Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chú Bé - Jules Vallès

JUYN VALEX VÀ TIỂU THUYẾT JĂC VANHTRAX Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Chú Bé của tác giả Jules Vallès.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trúng Số Độc Đắc - Vũ Trọng Phụng
Trúng số độc đắc là một biến cố, thường đem đến cho con người những thay đổi thật lạ lùng. Cái ngày trúng số như chia cuộc đời con người gặp may ra hai phần, mà bao nhiêu thứ đều trái ngược nhau đến mức bi đát. Trúng số độc đắc đã vẽ lại con đường rất biện chứng, biến một anh ký viết ra một tay cự phú, với các hoàn cảnh gia đình, xã hội vây quanh anh ta.  Thất nghiệp, Nguyễn Văn Phúc bị vợ sỉ vả đủ thứ. Bố mẹ thì nói ra, nói vào, chửa Phúc là ăn hại, đái nát, vô tích sự, gàn dở, không đáng bưng bát cơm lên mà ăn. Nhẫn nhục đi xin một chân thư ký hãng buôn thì lão chủ Tây ném đơn xuống đất...  Chưa đầy nửa tháng, nghe tin Phúc trúng số mọi thứ đều thay đổi. Gia đình thì thấy anh Phúc biến ra đại quý, còn người đời thì cung kính vô cùng. Cái số độc đắc không chỉ sinh ra hài kịch gia đình mà còn làm nổ ra những bi kịch ghê gớm. Nhân tình thế thái, thì ra cái số độc đắc là giọt rượu quý để ma lực làm cho nó đỏ hay xanh trước mắt người đời.  Viết Trúng số độc đắc, Vũ Trọng Phụng đã tập trung tất cả bút lực để theo dõi, phân tích, mô tả những thay đổi trong đời và trong lòng của chỉ một nhân vật. Ông có cái nhìn rất sáng suốt, tính nhậy cảm thật tinh tế, không những trông thấy những tình cảm được biểu lộ mà cả những ý muốn sơ phát còn tiềm tàng, những ký ức bị quên đi bỗng hiện về, những cảm giác từ lâu sống dậy.  Với cuốn tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng lên án thế gian và người đời nghiêm khác, thế nhưng giọng kể chuyện, tả cảnh, tả tình cứ hồn nhiên, vui vẻ và có dịp là không quên hài hước.  Đây là tác phẩm cuối đời của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm tuyệt mệnh này thực sự là một tuyệt tác về nhiều phương diện. *** Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Đặc biệt ông nổi tiếng với những bài phóng sự và được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Những tác phẩm của ông góp phần tạo nên diện mạo văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám chịu nhiều chìm nổi. Ông sinh năm 1912, mất năm 1939, quê ở tỉnh Hưng Yên, nhưng được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Vốn xuất thân trong một gia đình nghèo, lại mồ côi cha mẹ từ lúc mới 7 tháng tuổi, mẹ tần tảo nuôi ăn học. Năm 16 tuổi, sau khi đỗ bằng tiểu học, ông phải thôi học để đi làm kiếm sống. Sau hai tháng làm thư kí đánh máy cho hãng buôn Goddard, ông bị đuổi và thất nghiệp. Ít lâu sau, ông đánh máy chữ cho Nhà in Viễn Đông nhưng hai năm sau lại bị đuổi.Từ đó ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên nghiệp. Với giọng văn sắc sảo, mang đậm chất châm biếm, trào phúng và nội dung tư tưởng sâu sắc, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều hướng tới chủ đề hiện thực, tố cáo và vạch trần xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8 – một xã hội bê bối với những tấn trò đời bi kịch. Đọc những trang văn của ông, người ta không khỏi ngậm ngùi, chua chát. ***  Trừ những ngày mưa không kể, sáng nào cũng vậy, cứ đúng chín giờ là anh Phúc đã ngồi trên một cái ghế xi măng trước nhà Kèn, trong vườn hoa Paul Beri[1]. Đã tám tháng nay nhàn cư như vậy cho nên từ người phu lục lộ quét vườn hoa cho đến mấy đứa sống cầu bơ cầu bất bằng đủ các nghề như trèo me, trèo sấu, câu cá, bắt tổ chim, có khi ăn cắp, giật khăn nữa: nói tóm lại là bọn ma cà bông vẫn lấy nhà Kèn làm khách sạn, đối với anh Phúc, đều đã trở nên ít nhiều thân thuộc. Hễ anh cứ ngồi vừa nóng ghế được năm phút, thì người phu gát đến chỗ chân anh. Mà lần nào cũng vậy, hễ anh co chân lên để tránh những hòn sỏi nhỏ do cái chổi tre hắt bắn lung tung, thì người phu cũng thản nhiên khẽ chào anh: “Cậu chơi!” để cho Phúc vui vẻ đáp: “Không dám! Ấy kìa bác…”. Độ nửa giờ sau, người phu ấy lại quay lại với Phúc, giơ cái điếu thuốc lào quấn bằng lá chuối mà bác ta vẫn gài mang tai khiến Phúc phải gập sách lại, ngừng đọc. Anh ta bèn lôi ngay ở túi áo ra bao diêm và gói thuốc lào. Bao giờ Phúc cũng để người phu hút trước, mình sau. Bao giờ người phu cũng để cho Phúc cái hân hạnh mời mình cả diêm lẫn thuốc, và sự ấy, Phúc coi là một thứ thuế đánh chỗ ngồi của chàng, không phải đóng thẳng cho Nhà nước nhưng đóng cho một người thay mặt Nhà nước vậy. Sau cuộc thù tạc nhỏ mọn ấy, Phúc lại đọc sách, người phu lại vác chổi ra đi. Còn bọn ma cà bông, giao thiệp với anh ta thì khác. Chúng gọi anh là “cậu áo trắng dài” chỉ vì cái lẽ rất dễ hiểu là xưa nay chúng không thấy Phúc vận gì khác ngoài cái áo trắng dài. Thoạt đầu, chúng cũng ngạc nhiên không hiểu sao trong đời lại có người vô công rỗi nghề đến bậc ngày nào cũng ra ngồi vườn hoa như thế, nhưng khi thấy Phúc bao giờ cũng đọc sách, chúng bèn đoán hẳn đó là một người học trò sửa soạn đi thi. Đối với bọn ấy, Phúc rất dè dặt. Có đứa đã đến ngồi cạnh chân anh ta, và sau khi hỏi chuyện mà không được đáp lời đằm thắm, đã ngồi ra nghịch những hòn cuộn dưới chân anh hàng nửa giờ mà chưa đi cho. Lại có đứa đã từng có lần moi trong một cái tay nải ra những quả me xanh hoặc sấu chín nó có thể làm cho Phúc nhớ lại cái thời học trò thơ ấu nữa, nhưng Phúc đã trả tiền, sợ ăn không thì thành ra thân mật quá, và thân mật với cái hạng hay văng tục ghê gớm, hay chửi ỏm tỏi, là rất nguy hiểm. Những khi bị bọn quỉ sứ ấy hỏi chuyện, Phúc chỉ đáp thế nào cho phải phép, cho khỏi là đáng ghét mà thôi. Tuy vậy, anh ta cũng đã nhớ tên và hiểu rõ cả tâm tính từng đứa một: thằng Bí Sến Vườn hay đánh chửi nhưng thẳng và tốt, thằng Tẹo mắt híp miệng nói leo lẻo nhưng mà gian, thằng Bôn Tây Lai có cả những tánh xấu của hai thằng kia, nghĩa là vừa hay bắt nạt vừa ăn gian, thằng Sáu Vẩu mềm nắn rắn buông, khôn ngoan đủ khoé, vân, vân… ... Mời các bạn đón đọc Trúng Số Độc Đắc của tác giả Vũ Trọng Phụng
Tình Yêu và Ước Vọng - Archibald Joseph Cronin
Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin là câu chuyện xúc động của hai y tá-Anne và Lucy, những người đã cống hiến tất cả bản thân để phục vụ người khác. Khi sự bất cẩn của cô em Lucy gây ra cái chết thảm khốc của một bệnh nhân trẻ tuổi, Anne đã nhận trách nhiệm bảo vệ cô em gái - một hành động đe dọa hủy hoại sự nghiệp chăm sóc điều dưỡng đang rực rỡ của cô. Và rồi Anne gặp một bác sĩ phẫu thuật trẻ lý tưởng, người quan tâm đến cô; Và mặc dù một trong những truyền thống lâu đời và nổi tiếng nhất của ngành y tế là mối quan hệ giữa bác sĩ và y tá vẫn không có tính cá nhân, bác sĩ và y tá là tất cả những con người-và đôi khi truyền thống bị phá vỡ. *** Archibald Joseph Cronin (19/07/1896 – 06/01/1981) là một tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch, tác giả truyện người thật việc thật, nhà văn người Scotland. Ông là một trong những người viết truyện nổi tiếng của thế kỷ XX. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: The Stars Look Down, The Citadel (Thành trì), The Keys of the Kingdom và The Green Years (Những năm ảo mộng). Tất cả các tác phẩm này đều đã được dựng thành phim. Ông cũng dựng nên nhân vật Dr. Finlay, người hùng của một bộ truyện dùng cho phim nhiều tập của đài phát thanh và truyền hình BBC dưới tên Dr. Finlay's Casebook. *** TRỜI MÙA ĐÔNG GIÁ LẠNH, ĐÃ SÁU GIỜ sáng mà còn tối như nửa đêm. Khu truyền nhiễm bệnh viện Shereford im ắng, sự yên tĩnh đặc biệt của phòng bệnh. Một hơi thở yếu ớt, khò khè vang lên từ chiếc giường trẻ con, khuất sau tấm bình phong. Ngồi yên ở đầu giường của đứa bé, y tá Lee không rời mắt khỏi khuôn mặt bé nhỏ, tiều tụy. Cô đã thức canh suốt đêm và dù rất mệt nhọc, cô vẫn kiên nhẫn trông coi người bệnh nhỏ bé. Phiếu định bệnh treo ở thanh ngang trên giường ghi: "Bệnh bạch hầu" nét chữ sắc sảo. Đó là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, một ca bệnh nghiêm trọng. Đứa bé được mang tới tối qua sau một cuộc giải phẫu yết hầu thực hiện khẩn cấp. Lee đã phụ giúp bác sĩ Hassal trong suốt ca mổ, cứu sống đứa bé. Bây giờ một ống bạc nho nhỏ lấp lánh giữa lớp vải băng đã giúp đứa bé thở được. Hai ngàn đơn vị huyết thanh chống bạch hầu được bơm vào máu để chống chọi với vi trùng. Bệnh nhân nhỏ bé đã khá hơn, đang ngoi lên từ vực sâu cõi chết. Với cử chỉ nhẹ nhàng và chuẩn xác, Lee rút ống bạc khỏi cái bao nhét trong cổ họng bệnh nhân, lau chùi sạch sẽ. Vài giây sau cô nhét lại vào chỗ cũ, đứa bé thở dễ dàng hơn. Lee vặn nhỏ ngọn lửa của bếp dầu đặt sau tấm rèm, tia hơi nước thoát ra từ vòi của ấm nước bắt đầu sôi. Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay, chuẩn bị chích cho đứa bé. Qua mấy động tác bình tĩnh và chính xác của cô, bệnh nhân đã nhận đủ số lượng mã tiền (Strychnine) chích vào đùi. Kim đâm vào, đứa bé chỉ phản ứng bằng cái rùng mình nhẹ, khó nhận biết. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Phía Sau Một Cô Gái - Ploy Ngọc Bích
Từ những bước chân dọc biển ấy, tôi bắt đầu hành trình tìm kiếm những gì ở phía sau một cô gái, từ các cô gái sống quanh tôi. Đa phần những câu truyện trong Phía sau một cô gái bắt nguồn từ chất liệu cuộc sống thật thà. Vì: Cuộc sống trong nhân dáng và tâm tính của một cô gái hiện đại tuy vất vả nhưng độc đáo. Sự dịu dàng, đằm thắm, yêu ghét khó phân minh và hay suy nghĩ chất đầy trong tâm tính. Đồng thời, cái mạnh mẽ, thông minh và tham vọng cũng chi phối nhiều mặt cuộc sống. Chính những kéo co của trái tim và khối óc trong một cô gái tự thân đã cho nhiều cái hay, lạ làm xuất phát điểm của những câu chuyện. Phía sau một cô gái, dù ngọt hay đắng, dù ghét hay thương, thì nếu quay đầu lại cũng nên dành cho quá khứ cái chớp mắt biết ơn. Vì bước ra khỏi những ngày ấy, mới có được cô gái của thời hiện tại. Phía sau một cô gái là những cái kết mở, vì truyện cũng như sống, hiếm khi kết bằng một dấu chấm tròn trĩnh, vẹn toàn. Chia tay đấy, có khi mai gặp lại. Bên nhau đấy, có khi mai rời xa. Cười và khóc, vui và buồn - cái ranh giới ấy rất mong manh... *** Giáng Sinh Về Nhà. Hayden gọi chỉ vài tiếng sau khi tôi gửi thư trả lời. Chúng tôi hẹn nhau trong một cái nhà sách. Chúng tôi tường thuật lại những sự vụ đã khiến khoảng cách giữa hai lần gặp là sáu năm. Chúng tôi cùng cười. Rồi cứ mỗi cuối tuần, rồi bất cứ khi nào rảnh … Chúng tôi cùng nhau ngắm hoàng hôn trong một quán cà phê kiểu Pháp. Chúng tôi đi xem phim. Chúng tôi cùng săm soi một chiếc bánh, cố tìm xem có sợi tóc nào dính vào hay không. Chúng tôi cùng đi shopping. Tóm lại, chúng tôi hẹn hò. Giáng sinh đến ngày một gần. — Hai đêm trước giáng sinh, tôi và Hayden tay trong tay thả bộ trên những con phố trung tâm lấp lánh đèn. Tôi tựa vào vai anh, hít nhẹ mùi nước hoa rất lạ. Những ngày chờ đợi giáng sinh thật tuyệt. Trong không gian như có tiếng tíc tắc của một quả bom hẹn giờ đang nô nức chờ nổ: Vài chục cú nhích kim đồng hồ nữa thôi thì sẽ tưng bừng một niềm hạnh phúc, một sự đẹp đẽ lớn lao. Chúng tôi cứ thế bước đi trong làn hương giáng sinh thơm phưng phức. Hết con phố này sang con phố khác. Tôi trực giác rằng Hayden muốn nói với mình một chuyện, nhưng cứ lần lữa mãi. Dường như anh đang tự nhủ hãy để yên cảm giác lãng mạn này thêm một chút, thêm một chút, rồi lại thêm một chút. Tôi bên anh, im lặng chờ đợi. Trên con phố cuối cùng của lộ trình đi bộ hôm ấy, anh siết tay tôi một cái: - Nga, ngày mai anh phải quay lại Đức. Cha anh bệnh. Ông lại đã ly dị lần nữa. Anh e giáng sinh này ông chỉ một mình. Giáng sinh một mình, anh biết nó … - Giáng sinh là để về nhà. – Tôi vẫn tựa đầu vào vai anh, nhẹ nhàng cắt lời. — Đồng hồ gần 11 giờ đêm. Trên chuyến bay Hồ Chí Minh – Berlin, Hayden một tay nâng lon coca, một tay cầm chiếc bánh bông lan lạnh. Lòng anh hồi hộp ngóng đợi. Đã mười lăm cái giáng sinh anh vắng nhà. “Giáng sinh là để về nhà” – Nga đã lặp lại câu này khi tiễn anh ở sân bay. Chất giọng trầm và lạnh của cô bỗng trở nên ấm áp như một que diêm bật sáng giữa trời đông khi nói câu này. Và nó khiến anh muốn về nhà, thật sự là muốn về nhà. Hayden nâng cao lon coca hơn một chút: “Merry Christmas, em yêu!” — Tôi áp má vào tấm kiếng cửa sổ mát lạnh, nhìn dòng người hoan hỉ ngoài phố. Em trai, em gái đã cùng bạn bè hòa vào biển người đó ngay sau buổi tiệc gia đình. Chỉ mình tôi ở nhà cùng cha mẹ. Tôi quay đầu, nhìn về phía cái tivi đang oang oang. Trên ghế sô-pha, cha mẹ đang tranh nhau bấm liên tục cái điều khiển để chuyển kênh. Cha đòi xem chương trình ca nhạc giáng sinh. Mẹ lại đòi kênh đang chiếu phim The Holiday. Người già giống như trẻ con. Tôi mỉm cười, lòng dễ chịu như trong lồng ngực đang có một que diêm sưởi ấm. Hayden không biết giờ này đang làm gì. Nhưng chắc chắn là anh, sau rất nhiều năm, đã có cho mình một giáng sinh đúng nghĩa – Giáng sinh về nhà. Bận rộn, hiểu lầm, bất hòa, dù xảy ra chuyện gì đi nữa thì giáng sinh vẫn là ngày để về nhà. ... Mời các bạn đón đọc Phía Sau Một Cô Gái của tác giả Ploy Ngọc Bích.
Những Ngày Xanh - Archibald Joseph Cronin
 Archibald Joseph Cronin sinh tại Tô Cách Lan năm 1896.  Ông học Y khoa ở đại học Glasgow.  1916, thế chiến thứ nhất ông tình nguyện gia nhập hải quân với cấp bậc Trung úy Y sĩ.    Chiến tranh kết thúc, ông trở lại tiếp tục học Y khoa.  Rồi ông tập sự bốn năm trong những khu vực hầm mỏ phía nam vùng Wales.    Thời gian này ông thu thập được rất nhiều tài liệu về đời sống cơ cực của dân lao động nghèo, nhất là đời sống của thợ thuyền trong hầm mỏ.  Sau đó, ông chuyển hẳn về Luân Đôn và mở phòng mạch tại khu vực phía Tây khá nhiều năm.  Kế đến, vì sức khỏe kém ông buộc phải ngừng làm việc để dưỡng bệnh.    Là bác sĩ, A. J. Cronin có nhiều dịp tiếp xúc với đủ hạng người, đầu óc tinh nhạy không chỉ trong lĩnh vực nghề nghiệp nên ông hiểu rõ tâm tình, cá tính, mặt tốt cũng như mặt xấu của từng người. Nhờ vậy, ông đã tích lũy được số vốn lớn, rất quý cho việc trước tác về sau, khi phải bỏ nghề y, vào năm 1930.    Văn nghiệp của ông bắt đầu… và vừa đặt bút, ông thành công ngay ở tác phẩm thứ nhất: “Lâu đài người bán nón” (1931). Những tác phẩm khác kế tiếp ra đời cũng đều được đón tiếp nồng nhiệt, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài.    Tại Việt Nam, chúng ta được đọc khá nhiều sách ông qua các bản dịch, tiêu biểu nhất, ngoài “Lâu đài người bán nón” còn có “Thành trì”, “Gươm công lý”, “Số phận của Robert Shannon” v.v…  Ông có lối viết giản dị, chân thật, chính xác, đầy hấp lực. Từ kẻ hung bạo, vô lương, thâm độc đến người thuần phác, đôn hậu, vị tha, qua ngòi bút tinh sắc của ông họ đều như sống thật, đi lại, nói năng, hành động… Cá tính họ nổi bật rất tự nhiên, không chút gượng ép. Văn ông giàu tình tiết, hết sức lôi cuốn mà không sa đà. Ông tả hạng người thế nào thì phong cách biểu hiện đúng như thế. Điều đáng kể nhất là tác phẩm ông chan chứa lòng nhân mà không hề có giọng dạy đời, công thức.  Hiển nhiên, chúng tôi không xác quyết là văn ông hay nhất. Tuy vậy, có một điều quan trọng để người thưởng ngoạn đánh giá tác phẩm, ấy là sau khi đọc xong ta cảm thấy yêu đời hơn lên, muốn phấn đấu chớ không nản lòng, bỏ cuộc.    Với niềm tin ấy, chúng tôi gửi đến bạn đọc quyển sách nhỏ này.                                                    MINH QUÂN – MỸ LAN *** Nhiều năm kế tiếp trôi qua... Mấy cây anh đào trước nhà xum xuê hơn trước. Buổi chiều tháng 4 năm 1910, tôi rời trường, lòng vui vẻ, hãnh diện. Mặt trời hồng rực rỡ lặn sau ngọn Ben. Chiều nay tôi cảm thấy tôi chính là tôi, bởi đôi lúc tôi ngờ ngợ như mình là kẻ nào khác, vâng! Đôi lúc tôi xa lạ với chính tôi. Sáng hôm kia ở hiệu Baxter ra, tôi chợt nhìn trong tủ kính, giật mình vì hình ảnh phản chiếu cho tôi thấy một thiếu niên 15 xanh xao, gầy ốm, tay chân dài ngoằng, nét mặt u trầm, buồn bã... Tôi đã giật mình tự hỏi: mình đó sao, trời? Nhưng hôm nay thì tôi hết sức phấn khởi, sung sướng vì câu chuyện thầy Reid nói với tôi lúc tôi ra về. Số là chúng tôi sắp được nghỉ lễ Phục Sinh, trước khi tan học thầy đã giữ tôi lại (thầy còn trẻ, khoảng 30, dáng cao lớn, khỏe mạnh, một cái sẹo dài nằm vắt ngang ở môi trên và vì nó, chiếc mũi thầy hơi thấp xuống, khiến người ta thấy đôi mắt xanh thầy to hơn, lộ hơn dưới mái tóc óng ả vàng hoe. Da thầy trắng và hơi nhờn. Râu luôn luôn được cạo nhẵn, hình như ông không cần che giấu vết sẹo trên môi). Thầy ôn tồn bảo tôi: - Robert Shannon! Trò không giống như các bạn cho nên... – ông gõ gõ tay lên bàn trong khi tôi nhìn chăm chú vào ông – ta muốn đề nghị với trò một điều này... Trở về đến nhà, tôi vẫn còn bàng hoàng xúc động vì câu chuyện thầy nói với tôi. Tôi muốn được một mình nghiền ngẫm bí mật này. Song ông tôi đã chờ tôi trước cửa sổ mở rộng, bàn cờ "dame" trước mặt. Giọng nóng nảy, ông hỏi: - Sao con về trễ thế? Có gì hở? -Thưa ông, không có gì. Ít lâu nay tôi trở nên khép kín đối với ông, vả chăng ông khôngcòn là bậc anh hùng đối với tôi và bí mật quý báu này tôi không muốn chia sẻ với ông. Phải công bình mà nhận rằng ông ít thay đổi hơn tôi: vẫn còn khỏe mạnh, tuy râu ông ngả bạc và chiếc áo ghi lê càng ngày càng nhiều vết bẩn hơn. Gần đây, bạn ông, ông Peter-Dickie đã vào Viện dưỡng lão. Song về phần ông, ông rất ghét nghe ai nói đến chết chóc cũng như nhắc đến tuổi tác đè nặng người ông. Càng lúc ông càng tỏ ra yêu đời, vui vẻ nhất là trong lúc này, theo lệ thường, bà cố tôi đã đi Kilmarnoch. Ông không vui vì cảm thấy tôi không hăng say chơi cờ với mình, cái thú ông vẫn say mê: - Robert, con làm sao vậy? Y như ngồi trên lửa... Tôi nén lòng đến ngồi trước mặt ông, ông cúi đầu nhíu mày nhìn bàn cờ, chú chú chăm chăm tính nước và ông giăng bẫy tôi bằng cách đi một nước cờ với vẻ hết sức lơ đãng, tay còn gõ gõ ống điếu nữa chớ. Còn tôi, tôi đầu óc đâu mà nghĩ đến trò chơi: tôi đang bị ám ảnh về cái đề nghị tốt đẹp của thầy Reid. Trước mắt tôi tương lai rộng mở. Như tất cả các bạn đồng học, tôi hết sức lo lắng, bối rối khi sắp rời trường để chọn nghề. Tôi có tham vọng, muốn trở thành một nhân vật đặc biệt, nhưng hoàn cảnh tôi chỉ cho tôi rất ít hy vọng để trở thành mẫu người tôi ao ước. Ở trung học tôi luôn luôn nhất lớp và các giáo sư đều tiên đoán tôi sẽ tiến xa. Song chưa một vị giáo sư nào, trừ thầy Reid để ý đến tôi đặc biệt. Thầy là người chú ý đến năng khiếu tôi, đứa học trò say mê sinh vật có cái gì khác hơn là sự giải trí suông. Tóm lại, thầy có biệt nhãn đối với tôi. Tôi còn nhớ rõ... Một hôm vào mùa hè, một đôi bướm xanh loại thông thường nhất bay qua khung cửa sổ mở rộng, vào lớp. Cả lớp đều ngẩng lên, nhìn. Giọng mơ màng như là đặt câu hỏi cho chính mình chứ không phải cho bọn môn sinh, thầy Reid nói: - Tại sao chúng bay thành cặp, nhỉ? Im lặng giây lâu và rồi, tôi rụt rè đáp: - Thưa thầy, vì bây giờ là mùa chúng ghép đôi. Thầy nhìn tôi hỏi thêm: - Có phải trò nghĩ rằng bướm cũng biết yêu nhau không? - Thưa thầy, vâng! Chúng nhận ra nhau cách xa hàng dặm nhờ một mùi thơm do chúng tiết ra. - Chuyện khá lý thú đấy! – Thầy tiếp, vẻ nghi ngờ về sự hiểu biết của tôi – Này, Robert! Trả lời tôi câu nữa: làm sao chúng nhận ra mùi của nhau? - Thưa, nhờ những gai thịt ở đầu mấy sợi râu... Thấy thầy nhìn tôi, mỉm cười có vẻ tán thưởng và khuyến khích, tôi thêm: - Thưa thầy, điều này cũng chưa có gì là mới lạ, so với loại Amrial pourpre, giống này ngửi bằng cẳng kia... Bạn học tôi cười lên như phá, nhưng chúng bị thầy cắt ngang: - Im đi, lũ ngu! Ít nhất trò ấy còn khá hơn các trò. Này, Robert! – Ông tiếp tục hỏi tôi. – Trò có thể cho biết chúng có thể nhận ra nhau không, nếu không có cái mùi đặc biệt kể trên? - Thưa thầy, mắt của loài bướm lạ lắm: nó gồm khoảng ba ngàn phần tử, mỗi phần gồm có đủ giác mô, võng mô, thủy tinh thể, nhưng dù chúng có tài phân biệt màu sắc, chúng chỉ có thể thấy rất gần, không quá một thước hai. Khi tôi dứt lời, nét mặt thầy rạng rỡ hẳn lên song thầy không hỏi tiếp gì nữa. Cuối giờ học, trong khi sắp hàng, thầy mỉm cười với tôi. (Ôi chao! Làm sao quên được cái cười thân mật đó!). Kể từ ấy, không những khuyến khích tôi tiếp tục học thêm về Sinh vật học, thầy còn dạy tôi Vật lý, trình độ cao hơn các bạn tôi. Vài tháng kế đó, thầy dắt tôi vào phòng thí nghiệm, hướng dẫn tôi thêm. Nhờ vậy, tôi thường rất cô đơn, trở nên mến phục thầy rất mau và những lời thầy dạy trong lớp, tôi xem ngang như Kinh Thánh. Gavin đã theo lời cha vào trường nội trú Larchfield năm ngoái. Điều này làm tôi đau đớn không ít. Đó là một trường Trung học trưởng giả nổi tiếng, học phí rất đắt, khó có con nhà trung lưu nào học nổi. Tôi chỉ còn một điều an ủi là: tuy Gavin được cảm tình của nhiều bạn mới, nó vẫn quý mến nhất có mình tôi không thay đổi. Mỗi trưa hè, mượn xe đạp thầy Reid, tôi vượt 15 dặm đến để xem bạn tranh giải cho trường. Thoạt thấy tôi, tức thì Gavin bỏ hết đám bạn vây quanh, can đảm chạy lại với tôi. Tôi, kẻ phá đám, khép nép đứng chờ bạn ở một góc sân thể thao, cái sân sang trọng, Gavin, áo thun sọc, quần nỉ mềm trắng, buông mình xuống cỏ cạnh tôi, bứt cọng cỏ đưa lên miệng, hỏi: - Sao? Ở Lenvenford có gì lạ không? Và nhìn sâu vào mắt nhau, chúng tôi biết rằng không gì chia rẽ được chúng tôi, trừ cái chết, nhưng chúng tôi còn trẻ quá, lo gì? Song dù tình bạn chúng tôi khăng khít, mãnh liệt, dù suốt ngày nghỉ nào cũng có mặt bên nhau, chúng tôi vẫn cam chịu xa nhau hàng tháng dài vì bận học. Phần tôi, đáng lẽ thay vì bằng lòng với một thằng bạn kém hơn Gavin đôi chút, tôi thà cô độc thui thủi một mình. Một mình, tôi rong ruổi khắp các vùng quanh tỉnh, tôi quen thuộc từng tổ chim, từng phiến đá, từng lối mòn trên các ngọn đồi Winton. Cho đến nỗi mấy bác gác rừng quen mặt và cho phép tôi tự do đi lại, đó là một đặc ân hiếm có. Bộ sưu tập của tôi tăng dần. Tôi có cả những loại sâu bọ hiếm nhất, như con chuồn chuồn đặc biệt thuộc loại Pantala flavescens, theo tôi biết thì chưa bao giờ được thấy ở Tô Cách Lan này, trước đây. Nhờ tìm tòi thám hiểm, tôi không hề ao ước "nghỉ hè trên bãi bể" như các bạn. Trí tưởng tượng mang tôi ra xa hơn mấy bờ bể nhỏ. Đồng hoang đối với tôi trở thành rừng hoang vu, nơi tôi mạo hiểm xông pha với nhiều thận trọng. Nhưng thưa các bạn, đừng ngỡ là ngoài giờ học tôi được tự do theo đuổi đàn bướm suốt ngày đâu. Ba tôi luôn luôn trông coi cho giờ rảnh rỗi của tôi trở thành hữu ích. Từ lúc ông cho là tôi đã đến tuổi có thể làm việc được, ông kiếm việc cho tôi ngay. Hiện nay, sáng sáng tôi phải đến lò bánh mì Baxter, lấy xe ba bánh đạp đi giao bánh nóng cho thành phố đang còn ngái ngủ. Số tiền kiếm được, ba tôi cất hết, viện lý do chính đáng: để trang trải một phần phí tổn nuôi tôi. Ông không ngừng thúc bách mẹ tôi giảm chi, dù bà đã giảm chi đến mức tối đa. Thời gian gần đây, ba tôi đích thân thanh toán mọi chi phí trong tháng, ông luôn luôn đòi bớt, bớt, bớt cho đến nỗi người bán phát khùng lên; mua bất cứ vật gì ông cũng cò kè lâu lắc. Mỗi khi nghe bán đấu giá, bán xôn một vật gì xem ra có ích (theo ý ông) ông liền quyết định đi mua. Nhưng tính hà tiện của ông thường thắng: trở về với hai tay không, ông vui vẻ reo lên rằng tiền vẫn còn nguyên! Một tiếng kêu thích thú làm tôi chợt tỉnh, tiếng kêu của ông tôi. Đầu óc bay bổng đâu đâu nên tôi đã thua nốt hai con cờ chót. Ông tôi cười hả hê: - Ta thắng được con rồi, thấy chưa? Thắng cậu học trò thông minh nhất tỉnh đâu phải chuyện chơi? Tôi vội vàng rời ông ngay, chỉ nơm nớp sợ ông giữ lại bày ván nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Xanh của tác giả Archibald Joseph Cronin.