Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ

Đằng sau mỗi món đồ cổ, là tầng tầng lớp lớp lịch sử và văn hóa truyền thừa bao đời; Đằng sau mỗi món đồ giả, là mánh lới tính toán tinh vi cùng cạm bẫy khó bề tưởng tượng. Hứa Nguyện rửa được nỗi oan cho ông nội, nổi lên như một anh hùng đánh hàng giả trên thị trường cổ ngoạn, song lòng vẫn canh cánh mối thù gia tộc với Lão Triều Phụng - bàn tay đen đứng sau bi kịch bao đời nhà họ Hứa. “Tình cờ” thay, mọi manh mối về kẻ cầm đầu dòng chảy ngầm lớn nhất giới cổ vật này đều dẫn gã đến với quốc bảo Trung Hoa - Thanh minh thượng hà đồ. Một lần nữa Hứa Nguyện đơn thương độc mã dấn thân trên con đường trừ giả giữ thật mà không lường đến những gì mình sẽ phải đương đầu. Lôi Lão Triều Phụng ra ánh sáng, bảo vệ Minh Nhãn Mai Hoa trước nguy cơ lụi bại, giữ vững tôn chỉ của người giám định… ngần ấy nhiệm vụ hệ trọng dường như quá sức với một kẻ đang nôn nóng báo thù như gã. Bởi trong khi con người giám định cổ vật, cổ vật cũng giám định con người… *** Nửa đêm trộm mộ “ăn trên chiếu” Chơi đồ cổ quan trọng nhất là gì? Người nói là mắt nhìn, kẻ lại bảo là quan hệ, thực ra đều không chính xác. Ngành này xét đến cùng phải chú trọng hai chữ: “duyên phận”. Thế nên người chơi đồ cổ thế hệ trước phần nhiều đều tin số mệnh, cho rằng số đã có ắt có, số không có thì đừng cố. Nếu không có duyên với một món đồ mà cứ cố giành về tay, gọi là đi ngược ý trời, sẽ dẫn tới hậu họa khôn lường, món đồ ấy không còn là hàng tốt nữa, mà trở thành vật dữ cắn chủ, nhẹ thì thân bại danh liệt, nặng thì nguy tới tính mạng. Có điều đây đều là cách nói từ xưa, được quy vào mê tín dị đoan. Thời bây giờ ai cũng tiếp thu mấy chục năm giáo dục theo chủ nghĩa duy vật, chẳng tin mấy lời đó nữa. Hễ có tiền đưa tới tay thì bất chấp quy củ cách thức, ta cứ thế xông lên phá vỡ đạp bằng, chẳng sợ gì sất. Thần tài ngồi trên, yêu ma quỷ quái cũng phải đứng sang một bên. Ví như mấy người ngồi cùng xe với tôi hiện giờ, rõ ràng không phải hạng con buôn cổ hủ trọng truyền thống. Tôi đang ngồi trong một chiếc van Toyota chín chỗ cũ nát, ngoài lái xe ra tổng cộng có năm người. Bên trong xe lặng phắc như tờ, chẳng ai bắt chuyện, cũng chẳng ai hàn huyên. Bốn người kia đều ngồi im tại chỗ, trưng ra vẻ mặt hờ hững khó gần. Chỉ khi xe thình lình xóc nẩy lên, họ mới đảo mắt thật nhanh, vờ như vô tình liếc nhau một cái sắc lẻm. Tôi cảm giác được họ không giống mình. Tôi là chủ một tiệm đồ cổ nhỏ trong thành phố, còn họ là con buôn cổ vật chuyên thu mua đồ cũ từ nông thôn. Những người này quanh năm suốt tháng lê la dưới quê, qua lại với đám nông dân vừa chất phác vừa gian xảo nên người cũng thoang thoảng mùi bùn đất và sát khí. Bọn họ là ai? Xe chạy đi đâu? Tôi hoàn toàn không biết. Cửa xe đóng kín, bên ngoài đêm tối như mực, không trông rõ được cảnh vật. Chỉ có tiếng động cơ chạy ì ì cho thấy chúng tôi đang tiến tới một mục tiêu nào đó. Tôi cũng chẳng buồn nghĩ nhiều, dựa đầu vào cửa kính lạnh lẽo, huyệt Thái Dương tì vào chốt cửa, gà gật ngủ. Xe chạy lắc lư tròng trành dữ dội, trong lúc mê man, tôi chợt có một ảo giác lạ lùng: thùng xe chẳng khác nào cỗ áo quan khổng lồ vừa đóng đinh, kín mít không lọt một tia sáng. Tôi nằm trong, bên ngoài có mười sáu người khiêng quan tài băng qua nghĩa địa, bước xuống lối vào mộ, tiến về phía huyệt mộ cuối cùng... Phải rồi, quên chưa tự giới thiệu. Tôi tên Hứa Nguyện, hơn ba mươi, là một tay buôn cổ vật cò con dưới chân hoàng thành. Tôi có một cửa tiệm nhỏ ở Lưu Ly Xưởng, buôn bán kim thạch ngọc khí, gọi là Tứ Hối Trai. Tứ hối là gì? Chính là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời trăng trối của bố tôi, dạo Cách mạng Văn hóa, ông bị hãm hại phải nhảy xuống hồ Thái Bình tự tử, chỉ để lại tám chữ này. Song đằng sau đó còn ẩn giấu một câu chuyện dài. Tổ tiên tôi là một chi trong “Minh Nhãn Mai Hoa” gồm năm gia tộc lâu đời trong ngành cổ vật, mỗi nhà sở trường giám định một loại đồ cổ, có địa vị cực cao trong giới sưu tầm. Sau giải phóng, Minh Nhãn Mai Hoa cải tổ thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, vẫn có sức ảnh hưởng không nhỏ. Hứa Nhất Thành, ông nội tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thời Dân Quốc, xuất thân Bạch môn, về sau vì đánh cắp đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên tuồn cho người Nhật nên bị coi là Hán gian đem xử bắn. Từ đó nhà tôi cũng sa sút không gượng dậy nổi, rút lui khỏi Minh Nhãn Mai Hoa. Vào ngày sinh nhật ba mươi tuổi, do sự thúc đẩy của những người cố ý, tôi đã rơi vào vòng xoáy này. Trải qua một phen bôn ba trắc trở, cuối cùng xem như tôi cũng giải oan được cho ông nội, đưa đầu Phật về nước, kết thúc mối dây dưa ngàn năm giữa nhà họ Hứa và đầu Phật ngọc. Sau khi xong việc, tôi quay về Tứ Hối Trai, tiếp tục buôn đồ cổ, sống lặng lẽ. Đột nhiên nghe phanh két một tiếng, người tôi đổ nhào về phía trước, sực tỉnh khỏi dòng ký ức. Xe đã dừng lại, tôi mở mắt ra, lắc lắc đầu. Ngờ đâu vừa quay đầu sang, tôi chợt thấy một gương mặt trắng bệch với đôi mắt cực kỳ quái dị hiện lên giữa bóng tối bên ngoài xe, một bên to tướng như mắt trâu, lòng đen ít lòng trắng nhiều, bên kia lại nhỏ xíu, thi trừng mắt với rùa chưa chắc đã thắng nổi. Cặp mắt một to một nhỏ này, trông như lúc nào cũng đang ngắm bắn. Tôi giật thót mình, vô thức rụt người lại, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Bốn kẻ cùng xe cười nửa miệng, lộ vẻ khinh bỉ. Bấy giờ tôi mới nhớ ra, gương mặt này hẳn là của tài xế. Chẳng để tôi nghĩ nhiều, cửa xe đã bị kéo đánh “xạch”, tài xế ló đầu vào, đảo tròn con mắt to rồi làm động tác mời, giọng khàn khàn, “Tôi tên Mắt Trố, làm chân chạy bàn, mời các vị theo tôi.” Tôi vội điều hòa hơi thở, theo bốn người kia xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất đã thấy mùi cỏ dại và cành thông xộc vào mũi man mát. Khỏi cần hỏi cũng biết, đây là mùi đặc trưng của chốn đồng không mông quạnh, hơn nữa còn là nơi hết sức hoang vu. Tôi nhìn quanh, lờ mờ thấy mấy ngọn núi đằng xa, trông như thú dữ mai phục trong đêm, có thể nhào tới bất cứ lúc nào. Mắt Trố bảo bọn tôi theo sát sau y. Mây đen đang bao phủ bầu trời, che khuất mặt trăng, chỉ có ngọn đèn pin loang loáng thoắt sáng thoắt tối trong tay Mắt Trố soi đường. Cây đèn pin của y có vẻ rất được chăm chút, bóng đèn bọc một khoanh giấy bìa cứng, như vậy cột sáng chỉ tập trung vào phía trước, không chiếu sang hai bên, nên cách hơi xa sẽ không thấy được. Chúng tôi bước thấp bước cao trên triền núi theo y chừng hơn mười phút, rẽ ngoặt liên tục, còn băng qua hai khoảng rừng. Rốt cuộc một người không kìm được lên tiếng hỏi, “Anh đưa chúng tôi đến đâu đây? Cỗ ở đâu vậy?” Mắt Trố quay lại nhe răng cười đáp, “Nôn nóng làm gì, chủ đâu có rời chiếu cỗ được.” Nói đoạn còn cười khà, tiếng cười như quạ. Y vừa cười, nhiệt độ xung quanh chợt hạ xuống, lạnh buốt cả người. Kẻ kia không dám hỏi thêm nữa, đành “hừm” một tiếng rồi đi tiếp. Đám chúng tôi đi chừng hơn nửa tiếng thì tới một khe núi vắng. Khe núi bị hai dãy núi cao ngất kẹp vào giữa, tạo nên một bình nguyên dưới chân núi. Từ đằng xa loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, hẳn là dòng suối từ trên núi chảy xuống, uốn quanh chỗ này, cắt khe núi thành hình tam giác. Khe suối là đáy, hai dãy núi sừng sững hai bên. Địa hình này trong phong thủy gọi là hai rồng xuống nước, là đất lành hợp xây mồ mả. Mắt Trố tiến vào khe núi thì dừng chân, rọi đèn pin về phía trước. “Bên này.” Chúng tôi nhìn theo ánh đèn, thấy thấp thoáng đằng xa một người trẻ tuổi mặc đồ rằn ri đang ngồi trước mặt là một cái hố rộng chừng nửa mét, mép hố còn gác ba chiếc xẻng cán thép và cả đống đất mới đào. Khỏi cần hỏi cũng biết ở nơi đất báu phong thủy thế này đào sâu ba thước ắt có mồ mả, có mồ mả tất có trộm mộ đánh hơi được kéo đến. “Đào tới đâu rồi?” Một tên mặt sẹo đi cùng tôi hỏi. Mắt Trố di chân xuống đất, hể hả đáp, “Tìm ra vị trí mộ rồi, vừa rồi chúng tôi mới đào đến vách sau, chỉ một nhát nữa là tới cửa thôi, đợi các vị đến mở chiếu đấy.” Mấy người đi cùng tôi đến trước hố đất, gạt lớp đất mới đào ra, vẻ mặt không ai giống ai. Nghe nói trộm mộ lâu năm chỉ cần nhìn đất là biết niên đại mộ. Có điều tôi chẳng có tài ấy, chắc hẳn mấy kẻ đi cùng cũng chẳng khá hơn. Chúng nhìn đất chỉ để yên tâm chứ đâu nhận ra cái gì. Kiểm tra đất xong, Mắt Trố cười khì, “Các vị may thật đấy, món lần này là thịt kho của bếp trưởng. Nếu không có gì thắc mắc thì lên món nhé?” Cả năm chúng tôi đồng loạt gật đầu, đứng tránh ra một quãng. Mắt Trố soi đèn pin về phía kia, hô “mở bát”, tức thì tên chạy bàn mặc đồ rằn ri đứng dậy, cầm chùy sắt và xẻng lên. Dáng gã gầy gò, lách vào hầm dễ như bỡn. Mắt Trố rút trong ngực áo ra một chai rượu trắng hàng chiết lẻ và năm cái chén, lần lượt đưa cho năm chúng tôi, “Trong núi sương dày lạnh giá, làm ít rượu trắng cho ấm người, phải chờ một lúc nữa cơ.” Không nói thì thôi, y vừa nói tôi liền thấy gió lạnh bốn bề, sương mù bảng lảng, vô thức liếc nhìn vào cánh rừng tối om. Mắt Trố đưa chén tới trước mặt tôi cười, “Chú em lần đầu ăn trên chiếu à?” Thấy tôi cười ngượng, y nói, “Ăn quen bén mùi, anh em mình vất vả một tí, nhưng chắc ăn hơn, có phải không?” Tôi gật đầu lia lịa, đón lấy chén rượu uống cạn, rượu trắng cay nồng như ngọn lửa cháy lan theo cổ họng xuống tận dạ dày, song mắt tôi vẫn dán vào đống bùn đất đang không ngừng đùn ra từ cửa hầm, lòng quặn lên. “Ăn trên chiếu” như lời Mắt Trố là một hoạt động khá kín đáo trong giới đồ cổ, trước đây tôi chỉ nghe nói, không ngờ hôm nay cũng được tận mắt chứng kiến. Phần lớn đồ cổ đến từ hai nguồn: một là đồ gia truyền đời đời lưu giữ, hai là đồ tùy táng bị đào ra. Loại trước được truyền đời rõ ràng, nhưng loại sau hơi khó phân định thật giả. Anh bảo món đồ này đào được trong mộ ra, bằng chứng đâu? Lỡ lừa gạt người ta thì sao? Phải biết có những món đồ cổ bản thân nó hoàn toàn không đáng tiền, tất cả giá trị đều nằm ở xuất xứ. Cùng một hạt dưa, mua từ hàng tạp hóa thì chẳng đáng một xu, nhưng nếu từ trong bụng xác nữ ở gò Mã Vương thì nghìn vàng chưa mua nổi. Thế là có kẻ nảy ra một cách, thăm dò xác định vị trí mộ đâu vào đấy, đào đường hầm đến cạnh mộ rồi để đó, mời vài người mua đến hiện trường, mở cửa mộ ngay trước mặt họ, đào lên bán sang tay luôn. Người mua chính mắt thấy đồ được đào dưới mộ lên, dĩ nhiên khỏi cần lo hàng giả. Trò này trong ngành đồ cổ gọi là “ăn trên chiếu”, không phải chiếu rượu, mà là chiếu cói, chiếu cói để làm gì? Thời xưa người ta dùng chiếu cói bọc xác chết, nên nó ý chỉ mồ mả. Những người mua như chúng tôi gọi là “khách”, trộm mộ thì gọi là “chạy bàn”, dĩ nhiên “chủ” chỉ người chết trong mộ. Bởi vậy vừa rồi Mắt Trố nói “chủ không rời được chiếu cỗ” khiến mấy người kia sợ quá nín thít. Mời bạn đón đọc Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tấn Trò Đời - Honoré de Balzac
Honoré de Balzac dành nhiều công sức, thời gian cho việc viết tiểu thuyết và phần lớn số tiểu thuyết ông viết được gộp chung thành tác phẩm duy nhất mang tên La Comédie humaine (bản dịch tiếng Việt có tên gọi Tấn trò đời) Tấn trò đời gồm khoảng 95 tác phẩm được Balzac gộp lại vào năm 1842, gồm 3 phần: nghiên cứu về thói quen, nghiên cứu triết học và nghiên cứu bản chất. Những tác phẩm trong Tấn trò đời vừa gắn kết với nhau, vừa có thể tồn tại độc lập. Người ta có thể hiểu một tác phẩm mà không cần đọc các tác phẩm còn lại. Những câu chuyện hoàn toàn khác nhau, chỉ có nhân vật được lặp lại, xuất hiện nhiều lần. Ví dụ trong chuyện này, nhân vật A có thể là nhân vật chính, nhưng trong chuyện khác anh ta lại là nhân vật phụ, là một người có liên quan đến nhân vật chính. Balzac quan niệm xã hội là một chỉnh thể, tất cả các sự kiện đều tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau một cách hết sức chặt chẽ như trong giới tự nhiên. Tất cả những đặc điểm ấy gây cho độc giả ấn tượng như đang sống trong một xã hội có thực. Tuy nhiên, những tác phẩm trong Tấn trò đời là một khối thống nhất vì tất cả cùng vẽ nên bức tranh xã hội Pháp nửa đầu thế kỷ 19. Tựa đề "Tấn trò đời" được Balzac đặt theo tên tác phẩm Vở kịch thần thánh (Divina commedia) của Dante Alighieri (1265-1321). Balzac muốn cho thấy ý định của ông khi viết các tác phẩm trong "Tấn trò đời": tả về cái địa ngục ngay giữa xã hội con người. Nhà văn có đụng ý chọn cái tên đối lập với tên tác phẩm nổi tiếng của Dante có thiên đường và địa ngục. Balzac đã có ý định tập hợp các tác phẩm từ rất sớm. Năm 1830, ông đã cho in 6 tác phẩm vào một quyển sách chung với nhan đề Cảnh đời tư. Hai năm sau Cảnh đời tư được bổ sung thêm hai tác phẩm nữa. Năm 1834 sự tập hợp mở rộng thêm một bước, nhiều tác phẩm được sắp xếp dưới một nhan đề chung là Khảo cứu phong tục, chia làm 6 cảnh, đồng thời nhà văn còn dự kiến có thêm các phần Khảo cứu triết học và Khảo cứu phân tích. Năm 1842, ý định tập hợp và sắp xếp các tác phẩm thành hệ thống của Balzac mới thực hiện được đầy đủ. Nhan đề dự kiến trước đó Khảo cứu xã hội được thay bằng Tấn trò đời. Do ông mất khi mới 51 tuổi nên nhiều tiểu thuyết chỉ có tên chứ chưa có nội dung.  Tấn trò đời được chia làm ba phần: Khảo cứu phong tục, gồm 6 cảnh: Cảnh đời tư (32 tiểu thuyết, đã viết xong 28), Cảnh đời Paris (20 tiểu thuyết, đã viết xong 14), Cảnh đời chính trị (8 tiểu thuyết, đã viết xong 4), Cảnh đời quân sự (23 tiểu thuyết, đã viết xong 2), Cảnh đời nông thôn (5 tiểu thuyết, đã viết xong 3) Khảo cứu triết học (27 tiểu thuyết, đã viết xong 22) Khảo cứu phân tích (5 tiểu thuyết, đã viết xong 1) Tấn Trò Đời có tất cả 16 tập:   Tấn Trò Đời Tập 1-Khảo Luận (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 446 Trang Tấn Trò Đời Tập 2-Lão Goriot (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 489 Trang Tấn Trò Đời Tập 3-Luật Đình Chỉ (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 595 Trang Tấn Trò Đời Tập 4-Những Người Độc Thân (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 485 Trang Tấn Trò Đời Tập 5-Gaudissart Trứ Danh (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 356 Trang Tấn Trò Đời Tập 6-Vỡ Mộng (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 699 Trang Tấn Trò Đời Tập 7-Truyện Mười Ba Người (NXB Thế Giới 2000) - Balzac, 360 Trang Tấn Trò Đời Tập 8-Bức Thăng Trầm Của Kỹ Nữ (NXB Thế Giới 2000) - Balzac, 616 Trang Tấn Trò Đời Tập 9 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 10 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 11 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 12-Những Cảnh Đời Chính Trị (NXB Thế Giới 2001) - Balzac, 384 Trang Tấn Trò Đời Tập 13 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 14-Bông Huệ Trong Thung (NXB Thế Giới 2001) - Balzac, 321 Trang Tấn Trò Đời Tập 15 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 16 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. Mời các bạn đón đọc bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn Trò Đời của tác giả Honoré de Balzac.
Nghệ nhân và Margarita - Mikhail Bulgakov
M.Bulgakov - Bản thảo không bị cháy Từng chương, từng trang sách, đều ẩn chứa trong đó những hàm ý triết học được "phổ" vào ngay cả những sự kiện xoàng xĩnh, khôi hài đến thảm hại của một hiện thực rã nát trong thế giới văn nhân. Và toàn thể tiểu thuyết là một tuyên ngôn nghệ thuật mà cho đến ngày nay các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục khám phá không ngưng nghỉ. Nghệ Nhân là nhà văn vừa hoàn thành tiểu thuyết, viết về hai nhân vật Lesua và Ponti Pilat: Một là nhà triết học lang thang và một là quan tổng trấn quyền uy. Lesua đã bị gài bẫy, bị bắt và bị hành hình vì những rao giảng của mình. Cái chết của Lesua đã trở thành nỗi ám ảnh kéo dài suốt hai nghìn năm, không để cho Ponti Pilat được yên, bởi quan tổng trấn đã không thể "cứu" được Lesua khỏi án chết, như ước muốn bí mật chỉ riêng ông biết. Số phận của Nghệ Nhân cũng không hề may mắn hơn: Tác phẩm của anh bị nguyền rủa và khai tử bởi các đồng nghiệp ngay từ lúc chưa công bố, dẫn đến việc anh bế tắc, tuyệt vọng, tự đốt bản thảo và tìm đến nhà thương điên, trốn chạy cả tình yêu định mệnh của Margarita… Chỉ có quỷ sứ mới cứu nổi nhà văn. Và quả thật quỷ sứ đã xuất hiện. Phần lớn số trang của tiểu thuyết đã dành để mô tả những gì mà chúa quỷ Voland và đoàn tùy tùng đã "quậy tưng" thành phố Moscow lên theo cách nào. Bằng những phép thuật được sử dụng như thuốc thử, Voland đã buộc giới văn nhân tự lộn trái mình ra, bộc lộ những phẩm chất tồi tệ: Bất tài, dối trá, ăn bám và hám lợi. Quả thật, Bulgacov với "Tài năng của nhà văn trào phúng, tài năng của nhà văn giả tưởng và tài năng của nhà văn hiện thực" đã nén đến tối đa những vấn nạn văn chương - tư tưởng, nhằm khẳng định khát vọng của nhà văn. Nó ở trong lời đáp của Voland khi Nghệ Nhân lên tiếng hỏi mình có nên chạy theo Ponti Pilat không: "Không, chạy theo dấu vết của cái đã kết thúc để làm gì?…Chẳng lẽ anh không muốn giống như Faust, ngồi bên chiếc bình cổ cong với niềm hy vọng mình sẽ tạo ra được một giống Homuncul mới?". Nếu Nghệ Nhân - nhà văn trong tiểu thuyết khá mềm yếu và thụ động thì Bulgacov - nhà văn ngoài đời thực hoàn toàn ngược lại. Mạnh mẽ, quyết liệt, Bulgacov đã gửi một bức thư dài đến chính phủ Liên Xô: "Và tự tay tôi, tôi đã ném vào lò sưởi một tập bản thảo cuốn tiểu thuyết viết về quỷ sứ, một tập bản thảo hài kịch và phần đầu cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi - tiểu thuyết Sân khấu…Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi cũng có nghĩa là bị chôn sống… Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu. Nếu cả điều đó cũng không thể được, tôi xin chính phủ Xô viết xử trí tôi như chính phủ thấy cần thiết…". Bức thư đã được gửi đi vào trước thời điểm mà Maiakovski đã dùng súng tự bắn vào đầu. Sự quyết liệt ấy đã thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết, ở những đối thoại giữa giữa Lesua - Pilat. Iesua đã trả lời Pilat, nhắc lại những gì mà vì nó, nhà triết học phải bước lên đoạn đầu đài: "Tôi nói rằng ngôi đền của lòng tin cũ sẽ sụp đổ, và ngôi đền mới của chân lý sẽ được dựng lên… Bất kể thứ quyền lực nào cũng là bạo lực đối với con người, và sẽ đến một lúc sẽ không còn quyền lực của các hoàng đế lẫn bất kỳ thứ quyền lực nào khác. Con người sẽ đến được vương quốc của sự thật và công lý, nơi nói chung sẽ không cần một quyền lực nào cả…". Có lẽ sự quyết liệt ấy đã giúp cho "bản thảo không bị cháy", cho dù Nghệ Nhân, cho dù chính Bulgacov đã đốt nó. *** Năm 2006, Mikhail Bulgakov, một trong những nhà văn lớn nhất và kỳ bí nhất của nước Nga, tròn 115 tuổi. Hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử, như lời khẳng định của một nhà văn Nga: “Bulgakov – nhà văn đang sống và sẽ sống chừng nào còn tồn tại văn học Nga”. Hơn thế nữa, mối quan tâm đối với sự nghiệp sáng tác của Bulgakov mỗi ngày một tăng ở Nga và ở nhiều nơi trên thế giới, hầu hết tác phẩm của ông liên tục được in, tái bản, dịch, dựng phim… Xuất hiện ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu “Bulgakov học”. Ông là một trong số rất ít nhà văn ở Nga được làm “Bách khoa toàn thư”; và đặc biệt, Bulgakov có lẽ là một trong những nhà văn có tác phẩm được đưa lên và được đọc nhiều nhất trên mạng Internet. Nghệ nhân và Margarita là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của M. Bulgakov, một trong những đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ Nga. Tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt hai mươi năm trước, có thể nói đây là công trình dịch thuật công phu và tâm đắc nhất của tôi. Tuy nhiên, có một sự thật là, khác với ở nước Nga và phương Tây, kiệt tác này không thật sự được phổ biến và tiếp nhận rộng rãi ở bạn đọc Việt Nam – có lẽ là do những khác biệt nhất định về văn hóa. Lần này, 65 năm sau khi tác phẩm ra đời, chúng tôi xin tái bản lại bản tiếng Việt trong một nỗ lực tiếp tục đưa Bulgakov đến gần hơn nữa với bạn đọc Việt Nam, nhất là bạn đọc trẻ tuổi, thế hệ mà tôi hi vọng sẽ dễ dàng tiếp cận Nghệ nhân và Margarita hơn. Ngoài bản dịch cuốn tiểu thuyết, chúng tôi đưa thêm phần Phụ lục để phần nào giúp bạn đọc trong việc cảm thụ tác phẩm này. Hà Nội, 27 tháng 1 năm 2006 Ðoàn Tử Huyến *** Một buổi chiều mùa xuân, vào cái giờ mặt trời lặn nóng chưa từng thấy, trong công viên Hồ Pat’riarsi1 ở Moskva xuất hiện hai vị nam công dân. Người thứ nhất dáng thâm thấp, béo tốt, hói đầu, mặc bộ quần áo mùa hè màu xám nhạt, chiếc mũ còn khá lịch sự bóp lại cầm trong tay, cặp kính gọng sừng đen to quá cỡ ôm ngang khuôn mặt cạo kỹ lưỡng. Người thứ hai còn trẻ, vai rộng, tóc vàng hung rối bù, mũ cát két sọc vuông đội lệch ra sáu gáy, áo sơ mi kẻ ô, quần dài trắng nhàu nát và chân đi đôi giày vải đen. Người thứ nhất không phải ai khác, mà chính là Mikhail Aleksandrovich Berlioz2, chủ tịch ban chấp hành của một trong những hiệp hội văn học lớn nhất Moskva, viết tắt là MASSOLIT3, và ông đồng thời cũng là tổng biên tập một tờ tạp chí văn học lớn; còn người bạn đường trẻ của ông là nhà thơ Ivan Nikolaievich Ponưrev, bút danh Bezdomnưi4. Bước vào dưới dãy bóng râm của hàng cây lipa5 đang bắt đầu nhú lá xanh, việc đầu tiên của hai nhà văn là chạy vội đến bên chiếc quầy dựng bằng ván sơn sặc sỡ với dòng chữ “Bia và nước giải khát”. Mà quên, có lẽ cần phải thông báo ngay cho bạn đọc biết điều kỳ lạ thứ nhất của cái buổi chiều tháng Năm khủng khiếp này. Ðó là, không chỉ ở cạnh quầy giải khát, mà suốt dọc cả con đường có trồng cây chạy song song với phố Malaia Bronnaia cũng không thấy một bóng người nào. Vào cái giờ đó, khi hình như mọi người đã hết cả sức để thở, khi vầng mặt trời, sau một ngày thiêu đốt Moskva, đang bọc mình trong màn sương khô lặn xuống một nơi nào đấy phía sau tuyến đường vòng Sadovoie, chúng ta không hề gặp một ai đi dạo hóng mát dưới bóng hàng cây lipa, không thấy một người nào ngồi trên những chiếc ghế băng “suốt dọc con đường dài vắng tanh vắng ngắt.” “Cho cốc nước khoáng narzan”, Berlioz nói với người đàn bà bán hàng. “Không có narzan đâu”, người đàn bà trong quầy đáp, và không hiểu tại sao bà ta lại tỏ vẻ phật ý. “Có bia không?” Bezdomnưi hỏi bằng giọng khàn khàn. “Bia tối mới chở về”, người đàn bà trả lời. “Thế có gì?” Bezdomnưi lại lên tiếng. “Nước mơ ấm”, người đàn bà nói. “Thôi được, cho xin, cho xin, cho xin!…” Hai cốc nước mơ sủi rất nhiều bọt màu vàng, và trong không khí bốc lên một thứ mùi như ta thường thấy trong các cửa hiệu cắt tóc. Uống xong, hai nhà văn lập tức đua nhau nấc cụt; họ trả tiền và ngồi xuống một chiếc ghế băng, mặt ngoảnh ra hồ, lưng quay về phía phố Bronnaia. Ðúng lúc đó bắt đầu xảy ra điều kỳ lạ thứ hai của buổi chiều hôm đó, nhưng nó chỉ liên quan tới một mình Berlioz: ông bỗng thôi nấc, tim bỗng đập mạnh một cái rồi lặn hẫng đi đâu mất; và thoáng sau nó trở lại nhưng hình như có kèm theo một mũi kim tù nằm mắc bên trong. Thêm vào đó, Berlioz bỗng cảm thấy một nỗi sợ hãi vô cớ nhưng rõ rệt đến nỗi ông muốn ngay lập tức bỏ chạy khỏi nơi đây không ngoái lại. Không hiểu cái gì khiến ông hoảng sợ, Berlioz đưa mắt rầu rĩ nhìn quanh. Mặt ông tái mét; ông lấy khăn mùi soa lau trán, nghĩ thầm: “Cái gì xảy ra với mình thế này nhỉ? Trước đây chưa bao giờ như vậy cả… Hình như tim mình bị sao ấy… Mình mệt mỏi quá rồi. Có lẽ cần phải vứt tất cả lại để đến nghỉ ở Kislovodsk6 thôi…” Ðúng lúc đó, làn không khí oi ả bỗng cô đặc lại trước mắt Berlioz, tạo thành một người đàn ông trong suốt có hình thù hết sức kỳ dị. Trên mái đầu nhỏ tí của anh ta là chiếc mũ lưỡi trai của dân đua ngựa, áo vét kẻ ô mỏng ngắn cũn cỡn… Người này cao khoảng một sagien, nhưng vai hẹp, gầy không thể tưởng được, và bộ mặt, xin bạn đọc lưu ý cho, đầy vẻ nhạo báng! ... Mời các bạn đón đọc Nghệ nhân và Margarita của tác giả Mikhail Bulgakov.
Bến Hẹn - Janet Dailey
Mỗi người trong đời, không ai là không có lần đã lỗi hẹn với người yêu.  Thay vì cầm tay nhau tiến bước tới bến hẹn hạnh phúc, thì lỗi hẹn khiến hai người yêu nhau mỗi người phải rẽ sang một hướng đường khác. Đôi khi lỗi hẹn khiến cho người ta tìm đến được bến hẹn hạnh phúc mới, mà cũng có khi khôn. Nhưng dù thế nào, thì cũng có không ít người suốt đời cứ mãi luyến tiếc khôn nguôi đến "bến hẹn" của mối tình đầu dang dở. "Khi chiếc máy bay hạ thấp độ cao xuống dưới những đám mây xám trên bầu trời thành phố Anchorage, Sh-annon Hayes căng mắt nhìn qua khung cửa sổ đã bị mòn vẹt của nó. Một bức tường núi xám đen vươn cao lên cạnh thành phố, đỉnh núi khuất trong mây. Cô thấy bên dưới, nhà cửa rải rác và đường sá mọc ngang đan vào nhau. Xa xa, cô thấy những toà nhà cao có hình chữ nhật màu xám biến mất trong tầng mây thấp là đà. Thành phố lớn nhất của Alaska không lớn như San-non nghĩ. Cô hơi ngạc nhiên, vì cô cứ tưởng nó ồn ào, đông đúc, náo nhiệt như Houston, Texas, thành phố quê nhà của cô. Khi Shannon ngồi dựa lưng ra ghế, cặp mắt nâu của cô ánh lên vẻ sung sướng. Cô mỉm cười một mình, cảm thấy lòng hân hoan vì chuyến đi của cô đã kết thúc. Cô sờ chiếc nhẫn đính hôn nơi bàn tay trái, thoa mặt kim cương cắt theo hình vuông như thể thoa lên chiếc bùa hộ mệnh. Ánh sáng lờ mờ ảm đạm bên ngoài cửa sổ máy bay không làm cho nhiệt tình của cô suy giảm chút nào. Cô nghe tiếng bánh xe máy bay chạm mạnh xuống phi đạo, rồi sau đó mấy giây, cả chiếc máy bay phản lực chạy chậm lại trên đường băng. Việc phi cơ đáp xuống đất ảnh hưởng đến nhịp tim của cô, làm cho mạch trong người cô đập nhanh hơn. Shannon đưa tay vuốt mái tóc mày hạt dẻ cho thẳng mặc dù mới cách đấy mấy phút, cô đã chải mái tóc bờm xờm cho hấp dẫn. Cô cũng tô son điểm phấn lại một chút, vì cô biết Rick hơi quan tâm đến nhan sắc của cô. Anh đã hãnh diện tuyên bố anh là chủ sở hữu cô gái có mái tóc sẫm, mắt nâu đẹp rực rỡ. Đây là từ anh thường dùng để nói về cô, khiến cô cảm thấy hơi khó chịu. Nhưng bây giờ cô hy vọng anh vẫn nghĩ về cô như thế. Sau chuyến bay lâu 5 giờ, thì đẹp rực rỡ là chuyện khó có thể đạt được. *** Janet Anne Haradon Dailey (21/5/1944 - 14/12/2013) là một tác giả Mỹ về nhiều tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Janet Dailey. Các tiểu thuyết của cô đã được dịch sang hơn 90 ngôn ngữ và đã bán được hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới. Dailey vừa là một tác giả vừa là một doanh nhân. Dailey luôn muốn trở thành một nhà văn và yêu sách. Ba chị gái của bà thường đọc cho bà khi còn là một đứa trẻ. Đến năm 4 tuổi, bà đã có thẻ thư viện riêng của mình.  Bà tốt nghiệp năm 1962 tại Trường Trung học Jefferson ở Independence, Iowa và làm việc cho một công ty xây dựng thuộc sở hữu của người chồng tương lai của cô, Bill Dailey, hơn bà 15 tuổi. Hai người tiếp tục làm việc cùng nhau, thường dành 17 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần làm việc và kết hôn năm 1964. *** Một số tác phẩm của bà đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam, bao gồm: Bến Hẹn Chị Em Thù Hận Chỉ Vì Yêu Chuyện Tình Dưới Nhành Cây Tầm Gửi Con Đường Đêm Điểm Hẹn Của Tình Yêu Giông Tố Thảo Nguyên Hai Chị Em Hoa Thảo Nguyên Khung Trời Quyến Rũ Ngôi Sao Đơn Độc Ngựa Hoang Sự Lựa Chọn Cuối Cùng Tình Địch (The Rivals In Love) Vũ Hội Hoá Trang *** Khi chiếc máy bay hạ thấp độ cao xuống dưới những đám mây xám trên bầu trời thành phố Anchorage, Shannon Hayes căng mắt nhìn qua khung cửa sổ đã bị mòn vẹt của nó. Một bức tường núi xám đen vươn cao bên cạnh thành phố, đỉnh núi khuất trong mây. Cô thấy bên dưới, nhà cửa rải rác và đường xá dọc ngang đan vào nhau. Xa xa, cô thấy những toà nhà cao có hình chữ nhật màu xám biến mất trong tầng mây thấp là đà. "Thành phố lớn nhất của Alaska không lớn như Shannon nghĩ". Cô hơi ngạc nhiên, vì cô cứ tưởng nó ồn ào, đông đúc, náo nhiệt như Houston, Texas, thành phố quê nhà của cô. Khi Shannon ngồi dựa lưng ra ghế, cặp mắt nâu của cô ánh lên vẻ sung sướng. Cô mỉm cười một mình, cảm thấy lòng hân hoan vì chuyến đi của cô kết thúc. Cô sờ chiếc nhẫn đính hôn nơi bàn tay trái, thoa mặt kim cương cắt theo hình vuông như thể thoa lên chiếc bùa hộ mệnh. Ánh sáng lờ mờ ảm đạm bên ngoài cửa sổ máy bay không làm cho nhiệt tình của cô suy giảm chút nào. Cô nghe tiếng bánh xe máy bay chạm mạnh xuống phi đạo, rồi sau đó mấy giây, cả chiếc máy bay phản lực chạy chậm lại trên đường băng. Việc phi cơ đáp xuống đất ảnh hưởng đến nhịp tim của cô, làm cho mạch trong người cô đập nhanh hơn. Shannon đưa tay vuốt mái tóc hạt dẻ cho thẳng, mặc dù mới cách đây mấy phút, cô đã chải mái tóc bờm sờm cho hấp dẫn. Cô cũng tô son điểm phấn lại một chút, vì cô biết Rick hơi quan tâm đến nhan sắc của cô. Anh đã hãnh diện tuyên bố anh là chủ sở hữu cô gái có mái tóc sẫm, mắt nâu đẹp rực rỡ. Đây là từ anh thường dùng để nói về cô như thế. Sau chuyến bay lâu 5h, thì đẹp rực rỡ là chuyện khó có thể đạt được. Cô gặp anh từ ấy đến nay đã lâu, cô đã sống cô đơn suốt nhiều tháng trời. Cô nhớ cô đã khóc rất nhiều ở phi trường vào hôm Rick lên đường đi Alaska, nhớ những lời họ hứa hẹn với nhau, nhớ những nụ hôn vồ vập trước giờ anh đi. Thỉnh thoảng anh viết thư về, có khi anh gọi điện thoại, có khi anh gửi thư điện tử về cho cô. Nhưng tất cả những chuyện đó không làm sao lấp đầy được nỗi trống trải trong cô. Nhiều bạn gái đã khuyên cô nên bỏ anh, tìm người yêu khác, nhưng Shannon không nghe. Cô biết anh là phi công vùng hoang dã. Cô không mong chờ anh ngồi bên điện thoại để đợi cô gọi đến, mà cô biết anh đang ở đâu đó ngoài vùng hoang dã. Cô nghĩ anh đang chiêm ngưỡng cảnh đẹp huy hoàng trên Trái Đất này. Ít ra cô đã suy nghĩ như thế. Nhưng có phải làm phi công là không có thì giờ rảnh rỗi, để nói lời xin lỗi vì đã để cô chờ đợi và lo âu? Rick đã hứa với cô rằng, khi nào anh có được công việc ổn định và có chỗ ở hẳn hoi để hai người cùng sống, thì anh sẽ báo cô đến. Anh không nói bao lâu thì anh có công việc ổn định. Cách đây hơn một tháng anh có nhắn tin về, vào cuối tháng bảy, bằng thẻ điện thoại, nhưng hôm đó cô đi vắng. Rick để lại cho cô số máy nhắn tin, anh cho biết số máy này của anh còn hiệu lực cho đến cuối tháng 8. Cô thấy như thế còn hơn không... Nhưng Shannon không khỏi lo lắng. Rồi vào đầu tháng 9, cô nhận được bức thư Tốc hành liên bang. Trong phong thư có vé máy bay bằng loại giấy theo kiểu cổ điển rất đẹp, để đến Anchorage. Ngoài ra không còn gì nữa, không thư, không lời ghi chú gì. Nhưng cái vé chỉ đi một chuyến. Như vậy vấn đề quá rõ rồi: Rick muốn cô đến với anh. Sự lo sợ lâu nay của cô rằng anh hết yêu cô đã tan biến. Và bây giờ Shannon đang trên đường đến nơi cùng xây tổ ấm. Cô đã chuẩn bị để lên đường không quá lâu một tuần. Cô chỉ mang theo những thứ cần thiết, còn lại bao nhiêu sẽ gởi bằng tàu thủy sau. Bố mẹ cô sẽ bay đến vào cuối tuần lễ sau để dự lễ cưới. Dĩ nhiên hai ông bà đều tin rằng cả cô và Rick đều điên. Cô nghĩ ý kiến của bố mẹ cũng dễ hiểu thôi. Từ bỏ vịnh Texas ấm áp để đến vùng Alaska lạnh cóng, đối với nhiều người thì đây là hành động điên khùng. Nhưng Shannon đã lây tính phiêu lưu mạo hiểm của Rick từ ngày họ gặp nhau. Anh muốn sống tại vùng xa xôi nhất của nước Mỹ, và cô đã chia sẻ phần nào mong ước của anh. Nhưng cô biết chuyến phiêu lưu của họ không phải đi đến thiên đàng. Thôi thì mặc. Bây giờ cô đến Alaska rồi. Bố mẹ cô đã châm biếm nói rằng cô đi theo tiếng gọi của vùng hoang dã. Họ đã cố làm cho cô nản chí, nhưng họ đã thất bại. Dù sao thì cô và Rick cũng đã đính hôn hơn một năm rồi. Cô phải đến đây để thành hôn với anh là điều rất chính đáng. Mặc dù đồ đạc trên tay nặng nề, nhưng bước chân của cô nhẹ nhàng và nhanh nhẹn khi đi xuống cầu thang máy bay. Cô nhìn đám người lưa thưa đứng đợi ở bên kia cổng phi cảng để tìm Rick. Anh cao lêu nghêu và mái tóc vàng nhạt hấp dẫn. Cô nhìn từng khuôn mặt đàn ông tìm Rick, bất kể họ đang nhìn chằm chằm vào cô. Nhưng anh đâu nhỉ? Cô chậm lại. Bỗng người đi sau thúc lưng cô, khiến cô phải bước ra ngoài hàng để nhìn quanh tìm Rick thêm một lần nữa. Cặp mắt nâu xinh đẹp bỗng trở nên bối rối. Cô không tìm thấy anh ở đâu hết. ... Mời các bạn đón đọc Bến Hẹn của tác giả Janet Dailey.
Cô Dâu của Lionheart - Michelle Willingham
Thị nữ của công chúa Berengaria, Adriana, nhận nhiệm vụ của cô ấy với nữ hoàng tương lai của nước anh một cách nghiêm túc – cô sẽ bảo vệ cô ấy cho đến chết! Khi chuyến du hành trên biển của họ đến vùng đất Holy kết thúc bởi vụ đắm tàu và bị bắt giữ, Adriana biết rằng hy vọng duy nhất của cô là người đàn ông Ai len bí ẩn, Lian MacEgan. Liam trốn sang phía vua Richard của Lionheart và cùng họ lập kế hoạch giải cứu. Không gì có thể ngăn cản sự thành công của những chiến binh này – những cô dâu tương lai của họ đang bị bắt giữ ở Cyprus và họ sẽ kéo cả địa ngục xuống để giải cứu họ. *** 0BxJKo4pJUQugWFRVOUlDVmJHaUU là tác giả đạt giải RITA năm 2010 (Giải thưởng danh giá dành cho các nhà văn lãng mạn xuất sắc nhất nước Mỹ). Michelle đã xuất bản hơn hai mươi cuốn sách và tiểu thuyết ngắn. Hiện nay, bà đang sống cùng gia đình ở Virginia. Ghé thăm trang web của bà tại www.michellewillingham.com.  Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam: - Chàng công tước bí ẩn (XB 2015) - Bí mật tội lỗi (XB 2014) *** Pamplano, Vương quốc của Navarre, năm 1187 “Ta không biết là nàng sẽ đến,” Richard nói, với lấy tay nàng. Chàng đã cởi bỏ chiếc áo giáp chàng đã mặc lúc sớm và mặc vào một chiếc áo dài bằng lụa màu xanh dương có đính lông. Cái áo choàng màu tối của chàng đặt trên vai, và thậm chí trong ánh sáng trăng, Berengaria vẫn có thể quan sát thấy đôi mắt xám lạnh và tia sáng màu hung đỏ của mái tóc chàng. “Tôi làm gì có sự lựa chọn nào khác?” nàng buộc tội. “Chàng đã đánh cắp chiếc nhẫn của tôi tại cuộc đấu trên ngựa khi chàng hôn tay tôi. ’ Nắm lấy lòng bàn tay mình, nàng gửi cho chàng một cái nhìn cảnh báo. ‘Tôi muốn lấy lại chiếc nhẫn của tôi. ’ ‘Ta muốn có cớ để gặp lại nàng. ’ Chàng gửi cho nàng một nụ cười chậm rãi mà nhanh chóng làm tăng nhịp đập của nàng. Chàng mở lòng bàn tay mình ra, và một chiếc nhẫn bằng vàng có đính ngọc lục bảo xuất hiện. ‘Đây là cái nàng muốn à? ’ Khi nàng cố gắng chộp lấy nó, chàng nắm bàn tay lại. ‘Hãy đến gần hơn, và nàng sẽ có nó. ’ ‘Đừng làm trò nữa, vì Chúa. Tôi không quan tâm đến điều đó. ’ ‘Nếu đó là sự thực, nàng sẽ không đến. Nàng sẽ gửi một người hầu đến lấy chiếc nhẫn. ’ ‘Và chàng đã từ chối trả lại nó. ’ Chàng tiến đến gần hơn và ấn chiếc nhẫn vào tay nàng. ‘Nàng nghĩ ta giống một kẻ hung ác à? ’ ‘Tôi không biết chàng là ai. ’ Mặc dù bàn tay nàng đã đeo găng nhưng nàng vẫn có thể cảm nhận được sức nóng của làn da chàng. Một điều gì đó về người đàn ông này kích thích trí tò mò của nàng, trượt qua sự phòng thủ của nàng giống như người chiến binh là chàng. Đừng ở lại, Berengaria cảnh báo chính mình. Hãy rời khỏi ngay bây giờ. Cha nàng, vua Sancho sẽ rất tức giận nếu biết nàng đang đứng trong vườn với Công tước của Aquitaine, con trai của vua Henry Plantagenet của nước Anh. ‘Ta muốn biết nàng, ’ Richard nói chậm rãi. ‘Không một người phụ nữ nào từng đủ can đảm nói với ta theo cách mà nàng đã làm. ’ ‘Không, ’ nàng thì thầm. ‘Chàng không phải là người hứa hôn của tôi và sẽ không bao giờ là. ’ ‘Nàng đúng. ’ Bàn tay chàng di chuyển lên má nàng, và khi nàng cố gắng tránh thì chàng giam giữ nàng tại nơi đó. ‘Berengaria, nàng nhắc ta nhớ đến Eva. Nàng đã cám dỗ ta với miệng lưỡi chua chát của nàng. Ánh sáng lóe lên trong đôi mắt tối màu của nàng. ’ Nàng rùng mình nhè nhẹ, và trí óc nàng lại cảnh báo nàng đi khỏi đây. Nhưng giọng chàng như bắt giữ nàng, trong khi ngón tay cái của chàng lần theo xương gò má nàng. ‘Ta ngưỡng mộ tâm hồn của nàng. ’ Richard xoay nhẹ mặt nàng để nhìn vào chàng. Sau đó chàng dựa vào gần hơn, đặt trán chàng trên trán nàng. ‘Nàng nên biết rằng đây là cơ hội cuối cùng của nàng để thoát khỏi sự đụng chạm. Nếu nàng ở lại, ta định sẽ hôn nàng. ’ Chàng thả nàng ra và đứng bất động, chờ đợi quyết định của nàng. Tâm trí nàng gào thét bảo nàng bỏ chạy, nhưng chân nàng vẫn đứng nguyên tại chỗ. ... Mời các bạn đón đọc Cô Dâu của Lionheart của tác giả Michelle Willingham.