - từ nơi này có thể nhìn thấy được đại dương, một mảnh đại dương màu xanh biếc e dè trộm nhìn Palisades. Tôi ngủ một mình, cửa sổ mở toang, không có trộm cắp và những kẻ phá hoại. Mãi 10 giờ mới tỉnh giấc, trần như nhộng. Chăn mền đã bị xô xuống nền nhà giữa những giấc mơ, tỉnh dậy tôi chẳng nhớ gì. Trong cảm giác lười lười ngấy ngấy, tôi chống khuỷu tay kéo chăn mền lên giường và nhìn những lớp ánh nắng màu nâu nhạt chui xuyên qua khe hở của căn nhà. Cuối cùng, tôi đã bị kéo khỏi giường bởi sự xâm nhập của một con ruồi bay quanh nhà tìm kiếm bữa sáng, nó cứ nhằm đầu tôi tấn công. Tôi cố lê bước vào nhà tắm, xả nước vào bồn, rồi đi xuống bếp kiếm cái gì đó để cho vào bụng. Con ruồi vẫn cứ bám chặt lấy tôi. Tôi pha một tách cà phê, xắt một lát hành tươi làm bữa điểm tâm. Con ruồi cũng xông vào xí phần. 10 giờ 20 sáng thứ Hai đẹp trời, chẳng biết đi đâu và làm gì. Có lẽ đã nửa năm từ cái ngày lấy quyết định nghỉ hưu non, tôi vẫn còn ngạc nhiên về sự thoải mái khi đang từ một anh chàng lúc nào cũng đầu tắt mặt tối trong công việc trở thành một anh chàng buông tuồng thế này. Tôi trở lại nhà tắm, đặt mông lên rìa bồn, mồm tóp tép nhai và vẽ ra một kế hoạch mơ hồ cho ngày hôm nay: thong thả tắm xong, đọc báo buổi sáng và có lẽ sẽ đi bách bộ về phía hẻm núi rồi quay lại, tráng qua người và tới thăm... Tiếng chuông cửa kéo tôi ra khỏi sự mơ màng. Tôi cuốn khăn tắm quanh eo và đi tới cửa kịp lúc nhìn thấy Milo bước vào. - Cửa không khoá - Anh giải thích rồi đóng rầm cánh cửa lại. Ném tờ Times lên ghế bành, anh gióng mắt nhìn tôi; tôi đang thắt chặt thêm chiếc khăn tắm. . - Chàng trai của trời đất, tôi chúc anh một buổi sáng tốt lành!  Tôi khoát tay mời anh vào trong. - Này anh bạn, anh nên khoá cửa. Anh không biết chứ, ở Sở cảnh sát, tôi còn cả đống hồ sơ về chuyện xảy ra với các người không đóng cửa khi ngủ nghỉ đấy. - Chào Milo, tôi cũng chúc anh một buổi sáng tốt lành. Tôi sải bước vào bếp và rót hai tách cà phê. Milo bước theo tôi giống như một cái bóng ì ạch rồi mở tủ lạnh lấy một dĩa pizza mà chính tôi cũng không nhớ mình đã để đó từ lúc nào. Anh lại theo tôi ra ngoài phòng khách, sà xuống chiếc ghế bành bọc da đã cũ - một món đồ cổ mang từ văn phòng của tôi ở Wilshire về. Tôi tắt nước trong nhà tắm và ngồi đối diện với anh trên chiếc ghế dài đệm bọc da lạc đà. Milo là một tay lực lưỡng - cao 1 mét 85 - khi ngồi hay nằm, chân tay anh xoãi lòng thòng, tư thế của những kẻ có dáng người kềnh càng. Sáng nay, anh trông chẳng khác gì một con búp bê rách, đổ bẹp xuống ghế - một con búp bê có cái mặt bành bạnh và khôi hài, gần giống mặt của một cậu bé con nếu không có những hút trứng cá nham nhở khắp nơi và đôi mắt mệt mỏi. Đôi mắt màu xanh có sức hút kinh ngạc bao quanh bởi những quầng đỏ, bộ lông mày mầu đen thẫm, tóc dày cộm kiểu Kennedy. Mũi to, sống mũi cao, cặp môi đầy đặn, cong như môi trẻ con. Tóc mai anh có lẽ đã 5 năm chưa cạo nên trễ dài xuống tận má. Như thường lệ, anh mặc bộ Brooks Brothers: áo vét ga- ba-đin màu ô liu, cúc không cài, ca-ra-vát sọc vàng xanh, đuôi đỏ sẫm. Toàn bộ trang phục của anh tạo ra một cảm giác kỳ dị. Anh không thèm để ý đến tôi mà chúi mũi vào đĩa pizza. - Tôi mừng vì anh đã dùng đĩa pizza đó cho bữa sáng của mình.  Tới khi chẳng còn gì trên đĩa, anh mới mở miệng hỏi. - Tình hình anh dạo này thế nào? - Tốt. Chả mấy khi rồng đến nhà tôm, chắc là có chuyện gì hả, Milo? - Cứ phải có chuyện gì mới đến chắc? - Anh phủi những mẩu pizza rơi trên vạt áo xuống thảm trải nền - Thế bạn hè không thể đến với nhau được hay sao? - Anh lén lén lút lút vào nhà tôi vôi vẻ mặt hình sự chắc chắn không phải là đến chơi suông rồi!   Mời các bạn đón đọc Ba Bóng Đen của tác giả Jonathan Kellerman & Đặng Thị Huệ (dịch).
Người Gác Đêm Tập 2
Một “Kị sĩ u linh”, một Sơn Tiêu có thể dễ dàng cải trang dung mạo, một kẻ mang danh “Tai sứt” bí ẩn. Liên tiếp xuất hiện những nhân vật bóng tối tiềm năng. Người gác đêm đang phải đối mặt với đối thủ thần bí, rốt cuộc họ là ai? Ngôi nhà trọ với vụ thảm sát tàn bạo, căn nhà bỏ không hay nghĩa trang hoang vu là nơi ẩn giấu bao điều bí mật, bao ân oán suốt ngần ấy năm, những đứa trẻ non nớt chưa hiểu sự đời đã phải chết yểu. Những vụ kỳ án, dị án được Người gác đêm tiếp nhận, lần lượt được những thành viên trẻ tuổi tinh anh, đầy nhiệt huyết từng bước gợi mở, làm sáng tỏ. Vậy sao mọi việc vẫn còn là một câu đố chưa tìm ra lời giải đáp? Người thầy giáo hướng dẫn tưởng như đã tiếp cận thật gần với sự thật, người phụ nữ bí mật kia rốt cuộc là ai? Khi bóng tối tiềm năng dần được hé mở, là hiểm nguy hay là cơ hội? Bất kể trong bóng tối có những gì; Tôi vẫn luôn là Người gác đêm của bạn! GIới thiệu tác giả: Tần Minh là một bác sĩ pháp y danh tiếng thế hệ 8X tại Trung Quốc. Anh cũng là tác giả dòng tiểu thuyết trinh thám bán chạy nhất hiện nay. Tần Minh bước vào nghề pháp y từ rất sớm, nên anh có kinh nghiệm vô cùng phong phú, được đặt biệt hiệu “Lão Tần”. Anh đã giải mã vô số tử thi, nên thấu hiểu tinh tường đến chân tơ kẽ tóc. Bằng đôi bàn tay “ma mị” của mình, anh đã phá giải bao vụ án bi thảm oan khuất, giúp các oan hồn được siêu thoát. Với tấm lòng từ bi nhân ái, ước nguyện duy nhất của anh là mong cho cuộc sống trên thế giới này luôn yên bình. Tác phẩm tiêu biểu: Series “Pháp y Tần Minh hiện đã xuất hiện đến tập 7; series “Người gác đêm”. Nhiều tác phẩm của anh đã và đang được chuyển thể thành phim truyền hình với tên gọi “Người giải mã tử thi” và “Pháp y Tần Minh”. *** Hồi nhỏ, tôi đã bị ám ảnh bởi ảo tưởng về một tổ chức trừ gian diệt ác luôn nằm trong bóng tối, lặng lẽ bảo vệ nhân dân. Đó là tập hợp những con người kiệt xuất nhất, lòng đầy chính nghĩa và quả cảm, không ngại hiểm nguy, chiến công hiển hách nhưng mãi mãi không bao giờ được lưu danh sử sách. Thậm chí, tôi còn nghĩ nếu mình đủ thông minh, một ngày đẹp trời nào đó, sẽ có một người xuất hiện hỏi: cô có muốn gia nhập đội ngũ Night keepers với chúng tôi không. Chính vì thế, tôi có cảm tình với Người gác đêm ngay khi bắt đầu đọc phần giới thiệu. Một đứa trẻ bị bắt cóc ngay trong nhà, khi đang ngủ cạnh bố mẹ. Mẹ đứa bé là vận động viên điền kinh đang nắm kỷ lục chạy 1000m của tỉnh mà không đuổi kịp kẻ bắt cóc cõng theo đứa bé. Không cần nói cũng biết tên này không phải người thường, nếu đầu quân cho ngành thể thao nước nhà, nhất định làm rạng rỡ tổ tông. Ngoài khả năng chạy nhảy phi tường rất đỉnh ra, hắn còn có thể bẻ khóa, đột nhập không để lại dấu vết gì. Vụ án hoàn toàn rơi vào bế tắc. Vì một sự tình cờ, Tiêu Vọng – một cảnh sát thực tập phát hiện hóa ra đây không phải trường hợp duy nhất. Trong vòng 22 năm qua, đã có 31 đứa trẻ bị bắt cóc như vậy. Bọn bắt cóc chắc xem thầy nên chỉ nhè ngày mùng 8 tháng 6 âm lịch để ra tay. Điểm chung của những đứa trẻ này là bố mẹ chúng có năng lực đặc biệt. (Ơn trời, bố mẹ mình là người thường.) Dường như bọn bắt cóc đang muốn tổ hợp nguồn gen tốt để làm gì đó. Gần như cùng lúc với vụ bắt cóc số 31, 22 tên tội phạm đủ loại ngành nghề đồng loạt trốn thoát bằng một kế hoạch kín kẽ đến mức tưởng có nội gián. Kỳ lạ ở chỗ, những kẻ này không phải tất cả đều nhất thiết phải vượt ngục. Có những tên tội khá nhẹ, ngồi tù vài năm là ra, vượt ngục chỉ tổ tăng tội. Vì thế, nhiệm vụ bắt sống lại 22 tên này để hiểu động cơ của chúng rất quan trọng. Hai vụ án lớn cùng một lúc, thúc đẩy khao khát và nhu cầu thành lập lại tổ hoạt động Người Gác Đêm từng tung hoành giang hồ khiến kẻ xấu khiếp sợ mấy chục năm trước. Gần 1/2 truyện là giới thiệu hoàn cảnh, dẫn dắt đến sự tái khởi động tổ chức này (đặng còn viết mấy tập sau). Hơn 1/2 truyện còn lại là quá trình truy bắt 22 tên tù trốn trại, cũng là bài tập khảo nghiệm lọc thành viên của Người Gác Đêm, là điều kiện để Người Gác Đêm được hoạt động trở lại hay không. Quá trình tìm kiếm này, các vị đọc truyện sẽ biết, khá thú vị. Truyện có đoạn chuyển tông bất ngờ làm tôi ngạc nhiên. Ban đầu, tưởng bạn Tiêu Vọng là nam chính, hóa ra, em trai bản – Tiêu Lãng mới là chính. Tôi thích sự thay đổi này hơi vì bạn Tiêu Lãng là mẫu dương quang thụ điển hình, rất đối lập với lạnh lùng cô đơn sửu công – Lăng Mạc. Hai bạn trẻ đấu trí đấu mồm, cực kỳ tương ái tương sát. Theo kinh nghiệm đọc đam của tôi thì những cp kiểu này sau khi thân ái rồi sẽ vô cùng nóng bỏng và cuồng nhiệt. Người Gác Đêm bày ra một âm mưu khủng khiếp mà bạn Tiêu Vọng phát hiện ra như đã nói trên. Âm mưu lớn như vậy rất thu hút người đọc đón xem tập tiếp. Ở cuối truyện, một nhân chứng quan trọng bị giết, trong tay cầm mảng giấy ghi ba chữ Người Gác Đêm mở cho tôi suy nghĩ rằng nội bộ tổ chức NGĐ năm xưa bị chia cắt bởi 2 tư tưởng: một là nhóm người sẵn sàng ra tay giết những kẻ “họ cho là xấu” mà pháp luật chưa trừng trị và hai là nhóm người giống như bọn Tiêu – Lăng hiện nay – muốn bắt họ về quy án, cố gắng tìm ra kẽ hở pháp luật mà bọn chúng là lợi dụng để thoát tội, dần dần hoàn thiện hóa bộ máy pháp luật, giữ bình an cho nhân dân. Thế hệ kế thừa của 2 nhóm này sẽ đấu trí đấu dũng nhau trong các tập tiếp theo. Kết của tập 1 này kể ra làm tôi hơi chưng hửng vì nó giống như tôi đoán lúc đầu, hơi bị khó tin . Xuyên suốt quá trình phá án, tác giả gài hơi nhiều lời khen ngợi cho cơ quan công quyền và mấy cháu thực tập khiến tôi nghĩ lẽ nào trợ lý mới của Tần Minh là fan của teenfic. Bìa lần này tiến bộ hơn nhiều so với mấy cái bìa đỏ lòe trước nhưng bìa lót cần cải tiến. Khổ sách và lề hơi nhỏ. Tên của nhân vật Trình Tử Mặc bị nhầm thành Trần Tử Mặc. Quynh Anh Thi Dang *** Rất nhiều bạn bè hỏi tôi, series “Người gác đêm” này của anh, rốt cuộc là muốn bày tỏ điều gì? “Chống lại bóng tối, bảo vệ ánh sáng”, đây chính là tâm nguyện trong lòng của những người cảnh sát nhân dân - lực lượng hy sinh to lớn nhất trong thời đại hòa bình. Tôi rất tự hào bản thân mình là một người cảnh sát, tôi cũng muốn kể cho mọi người nghe những câu chuyện của cảnh sát. Nếu như có thể cùng với việc kể những câu chuyện của cảnh sát mà làm cho tinh thần pháp trị thấm sâu vào lòng người, thì càng là việc không mong đợi gì hơn nữa. Trước đây không lâu, trong buổi công bố của Tencent Picture*, tôi đã nói: “Series truyện Người gác đêm sẽ tiếp nối bối cảnh khoa học kỹ thuật hình sự chân thực, khoa học và nghiêm ngặt của series truyện “Pháp y Tần Minh”, nhưng sẽ có những đột phá về mặt phát triển đội ngủ cảnh sát và sự đối kháng trong tổ chức.” Đây chính là nguyện vọng chân thực nhất của tôi. Còn có người hỏi tôi, series “Người gác đêm” là những câu chuyện kể về một số siêu anh hùng trẻ tuổi phải không? Tôi nói không phải. Chúng ta đều biết, chỉ cần là miêu tả chân thực, tự nhiên sẽ không có siêu anh hùng gì cả. Tổ chức Người gác đêmthực ra là có nguyên mẫu thực của nó, đó chính là rất nhiều phòng công tác chuyên môn trực thuộc trung tâm giám định vật chứng Bộ Công an. Những chuyên gia lão luyện đức cao vọng trọng dẫn dắt đội ngũ tinh anh chuyên nghiệp trên mọi miền đất nước lập nên các phòng công tác, có thể nói là đi tới đâu phá được án tới đó, cho dù án khó, nghi án hay kỳ án, họ phá được hết vụ án này sang vụ vụ án khác, lập được rất nhiều chiến công hiển hách. Tôi chỉ là lấy họ làm nguyên mẫu, để cho một nhóm những bạn trẻ tràn đầy nhựa sống làm nhân vật chính mà thôi. Trẻ trung tinh nhuệ, tràn đầy nhiệt huyết, chăng phải cũng chính là trạng thái mà đội ngũ công an chúng ta cần phải có sao? Có điều là, tạo dựng một thế giới quan hoàn toàn mới, đối với một người không đủ trí tưởng tượng là tôi đây mà nói, thực là một việc khó khăn. May mà có sự giúp đỡ của các bạn trẻ trong công ty Văn hóa Truyền thông Nguyên Khí, chúng tôi hết lần này đến lần khác sửa đổi đề cương nội dung, điều chỉnh cốt truyện chính. Sau khoảng thời gian một năm, bản thảo trải qua mười mấy lần chỉnh sửa lớn nhỏ, cấu tứ câu chuyện của chúng tôi cuối cùng cũng dần dần trở nên rõ nét. Cuối cũng thì tôi đã có thể cầm bút tiếp tục sáng tác “Ngườigác đêm 2” rồi. Tại sao phải trải qua nhiều lần chỉnh sửa như vậy chứ? Điều này cần phải nói bắt đầu từ khi xuất bản cuốn “Người gác đêm 1”. Thực ra, trước khi sáng tác series “Người gác đêm”, chúng tôi đã có một tuyến truyện hoàn chỉnh rồi. Chỉ tiếc là, Lão Tần vốn là dân học tự nhiên, năng lực về mặt viết lách thực sự còn nhiều khiếm khuyết. Trong “Người gác đêm 1” cũng đã để lộ ra rất nhiều khuyết điểm. Sau khi “Người gác đêm 1” xuất bản, tôi đã tỉ mỉ đọc những lời nhận xét của các bạn độc giả. Dù phần lớn độc giả nhiệt tình cổ vũ động viên Lão Tần, nhưng cũng có không ít độc giả đưa ra nhiều phê bình, góp ý. Cho dù là động viên hay phê bình, Lão Tần tôi tại đây cũng xin được chân thành cúi đầu cảm ơn! Những tràng pháo tay, tiếng hoan hô và lời cổ vũ động viên của độc giả khiến tôi có thêm sự tự tin trên con đường sáng tác; những lời phê bình của các bạn độc giả cũng khiến tôi có thêm động lực để hoàn thiện bản thân, bổ sung những thiếu sót của mình. Với mong muốn để series “Người gác đêm” càng gần gũi chân thực hơn, để không phụ lòng mong đợi của độc giả, và cũng để cho cả câu chuyện thêm phần cuốn hút hơn, trên cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp của các bạn độc giả, chúng tôi đã điều chỉnh lại tuyến truyện chính. Cá nhân tôi cảm thấy, bản thảo hiện giờ còn ly kỳ và hấp dẫn hơn, ngay bản thân tôi chỉ mới nghĩ đến việc bắt đầu cầm bút viết đã thấy vô cũng hào hứng rồi. Bất luận thế nào, đối với một người vẫn đang không ngừng miệt mài viết tiếp bộ truyện “Pháp y Tần Minh” là tôi mà nói, series “Người gác đêm” là một sự khởi đầu hoàn toàn mới, là mốc giới quan trọng đánh giá sự đột phá vươn lên trong sáng tác của tôi. Trong quá trình viết bộ “Người gác đêm”, tôi luôn cảm thấy tư duy vững chắc của bản thân mình không ngừng bị lung lay, bầu trời trước mắt tôi ngày càng rộng mở. Tôi nghĩ, đây có lẽ chính là quá trình đang tiến bộ đấy nhỉ. Tuy rằng kết quả không chắc chắn hoàn mỹ, nhưng quá trình này khiến cho con người ta mê say. Bởi vậy mà nói series “Người gác đêm” vô cùng quan trọng trên con đường sáng tác của Lão Tần. Tôi biết, những độc giả thân yêu của tôi, nhất định sẽ nắm lấy tay tôi, cũng nhau trải qua những khó khăn trắc trở trên chặng đường sáng tác. Viết đến đây, trong lòng tôi chợt trào dâng cảm giác ấm áp vô ngần. Chính là các bạn độc giả của tôi, đã ở bên tôi trọn vẹn suốt hơn năm năm qua, cũng chính sự hợp lực của chúng ta, khiến cho những câu chuyện pháp y của công an được lưu truyền rộng rãi. Những câu chuyện trong series “Người gác đêm” rất phức tạp, muốn kể cho rõ ràng thì phải cần đến ba cuốn sách, Lão Tần tôi tha thiết mong rằng, mọi người có thể kiên nhẫn, từ từ nghe tôi kể hết câu chuyện. Tôi cũng thực lòng hy vọng, các bạn độc giả của tôi sau khi đọc xong series truyện “Người gác đêm” có thể hấp thu được dù chỉ là một chút dưỡng chất. Không dài dòng nữa, “Người gác đêm 2” là một mắt xích quan trọng kết nối hai phần trước sau series ba cuốn “Người gác đêm”,cũng là mắt xích đặc biệt quan trọng trong cả series, rất nhiều manh mối quan trọng đều sẽ xuất hiện trong cuốn sách này. Các bạn có mong chờ không? Vậy chúng ta cùng bắt đầu nhé! Tần Minh Ngày 20 tháng 9 năm 2017 Mời các bạn đón đọc Người Gác Đêm Tập 2 của tác giả Tần Minh.