Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nữ Phi Công

Kristin Hannah là một gương mặt tiêu biểu ở đề tài viết về người phụ nữ và gia đình. Với văn phong giản dị, sâu lắng và cảm động, bà đã có những 20 tác phẩm thuộc top bán chạy theo bình chọn của tạp chí uy tín New York Times. Cuốn tiểu thuyết tình cảm "Nữ Phi Công" được nữ tác giả đầu tư rất nhiều tâm huyết để khắc họa chân thực cuộc hơn nhân đang trên bờ vực của sự tan vỡ thời chiến tranh của Michael và Jolene Zarkades. Họ đã bên nhau suốt 12 năm, những áp lực trong cuộc sống cứ thế đè nặng lên đôi vai của đôi vợ chồng khiến họ dần nảy sinh nhiều hơn những mâu thuẫn, mối đe dọa rạn nứt ngày càng hiện rõ. Câu chuyện tiến triển khi Jonene nhận được lệnh đi tập trung chiến đấu bởi cô vốn là một nữ quân nhân. Anh chồng luật sư Michael phải học cách xoay xở với cảnh gà trống nuôi con. Liệu chiến tranh và sự xa cách có trở thành một tác động xấu hơn cho cuộc hôn nhân này? Jolene và Michael sẽ hành xử như thế nào, cứu vãn hay buông xuôi? *** Đây là tác phẩm thứ hai của nhà văn Mỹ Kristin Hannah mà tôi đọc, và một lần nữa, cái nhìn thấu suốt của một tác giả viết về phụ nữ, gia đình cùng văn phong giản dị, sâu lắng và cảm động của bà đã chinh phục tôi hoàn toàn. “Nữ phi công” (tựa gốc là “Home Front”) không có cái kinh hoàng và ám ảnh của một thời kỳ chiến tranh loạn lạc như Sơn ca vẫn hót, thế nhưng nó vẫn đủ sức lay động tâm hồn bất kỳ ai bởi cái cách mà nó đi sâu vào bóc tách những diễn biến tình cảm và tâm lý của những con người bị tác động bởi chiến tranh ngay giữa thời hiện đại này, cùng những giá trị làm nên một gia đình toàn vẹn. Cuốn sách là bản hòa ca mang nhiều cung bậc cảm xúc, dành tặng cho những nam và nữ quân nhân Mỹ - những người anh hùng thực sự - đã dành trọn cuộc đời và tính mạng của mình để bảo vệ và giữ gìn cuộc sống cho người dân. Nhân vật chính của “Nữ phi công” là Jolene, một người lính lái máy bay của quân đội Hoa Kỳ, vợ của luật sư Michael và là mẹ của hai cô con gái: Betsy 12 tuổi và Lulu 4 tuổi. Mở đầu câu chuyện, tác giả Kristin Hannah đã vẽ nên một bức tranh chân thực đến nhói lòng về thực tại của một cuộc hôn nhân đang trên bờ vực đổ vỡ, và những khủng hoảng mà Jolene phải đối mặt trong việc làm vợ, làm mẹ của một cô con gái đang ở lứa tuổi nổi loạn. Lớn lên giữa một gia đình lộn xộn, với một người cha nghiện rượu và một người mẹ yếu đuối, luôn đi theo van xin tình yêu của chồng, Jolene từ thuở bé đã rèn luyện cho mình một tính cách vững vàng, can đảm, không ngại khó khăn và vô cùng mạnh mẽ. Tính cách ấy chính là điều đã cuốn hút Michael về phía chị, nhưng giờ đây nó lại là một trong những nguyên nhân khiến chị và anh cách xa nhau. Không biết làm gì với cuộc đời mình, và với niềm đam mê mong mỏi muốn được bay, Jolene đã gia nhập quân đội, trở thành nữ phi công, tự hào với chính những gì mình đã đạt được với cương vị là một người lính. Nhưng niềm đam mê ấy, những câu chuyện của đời quân nhân, chị đã không thể nào chia sẻ được với Michael. Anh là một luật sư, một con người ngồi phòng máy lạnh, mặc áo sơ mi là phẳng phiu đi làm, là người thuộc “giới tinh hoa” của xã hội. Anh ở trong cái thế giới được bảo bọc của mình và không có chút xíu hiểu biết thực sự nào về sự nghiệp của vợ mình cùng niềm tự hào của chị về cái thế giới của những chuẩn úy và đại đội. Cái chết của cha anh - người cha đã gắn bó với sự nghiệp làm luật sư của anh suốt bao năm - là giọt nước làm tràn ly khiến cuộc hôn nhân của Michael và Jolene càng ngày càng đến bờ vực đổ vỡ. Chị quá mạnh mẽ, quá can đảm, quá tự tin, với một sức sống và sự kiên cường rạng ngời, và chị lại ở bên cạnh anh, một người đàn ông đang đau khổ vì mất mát của mình, chán ngấy những lời khuyên nhủ “mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi” của vợ. Đơn giản, Michael cảm thấy quá yếu đuối và ngộp thở khi sống cùng với người phụ nữ không cần phải dựa dẫm vào anh, một người có thể tự đứng trên đôi chân của mình và khiến anh không còn được cần đến. Cho đến cái ngày Mỹ tuyên chiến với Iraq sau sự kiện 11/9 kinh hoàng, và Jolene nhận lệnh điều động ra chiến trường lái máy may Black Hawk. Sự yên bình giả tạo của một cuộc hôn nhân đang gặp khủng hoảng bỗng chốc nứt toác, để lại một gia đình với những thành viên tức giận trước quyết định thực hiện lời hứa với quân đội của Jolene. Chị sẽ ra đi, đến Iraq, chiến đấu cho cuộc chiến mà nhiều người Mỹ cho là phi nghĩa và chẳng khác hành động giết người. Và trên tất cả, chị lại còn là một người lính nữ, người đã dũng cảm và mạnh mẽ đặt sứ mệnh mình được giao phó với tổ quốc, với nhân dân Mỹ lên hàng đầu, lên trên cả hạnh phúc gia đình mình, trách nhiệm làm mẹ và một cuộc hôn nhân đang rất cần được sửa chữa. Trường đoạn khi Jolene chuẩn bị ra trận, trải qua những ngày cuối cùng ở bên gia đình trước khi tham chiến là một trong những trường đoạn gây xúc động nhất của toàn bộ câu chuyện, khi độc giả có thể thấy được sự hy sinh cao cả và những gì Jolene chấp nhận bỏ lại ở quê nhà và bỏ lỡ trong cuộc đời hai con gái của mình để lên đường làm nhiệm vụ. Chị là một người phụ nữ phi thường, người đã tôn vinh và sống đúng với những giá trị làm nên một người lính Mỹ chân chính, dù điều đó có nghĩa là chị sẽ không được thấy nụ cười của bé Lulu trong suốt một năm ròng, sẽ không được cùng Betsy trải qua lần đầu tiên cô bé hành kinh, sẽ không được nấu đồ ăn sáng cho con, được đưa con đến trường. Và còn đó Michael, người chồng mà chị yêu đến đau đớn, đến rúng động tâm hồn, yêu từ thuở ban đầu khi họ mới gặp nhau, khi chị còn là cô bé 17 tuổi, xơ xác sau cái chết bất ngờ của cha mẹ và không một xu dính túi, đến gặp anh ở văn phòng hỗ trợ trẻ vị thành niên khi anh còn là sinh viên năm nhất đang đi thực tập. Giờ đây, tình yêu đó hình như đã chết trong lòng Michael, hóa thành thứ trái đắng khiến những ngày cuối cùng trước khi chị đi chiến đấu trở thành địa ngục với cả anh và chị. Michael là một người chồng ích kỷ, anh chưa lần nào thể hiện lòng tự hào của mình dành cho vợ và công việc mà chị làm; giờ đây, anh lại còn chì chiết chị, buộc tội chị là một người mẹ không tốt khi đành đoạn bỏ lại con và chồng mình - người chồng suốt ngày ngập ngụa trong công việc và hiếm khi nào dành thời gian cho các con - để tham gia chiến tranh như thể đây là một hành động tự sát. Và trên hết, chắc hẳn anh đã rất sợ, sợ cái trách nhiệm vừa phải làm cha, vừa phải làm mẹ mà sắp tới anh phải lãnh nhận thay vợ mình. Nhưng nỗi sợ lớn nhất, nỗi sợ mà phải tới cái buổi lễ chia tay gia đình để các quân nhân đi tòng quân, anh mới nhận ra, là nỗi sợ sẽ mất chị, được hình thành từ cái nhận thức muộn màng nhưng đáng sợ về chiến tranh, về cái thứ rồi đây Jolene sẽ phải đối mặt. Chiến tranh, dù ở thời đại nào, đều là một thứ chứa rủi ro và cái chết. Và đó là thứ Jolene sẽ phải dấn thân vào, sẽ phải chạm đến hằng ngày, hằng giờ ở Iraq: bom rơi, đạn lạc, thiết bị gây nổ bất ngờ, những mảnh thịt người không còn rõ hình dạng văng tứ tung sau một vụ nổ bom, đồng đội ngã xuống, máu, mùi thuốc súng, nỗi hoang mang không biết mình sẽ còn sống được bao ngày nữa, liệu mình có còn toàn mạng và toàn vẹn thân thể để trở về với gia đình, với những người thân yêu. Chiến tranh là thế đấy, nó khắc nghiệt, xấu xí và đau đớn vô cùng, nhưng nó là viễn cảnh mà Jolene đã chọn, sự lựa chọn đã thay đổi không chỉ chị mà còn Michael. Kristin Hannah một lần nữa đã thể hiện cái nhìn sâu sắc và thấu suốt của mình về những vấn đề của gia đình, đặc biệt là những gì mà các gia đình quân nhân phải trải qua khi một thành viên của họ phải đi làm nhiệm vụ, thông qua cái cách bà miêu tả tình cảnh “gà trống nuôi con” của Michael, quá trình chật vật thích ứng với trách nhiệm chăm sóc con cái - điều mà anh luôn lãng quên trong suốt bao năm. Và nếu như Jolene đang đối mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt ở ngoài phương xa, không biết liệu có thể trở về, thì Michael cũng có một trận chiến của riêng mình để chiến đấu: trận chiến để đảm bảo các con mình vẫn duy trì một cuộc sống bình thường với sự giúp đỡ hết sức mình của mẹ anh - bà Mila - một người phụ nữ vô cùng tâm lý, và là người duy nhất từng thấu hiểu, ủng hộ quyết định ra trận của Jolene. Trận chiến ấy song hành cùng việc anh theo đuổi vụ xét xử một anh chàng cựu quân nhân bị khép tội giết vợ, giúp Michael nhận ra một sự thực mà anh đã quá ngu ngốc, quá ích kỷ để mà nhìn thấy trước đây: anh yêu Jolene, anh vẫn còn yêu chị, làm sao mà anh có thể hết yêu chị, người phụ nữ can đảm vô cùng, xinh đẹp vô cùng, người đã cùng anh xây dựng gia đình trong suốt 12 năm qua. Ấy vậy mà anh lại để chị ra trận với cái lời nói “Anh không còn yêu em nữa” in dấu trong đầu chị, đẩy chị đi xa khỏi anh, làm tổn thương chị, phí hoài những ngày quý giá trước khi chị đi chiến đấu cho nước Mỹ với muôn vàn khó khăn và nguy hiểm trong nỗ lực vô vọng để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng của Jolene, trong nỗi khổ đau không nói thành lời của một người vợ luôn yêu anh nhưng anh thì lại luôn lạnh nhạt. Để rồi cái điều Michael sợ hãi cuối cùng cũng đến, khi anh hay tin vợ mình bị thương nặng sau khi máy bay của chị bị bắn rơi và phát nổ. Cảm xúc của câu chuyện dâng cao với sự kiện ấy, khi trận chiến tiếp theo mà Michael phải đối mặt chính là trận chiến của ý chí và tình yêu, của một người chồng muốn sửa sai và hàn gắn lại mối quan hệ tưởng chừng đã nát tan của hai người, một trận chiến đi vào cốt lõi của gia đình mà họ đã xây dựng, cùng nền móng tình yêu đã giúp họ xây dựng nên gia đình mình. Và trận chiến ấy hoàn toàn không hề dễ dàng để chiến thắng, khi mà Jolene không còn là người phụ nữ trước khi chị ra trận: chị vụn vỡ thành trăm mảnh bởi những gì chị đã trải qua ngoài chiến trường, bởi cái chết của những đồng đội, bởi vụ rơi máy bay kinh hoàng, bởi khói, máu và mất mát. Chị mang theo về nhà một cơ thể không còn toàn vẹn và một tâm hồn còn nứt toác, vụn vỡ hơn. Đó là một trận chiến với đầy những nước mắt, đớn đau, sự sợ hãi đến từ hai cô con gái của Jolene, khi chúng không biết chuyện gì đã xảy ra với tính tình và tâm lý của mẹ chúng, khi chúng chỉ biết rằng mẹ không còn như trước kia, luôn nóng tính, la mắng chúng và dường như không còn yêu chúng nữa. Và Michael, anh bền bỉ với tình yêu dành cho Jolene, cho người vợ luôn xinh đẹp và can đảm trong mắt anh, mặc dù giờ đây chị không còn là người phụ nữ như trước đây anh đã biết. Những nỗ lực để hàn gắn, để Jolene trở lại là mình, là cô chuẩn úy mạnh mẽ, tràn đầy tự tin đã khiến tôi khóc không biết bao nhiêu lần. Tôi khóc cho cái số phận và những gì Jolene đã trải qua, cho những mất mát mà chị đã phải gánh chịu, cho nỗi sợ cùng sự tức giận mà chị cảm thấy về những gì chị tưởng là lòng thương hại dành cho người vợ tật nguyền của Michael, cho những gì chị tưởng là ý thức trách nhiệm của một người chồng khi Michael không rời bỏ chị mà lại quyết định ở bên chị, luôn luôn, cầu xin chị tha thứ cho anh và muốn câu chuyện của họ bắt đầu lại từ đầu. Tôi khóc khi Jolene, với nỗi thương cảm dành cho chính bản thân mình cùng sự mạnh mẽ, không muốn dựa dẫm và ai luôn sẵn có trong con người chị - người phụ nữ làm bằng thép và được trui rèn trong lửa - đã gạt phăng những nỗ lực của Michael nhằm hàn gắn vết thương lòng anh đã gây ra cho chị và cuộc hôn nhân của họ. Để rồi sau đó, chị đã mất rất nhiều thời gian để lại có thể tin tưởng anh và mở lòng với anh. Và tôi đã khóc khi chứng kiến Jolene chiến đấu trong cuộc chiến của riêng chị, cuộc chiến với PTSD (viết tắt của Post Traumatic Stress Disorder, là chứng trầm cảm sau sang chấn, rất phổ biến ở các cựu chiến binh), với mặc cảm tội lỗi về vụ rơi máy bay khi chị đã không thể bảo toàn tính mạng cho các đồng đội, với việc chấp nhận tình trạng cơ thể không toàn vẹn hiện tại của mình, với những khó khăn mà chị phải trải qua trong quá trình làm quen với cơ thể mới và hòa nhập với cuộc sống sau chiến tranh, với tương lai được bay trở lại vô cùng mờ mịt, với việc xác nhận lại định nghĩa về bản thân chị: chị còn là chuẩn úy Zarkades nữa hay không, hay chỉ là một khối thịt vô dụng và tật nguyền; chị có còn là mẹ của lũ trẻ hay không, hay là một mụ phù thủy luôn khiến chúng sợ hãi mỗi khi tiếp xúc với chị. Tương lai mờ mịt nhưng không phải là không có hy vọng, và hy vọng ấy được thắp lên bởi chính Michael, người chồng đã hoàn toàn lột xác khỏi cái mác ích kỷ để trở lại là người đàn ông Jolene luôn yêu và mãi yêu, người chồng giờ đây vô cùng tự hào về chị, về những gì chị đã trải qua vì tổ quốc và nhân dân Mỹ. Jolene, cùng với cô bạn thân Tami, người cũng là phi công lái máy bay và cùng chị tham chiến ở Iraq, là đại diện cho những người nam nữ quân dân anh dũng và đáng được tôn vinh của Hoa Kỳ, những con người đã sống cuộc đời mình để hoàn thành trọn vẹn lời hứa với quân đội, với đất nước, cho dù điều đó có nghĩa là họ đang đặt bản thân mình, cơ thể mình, tính mạng của mình vào vòng hiểm nguy. Đã có những hy sinh quá lớn, những mất mát đớn đau phải cần thật nhiều thời gian mới có thể nguôi ngoai, những gia đình mất đi một thành viên, những đứa trẻ phải lớn lên mà không có cha hay mẹ. Nhưng cuối cùng thì, sứ mệnh giữ gìn bình yên cho tổ quốc, cho nhân dân vẫn là một sứ mệnh cao cả và phải luôn được đặt lên hàng đầu. Chính điều đó đã biến những người quân nhân trở thành những người anh hùng của đời thực, những người cũng như chúng ta, cũng dễ bị tổn thương, cũng có những phút giây yếu đuối, những lo lắng, hãi sợ và bất ổn trong tâm hồn. Cái họ cần là sự quan tâm, là gia đình ngập tràn tình yêu, là những sự giúp đỡ về vật chất và tâm lý, để họ có thể tiếp tục tỏa sáng và đóng góp cho xã hội, cho bình yên của đất nước và cuộc sống của người dân. *** #Review #Nữ_phi_công “Có những điều bạn học được tốt nhất trong bình yên. Có những điều chỉ học được trong dông bão ...” Thật sự không hiểu sao một quyển sách hay, nhiều cảm xúc như thế lại ít được nhắc tới. Nếu không tình cờ biết Nữ Phi Công được viết bởi tác giả của Sơn Ca Vẫn Hót thì Boog đã bỏ qua nó. Thật mừng vì Boog đã đọc và không bỏ lỡ một tác phẩm hay. Bằng những câu chữ đầy cảm xúc, tác giả đưa bạn tới cuộc sống hôn nhân đầy dông bão, những mất mát đau thương của chiến tranh mà Boog đọc thấy có một sự đồng cảm ghê gớm. Jolene Larsen là một quân nhân, một phi công trong quân ngũ. Mà phụ nữ trong quân ngũ thường ít, ít nhiều có khó khăn hơn nam giới. Thật sự Boog có chút ngưỡng mộ đối với những phụ nữ trong quân đội mà lại là phi công ( rất ngầu đấy chứ). Tuổi thơ của cô chịu tổn thương vì chứng kiến những cuộc cãi vã, đập phá khi say rượu của ba mẹ. Họ cũng sớm ra đi do tai nạn trong một lần say rượu. Những tưởng cuộc hôn nhân của cô với Michael - một luật sư tài năng sẽ phần nào bù đắp cho tuổi thơ không trọn vẹn của cô. Nhưng, sau 12 năm chung sống, nảy sinh những vấn đề mâu thuẫn, những bất đồng quan điểm, sự không hiểu nhau trong gia đình. Những vấn đề phát sinh trong việc chăm một cô bé 4 tuổi ngây thơ, có chút nhõng nhẽo, một cô bé 12 tuổi đang bước vào ngưỡng cửa trưởng thành, gặp nhiều vấn đề rắc rối trong các mối quan hệ trong trường trung học đã dẫn tới hôn nhân của họ có nguy cơ bị đổ vỡ. Trước thềm hôn nhân đổ vỡ, là một quân nhân, Jolene nhận được lệnh điều động tới vùng chiến sự Iraq. Đối mặt với nguy hiểm, chứng kiến sự ra đi của những người đồng đội, những người bạn, bản thân bị thương, bỏ lại một phần thân thể nơi chiến trường cô bị tổn thương ghê gớm. Làm sao có thể có một cuộc sống bình thường khi đã trải qua những mất mát, tổn thương đau đớn ấy. Không chỉ mất mát về thân thể, sự ám ảnh của cuộc chiến trong mỗi giấc mơ, trong mỗi đau đớn hàng ngày còn khủng khiếp hơn. Nữ Phi Công miêu tả khắc hoạ rất sâu sắc, rất hay về những đấu tranh nội tâm, những đau đớn, tâm lý các nhân vật. Bên cạnh những mối quan hệ về hôn nhân, gia đình, con cái, cha mẹ, tình đồng chí, đồng đội Boog rất thích tình bạn giữ Jolene và Tami. Tình bạn có thể nói là tri âm tri kỷ, chia sẻ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, hiểu nhau tới từng chân tơ kẽ tóc. Nữ Phi Công là một bài ca về nghị lực, về tình thương yêu xoa dịu nỗi đau. Mất mát, đau thương và hàn gắn, đừng để khi mất đi mới hiểu được giá trị của tình yêu, tình cảm gia đình quý giá. Hãy nói yêu thương, đừng nói yêu thương quá muộn. Mời các bạn đón đọc Nữ Phi Công của tác giả Kristin Hannah & Đinh Thanh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đêm Trắng - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Đêm Trắng là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (một cây đại thụ trong văn học Nga thế kỷ thứ 19) viết về một mối tình lãng mạn cao thượng và trong trắng đến nao lòng, diễn ra trong những đêm trắng thơ mộng bên bờ sông Neva ở thành phố Sankt Peterburg. Đêm Trắng kể về sự gặp gỡ giữa một người đàn ông 26 tuổi, là người mơ mộng và cô gái Naxtenca 17 tuổi mộng mơ hơn hẳn người mơ mộng kia. Họ vô tình gặp nhau và cùng nhau thoát ra khỏi những vỏ bọc, thế giới cô độc của riêng mình, cùng được chia sẻ và thương yêu. Lần đầu tiên người đàn ông nhìn thấy Naxtenca là khi cô đang đứng bên đường và khóc một mình vì nỗi buồn nào đó khi trời đã về khuya. Có điều gì đó đặc biệt ở cô gái này khiến ông rất tò mò. Ông giải thoát cô khỏi một kẻ quấy rối. Họ quen nhau và cùng chuyện trò trong 4 đêm trắng... *** Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (thường phiên âm là "Đốt-xtôi-ép-xki") là nhà văn nổi tiếng người Nga, sinh ngày 11 tháng 11, 1821 và mất ngày 9 tháng 2 (lịch cũ: 28 tháng 1), 1881. Cùng với Lev Tolstoy, Dostoevsky được xem là một trong hai nhà văn Nga vĩ đại thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông, như Anh em nhà Karamazov hay Tội ác và hình phạt đã khai thác tâm lý con người trong bối cảnh chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỷ 19. Ông được giới phê bình đánh giá rất cao, phần lớn xem ông là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20, chẳng hạn, Walter Kaufman xem Bút ký dưới hầm là "tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh tuyệt vời nhất từng được viết". Tuy nhiên ở Liên Xô, sau Cách mạng tháng Mười, người ta hầu như phủ nhận toàn bộ các sáng tác của Dostoevsky. Từ 1972, tác phẩm của Dostoevsky mới được nhìn nhận lại và đánh giá đúng mức ở quê hương của mình. Tại Việt nam, các tác phẩm của ông được xuất bản với tên Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, một số như: Tội Ác Và Sự Trừng Phạt Đêm Trắng Là Bóng hay Là Hình Bút Ký Dưới Hầm Anh em nhà Karamazov Lũ Người Quỷ Ám Gã Khờ ... *** Đó là một đêm kì diệu, một đêm mà có lẽ chỉ có thể có được khi chúng ta còn trẻ, hỡi bạn đọc thân mến. Bầu trời đầy sao, một bầu trời lộng lẫy đến mức ngước nhìn lên nó ta phải bất giác tự hỏi mình: chẳng lẽ những con người cau có, trái tính trái nết đủ loại lại có thể sống dưới một bầu trời như thế? Đây cũng là một câu hỏi của tuổi trẻ, hỡi bạn đọc thân mến, một câu hỏi rất trẻ, nhưng cầu xin Đức Chúa Trời ban cho bạn thường xuyên hơn câu hỏi ấy!.. Còn nói về những quý ngài trái tính trái nết và cau có đủ loại thì tôi không thể không nhớ lại cách xử sự hợp lẽ của tôi trong cả ngày hôm đó. Ngay từ sáng sớm tôi đã bị một nỗi buồn kì lạ hành hạ. Tôi bỗng nhiên có cảm giác rằng tôi, một kẻ cô đơn, đang bị tất cả bỏ rơi, xa lánh. Tất nhiên, bất kì ai cũng có quyền hỏi: tất cả là ai? Bởi vì tôi sống ở Peterburg 1 đã tám năm nay mà hầu như chưa hề làm quen được với một người nào. Nhưng tôi phải làm quen để làm gì? Không có việc đó thì cả thành phố Peterburg cũng đã quen thuộc với tôi rồi; mà chính vì thế nên tôi mới cảm thấy tất cả đều bỏ rơi tôi khi toàn bộ thành Peterburg bỗng đột ngột kéo nhau ra các nhà nghỉ ngoại thành. Ở lại một mình tôi rất sợ, và suốt ba ngày dài tôi lang thang khắp thành phố trong nỗi buồn nặng nề và tuyệt nhiên không hiểu cái gì đang xẩy ra với mình. Dù xuôi đại lộ Nevxki, dù vào công viên hay lang thang dọc con đường bờ sông - không một khuôn mặt nào tôi vẫn quen gặp ở những nơi đó vào một giờ nhất định trong suốt cả năm qua. Tất nhiên mọi người không biết tôi, nhưng thôi lại biết họ. Tôi biết họ khá rõ; tôi gần như đã nghiên cứu từng khuôn mặt họ - tôi thích thú ngắm nhìn họ khi họ vui vẻ, và tôi buồn khi họ rầu rĩ u ám. Tôi gần như đã kết bạn với một ông mà tôi vẫn gặp hàng ngày vào một giờ nhất định ở Đài Phun Nước. Ông ta có vẻ mặt trang trọng, trầm tư, lúc nào cũng lẩm bẩm nói chuyện một mình và vung vẩy tay trái, còn trong tay phải là cây gậy dài có nhiều mấu, tay cầm bịt vàng. Ông ta thậm chí đã nhận ra tôi và tỏ vẻ thân thiện đối với tôi. Nếu như vào cái giờ nhất định đó mà tôi không có mặt ở cạnh Đài Phun Nước thì chắc là ông ta cảm thấy buồn. Chính vì vậy mà có khi chúng tôi đã gần như nghiêng người chào nhau, nhất là vào những hôm cả hai thấy trong lòng sảng khoái. Một lần cách đây không lâu, suốt hai ngày chúng tôi không gặp nhau, đến ngày thứ ba vừa trông thấy nhau chúng tôi đã suýt túm lấy vành mũ, nhưng kịp nhớ lại và hạ tay xuống, đi ngang qua nhau với mối đồng cảm trong lòng. Cả những ngôi nhà cũng quen biết tôi. Khi tôi đi ngang qua, chúng dường như chạy ra đón gặp, nhìn tôi bằng tất cả các cửa sổ và hình như nói với tôi: "Chào anh, sức khoẻ anh thế nào? Còn tôi, nhờ trời vẫn khoẻ, đến tháng Năm này tôi sẽ có thêm một tầng nữa". Hay là: "Anh có khoẻ không? Còn tôi ngày mai sẽ được sửa chữa". Hoặc: "Hôm rồi tôi suýt cháy rụi, làm tôi sợ quá", và vân vân... Trong số đó có những ngôi nhà tôi yêu thích, có những ngôi nhà là bạn thân thiết của tôi; có một ngôi nhà mùa hạ này sẽ nhờ kiến trúc sư chạy chữa. Tôi sẽ cố hàng ngày ghé qua thăm để người ta, cầu chúa ban ơn, chạy chữa cho nó đến nơi đến chốn... Và không bao giờ tôi quên câu chuyện xảy ra với ngôi nhà nhỏ màu hồng tươi cực xinh xắn. Đó là một ngôi nhà bằng đá dễ thương, đối với tôi hết sức niềm nở và nhìn những hàng xóm xấu xí của mình kiêu hãnh đến mức mỗi khi đi qua nó tôi thấy tim mình rộn lên vui sướng. Bỗng nhiên tuần trước khi đi trên phố, vừa nhìn thấy người bạn quen thì tôi chợt nghe một tiếng kêu não ruột: "Mà người ta sắp quét sơn vàng lên tôi đấy!" Quân độc ác! Lũ người man rợ! Họ không thương tiếc một cái gì hết: cả những dãy cột tròn, cả những mái đua, và người bạn của tôi vàng ệch ra như một con chim hoàng yến. Tôi suýt lộn ruột lên vì chuyện ấy và đến giờ không dám đến nhìn lại mặt người bạn đáng thương dị dạng của tôi đã bị trét lên cái màu của các hoàng đế Trung Hoa. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Trắng của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.
Chim - Daphne Du Maurier
Nhờ óc tưởng-tượng phong-phú, bà thành công dễ dàng với loại truyện ly-kỳ, rùng rợn. Tuy ưa viết truyện quái-dị, bà không phiêu lưu đến lãnh-vực thần-kỳ, hoang-đường mà chỉ căn cứ trên nhận xét và thực-nghiệm. Bút pháp giản-dị nhưng đôi khi hơi cẩu-thả. Truyện “Chim” (“The Birds”) sau đây cũng được Hitchcock đem quay thành một cuốn phim nổi tiếng. *** Nữ văn sĩ người Anh Daphné du Maurier (1907 - 1985) sinh ở Luân Đôn trong một gia đình giàu truyền thống về nghệ thuật và văn chương. Bà là con gái một tài-tử trứ danh, Sir Gerald du Maurier, cháu nội một cây bút hí-họa rất được độc-giả tờ Punch mến chuộng, George du Maurier. Thuở nhỏ bà học ở nhà, sau sang Paris học thêm . Năm 1932, bà lấy chồng là trung tá F.A.Browning, người sáng lập và tổ chức các đội quân nhảy dù. Họ có ba người con : Tessa, Flavia và Christia. Cả gia đình sống hạnh phúc ở Menabilly. Sự nghiệp văn học của bà bắt đầu lừ năm 1931 với cuốn tiểu thuyết đầu tay “The Loving Spirit ” (Sợi dây tình). Nhờ trí tưởng tượng phong phú, bà thành công dễ dàng với loại truyện ly kỳ, rùng rợn. Daphne bắt đầu nổi tiếng từ cuốn Jamaica Inn (1936), đến cuốn Rebecca (1938) thì tiếng tăm bà lừng lẫy, truyện được dịch ra trên hai mươi ngoại ngữ và được Hitchcock đem quay thành phim, Sir Laurence Olivier thủ vai chính. Với cuốn My Cousin Rachel bà nỗi tiếng là Jane Eyre của thế-kỷ thứ XX. Những tác phẩm nổi tiếng khác của bà phải kể đến: Jeanesse perđue (Tuổi thanh xuân đã mất), “Le général du roi” (Viên tướng nhà vua - Thiếu nữ tật nguyền thời ly loạn), Ma cousine Rachel (Người em họ Rachel của tôi)... Năm 1969, bà được Nữ Hoàng Elisabeth II sắc phong vào hàng quý tộc với tước "Dame Commander of the Order of the British Empire" (DBE), được vinh-dự đặt chữ "Dame" trước bút hiệu (ngang với chữ "Sir" dành cho nam phái). *** Mồng ba tháng chạp, trời đổi gió nội trong một đêm, mùa đông đã đến. Trước đấy, trời còn giữ tiết thu ngọt ngào, êm dịu. Lá vàng úa đỏ còn vương vấn trên cây và hàng dậu vẫn xanh tốt. Cầy đất lên còn thấy màu mỡ. Là một thương binh, Nat Hocken được trợ cấp, không phải làm việc cả tuần. Anh chỉ đến trại làm có ba ngày một tuần, lại được phó thác những công việc nhẹ nhàng : làm hàng rào, lợp mái ra., sửa chữa lặt vặt nhà cửa. Tuy có gia đình, vợ con đông đủ, nhưng tính anh ưa cô tịch, chỉ thích làm việc một mình. Anh khoan khoái khi được giao cho việc xây đắp bờ lạch hay sửa sang một cái cổng ở mãi tận cuối bán đảo, nơi biển bao bọc quanh trại. Anh cắm cúi làm việc đến trưa thì nghỉ tay ăn chiếc bánh nướng nhân thịt do vợ làm, ngồi trên mép ghềnh đá, vừa ngắm chim bay vừa nhấm nháp. Mùa thu là mùa tuyệt nhất, tuyệt hơn cả mùa xuân. Mùa xuân, chim bay vào lục địa có mục đích, xăm xăm, chúng biết chúng phải tới đâu đúng hạn kỳ, không được chậm trễ. Mùa thu, những con nào không thiên di cũng vẫn bị bản năng thôi thúc và vì không được di chuyển nên tự bầy đặt ra một đường hướng sinh hoạt riêng. Từng đoàn lũ đông đúc chúng bay đến bán đảo thoăn thoắt, bồn chồn, tiêu hao sức lực, lúc thì lượn vòng trên trời, lúc thì là là kiếm mồi trên những mảnh đất mới cầy xới, nhưng ngay cả khi chúng rỉa mồi ta có cảm tưởng chúng ăn không phải vì đói, vì thèm. Rồi trạng thái bồn chồn lại thúc bách chúng phải cất cánh bay vụt lên trời. Trắng và đen, quạ khoang và mòng biển bay chung hỗn độn, kỳ quái, như tìm kiếm một lối giải thoát, không bao giờ vừa ý, không bao giờ đứng im một chỗ. Từng đoàn sáo sậu bay phần phật, như tiếng áo lụa, tới đồng cỏ tươi, cũng bị tiềm năng thúc đẩy sinh hiếu độn, và những loài chim nhỏ hơn, sẻ và chiền chiện, như cũng bị một ma lực bắt phải đậu rải rác trên cây hay trên bờ dậu. Nat ngắm chúng chán lại quay ra nhìn lũ chim biển. Đàn mòng đang đợi nước triều dưới bãi. Chúng kiên nhẫn hơn. Chim bói sò, chim đỏ chân, chim thọc trùn, chim dẽ cùng đứng rình bên bờ nước ; khi biển từ từ hút bờ rồi rút xuống bỏ lại rong rêu và cuội đá, những con chim biển đua chạy trên bãi; Rồi sự thôi thúc của bản năng cũng khiến chúng phải cất cánh. Chúng kêu quang quác, chí chóe, réo nhau, lướt trên mặt bể bình thản rồi bay đi xa. vội vã, gia tăng tốc độ, bay đi mất dạng. Nhưng bay đi đâu và để làm gì ? Sự thôi thúc liên miên của mùa thu không được thỏa mãn đã khiến chúng không cưỡng được phải họp thành đàn lũ, cùng nhau bay lượn, kêu réo. Chúng cần phát tiết những tiềm năng ứ đọng bằng hành động trước khi mùa đông đến. Ngồi trên mép ghềnh đá nhai bánh, Nat nghĩ hẳn vào thu loài chim đã nhận được một mật hiệu báo trước mùa đông sắp đến. Một số lớn sẽ lìa đời. Và củng giống như loài người sợ chết yểu khiến họ hùng hục cắm đầu làm việc hay hóa thành điên khùng, loài chim cũng thế. Mùa thu năm nay lũ chim xao xác tệ, sự xao xác càng dễ nhận vì ngày như đứng lại. Trong khi máy cầy xuôi ngược rẽ những luống đất trên khu đồi phía tây, hình bóng người nông dân cầm lái và cả cái máy đôi khi bị một đám mây lớn toàn chim bay lượn, kêu chí chóe, nhất thời che khuất. Nat chắc chắn năm nay chúng đông hơn mọi năm. Mùa thu nào chúng cũng bay theo máy cầy nhưng chưa bao giờ đông nghịt và om sòm như năm nay. ... Mời các bạn đón đọc Chim của tác giả Daphne Du Maurier.
Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa - K. G. Paustovsky
K.G. Paustovski (31/5/1892- 14/7/1968) là nhà văn Nga rất nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ẩn đằng sau vẻ băng giá bên ngoài, Konxtantin Paustovski sở hữu một tâm hồn Nga tuyệt đẹp với trái tim cháy rực lửa yêu thương. Ông biết rung cảm sâu sắc với cảnh đẹp thiên nhiên và sự hồn hậu của những con người không chỉ của nước Nga mà cả những nơi ông đã đi qua. Hai tập truyện ngắn Bông hồng vàng và Bình minh mưa của Paustovsky mang đến cho độc giả những cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng, một thế giới thanh bình yên ả trước thế chiến thứ II, thế giới của những con người nước Nga bình dị, đôn hậu và lóng lánh chất thơ. Những truyện ngắn như: Tuyết, Chiếc nhẫn bằng thép, Bức điện, Trái tim nhút nhát… được Paustovski diễn đạt bằng lối văn chương giản đơn, dịu dàng như con trẻ, tác giả đã thể hiện được những tình cảm dung dị nhất: tình cảm giữa cha mẹ với con, tình yêu đôi lứa, tình làng nghĩa xóm… của con người nước Nga những năm đầu thế kỷ trước. Bông hồng vàng và bình minh mưa khiến bạn đọc phải giật mình và tự hỏi: thật sự trên đời này vẫn còn những câu chuyện kỳ diệu như thế? Thông qua tác phẩm, Paustovski nhắc nhở chúng ta về những điều đẹp đẽ, những niềm hạnh phúc nhỏ nhắn mà chúng ta đã bỏ quên hay xem như xa xỉ trong cuộc sống vội vã của mình.   *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva - tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng... Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị..., tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. °°° Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev. Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát. Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư". Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác. Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn thành phố này từ đấy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva. Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye. Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau". Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin... Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư. Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời. Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau". Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng". Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm... Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết". Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ. Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống[2]. Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. °°° Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: "Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn". Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn - trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem - tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại "Chú Bé Chăn Bò", "Gió Biển", "Chuyến Xe Đêm", "Người Đầu Bếp Già"... Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người - nhân vật chính - mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái "hư" trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: "Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi". "Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu". "Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi". "Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó." Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự - một bầu trời sống - với muôn vàn vì sao lấp lánh. "Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó". Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài "Những Kẻ Lãng Mạn", "Những Vầng Mây Lấp Lánh", mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: "Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng"... "Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế"... "Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống "thô thiển" và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn... Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn ". Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng "hiện thực xã hội chủ nghĩa" muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp[3]. Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài "Thơ Của Văn Xuôi" đăng trong tạp chí "Ngọn Cờ" (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. "Bông Hồng Vàng" ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí "Tháng Mười"(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết ("Bông Hồng Vàng" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương "Ngôn Ngữ Kim Cương" và "Những Cuốn Từ Điển". Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu... của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong "Bông Hồng Vàng", sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch "Bông Hồng Vàng", tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Chú thích:[1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan [2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố mang tên Konstantin Pautovsky. [3] “Lời Nói Đầu” này được in trong lần xuất bản thứ nhất của bản dịch “Bông Hồng Vàng”. Lần xuất bản thứ hai nó bị bỏ đi, liên quan đến việc tên người dịch bị cấm. Trong lần xuất bản này có một số sửa chữa nhỏ. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa của tác giả K. G. Paustovsky.
AQ Chính Truyện - Lỗ Tấn
AQ có nhiều tình huống lý luận đến "điên khùng". A Q hay bắt nạt kẻ kém may mắn hơn mình nhưng lại sợ hãi trước những kẻ hơn mình về địa vị, quyền lực hoặc sức mạnh. ... Lỗ Tấn đã cho thấy những sai lầm cực đoan của A Q, đó cũng là biểu hiện của tính cách dân tộc Trung Hoa thời bấy giờ. Bối cảnh lịch sử của câu chuyện là thời kỳ trước sau cách mạng Tân Hợi (1911) với những thế lực phong kiến hiện vào các tên địa chủ. Trong A.Q chính truyện, Lỗ Tấn cũng vạch trần tính chất giả dối và phản động của giai cấp tư sản lãnh đạo cuối cùng hoàn toàn do một bọn đầu cơ thao túng. Nhờ tin tức nhanh chóng, cụ Triệu biết rằng bọn cách mạng đã vào huyện đêm hôm trước. Cụ liền quất đuôi sam vòng lên đầu... qua nhà họ Tiền thăm thằng Tây giả... hẹn hò cùng nhau làm cách mạng. Chính quyền cũng rơi vào tay bọn địa chủ phong kiến và quân phiệt. Những người như A.Q không được làm cách mạng. Đời sống xã hội không chút thay đổi, A.Q cũng phải thốt lên: "Đã cách cái mạng đi rồi mà vẫn thế này thôi ư?" *** ...Riêng về phần tôi, tôi vẫn cho rằng hiện nay, tôi không còn phải là người có điều gì bức thiết lắm, không nói ra không được nhưng hoặc giả, bởi vì chưa thể nào quên hết những nỗi quạnh hiu, đau khổ của mình ngày trước, nên có lúc không thể không gào thét lên mấy tiếng, để an ủi những kẻ dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu, mong họ ở nơi tiền khu được vững tâm hơn. Còn như tiếng gào thét của tôi hùng dũng hay bi ai đáng ghét hay đáng buồn cười điều đó tôi không hơi đâu nghĩ đến. Nhưng đã gào thét, thì tất nhiên phải gào thét theo mệnh lệnh của vị chủ tướng. Cho nên đôi khi tôi không ngại viết những điều xa với sự thực. Trong truyện Thuốc, bỗng dưng tôi thêm một vòng hoa trên nấm mộ anh Du, hay trong truyện Ngày mai, tôi không kể chuyện chị Tư Thiền cuối cùng vẫn không nằm mộng thấy đứa con của chị, bởi vì vị chủ tướng bấy giờ chủ trương không để cho người ta đi đến chỗ tiêu cực. Còn tôi, tôi cũng không muốn đem nỗi quạnh hiu mà mình cho là đau khổ làm lây sang những người thanh niên đang ôm ấp những mộng đẹp như tôi hồi còn niên thiếu. Nói như vậy là có thể biết ngay rằng tiểu thuyết của tôi còn xa với nghệ thuật lắm, thế mà cho đến naỵ vẫn mang tên là tiểu thuyết, thậm chí bây giờ đây, lại có dịp xuất bản thành tập nữa. Dù thế nào mặc lòng, không thể không nói đó là một điều may mắn. Điều may mắn ấy tuy làm cho tôi không yên tâm, nhưng nghĩ rằng trong đời, tạm thời còn có người đọc, thì tôi cũng vẫn cứ lấy làm thích thú như thường. Bởi vậy, tôi đã thu thập những truyện ngắn của tôi và đem in lại vì những duyên cớ nói trên, nên đặt tên là Gào Thét. Lỗ Tấn *** A Q không những tên, họ, quê quán đều mập mờ, cho đến "hành trạng" trước kia ra sao cũng không rõ ràng nốt. Số là người làng Mùi đối với A Q xưa nay thì cần y làm công cho, hoặc chỉ đem y ra làm trò cười mà thôi, chứ không bao giờ có ai chú ý đến "hành trạng" của y cả. Mà chính y tự mình cũng chưa hề bao giờ nói tới chuyện đó hết. Chỉ có những lúc cãi lộn với ai thì họa hoằn y mới trừng ngược mắt lên mà tuyên bố : - Nhà tao xưa kia có bề có thế bằng mấy mày kia ! Thứ mày thấm vào đâu ! A Q không hề có nhà cửa. Y trọ ngay trong đền Thổ Cốc làng Mùi. Y cũng không có nghề nghiệp nhất định, chỉ đi làm thuê làm mướn cho người ta, ai thuê gặt lúa thì gặt lúa, thuê giã gạo thì giã gạo, thuê chống thuyền thì chống thuyền. Ngộ những lúc công việc kéo dài thì y ở lại trong nhà chủ tạm thời hôm đó, xong công việc lại đi. Cho nên, người ta có công việc bận bịu lắm thì còn nhớ đến A Q, nhưng nhớ là nhớ công ăn việc làm, chứ nào phải nhớ gì đến "hành trạng" ! Rồi đến lúc công việc rỗi thì luôn cả A Q người ta cũng chả nhớ nữa, còn nói gì đến "hành trạng" ! Ấy thế mà có một lần, một ông lão nào đã tâng bốc y một câu như sau : "A Q được việc thật !" Lúc đó A Q đang đánh trần đứng trước lão, người gầy gò và bộ uể oải ; người ngoài chả ai hiểu lão kia nói thật hay chế giễu, nhưng A Q rất lấy làm đắc ý. A Q lại có tính tự cao. Cả bấy nhiêu mặt dân trong làng Mùi, y tuyệt nhiên không đếm xỉa đến ai cả. Cho đến hai cậu đồ trong làng cũng vậy, y vẫn xem thường hết sức. Phú cậu đồ giả, ngày sau có thể thành thầy tú giả dã. Cụ Cố nhà họ Triệu và Cụ Cố nhà họ Tiền là hai người mà trong làng ai ai cũng kính trọng, bởi vì hai cụ gia tư đã giàu có, lại hai cậu con là hai cậu đồ ; thế mà chỉ một mình A Q là không ra vẻ sùng bái lắm. Y nghĩ bụng : "Con tớ ngày sau lại không làm nên, to bằng năm bằng mười lũ ấy à !". Hơn nữa, A Q lại có thể lên mặt với cả làng Mùi ở chỗ y đã lên huyện mấy bận, mặc dù y có trọng gì lũ phố phường. Thì chẳng hạn như cái ghế dài ba thước, rộng ba tấc, ở làng Mùi gọi là cái "ghế dài", A Q cũng gọi là "ghế dài", thế mà trên huyện họ lại gọi là "tràng kỷ" ! Y nghĩ bụng : "Gọi như thế là sai ! Là đáng cười !" ở làng Mùi, rán cá, người ta bao giờ cũng cho thêm một vài lá hành dài bằng ba đốt tay, thế mà trên huyện, họ lại cho nhánh hành thái thỏ vào ! A Q nghĩ bụng : "Thế là sai, là đáng cười!" Nhưng người làng Mùi là những người nhà quê, chưa hề đi đâu cả, lại chẳng đáng cười hơn ai hết hay sao ? Một đời chúng nó chưa hề biết trên huyện người ta rán cá như thế nào kia mà ! A Q là người "trước kia có bề có thế", kiến thức rộng, lại "được việc", kể ra cũng đã có thể gọi là người "hoàn toàn" lắm rồi. Chỉ đáng tiếc là trong người y còn có một tí khuyết điểm. Bực bội nhất là ngay trên đầu có một đám sẹo to tướng chẳng biết từ bao giờ. Mặc dù đám sẹo đó cũng là vật sở hữu của y, nhưng xem trong ý tứ y thì hình như y cũng chẳng cho là quý báu gì, bởi vì y kiêng tuyệt không dùng đến tiếng "sẹo" và tất cả những tiếng âm gần giống âm "sẹo". Về sau cứ mở rộng phạm vi dần, tiếng "sáng", tiếng "rạng" cũng kiêng, rồi tiếng "đèn", tiếng "đuốc" cũng kiêng tuốt. Chẳng cứ người nào, bất kỳ vô tình hay hữu ý mà phạm phải huý là A Q nổi giận, cái đám sẹo đỏ ửng lên, y nhìn để đánh giá đối thủ rồi kẻ ít mồm ít miệng là y chửi, kẻ sức yếu là y đánh. Nhưng chẳng biết thế quái nào, A Q thường vẫn thua nhiều hơn là được. Do đó y thay đổi dần dần chính sách, về sau chỉ lườm kẻ thù bằng một cặp mắt giận dữ nữa mà thôi. Nào ngờ, sau lúc A Q thi hành cái chính sách "lườm nguýt" đó thì bọn vô công rồi nghề ở làng Mùi lại càng thích chọc ghẹo y hơn. Hễ thấy mặt A Q đâu là y như chúng nó giả vờ làm bộ ngạc nhiên nói : - Ơ kìa ! Sáng quang lên rồi kia kìa ! A Q lại nổi giận, lại lườm bằng một cặp mắt rất dữ tợn. Nhưng chúng nó vẫn không sợ, cứ nói : - À té ra có ngọn đèn bảo hiểm kia kìa ! Không có cách gì đối phó, A Q đành nghĩ ra một câu để trả thù : - Thứ chúng mày không xứng ... Lúc đó, y lại có cảm tưởng rằng cái sẹo trên đầu y không phải là một cái sẹo tầm thường mà là một cái sẹo vinh diệu, danh giá nữa kia. Nhưng như trên kia đã nói, A Q là người kiến thức rộng, y biết ngay rằng nếu y nói nữa nhất định sẽ phạm húy, nên y không nói hết câu. ... Mời các bạn đón đọc AQ Chính Truyện của tác giả Lỗ Tấn.