Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chú Bé - Jules Vallès

JUYN VALEX VÀ TIỂU THUYẾT JĂC VANHTRAX Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Chú Bé của tác giả Jules Vallès.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con gái mẹ kế là bạn gái cũ của tôi Tập 1 - Kamishiro Kyousuke
Tên Khác: 継母の連れ子が元カノだった ; Con gái của mẹ kế là bạn gái cũ của tôi ; Tsurekano ; Đứa con mà mẹ kế dẫn về từng là bạn gái cũ ; 继母的拖油瓶是我的前女友 Tóm Tắt: Thời học trung học, Idori Mizuto và Ayai Yume tình cờ quen nhau và trở thành người yêu của nhau. Nhưng vì vài biến cố nhỏ nhặt mà tình yêu của hai người đành phải kết thúc. Cái kết thúc đó chưa được bao lâu thì ba của Mizuto và mẹ của Yume lại tái hôn với nhau. Liệu bánh xe định mệnh có lại đưa hai người quay về với nhau? ***   Mời các bạn đón đọc Con gái mẹ kế là bạn gái cũ của tôi Tập 1 của tác giả Kamishiro Kyousuke Người đăng: nguyentrinhan2008
Người Đàn Ông Lý Tưởng
Bác sĩ Ellie Sullivan vừa hoàn thành giai đoạn bác sĩ nội trú ở một bệnh viện lớn trong thành phố. Trong khi đang chạy bộ trong công viên gần đó, cô đã chứng kiến một vụ nổ súng vào một nhân viên FBI đang truy đuổi những tội phạm bị truy nã, một cặp đôi được xác định là vợ chồng Landrys. Là người duy nhất nhìn thấy mặt kẻ nổ súng, Ellie đột nhiên trở thành trung tâm của một cuộc điều tra hình sự. Đặc vụ Max Daniels nhận vụ Landrys. Là một sĩ quan cục cằn, anh chắc chắn không phải là người đàn ông lý tưởng mà Ellie đã luôn tưởng tượng, nhưng cô bị anh hấp dẫn đến không hiểu nổi. Ellie trở về nhà ở Winston Falls, Nam Carolina, để tham dự đám cưới em gái. Ngay sau khi tới nhà, cô nhận ra một vị khách mời bất ngờ: Max Daniels. Cặp đôi Landrys đã bị bắt, và cô sẽ được gọi ra để làm chứng. Nhưng trước đó, mỗi lần hai người này bị bắt, các nhân chứng đều sợ hãi im lặng hoặc biến mất trước khi có thể dự phiên tòa. Max thề sẽ là cái bóng của Ellie cho đến khi xong phiên tòa, không lâu trước khi anh cũng bị thu hút bởi cô. *** Đôi điều về tác giả: Julie Garwood là một tác giả người Mỹ khá thành công ở thể loại tiểu thuyết lãng mạn với hơn 27 đầu sách, 35 triệu bản in được phát hành trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Julie thường xuyên góp mặt trong danh sách best-seller của New York Times. Julie viết cả tiểu thuyết lịch sử - lãng mạn lẫn hiện đại lãng mạn pha trộn sự hồi hộp, gay cấn. Bên cạnh Gentle warrior (Chiến binh nhân từ); A girl named summer (Cô nàng mùa hè); Prince Charming (Hoàng tử trong mơ); các series: Crown's Spies (Những chàng điệp viên hoàng gia); Lairds' Brides (Những nàng dâu quý tộc); Highlands' Lairds (Những quý tộc miền cao nguyên)...The Secret (Điều bí mật) là một trong những tác phẩm xuất sắc của Julie Garwood. *** Sách đã xuất bản và dịch tại Việt nam: Món Quà Tình Yêu Lâu Đài Hạnh Phúc Thiên Thần Hộ Mệnh Danh Dự Huy Hoàng Cô Nàng Sư Tử Rebellious Desire Kẻ Phá Đám Điều Bí Mật Sizzle Người Đàn Ông Lý Tưởng Shadow Music   Khát Vọng Nổi Loạn Âm Điệu Bóng Đêm Vì Những Đóa Hồng - Julie Garwood *** Ellie không được lựa chọn để đến Honolulu hay là ở nhà. Đặc vụ Goodman đã gọi điện cho cô và giải thích rằng anh và cô sẽ bắt chuyến bay đến đó trong bốn ngày. Anh ta tin nên cho Ellie có nhiều thời gian hơn để thông báo cho bệnh viện biết cô sẽ vắng mặt ở đó trong ít nhất là một tuần, hoặc có lẽ là hai tuần cũng nên. “Nếu tôi từ chối đi thì có vấn đề gì không?” cô hỏi. “Tại sao cô phải từ chối đi đến một trong những thành phố đẹp nhất thế giới nhỉ?” Sean hỏi. “Nhưng nếu tôi vẫn cứ từ chối thì sao?” cô nhấn mạnh. “Công tố viên sẽ ra văn bản và ép buộc cô đi. Cô không muốn bà ta thực hiện những thủ tục giấy tờ đó chứ?” Cô thật sự không có lựa chọn. Nói với bệnh viện việc nghỉ phép này hóa ra không quá khó khăn, nhưng nhìn vào tủ đồ để thu xếp hành lý lại là một nỗi đau khổng lồ. Ellie không có đủ quần áo trong tủ đồ của mình để mặc trong một tuần, nói chi đến hai tuần trên một hòn đảo. Đồ tắm của cô – cái cô có thể tìm thấy – cũng đã có “tuổi đời” ít nhất mười năm rồi. Cô đã sống trong mấy bộ đồ vô trùng, không xà-rông và những bộ váy ngắn in hoa hòe. Nuốt xuống sự kiêu hãnh của mình, cô gọi cho Ava và giải thích tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình. Em gái cô vừa mới trở về từ tuần trăng mật, nên nó khá dễ chịu, và nó thích làm cho Ellie “mắc nợ” mình. Sau khi phàn nàn về hình dáng bất thường của Ellie – rằng cô phù hợp với size 6 vì bộ ngực của cô – nó đã chớp lấy cơ hội để đưa ra lời khuyên với cô. Ava bảo với cô rằng cô có một thể hình được trời ưu đãi nhưng nên suy nghĩ tới chuyện giảm vòng một. “Em đang đùa đấy à?” “Chị sẽ mặc vừa size 4 nếu chị làm thế,” Ava nói. “Nhưng như vậy thì sẽ như một ma-nơ-canh ấy.” “Thì chỉ có ma-nơ-canh mới được mặc quần áo đẹp” “Chị gác máy đây.” “Không, không, đừng làm thế. Em không thể giúp được gì nếu chị không chịu nghe góp ý. Em sẽ tới cửa hàng và gởi mọi thứ chị cần, mọi thứ trừ đồ lót và áo ngủ, vì thế sẽ tốn một ít tiền để mua đấy. Em biết chị trả được mà. Mẹ nói chị đã trả hầu hết các khoản nợ vay từ tiền giải thưởng và chị cũng đã gởi 20.000 đô vào tài khoản gia đình. Ba mẹ đã tranh cãi nhau vì chuyện đó bởi ba không muốn nhận nó, nhưng cuối cùng mẹ thắng và nói số tiền dó sẽ dành cháu ngoại của họ.” “Sao ba mẹ biết tin họ sẽ là ông bà ngoại vậy?” cô hỏi. “À, chị biết không. Họ đã rất sốc bởi vì đó là đứa sinh đôi dễ thương nhất.” Ellie cười. “Còn bây giờ?” “Rất vui mừng,” cô nói. “Ba đang tìm một cái giường cũi.” “Ôi trời, đừng để ông ấy tìm thấy một cái giường giảm giá nhé. Hãy bảo ông ấy mua một cái đàng hoàng vào.” Họ nói về Annie và những trợ giúp trong lúc con bé mang thai, sau đó Ellie nói, “Chị rất vui vì được em giúp vấn đề quần áo. Gởi chị hóa đơn nhé.” “Đừng quên mua giày nữa nhé, Ellie. Và vì Chúa, cả những phụ kiện nữa. Những đôi xăng đan nhỏ có quai hậu và đế bằng sẽ hợp với mấy bộ đồ em sẽ gởi cho chị. Em cũng sẽ gởi cho chị vài bộ vòng đeo tay và bông tai dễ thương. Với lại, Ellie này, hãy hứa với em chị sẽ mặt bộ váy ngắn màu lam sẫm em sẽ gởi cho chị nhé. Em sẽ tìm nó bây giờ đây. Chị sẽ rất đẹp cho mà xem. Hứa đi.” “Okay,” cô nói. “Chị hứa… trừ khi nó quá‘khêu gợi’.” ... Mời các bạn mượn đọc sách Người Đàn Ông Lý Tưởng của tác giả Julie Garwood.
Sự Nổi Loạn Dịu Dàng
Bạn nào đã theo dõi tập thứ hai trong Series Malory này từ bên phòng đọc trực tuyến thì hẳn đã biết nội dung câu chuyện về Anthony Malory và Roslynn Chadwick này rồi, còn bạn nào chưa thì mình hi vọng các bạn sẽ thích. Anthony là nhân vật nam mình yêu quý nhất trong series này. Vì là lần đầu làm ebook nên mình còn nhiều thiếu sót, mong các bạn thông cảm.Dưới đây mình xin bổ sung thêm một đoạn review của truyện. Nữ thừa kế người Scot Roslynn Chadwick cần tới sự bảo đảm của hôn nhân để bảo vệ nàng khỏi người anh họ vô liêm sỉ. Khi nàng gặp Anthony Malory, một quý tộc người Anh với sức hấp dẫn không thể cưỡng lại cùng đôi mắt xanh biển đầy nhục cảm nói lên sự vui sướng vô hạn. Làm sao nàng lại dám nghĩ tới chuyện yêu một người đàn ông như thế, khi bản thân nàng tin tưởng rằng những hứa hẹn đam mê của anh sẽ chỉ dẫn nàng tới vương quốc của những điều không hê bền vững….và tới cả những đáy sâu không bao giờ có thực của tình yêu. Tác phẩm thứ hai của Johanna Lindsey trong Malory Series, những câu chuyện tình yêu lãng mạn về những thành viên của một gia tộc đầy gắn bó. “ Những câu chuyện của bà là minh chứng cho sự vĩnh cửu của tình yêu. Lindsey đã thổi vào từng trang câu chuyện nguồn nhục cảm không bao giờ khô cạn. Người đọc gần như có thể ngửi thấy mùi hương của những đóa hoa, cảm nhận được làn gió, và chạm vào cả người anh hùng của mình.” _Romantic Times_ *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu - Johanna Lindsey Nơi Em Thuộc Về - Johanna Lindsey Trái Tim Hoang Dã Chỉ Một Tình Yêu Ngọn Lửa Mùa Đông Trái Tim Đam Mê Đầu Hàng Tình Yêu Của Tôi Đánh Cắp Khát Khao Em Không Lựa Chọn Nhưng Quyến Rũ Tia Sét Hoang Ai Đó Hoàn Hảo The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Anh quốc, năm 1818 - “Mình đang sợ sao, ngốc thật?” Roslynn Chadwick quay khỏi cửa sổ chiếc xe ngựa và thôi nhìn những cảnh vật lướt qua trong một giờ vừa rồi, mà nàng thực sự cũng không để tâm nhìn chúng. Sợ hãi ư? Giờ thì nàng chỉ còn một mình cô đơn trên đời, không gia đình, cũng không ai che chở đáng để nhắc tới. Lo sợ? Nàng đã cảm thấy lo sợ. Nhưng Nettie MacDonald đã không biết được điều đó, không nếu nàng có thể che dấu nỗi sợ ấy. Bản thân Nettie đã quá lo lắng rồi, kể từ khi họ băng qua biên giới nước Anh sáng ngày hôm qua, mặc dù bà đã cố gắng che dấu bằng cách càu nhàu suốt, theo cách của bà. Nettie trước đây rất vui vẻ và hoạt bát, kể cả khi họ đi ngang qua Lowlands (vùng đất thấp của người Scot), nơi mà bà rất khinh bỉ. Bà là một người vùng Highlands trong cả 42 năm cuộc đời, Nettie chưa bao giờ nghĩ tới cái ngày mà bà phải rời bỏ vùng đất cao nguyên bà yêu quý một mình tới nước Anh. Anh Quốc! Nhưng Nettie sẽ không bị bỏ lại đằng sau, không phải Nettie yêu quý của nàng. Roslynn mỉm cười cho lợi ích của Nettie, và thậm chí còn hấp háy đôi mắt nâu lục nhạt của nàng để đoan chắc với bà: - Ôi, sao mà cháu phải sợ chứ nhỉ, Nettie? Không phải chúng ta đã xoay sở trốn được khỏi đó vào lúc nửa đêm mà không có cách nào khôn ngoan hơn sao? Geordie nhất định sẽ mất hàng tuần để tìm kiếm ở Aberdeen hay Edinburg và không bao giờ có thể đoán ra là chúng ta bỏ trốn tới London. - Đúng là hắn ta sẽ làm vậy. Nettie mỉm một nụ cười thỏa mãn cho thành công của họ, phút chốc quên mất nỗi sợ hãi và căm ghét người Anh của mình. Nỗi căm ghét của bà đối với Geordie Cameron đã trở nên quá sâu sắc. - Và cô hi vọng tên khốn đó sẽ nghẹt thở vì cái tính hằn học của mình khi hắn nhận ra là cháu đã thoát khỏi cái kế hoạch ngu ngốc của hắn, đúng là cô mong thế. Cô đã không thích Duncan, chúa phù hộ cho ông ta, bắt cháu hứa điều mà cháu ghét, nhưng ông ta biết điều gì là tốt cho cháu. Và cũng đừng nghĩ rằng cô là một người phiền toái, cô không nghe nổi khi cháu quên thứ tiếng Anh chuẩn của cháu, con gái, cũng do Duncan đã đưa tới một ông thầy hợm hĩnh để dạy cho cháu. Cháu sẽ không quên, đặc biệt là giờ chúng ta đang ở giữa những tên họ hàng quỷ quyệt. Roslynn cười toe toét khi câu nói cuối cùng của Nettie được nói ra với hàm ý trách móc nhất, và không thể nhịn được việc trêu chọc bà thêm chút nữa : - Việc cháu gặp được một người Anh nhất định sẽ khiến cháu sớm nhớ ra thứ tiếng Anh chuẩn của mình. Giờ thì cô sẽ không từ chối cho tôi một chút thời gian còn lại khi cháu không cần phải nghĩ về tất cả những gì cháu nói, đúng không ? - Được rồi, nhưng chỉ khi cháu biết là cháu không quên chút nào thôi, và cháu cũng biết cô không quên rồi. Dĩ nhiên là Nettie biết. Đôi lúc Nettie còn hiểu rõ Roslynn hơn cả bản thân nàng. Và khi Roslynn không giận dữ, mỗi khi giận dữ nàng thường quên mất bản thân mình và dùng lại chất giọng địa phương của người Scot mà nàng đã học từ Nettie và ông ngoại, nàng vẫn có lý do để buồn phiền. Nhưng vẫn không khiến nàng quên được thứ tiếng Anh chuẩn đã ăn sâu vào nàng bởi gia sư của nàng. Roslynn thở dài : - Cháu hi vọng va li của chúng ta đã tới đó, nếu không thì chúng ta sẽ ở vào hoàn cảnh đáng buồn.   Họ đã rời đi chỉ với một bộ quần áo để thay đổi, để dễ đánh lừa anh họ của nàng Geordie, đề phòng trường hợp ai đó nhìn thấy họ rời đi và báo với anh họ nàng. - Đó là điều cuối cùng cháu nên lo, con gái ạ. Chắc chắn là thế và điều đó cũng đã tiết kiệm thời gian khi mời mấy bà thợ may váy áo tới lâu đài Cameron để may tất cả những cái váy dễ thương đó cho cháu, mấy thứ mà cháu chẳng thể mặc vừa khi chúng ta tới đó. Duncan, chúa phù hộ ông ta lần nữa, đã suy tính mọi thứ, kể cả việc gửi tới trước những cái va li, từng thứ một, những thứ mà Geordie không nghi ngờ gì nếu có nhìn thấy. Và Nettie từng nghĩ nó giống như một trò đùa khi chạy trốn vào lúc giữa đêm như họ đã làm, với những chiếc váy được kéo lên và quần ống túm ở bên dưới để dưới ánh trăng trông họ như những người đàn ông nếu nhìn thoáng qua. Thành thực là Roslynn cũng đã từng nghĩ giống vậy. Thực tế đó là phần duy nhất trong cuộc chạy trốn điên khùng này làm nàng hứng thú. Họ đã cưỡi ngựa tới thị trấn gần nhất nơi đã có xe ngựa và người đánh xe chờ sẵn, rồi đợi một vài giờ để chắc chắn họ không bị đuổi theo trước khi thực sự bắt đầu cuộc hành trình. Nhưng tất cả mọi sự lén lút và phiền phức đó đều cần thiết để thoát khỏi Geordie Cameron. Ít nhất thì ông nàng cũng đã khiến Roslynn tin rằng điều đó là cần thiết. Và Roslynn tin điều này sau khi nhìn thấy gương mặt của Geordie khi di chúc của ông được đọc. Sau tất cả, Geordie là cháu trai lớn nhất của Duncan Cameron, cháu trai của người em trai út của ông, cũng là người họ hàng nam duy nhất của ông còn sống. Geordie có mọi quyền lợi để thừa kế một vài thứ trong số của cải khổng lồ của Duncan để lại cho hắn, cho dù chỉ là một phần nhỏ. Nhưng Duncan để lại tất cả mọi thứ cho Roslynn, người cháu duy nhất : lâu đài Cameron, tiền bạc, những công việc kinh doanh nhiều vô kể, mọi thứ. Và Geordie đã rất cố gắng để kiềm chế một cơn giận khủng khiếp. - Chắc hẳn là hắn ta đã rất bất ngờ - Nettie nói sau cái ngày Geordie rời đi khi bản di chúc được công bố - Hắn biết là Duncan ghét hắn, ông đổ lỗi cho hắn vì cái chết người mẹ yêu dấu của cháu. Đó là lý do tại sao hắn lại ve vãn cháu một cách sốt sắng như vậy trong những năm qua. Hắn đã biết Duncan sẽ để lại mọi thứ cho cháu. Và đó cũng là lý do tại sao chúng ta không còn thời gian nữa, giờ khi Duncan đã mất. Đúng vậy, không còn thời gian nữa. Roslynn đã hiểu điều này khi Geordie hơn một lần hỏi cưới nàng sau khi bản di chúc được công bố, và nàng một lần nữa từ chối. Nàng và Nettie đã rời khỏi ngay đêm đó, không có thời gian để thương tiếc, không có thời gian để hối hận với lời hứa nàng đã hứa với ông mình. Nhưng nàng đã thực sự đau buồn trong hai tháng cuối, khi mà họ đã biết thời gian của Duncan sắp hết. Và thực sự cái chết của ông như là một sự giải thoát, bởi vì trong suốt bảy năm cuối cuộc đời ông đã phải chịu đựng những cơn đau, và chỉ bởi tính ngoan cố của người Scot đã khiến ông còn sống lâu như vậy. Không, nàng không nên buồn bởi những cơn đau của ông đã kết thúc. Nhưng ôi, nàng nhớ làm sao người ông già nua đã là cha và cả mẹ nàng trong suốt những năm qua ! - Cháu không cần khóc thương ta, cháu yêu - ông đã nói với nàng nhiều tuần trước khi ông mất - ta cấm điều đó. Cháu đã ở bên ta quá nhiều năm, quá nhiều thời gian lãng phí, và ta không muốn cháu lãng phí thêm dù chỉ một ngày sau khi ta chết. Cháu hãy hứa với ta như vậy nhé. Thêm một lời hứa nữa với người ông già nua yêu quý của nàng, người ông đã nuôi dưỡng nàng, yêu thương nàng kể từ khi con gái của ông trở về với ông mang theo Roslynn mới 6 tuổi. Liệu thêm một lời hứa nữa có hề gì sau khi nàng đã cho ông lời hứa định mệnh khiến cho giờ đây nàng ở trong tình thế đầy bối rối như thế này. Và dù thế nào sau đó cũng vẫn không có thời gian để mà khóc thương, cho nên ít nhất nàng cũng đã hoàn thành lời hứa đó. Nettie cau có khi thấy Roslynn hướng mắt nhìn lại cửa sổ lần nữa và biết rằng nàng lại đang nghĩ về Duncan Cameron. « Gramp-ông ngoại» nàng đã gọi ông một cách bất kính như vậy kể từ cái ngày mẹ nàng lần đầu tiên mang nàng tới lâu đài Cameron sống chỉ để chọc tức ông. Đứa trẻ tinh nghịch ấy đã yêu thích việc chọc giận người ông Scot già và khó chịu, và làm thế nào mà ông lại thấy vui với mỗi trò nghịch ngợm và chọc phá mà cô bé dành cho ông. Cả hai người đều nhớ tới ông, nhưng giờ có quá nhiều thứ khác cần phải suy nghĩ tới. - Cuối cùng chúng ta cũng tới quán trọ. Nettie nhìn ra từ chỗ ngồi đối diện với phía trước xe ngựa. Roslynn nghiêng người về phía cửa sổ để nhìn về cùng một hướng, và ánh nắng như đang dát vàng trên khuôn mặt nàng, chạm vào mái tóc nàng khiến nó cũng ánh rực lên như nắng. Nàng có mái tóc đẹp, màu vàng ánh đỏ như mẹ nàng - Janet. Mái tóc của Nettie thì đen như than đá, và mắt bà màu xanh mờ như bóng những cây sồi cao lớn che phủ mặt hồ. Roslynn cũng có được đôi mắt giống mẹ, màu xanh lục pha xám khó tả bởi có thêm những ánh vàng sáng lấp lánh thu hút sự chú ý. Thêm vào đó, mọi thứ của nàng giống nhiều với Janet Cameron trước khi bà bỏ đi cùng với một người đàn ông Anh. Thực tế thì Roslynn không có điểm gì giống với cha, người đàn ông đã đánh cắp trái tim của mẹ nàng - Janet và để lại bà cùng với nỗi đau vô hạn khi ông chết sau một tai nạn bi thảm. Janet cũng như vậy, chết chỉ một năm sau đó. Và Roslynn, nhờ ơn Chúa, vẫn còn lại người ông để nương tựa. Một cô bé mới bảy tuổi, mà cả bố mẹ đếu đã qua đời, may mắn là đã có thể thích nghi, đặc biệt là với một người ông Scot luôn yêu quý và chiều theo mọi ý thích bất chợt của cô. Ôi, mình cũng tệ như cô bé, Nettie nghĩ thầm, khi nghĩ về cái chết khi mà giờ đây tương lai mới là thứ cần phân vân. - Cháu hi vọng là những chiếc giường tối nay ít ra cũng êm hơn tối qua- Roslynn nhận xét khi xe ngựa dừng lại trước quán trọ kiểu thôn quê- Đó là điều duy nhất khiến cháu thấy hăng hái khi tới London. Cháu biết Frances sẽ có những chiếc giường thoải mái chờ chúng ta. - Cháu muốn nói là cháu không thấy vui chút nào khi gặp lại người bạn thân sau ngần ấy năm ư ? - Dĩ nhiên là có chứ ạ, cháu không thể chờ đợi để được gặp lại cô ấy- Roslynn liếc Nettie với sự ngạc nhiên - nhưng hoàn cảnh này sẽ không cho phép một cuộc sum họp vui vẻ, phải không ? Cháu muốn nói là, vì không còn thời gian để mất, nên thực sự cháu có thể gặp Frances trong bao lâu ? Ôi, Geordie chết tiệt – nàng thêm vào với cái quắc mắt khiến cho đôi mày màu hung sáng của nàng nhích lại gần nhau - Nếu không phải vì hắn ta… - Cháu đáng lẽ không nên hứa hẹn gì cả, giờ thì chúng ta đã ở đây, và chẳng tốt tý nào khi than phiền về chuyện đó nưã, đúng không ?- Nettie bắt bẻ nàng.   Mời các bạn mượn đọc sách Sự Nổi Loạn Dịu Dàng của tác giả Johanna Lindsey.
Ảnh Phổ Diện
Vua John ra sắc lệnh Công nương Gabrielle xứ St. Biels phải rời khỏi quê hương Anh quốc của cô để kết hôn với một lãnh chúa Cao nguyên. Cô biết mình phải tuân lệnh và gói ghém đồ đạc đến Scotland cùng với đội cận vệ. Trên đường tới tu viện nơi dự định tiến hành lễ cưới, họ bắt gặp một nhóm người đang muốn chôn sống một kẻ khác. Cô đã giải cứu kẻ gần chết đó và bí mật mang anh ta đến tu viện.  Vì cô đến đó chờ để làm lễ kết hôn, hai nam tước đồi bại người Anh đang tranh giành để có được cô cũng đến tu viện. Nhưng vị lãnh chúa mà cô buộc phải cưới thì không. Ông ta bị sát hại trước khi tới nơi. Giờ hai nam tước đang tranh cãi xem ai là người thay mặt cho đức vua để quyết định tương lai của Gabrielle.  Lãnh chúa Colm MacHugh đến tu viện để đón em trai mình, người đã gần như bị chôn sống. Anh không khám phá ra người nào đã cứu em trai mình nên quyết định đưa vị linh mục đã giúp Liam hồi phục lại về vùng đất của anh để xem xem liệu anh có tìm hiểu được thêm gì nữa. Khi mệnh lệnh của hai nam tước người Anh đặt ra cho Gabrielle dẫn đến kết quả không mong đợi, anh liền giải cứu cho cô và đưa cô về với anh. Để đáp trả món nợ cũ, anh chấp thuận kết hôn với cô và trở thành người bảo hộ cho cô.  Ảnh Phổ Diện (Shadow Music) là cuốn tiểu thuyết lãng mạn, vì thế người đọc đều biết cuối cùng thì Colm và Gabrielle sẽ yêu thương nhau và cùng chống lại những thế lực đen tối vây quanh. Các nam tước dồn hết sức lực, đặc biệt là một kẻ trong số họ muốn “kho vàng ẩn” của St. Biel. Có cả những xung đột thị tộc tại Scotland – điều luôn luôn xuất hiện trong loại tiểu thuyết lãng mạn này.  Công nương Gabrielle có một cá tính mạnh mẽ. Cô không thắc mắc gì khi tuân lệnh nhà vua. Mặc dù vậy, cô sẽ sống cuộc sống của cô khi thấy phù hợp theo những hạn chế về mặt văn hóa và tín ngưỡng của thời bấy giờ. Colm nhanh chóng học được cách giải mã một số những từ ngữ của cô để biết cô sẽ làm điều mà cô thích. Colm là một vị lãnh chúa mạnh mẽ, điển hình và cũng là một chú rể bất đắc dĩ. Anh học được rằng cuộc hôn nhân này không phải là sự trói buộc như anh tưởng. *** Wellingshire, nước Anh. Công nương Gabrielle chỉ mới có 6 tuổi khi bị triệu đến bên giường người mẹ đang hấp hối. Hộ tống là người cận vệ trung thành, đằng sau là hai người lính hai bên, bước chân họ chậm rãi để cô bắt kịp khi họ trang trọng diễu qua hàng lang dài. m thanh duy nhất chỉ là tiếng những đôi ủng dập xuống nền nhà bằng đá lạnh buốt. Gabrielle đã được gọi đến giường mẹ nhiều lần đến nỗi cô bé không tài nào đếm nổi. Chân bước và mái đầu cúi xuống, ánh nhìn dán chặt vào viên đá sáng bóng mà cô vừa tìm được. Mẹ sẽ rất thích nó. Đó là một viên đá đen tuyền với một đường sọc màu trắng mảnh mai lượn vòng quanh. Một bên mặt trơn nhẵn như bàn tay mẹ lúc vuốt ve khuôn mặt Gabrielle. Mặt bên xù xì như những cái chạm của cha cô. Hàng ngày lúc hoàng hôn buông xuống, Gabrielle mang đến cho mẹ một món quà quý giá khác nhau. Hai ngày trước cô bé bắt được một con bướm. Đôi cánh của nó thật xinh đẹp, vàng óng xen lẫn những mảng màu tím biếc. Mẹ tuyên bố đó chính là chú bướm xinh đẹp nhất mà bà từng thấy trên đời. Bà khen ngợi Gabrielle vì đã biết nâng niu một tạo vật của Chúa lúc bà tiến về phía cửa sổ và thả cho nó bay đi. Ngày hôm qua Gabrielle hái những bông hoa ở ngọn đồi phía ngoài lâu đài. Hương cây thạch nam và mật ong vất vít quanh cô bé, và cô bé nghĩ mùi hương này thậm chí còn dễ chịu hơn cả mùi dầu thơm và nước hoa đặc biệt của mẹ cô. Gabrielle buộc một dải lụa xinh xắn quanh phần cuống bó hoa và cố gắng tạo thành một chiếc nơ đẹp, nhưng cô bé không biết cách và cuối cùng làm rối tung nó lên. Cô bé đã dỡ nó ra trước khi mang cả bó hoa đến cho mẹ mình. Những hòn đá là những món quà quý ưa thích của Mẹ. Mẹ giữ một hộp đầy những viên đá mà Gabrielle thu nhặt cho bà và đặt nó trên bàn ngay cạnh giường, chắc Mẹ sẽ thích viên này nhất cho mà xem. Gabriella không hề tỏ ra lo lắng về cuộc gặp gỡ ngày hôm nay. Mẹ đã hứa sẽ không đi tới thiên đường sớm, và mẹ chưa bao giờ thất hứa với cô. Những vệt nắng trải dài trên những bức tường và sàn nhà lát đá lạnh buốt. Nếu như Gabrielle không bận rộn với viên đá của mình, cô bé sẽ thích được đuổi bắt theo bóng nắng và cố gắng giành lấy một vệt cho mình. Hành lang dài là một trong số những chốn đùa nghịch ưa thích của cô bé. Cô bé thích co chân nhảy lò cò từ viên nọ sang viên kia trên mặt đá lát sàn, và quay lại xem xem khoảng cách xa đến bao nhiêu trước khi ngã phịch xuống. Thi thoảng cô bé nhắm chặt mắt, hai cánh tay giang rộng, và xoay tròn xoay tròn cho đến tận lúc loạng choạng ngã nhào xuống nền nhà, mặt mũi tối tăm đến nỗi những bức tường đá dường như bay lượn ngay trên đầu. Nhưng thích nhất là được chạy dọc hành lang, đặc biệt khi cha có ở nhà. Ông là người đàn ông to lớn, trang nghiêm , cao hơn bất kì chiếc cột chống nào trong nhà thờ. Cha cô sẽ gọi cô đến và chờ cô sà vào lòng ông. Rồi ông sẽ nhấc bổng cô lên trong vòng tay mình và nâng cô đến ngang đầu. Nếu đang ở khu sân trong, cô với hai bàn tay lên trời, cảm giác chạm vào được cả một đám mây. Cha lúc nào cũng vờ thả lỏng tay mình để cô tưởng ông sẽ làm cô rơi xuống. Cô biết ông sẽ không bao giờ làm thế, nhưng cô vẫn kêu thét lên thích thú. Cô bé quàng tay quanh cổ cha và bám thật chặt khi ông sải bước đến phòng mẹ. Khi tâm trạng cha đặt biệt vui vẻ, ông sẽ cất tiếng hát. Cha có một giọng hát dễ sợ, thỉnh thoảng Gabrielle cười rúc rích và bịt chặt lấy hai tai tỏ vẻ khiếp đảm cực kì, nhưng cô chưa bao giờ thực sự cười phá lên. Cô không muốn tổn thương đến những tình cảm dịu dàng của cha mình. Hôm nay cha vắng nhà. Ông rời Wellingshire để đến thăm chú Morgan ở phía bắc nước Anh, và vài ngày tới cũng sẽ chưa về. Gabrielle không hề lo lắng. Nếu không có cha ở nhà, bà sẽ không chết. Stephen, chỉ huy của đội cận vệ, mở cánh cửa phòng mẹ cô và vỗ về Gabrielle bước vào phòng bằng một cú thúc nhẹ qua vai. “Nào, Công nương,” anh hối thúc. Cô quay lại với một cái cau mày bất bình. “Cha nói anh phải gọi mẹ em là Công nương Geneieve, và gọi cháu là Lady Gabrielle chứ.” “Ở nước Anh, em sẽ là Lady Gabrielle.” Anh đập nhẹ vào chỏm lông trang trí trên chiếc áo dài của mình. “Nhưng ở St. Biel, em chính là công nương của chúng ta. Giờ thì đi đi nào, mẹ em đang đợi.” Nhìn thấy Gabrielle, mẹ cô lên tiếng gọi. Giọng nói phát ra yếu ớt, còn mặt bà trông trắng bệch. Từ lúc cô bé nhớ được tới bây giờ , mẹ đã nằm trên giường rồi. Hai chân mẹ đã quên mất bước đi, bà giải thích với Gabrielle như thế, nhưng cô bé vẫn hy vọng, cầu nguyện rằng một ngày nào đó chúng sẽ nhớ ra. Nếu như điều nhiệm màu ấy xảy đến, mẹ hứa với Gabrielle rằng mẹ sẽ đứng chân trần trên nền nhà sạch sẽ để đếm gạch cùng với cô bé. Và mẹ cũng sẽ khiêu vũ cùng với Cha. Phòng ngủ chật ních toàn những người là người. Họ nhích thành một lối nhỏ giành cho cô. Vị mục sư, Cha Gartner, đang lẩm bẩm lời cầu nguyện của ông qua tiếng thì thầm gần hốc tường, và thầy thuốc, người lúc nào mặt mày cũng cau có và thích chọc lấy máu mẹ bằng những con đỉa nhày nhụa, đen sì, cũng có mặt. Gabrielle thầm biết ơn vì ông ta đã không đặt những con vật đó vào cánh tay mẹ ngày hôm nay. Các tớ gái, người hầu và quản gia lảng vảng bên cạnh giường. Mẹ đặt khung thêu và chiếc kim của bà xuống, xua tay cho người hầu tránh sang một bên, và ra hiệu cho Gabrielle. “Lại đây ngồi cạnh mẹ nào,” bà ra lệnh. Gabrielle bước tới, trèo lên bục, và chìa hòn đá ra cho mẹ. “Chà, đẹp quá,” mẹ thì thầm khi cầm lấy viên đá và cẩn thận quan sát nó. “Đây hẳn là viên đá đẹp nhất,”, mẹ thêm vào với một cái gật đầu. “Mẹ, lần nào con mang tới cho mẹ một viên đá mẹ đều nói thế. Lúc nào cũng là viên đẹp nhất.” Mẹ cô chạm nhẹ vào cô bé. Gabrielle dịch tới gần hơn. “Mẹ không thể chết hôm nay được. Nhớ không? Mẹ hứa rồi.” “Mẹ nhớ mà.” “Cha sẽ rất giận dữ, vì mẹ không khỏe lên.” “Lean closer, Gabrielle,” her mother said. “I have need to whisper.” “Xích vào với mẹ, Gabrielle,” mẹ cô bé đáp. “Mẹ nói thầm thôi.” Một tia sáng lóe lên trong mắt báo cho Gabrielle biết mẹ lại đang bắt đầu trò chơi của mình. “Một bí mật ạ? Mẹ sẽ nói cho con biết?” Đám đông tiến lại gần. Ai cũng hăm hở giỏng tai nghe lời bà sắp nói. Gabrielle nhìn quanh phòng. “Mẹ, tại sao mọi người đều ở đây hết vậy?” Mẹ hôn lên má cô bé. “Họ nghĩ mẹ biết nơi cất giấu kho báu, và hi vọng mẹ sẽ nói cho con nghe.” Gabriella cười rúc rích. Cô bé rất thích trò chơi này. “Mẹ sẽ nói cho con chứ?” “Không phải hôm nay,” mẹ trả lời. “KHông phải hôm nay,” Gabrielle lặp lại để cho đám người tò mò đang vây xung quanh có thể nghe thấy. Mẹ cô bé gắng gượng ngồi dậy. Một người hầu nhanh chóng tiến lại đặt thêm gối vào sau lưng bà. Ngay tức khắc thầy thuốc loan báo rằng sắc mặt bà đã khá hơn. “Ta cả thấy khỏe hơn nhiều rồi,” bà lên tiếng. “Giờ hãy rời đi,” bà ra lệnh, giọng nói nhấn mạnh từng lời. “Ta muốn có phút giây riêng tư với con gái mình.” Vị thầy thuốc nhìn như thể ông muốn cự lại, nhưng vẫn im lặng giải tán đám đông ra khỏi phòng ngủ. Ông ra hiệu cho hai người hầu gái ở lại bên trong. Những người khác đứng túm tụm bên ngoài để chờ lệnh của bà chủ. “Có phải hôm nay mẹ khỏe hơn nhiều nên mới kể chuyện được cho con phải không?” Gabrielle hỏi. “Phải,” bà đáp. “Con muốn nghe chuyện gì nào?” “Câu chuyện về nàng công chúa,” Cô bé hăm hở lên tiếng. Mẹ cô bé không hề ngạc nhiên. Lúc nào Gabrielle cũng đòi bà kể đúng một câu chuyện. “NGày xửa ngày xưa có một nàng công chúa sống ở vùng đất xa thật xa tên gọi là St. Biel,” mẹ cô bắt đầu. “Chỗ ở của nàng là một lâu đài màu trắng thật lộng lẫy nằm tên đỉnh một ngọn núi cao. Nhà vua trị vì nơi ấy là chú của nàng. Ngài đối với công chúa rất ân cần và nàng vô cùng hạnh phúc.” Khi mẹ cô bé dừng lại, Gabrielle nôn nóng tiếp lời. “Mẹ là nàng công chúa đó.” “Gabrielle, đúng như thế, con biết mà. Và đó là câu chuyện của cha và mẹ.” “Con biết, nhưng con vẫn muốn nghe mẹ kể chuyện cơ.” Mẹ cô bé tiếp tục. “Khi nàng công chúa đến tuổi trưởng thành, một giao kèo được lập với Nam tước Geoffrey vùng Wellingshire. Công chúa buộc phải cưới vị nam tước và sống với anh ta tại nước Anh.’ Vì bà biết rằng con gái mình thích nghe đoạn kể về lễ cưới, những bộ váy áo xúng xính, âm nhạc, thế là bà đi vào chi tiết. Cô con gái bé nhỏ vỗ hai tay vào nhau đầy hào hứng khi nghe đến bữa tiệc cưới long trọng, đặc biệt là lời miêu tả những chiếc bánh tạc nhân hoa quả cùng với những chiếc bánh ngọt nhân mật ong. Đến cuối câu chuyện, lời kể của người mẹ trở nên chậm chạp và nặng nề. Bà kiệt sức. Cô con gái bé nhỏ nhận thấy điều đó và , theo thói quen, cô lại bắt mẹ cô hứa sẽ không được chết hôm nay. “Mẹ hứa. Giờ đến lượt con kể cho mẹ nghe câu chuyện mẹ đã dạy cho con đi nào.” “Đúng y như mẹ dạy, phải không Mẹ? Và cũng y như mẹ của mẹ dạy mẹ phải không?” Bà mỉm cười. “Từng từ một. Và con sẽ nhớ và lại kể cho con gái con một ngày nào đó để chúng biết về dòng dõi của chúng và vùng đất St. Biel.” Gabrielle trở nên trịnh trọng, hai mắt cô bé nhắm lại đầy tập trung. Cô bé biết mình không được bỏ sót một từ nào trong toàn bộ câu chuyện. Đây là di sản của cô, và mẹ cô chắc chắn rằng một ngày nào đó cô sẽ hiểu ý nghĩa của câu chuyện này. Cô bé đặt hai tay lên lòng mình và rồi mở bừng mắt. Nhìn vào nụ cười khích lệ của mẹ, cô bé bắt đầu. “Này xửa ngày xưa vào một năm nhiều bão lớn ập vào từ ngoài biển khơi…” Mời các bạn mượn đọc sách Ảnh Phổ Diện của tác giả Julie Garwood.