Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bồ Công Anh Nở Muộn

Cậu ấy, đối với tôi, như một đoá hoa bồ công anh nở muộn! ... Độ tuổi thích hợp: 16-22. Đây là bộ truyện ONGOING, không có thời gian ra chap. Mọi người cân nhắc kỹ trước khi nhảy hố. Truyện viết riêng cho lứa tuổi thanh thiếu niên, truyện về tình yêu, đam mê và những hoài bão tuổi trẻ.   Thể loại: Thanh thiếu niên. Tác giả: Lan Rùa P/S: Lan Rua's story ~ Porcupine & Duck Family *** Có lẽ mỗi người trong số chúng ta đều có cho mình một thần tượng, là ca sĩ, là diễn viên, là nhà văn, hoặc cũng có thể họ không phải người nổi tiếng, chỉ đơn giản là người mà mình mến mộ. Đi qua tuổi thanh xuân ẩm ương nhiều xúc cảm, luôn có một người mang danh "crush" chiếm trọn lấy trái tim. Và xen lẫn với tình yêu còn nhiều ngây thơ vụng dại đầu đời, là người tri kỉ mà ta cùng nhau lớn lên, cùng chứng kiến nhau trưởng thành, cùng nhìn năm tháng vùn vụt qua đi mà đôi tay vẫn chẳng muốn xa rời. Nhưng nếu tất cả những điều thuộc về thanh xuân tươi đẹp ấy, cả thần tượng, người yêu lẫn tri kỉ đều ám chỉ một người thì sao?    Cùng lấy bối cảnh thanh xuân vườn trường, nhưng "Bồ Công Anh Nở Muộn" dường như đã tưới mát tâm hồn tôi bằng một màu sắc tươi mới. Cách kể chuyện độc đáo đan xen giữa cùng một ngôi kể nhưng ở hai thời điểm khác nhau, một còn thơ ngây, một đã trưởng thành, nhưng lại hài hòa một cách kì lạ. Quả thật là trong số ít truyện mà tôi từng đọc của Lan Rùa thì ấn tượng với bộ này nhất, cách hành văn của chị đã thực sự trưởng thành rất nhiều so với những bộ trước. Nút thắt được buộc từ những chap đầu cho đến chap gần cuối mới được giải đáp, điều đó cho thấy chị đã chuẩn bị rất kĩ càng cho những nút thắt này, đây là điều tôi cần học hỏi rất nhiều ở Nhím.   Những cuộc gặp gỡ tình cờ mà nên duyên.   Trên đại lộ Champs Élysées ngày mùa đông giá rét, một người đang cuộc trốn chạy gặp được kẻ nhảy múa nơi góc phố, họ không quen biết nhau từ trước, nhưng tình "đồng bào" được thể hiện ngay câu đầu tiên mà cậu bé Nguyên Anh nói: "Bạn này cũng là người Việt Nam mình nè ba." Có lẽ chính điều ấy khiến hai đứa trẻ gắn bó với nhau hơn nơi đất khách quê người. Họ chia nhau cái bánh, cùng chơi đùa. Và chính thời khắc nắm tay nhau chạy dọc đại lộ Champs Élysées xem pháo hoa, trái tim non nớt nguyên sơ của họ đã bắt đầu rung động. Những ngây thơ tuổi còn nhỏ khiến Kiều Anh rời xa nước Pháp khi chưa kịp để lại cho Nguyên Anh địa chỉ liên lạc. Tất cả những thứ mà Kiều Anh có được sau khi về nước cô đều thích, kể cả gia đình mới hay người chị gái mới cực kì xinh đẹp. Nhưng có lẽ, Kiều Anh chỉ không thích duy nhất mẹ kế của mình, mà bà cũng tỏ vẻ ghét cô bé ngay từ đầu. Hành trình làm thân với chị gái Mẫn Tiên của Kiều Anh đã chứng thực cô là người có lòng kiên định cao. Và cũng chính người chị này đã mang cơ hội được gặp lại Nguyên Anh gần hơn với Kiều Anh. Nhưng cô lại lần nữa làm mất cơ hội liên lạc với Nguyên Anh. Lần gặp nhau tiếp theo của họ đã là vào cấp ba, cuộc sống cấp ba vốn đã muôn màu, nay lại càng đặc sắc khi có cậu ở bên. Cái vờ như không quen thuở đầu của Nguyên Anh khiến bao lần Kiều Anh phải khốn đốn.   Tư vị ngọt ngào xen cả vào những lần giận dỗi.   Tôi không biết những bộ truyện khác của Nhím ra sao, ít nhất là trong số những bộ tôi từng đọc thì nữ chính luôn thuộc dạng ngô nghê, trong khi nam chính thì có vẻ giống với "cáo già" chuyên gia lừa nữ chính vào tròng. Và Bồ Công Anh Nở Muộn cũng không phải ngoại lệ.   Có lẽ nhân vật của truyện chính là minh chứng tốt nhất cho quan điểm, dù không hoàn hảo thì cũng chẳng thể ngăn cản bản thân vươn tới ước mơ. Mang trên mình sự khiếm khuyết ngay từ nhỏ, Kiều Anh đã biết chấp nhận và làm quen với việc không thể nghe. Mọi người dùng thính giác để nhận biết âm thanh, riêng cô lại dùng cả trái tim mình để cảm nhận. Có lẽ chính điều này khiến cô trở nên tinh ý và cảm quan cũng hơn hẳn người thường. Trong suốt những năm đi học, chẳng mấy ai nhận ra khiếm khuyết của Kiều Anh, bởi cô luôn cố gắng sống như một người bình thường. Cô có thể không đẹp và tài năng như Mẫn Tiên, cũng không có cơ thể hoàn hảo như bao người, nhưng cô vẫn có ước mơ và nỗ lực không ngừng nghỉ để chạm đến ước mơ ấy.   Nguyên Anh, là nhóm trưởng một nhóm nhạc đình đám, là người có bước nhảy điệu nghệ được so sánh như một Michael Jackson thu nhỏ, là thần tượng của biết bao cô gái. Nhưng tôi lại muốn hình dung cậu bằng một vai trò khác: một cậu học sinh cấp ba bình thường như bao người. Ở độ tuổi ấy, ở Nguyên Anh hình thành nét chững chạc do nhiều năm tự lập. Nhưng mỗi khi bên Kiều Anh, nét trẻ con trong cậu bỗng dưng bị bộc lộ hết ra ngoài. Những cuộc đối đáp lấp lửng thể hiện rằng cậu đang vô cùng bực bội, chỉ là đôi mắt lại luôn vô tình tìm kiếm Kiều Anh trong đám đông. Cậu vô tâm trước cách nhìn nhận của người khác, nhưng nếu Kiều Anh lên tiếng bảo vệ và một mực không gỡ bài đăng, cậu thậm chí có thể bất chấp cả việc bị đánh. Chính bởi tập hợp cả nét kiên cường, cứng đầu, chững chạc, trẻ con đan xen ở lứa tuổi đang hình thành tính cách khiến Nguyên Anh trở nên gần gũi hơn trong mắt độc giả.   Có lẽ ai đọc qua bộ truyện này cũng ấn tượng nhất với bà chị Mẫn Tiên bá đạo trên từng hạt gạo trong từng lời nói và hành động. Chị xinh đẹp, có tài năng, nhưng lại chẳng cần giữ hình tượng thục nữ trước người khác. Tính cách thoải mái, ngông nghênh và hay nóng giận của chị đôi ba lần khiến độc giả cười không nhặt được mồm trước mỗi lời phát ngôn. Chị có thể véo má vò đầu bắt nạt Kiều Anh, nhưng chỉ cần ai dám động đến một sợi tóc của cô thì chị sẵn sàng cãi lên bờ xuống ruộng, thậm chí đánh nhau với người ta. Tới nam chính Nguyên Anh cũng vài lần bị dính chưởng của Mẫn Tiên cơ mà. Mẫn Tiên rất hiếu thắng, tranh luận với giáo viên hay đánh nhau chị cũng từng thử qua để bảo vệ được luận điểm của mình.    Và tất nhiên kẻ mà không chỉ độc giả ghét cay ghét đắng mà còn trở thành đối tượng để Mẫn Tiên rủa xả không ai khác ngoài cô bạn Ánh Dương "thuỳ mị nết na dịu dàng", miệng tụng kinh bụng một bồ dao găm. Biết bao trò chọc ngoáy chơi bẩn của Ánh Dương đều bị Mẫn Tiên vạch trần không thương tiếc, chính bởi vậy mà Mẫn Tiên cũng gây nên biết bao scandal xoay quanh cuộc chiến không hồi kết của chị với Ánh Dương, đồng thời trở thành đối tượng bị liệt vào danh sách đen trong lòng fan của Ánh Dương.   Những nhân vật khác, như ba Kiều Anh luôn đưa ra những gợi ý và không bao giờ phản đối con gái yêu sớm; đến bạn Alex luôn mồm nói thích Kiều Anh nhưng đến sau cùng lại nhận ra tình cảm của mình là dành cho một cô gái khác; và còn những thần tượng cùng nhóm với Nguyên Anh mỗi người một vẻ, thương nhất là bạn Trường say Mẫn Tiên đứ đừ mà chị chẳng thèm để ý; ghét nhất là bạn Thái chuyên gia ném đá giấu tay hại Nguyên Anh nhiều lần hiểu lầm Kiều Anh. Không thích cả mẹ của Mẫn Tiên luôn độc mồm độc miệng mắng nhiếc Kiều Anh, sau cùng trước cái chết của chồng còn đổ hết mọi lỗi lên người của cô.   Đan xen với tình cảm ngọt ngào chông gai, là những tình tiết xúc động có thể lấy đi nước mắt của độc giả. Càng về sau mạch truyện càng trở nên nhanh hơn, những phiền phức chen chan vào mối quan hệ của hai người cũng ngày một nhiều, hết scandal này đến scandal khác. Và còn cảm xúc bàng hoàng của Nguyên Anh khi biết được Kiều Anh vốn bị khiếm thính, thì ra những lời tỏ tình trước kia của cậu không phải vì cô không thích cậu nên không đáp lại, mà bởi cô hoàn toàn không nghe thấy gì. Thì ra sự lạnh nhạt năm xưa của cậu đã tổn thương cô nhiều đến vậy. Và Kiều Anh, vốn tưởng công khai quan hệ với Nguyên Anh sẽ khiến hai người có thể bên nhau mà không lo trước sợ sau nữa. Thế nhưng chẳng ngờ áp lực dư luận lại lớn đến vậy, lớn đến mức có thể nhấn chìm cả một con người. Nhưng chỉ cần có Nguyên Anh ở bên, mọi sóng gió cô đều có thể vượt qua. Bộ phim đầu tiên do cô làm biên kịch đã được công chiếu, cô cũng đã mang trên mình đứa con của Nguyên Anh. Đó liệu có phải cái kết có hậu? Hay chỉ là khởi đầu của một chuỗi bi kịch khác?   Thật không may, Kiều Anh lại mắc phải căn bệnh hiếm về khiếm thính. Vì muốn giữ lại mạng sống cho cô mà Nguyên Anh quyết định bỏ đi đứa con của hai người khi nó còn chưa kịp hành hình. Không chấp nhận sự sắp đặt, Kiều Anh bỏ trốn và gặp lại chị gái Mẫn Tiên lúc này đã không còn vẻ điên loạn như đoạn thời gian sau ngày ba mất. Dưới sự giúp đỡ của Alex và Mẫn Tiên, Kiều Anh có niềm tin bản thân sẽ an toàn sinh ra đứa con này.   Cái kết hoàn mĩ kết thúc một chuỗi hành trình không quá dài của truyện, thông điệp được gửi gắm qua truyện cũng rất ý nghĩa. Cách viết chắc tay, tình tiết xây dựng hợp lí, đan xen với tiếng cười còn có nước mắt. Tất cả đã hòa quyện lại, làm nên một tác phẩm vô cùng ấn tượng.   Truy Quang Review *** Vào một ngày mưa phùn cuối đông, tiết trời se se lạnh, xe buýt tầm năm rưỡi sáng vắng vẻ và dễ chịu hơn những giờ cao điểm rất nhiều. Trên xe chỉ có tôi, bác tài và anh soát vé đang trầm mặc thưởng thức bản nhạc u sầu ướt át, lúc thấy tôi chìa vé tháng anh ta gật đầu nhẹ rồi lại tiếp tục ngâm nga. -"Tớ gọi tên cậu, tớ đã gọi cậu, không chỉ một lần, không chỉ một nơi. Vì sao cậu cứ nhất định không quay đầu lại?" Bài hát này do bạn tôi sáng tác, lời lẽ sến sẩm nhưng lại thành hit một thời, vượt ngoài sự mong đợi của tôi. Lúc mới phát hành, đêm đêm cày view cho thần tượng, đêm đêm tôi trằn trọc thao thức, cậu ta gọi ai? Là ai đã không quay đầu lại? Vì sao tôi không hề hay biết? Một loạt những nghi vấn cứ quẩn quanh trong tôi, giày vò tôi từ tuần này sang tuần khác. Cho đến khi xem được một clip phỏng vấn, thấy cậu ta đáp rằng giai điệu này viết thay quà cúng người bạn gái đã khuất núi, hôm nay tròn kỉ niệm ba tháng ngày giỗ của cô ấy, tự dưng tôi bật cười khanh khách. Đùa à? Tính đến ngày hôm đó thì chúng tôi cũng đã xa nhau ba tháng, nhưng vấn đề quan trọng là, cái thời khắc gặp mặt tạm biệt, tên chết dẫm ấy còn tâm sự với tôi hắn đang độc thân thì lấy đâu ra bạn gái, lại còn đã chết? Xin lưu ý đây không phải lần đầu tiên cậu ta chém gió trêu phóng viên, có lần khi được hỏi anh có cảm nghĩ gì khi mà album của mình bị đá văng khỏi top 5 bảng xếp hạng sau một năm bám dai như đỉa, bạn thân tôi đáp. -"Buồn kinh khủng em ạ, tối qua tính mua thuốc chuột tự tử rồi nhưng thế nào nhà lắm chuột quá, kêu lít nhít nhức đầu nên đành phải để cho tụi nó dùng trước." Chuyện sao hạng A tìm đến cái chết chỉ vì thứ hạng nhỏ nhoi ngay lập tức trở thành tiêu điểm nóng. Người thương cảm, kẻ chê trách, quả thật khi đọc bình luận, tôi chẳng biết nên khóc hay cười? Thấm thoát đã không gặp cậu ấy ba năm có thừa, chính xác là một ngàn không trăm chín tám ngày. Và tôi sẽ có cuộc phỏng vấn lúc tám giờ ở hãng phim của cậu ấy. Tôi xuống xe buýt tầm sáu giờ hai mươi, tôi luôn đi sớm hơn giờ hẹn ít nhất một tiếng, đối với người khác là thừa thãi, nhưng đối với tôi lại cần thiết. Tôi từ khi sinh ra đã chậm chạp, não nhỏ tưởng chừng chỉ chứa được một quả nho. Mà đời phàm những người không có tài năng nổi trội muốn đạt được thành công phải nỗ lực hơn kẻ khác mười phần, thậm chí một trăm phần, bởi vậy, ngoài tính thời gian trễ trong trường hợp kẹt xe và những sự cố bất ngờ thì tôi cần thời gian để ôn lại một lượt các câu hỏi đạo diễn có thể thắc mắc. Tôi muốn chuẩn bị kĩ càng để câu trả lời của mình trơn tru mạch lạc. Kịch bản phim của tôi đã qua vòng hai, có được ký hợp đồng hay không là ở lần gặp chốt điểm sắp tới. Tôi thật chẳng hiểu sao sáu tháng trước thần tượng nhà mình lại quyết định mua lại hãng phim này, tôi biết với những hãng phim lớn hơn thì trẻ tuổi như cậu ấy khó lòng thâu tóm toàn bộ, nhưng chí ít cũng có thể góp cổ phẩn, chứ cái hãng phim thua lỗ chồng chất chất chồng, tương lai e sẽ gặp nhiều khó khăn. Tôi càng không thể hiểu được một người ở vị trí cao như vậy, sao lại đích thân phỏng vấn một biên kịch chưa có tên tuổi? Tôi siết đôi bàn tay đang rịn mồ hôi của mình vào nhau thật chặt, cố hít một hơi thật sâu, lấy can đảm đối diện với hội đồng thẩm định. Cậu ấy ngồi chính giữa! Cậu ấy ở ngoài đời, đẹp hơn trên các phương tiện truyền thông rất nhiều. Ngược lại với trái tim đang run rẩy của tôi, cậu ấy thản nhiên hỏi. -"Bạn tên gì?" Tôi tưởng mình nhìn nhầm, nhưng không. Tôi đã quan sát khẩu hình miệng của cậu ấy rất kỹ, và cậu ấy thậm chí còn lặp lại hai lần. Không chút sửng sốt, ngạc nhiên hay bối rối, do thái độ làm việc quá chuyên nghiệp, hay do tôi đã thay đổi quá nhiều, khiến đối phương chẳng thể nhận ra? Tôi nhớ, lần đầu tiên cậu ấy hỏi tên tôi, cũng vào một ngày mùa đông giá rét. Khi ấy tôi bảy tuổi, đang cùng cha chạy trốn trên đất Pháp xa xôi. Mẹ tôi là doanh nhân, khoản nợ mẹ để lại cho cha con tôi trước khi sang thế giới bên kia, thực sự quá khủng khiếp. Ba tôi chỉ là một thầy giáo dạy văn. Mẹ mất, ba dắt tôi đến chân trời mới nương tựa sự giúp đỡ của họ hàng. Ngặt nỗi, hình như đi tới đâu, cũng có chủ nợ của mẹ tôi, cũng có người đòi mạng cha con tôi. -"Đêm khuya lắm rồi mà các bác chẳng chịu đi ngủ gì sất, cứ đuổi hoài ba à." Tôi mếu máo than thở, các bác to khoẻ ráo riết bám đằng sau, bất quá, ba nhét tôi vào đám đông ven đường, dặn tôi ở quanh đây chờ ba rồi một mình chạy đánh lạc hướng. Khi ấy, tôi cứ nấc nghẹn từng cơn, vừa sụt sịt chùi nước mắt vừa ngước lên nhìn những người da trắng tóc vàng xung quanh đang đắm chìm trong những điệu nhạc êm đềm. Tôi đoán vậy thôi, bởi tôi thấy ở góc đường có chú tóc đen ngồi đánh đàn, tiếng đàn kia chắc trầm bổng du dương lắm, bởi thi thoảng có người nán lại xem, họ vỗ tay rồi bỏ những đồng xu lẻ vào chiếc ống nhôm cũ kỹ. Bên cạnh chú là một cậu bé đang nhún nhảy theo phong cách của Michael Jackson. Cậu ta chỉ cao hơn tôi một cái đầu, nhưng từng bước chân thật điêu luyện, tôi ngưỡng mộ vô cùng. Màn biểu diễn kết thúc, tôi mon men đến gần bắt chuyện. -"Ê, dạy tớ nhảy được không?" -"Ơ ba ơi, bạn này cũng là người Việt mình nè ba." Cậu ấy thích thú khoe chú đánh đàn, đoạn quay sang hỏi tôi. -"Cậu thích học nhảy à?" -"Không thích lắm, nhưng tớ muốn được người ta cho tiền giống cậu." -"Cậu cần tiền làm gì?" -"Để trả nợ cho ba tớ." -"Nhưng giờ tớ bận đi xem pháo hoa rồi, mai tớ dạy cậu được không?" Tôi bẽn lẽn gật đầu, cậu ấy lấy trong ống nhôm vài đồng xu, đi một lát thì quay lại, cầm trên tay ba chiếc bánh crepe, một chiếc sầu riêng cho chú, một chiếc sô cô la của cậu ấy, và chiếc dâu tây cho tôi. -"Đi xem pháo hoa với tớ không?" Tôi lại tiếp tục gật đầu. Thì ra hôm đó là ngày cuối cùng của tháng mười hai, khoảnh khắc cậu ấy nắm tay dắt tôi chạy dọc trên đại lộ Champs-Élysées, chính là thời điểm giao thừa chào đón năm mới. Những chùm pháo hoa tíu tít bám đuôi nhau bay vút lên cao, sau đó nổ tung thành nhiều màu sắc và hình thù lạ lẫm, thứ ánh sáng mỹ miều lấp lánh trên bầu trời đêm khiến tôi mê mẩn. -"Sao cậu bóp tay tớ?" Bị làm phiền nên tôi quay sang cằn nhằn. Cậu bé bên cạnh tôi nhe răng giải thích. -"Đâu có, tớ chỉ siết nhẹ thôi mà, tại tớ gọi mãi cậu chả nghe gì cả." -"Ờ...tại pháo nổ to quá...với cả tớ bảo này, khi nói chuyện với tớ thì hãy nhìn thẳng vào mắt tớ!" -"Được rồi, con gái các cậu thật nhiễu sự." Tôi không giải thích gì thêm, bởi tôi thà là một đứa con gái nhiễu sự còn hơn là một đứa trẻ tật nguyền. Cậu ấy bảo rất thích âm thanh của pháo hoa, nghe vui tai lắm, cậu ấy còn phùng mang trợn má mô tả lại những tiếng động được cho là vô cùng thú vị, điệu bộ trông như chú ếch nhỏ vậy, tôi cười ngất. Tôi ước mình có thể nghe thứ âm thanh lộp bộp đó! -"Tớ tên Nguyên Anh, có nghĩa là vẻ đẹp tinh khôi. Mẹ tớ bảo thế, nhưng mẹ tớ đi tới một nơi rất xa rồi. Còn cậu, cậu tên gì?" Tôi đáp, tớ tên Kiều Anh. Tớ chả biết nghĩa là gì nữa, và mẹ tớ cũng tới chỗ của mẹ cậu rồi nên chắc tớ không hỏi được. Cậu ấy xoa đầu tôi tỏ vẻ cảm thông, còn đưa tôi cắn thử một miếng bánh crepe sô cô la. Nguyên rất lười, chỉ thích gọi Kiều. Mỗi lần tôi nhắc cậu ấy thường cằn nhằn, hai từ là quá dài, quá mất sức. Còn tôi thì tuỳ theo cảm hứng, lúc thích sẽ trịnh trọng kêu Nguyên Anh, khi nhọc thì học theo tính xấu của ai đó, có vẻ như Nguyên cũng không thấy phiền khi tên mình bị ăn bớt. Sau bao nhiêu năm, không biết vô tình hay cố ý, cậu ấy đã quên mất tên tôi. Tôi đành đáp rành mạch một lần nữa, cả họ lẫn tên, đầy trịnh trọng. -"Dạ, em tên Huỳnh Mai Kiều Anh." Tôi xưng em, vì còn có đạo diễn, hai tiểu thuyết gia đình đám và cả ba vị biên kịch gạo cội ngồi đó nữa. Nguyên lật qua lật lại tập hồ sơ của tôi, sau đó chất vấn. -"Bạn Kiều Anh, mong muốn của bạn nếu như được ký hợp đồng là nhận thù lao bằng hình thức chuyển khoản một lần. Tôi thắc mắc vì sao không phải là để sau khi chiếu rồi ăn chia theo doanh thu bộ phim?" Vì tớ cần tiền! Vì tớ có một khối u, bác sĩ nói cần phải cắt bỏ. Vì gấp lắm rồi, tớ không xoay được số tiền lớn như thế ở đâu cả. Lòng tôi trĩu nặng, thiết nghĩ những người giàu có ở đây chẳng thể thấu hiểu nỗi khổ sở của dân nghèo đâu, nên tôi chỉ kiếm đại cái cớ, lấp liếm cho qua. -"Tại em sợ phim flop thì nhà sản xuất quỵt tiền." Mấy người kia tủm tỉm cười, chị Loan, một trong hai tác giả viết tiểu thuyết còn khen tôi thật thà. Duy chỉ có cậu ấy, gương mặt cau có khó coi, nhàn nhạt kết luận. -"Nộp cho chúng tôi một kịch bản mà biết trước khi lên phim sẽ flop, chi bằng bạn về luôn cho rồi."   Mời các bạn đón đọc Bồ Công Anh Nở Muộn của tác giả Lan Rùa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thiên Đường Có Thể Đợi - Cally Taylor
Cally Taylor đang sống tại Brighton. Cô bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2005. Chỉ trong năm 2006, cô đã đoạt được nhiều giải thưởng như: giải nhì trong cuộc thi viết truyện ngắn của báo Woman’s own, giải thưởng Helen Mullin và cây bút Bank Street trong cuộc thi viết truyện ngắn. Các tác phẩm của cô được đăng tải trên tạp chí Take a Break’s Fiction Feast và My Weekly. Heaven là tiểu thuyết đầu tay của Cally Taylor. Bạn sẽ làm gì nếu bạn nghĩ mình sắp chết? - Lập tức la lên và báo cho mọi người xung quanh? - Chẳng nói với ai và tự suy diễn? - Vờ như việc đó sẽ chẳng xảy ra? Còn tôi, thì giật quần chẽn ra và khóc òa lên. *** Bạn sẽ làm gì nếu bạn nghĩ mình sắp chết? a/ Lập tức la lên và báo cho mọi người xung quanh? b/ Chẳng nói với ai và tự suy diễn? c/ Vờ như việc đó sẽ chẳng xảy ra? Còn tôi, thì giật quần chẽn ra và khóc òa lên. Cả tuần qua, tôi lo cho sức khỏe của mình. Tôi mệt mỏi, mắt cá chân bị phù, nước tiểu thì sủi bọt như cà phê cappuccino[1]. Theo thông tin trên mạng mà tôi in ra và đang cầm trên tay thì như thế chỉ có một cách lý giải duy nhất: tôi mắc bệnh nan y, có thể không chữa được. Lễ cưới của tôi sẽ cử hành trong vòng bốn mươi tám tiếng nữa và báo hủy với chồng chưa cưới là điều duy nhất không nằm trong danh sách ‘việc cần làm’ dài dằng dặc của tôi. Nhưng tôi phải nói với Dan. Theo như thông tin trên mạng thì trong vòng hai tuần tôi sẽ phải nhập viện, chạy thận, thậm chí có khi phải cấy ghép. Dù là ai mắc bệnh đi chăng nữa, thì cũng có rất nhiều thứ phải làm. Mạnh mẽ lên nào Lucy, tôi tự khích lệ mình lúc mở cửa phòng khách. Mày có thể làm được điều này. Chỉ cần mạnh mẽ lên. Dan đang nằm dài trên xô-pha xem phim tài liệu nói về thói quen kết bạn tình của loài nhện vàng. Hai tay anh kê dưới đầu, mái tóc đen rối bù, quai hàm lởm chởm râu. Anh đang mặc quần jean cạp trễ và áo T-shirt Jimi Hendrix màu đen cũ mèm ưa thích khoe bờ vai rộng và cánh tay khỏe khoắn. Dan lúc nào cũng thế, anh có thể khoác bất cứ món đồ cũ kỹ nào lên người mà vẫn trông hết sức bảnh bao. Chẳng hề để tâm đến điều đó, anh là một trong những người ít tự phụ nhất mà tôi từng gặp - điểm khiến tôi yêu anh nhiều hơn. Anh đổi chân để có thêm chỗ trống trên xô-pha khi thấy tôi bước vào phòng, nhưng tôi chỉ ngồi trên tay ghế. Khi con nhện cái cắn đầu con nhện đực và ăn nó, Dan cười toe toét với tôi, sự thích thú nhảy múa trong đôi mắt nâu. “Nếu phải lựa chọn giữa việc đó và ba tiếng liền chuyện trò sau khi quan hệ, dứt khoát là anh chọn chết vì đầu bị nhai rào rạo.” Dan có vẻ ngơ ngác khi tôi không cười trước câu pha trò của anh, mà lại nhìn xuống đôi tay và xoay tròn chiếc nhẫn đính hôn. Ôi, Chúa ơi, anh sẽ phản ứng như thế nào trước điều tôi sắp nói? Anh sẽ khóc? Hay kêu gào? Hay ngất? Hay còn tệ hơn thế? “Dan, em có chuyện rất quan trọng muốn nói với anh.” “Chuyện gì thế?” Anh đáp mà mắt vẫn không rời màn hình ti vi. “Đó là một tin xấu.” “Có phải về lễ cưới không?” Anh tắt ti vi, xoay qua một bên, và nhìn thẳng vào tôi. “Giờ thì có chuyện gì xảy ra? Thợ làm bánh kem đặt hoa ly trên mặt bánh thay vì hoa hồng à?” Tôi hít một hơi thật sâu. “Em nghĩ em bị suy thận giai đoạn cuối [2].” Điều khiên ti vi rớt xuống sàn nhà khi Dan đứng bật dậy, vồ lấy tay tôi, vò nhàu tờ giấy in tôi đang cầm. “Em nói cái gì?” Anh hỏi lại, mắt rà khắp mặt tôi. “Em chẳng hề nói với anh em đã đi khám bác sĩ.” “Em chưa đi.” “Vậy thì làm sao mà em biết là em bị suy thận?” Tôi siết tay anh, dùng ngón tay cái cạ lên những ngón tay anh. Rõ ràng là anh không tin. Thông tin trên mạng đã cảnh báo trước với tôi là có thể anh sẽ phản ứng như thế. “Vì em đã thấy các triệu chứng của mình trên mạng.” Anh cau mày, một tay chà xát quai hàm. “Những triệu chứng gì?” Tôi nhìn chằm chằm vào ti vi. Đi thảo luận chuyện tiểu tiện của mình với bạn trai thật chẳng bình thường chút nào. Đó là điều bạn sẽ chẳng bao giờ thật sự cởi mở, cho dù hai người đã yêu nhau bảy năm đi nữa. “Nước tiêu của em có bọt. Chúng nổi bọt và trên mạng nói nước tiểu có bọt là một triệu chứng của suy thận.” Dan cười rũ rượi đến nỗi rớt từ xô-pha xuống sàn nhà. Tôi há hốc miệng nhìn anh, rồi cúi người tới trước, thụi vào cánh tay cứng như thép của anh. “Sao anh cười hả Dan? Ngừng ngay, anh làm em trông giống một con ngốc tự suy diễn.” Anh chống người trên khuỷu tay và với nắm tay tôi. “Anh xin lỗi, Lucy. Anh không nên cười, không nên làm thế khi em đang đứng ở cửa tử. Em đã bị những thứ có-thể- xem-là-triệu-chứng này bao lâu rồi?” Tôi nhẩm đếm trong đầu. “Khoảng một tuần. Không, đúng một tuần. Tính từ thứ Sáu tuần trước.” “Thế thứ Sáu tuần trước chúng ta đã mua cái gì, thứ mà em bảo là rất cần đấy?” Tôi vặn vẹo rút tay ra và trừng mắt nhìn Dan. Tôi chứ không phải ai khác, đang bộc bạch cõi lòng, vậy mà anh lại đang nói với tôi về chuyện mua sắm. Dan bị sao thế? “Em không nhớ, Dan. Chúng ta đã mua cái gì?” “Một chất làm sạch toa lét mới có thể khử trùng trong giây lát.” “Thì sao?” Anh nhướng chân mày. “Em không phải là người duy nhất thấy nước tiêu sủi bọt suốt tuần qua.” “Cái gì cơ?” “Lucy, em đúng là chậm tiêu.” Dan vừa nói vừa hích vào hông tôi. “Em đang tiểu vào chất làm sạch toa lét. Đó là lý do mà nước tiểu của em sủi bọt.” Tôi ngạc nhiên, nhìn anh không chớp mắt. “Vậy là em không bị suy thận à?” “Không, Lucy.” Dan đảo tròn mắt. “Em không bị suy thận.” ... Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Có Thể Đợi của tác giả Cally Taylor.
Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle - Jules Verne
Câu chuyện được khởi đầu từ hai bức thư có nội dung mâu thuẫn nhau mà kỹ sư James Starr nhận được trong cùng một ngày. Một là của người thợ mỏ già Simon Ford kêu gọi ông tới ngay mỏ than Aberfoyle nơi ông đã từng làm việc mấy chục năm về trước để chứng kiến những điều kỳ diệu đang xảy ra, hai là một bức thư nặc danh không người gửi với nội dung đe dọa và ngăn cản việc kỹ sư tới đó. Từ hai bức thư đó đã thôi thúc trí tò mò của ông và ông đã quyết định tới mỏ than theo lời mời gọi của người bạn già. Điều gì sẽ xảy ra... Với một quyết tâm sắt đá, kỹ sư James Starr cùng gia đình nhà Simon Ford lao vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, cuộc phiêu lưu mà họ có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình, để khám phá ra những điều bí ẩn nói trên. Liệu họ có đạt tới mục đích cao cả sau cùng? Với văn tài riêng biệt của ông về thể loại tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, viễn tưởng, Jules Verne lại một lần nữa dẫn dắt chúng ta vào thế giới kỳ vĩ ẩn sâu trong lòng đất của vùng than Aberfoyle, một vùng mỏ giàu có của xứ Scotland thuộc vương quốc Anh. *** Kính gửi kỹ sư J. R. Starr K Số 30 Canortgate - Edimbourg Nếu ngày mai, ông kỹ sư James Starr trở về khu mỏ Aberfoyle, hố Dochart, giếng Yarow, ông sẽ được biết một tin quan trọng. Ông kỹ sư sẽ được đón tại nhà ga Callander, trong suốt cả ngày. Người ra đón ngài là anh Harry Ford, con trai của người cựu đốc công Simon Ford. Chúng tôi kính mong ngài giữ kín lời mời này đứng để người khác biết. Trên đây là nội dung bức thư thứ nhất mà kỹ sư James Starr, nhận được ngày mùng 3 tháng Chạp năm 18... Ngoài bì thư có đóng dấu bưu cục Aberfoyle, quận Stirling, xứ Scotland. Trí tò mò của ông kỹ sư được kích thích cao độ. Ông không hề nghĩ là lá thư này chứa đựng một chuyện lừa phỉnh. Đã nhiều năm nay, ông quen biết Simon Ford, một trong những cựu đốc công của vùng mỏ Aberfoyle, nơi mà trong hai chục năm, ông từng làm giám đốc, hay còn gọi là quản đốc, theo cách gọi ở các mỏ than Anh quốc. James Starr là một con người có thể tạng vững chắc, vì vậy, mặc dù đã năm mươi nhăm tuổi mà trông ông cứ như đang tuổi bốn mươi. Ông thuộc một dòng họ cổ xưa vùng Edimbourg, lại là lớp người ưu tú của dòng họ. Công việc của ông đã làm vẻ vang cho toàn thể các kỹ sư khai thác mỏ than ở Vương quốc Anh, cũng như ở Cardiff, từ New Castle cho đến các quận vùng Hạ Scotland. Tuy nhiên, chính ở trong lòng các mỏ than bí ẩn vùng Aberfoyle, tiếp giáp với vùng mỏ Alloa và chiếm gần hết diện tích quận Stirling, tên tuổi của kỹ sư James Starr mới được nhiều người nhắc đến. Chính tại vùng này, ông đã sống gần hết cuộc đời mình. Người Anh đã gọi toàn thể các mỏ than rộng lớn của họ bằng một cái tên rất có ý nghĩa: “Các xứ Ấn Độ đen” ; và các xứ Ấn Độ này có thể đã đem lại cho Vương quốc Anh sự giàu có khủng khiếp còn hơn sự đóng góp của nước Ấn Độ phương Đông. Tuy nhiên sự tiêu thụ năng lượng đã gia tăng một cách đáng kể trong những năm cuối của thế kỷ. Điều này dẫn tới sự khai thác đến mức kiệt quệ của vỉa than. Giờ đây các mỏ than gần như bị bỏ trống, trơ ra những lỗ giếng toang hoác và những đường hầm vắng lặng. Đó chính là tình trạng của khu mỏ than Aberfoyle. Mười năm về trước, chiếc xe ben cuối cùng đã bóc đi tấn than cuối của mỏ. Tất cả các công cụ dùng trong việc khai thác đã được kéo lên khỏi các giếng và được vứt chỏng trơ trên mặt đất. Mỏ than cạn kiệt nom giống như những bộ xương khủng long hóa thạch. Trong số những dụng cụ đó, nay chỉ còn sót lại những chiếc thang bằng gỗ, dùng để đi xuống những hầm than sâu qua lối giếng Yarow - đó là lối duy nhất có thể dẫn vào những ngách hầm phía trong của hố Dochart, kể từ sau khi công việc khai thác mỏ đã ngưng nghỉ. Phía bên ngoài mỏ, người ta còn thấy sót lại những ngôi nhà xưởng, nơi đặt những máy khoan, những cái giếng, miệng hố dẫn vào trong hầm. Những chỗ đó nay cũng bị bỏ hoang phế như toàn bộ khu mỏ Aberfoyle vậy. Năm ấy, vào một ngày buồn, những người thợ mỏ đã từ giã mỏ than, nơi họ đã sống và làm việc trong nhiều năm tháng. Vài ngàn người thợ mỏ đang tập trung, họ là những người tích cực và quả cảm nhất của khu mỏ. Những con người tốt bụng này, đã từ nhiều năm qua, cha truyền con nối, lao động tại đây, khu mỏ Aberfoyle. Giờ đây họ náu lại để nói lời từ biệt với ông kỹ sư, một lời từ giã không hẹn ngày tái ngộ. Kỹ sư James Starr lúc này đang đứng chờ họ trước cửa những gian nhà xưởng, nơi đã bao nhiêu năm ông điều hành các cỗ máy với áp suất hơi nước cực lớn, dùng cho công việc khai thác. Simon Ford, người đốc công của hố Dochart, năm đó đã năm mươi lăm tuổi, cùng vài người cai thợ đang đứng vây quanh ông kỹ sư. James Starr tiến về phía họ. Đám thợ mỏ, ngả mũ, đứng yên lặng chờ nghe ông nói. Cái cảnh chia tay này mới cảm động và cao cả làm sao. - Thưa toàn thể các bạn, - Ông kỹ sư nói - giờ phút chia tay của chúng ta đã tới. Khu mỏ than Aberfoyle, nơi mà trong nhiều năm qua đã tập họp chúng ta lại vì công việc chung, nay đã cạn kiệt. Chẳng những chúng ta không khám phá ra được một vỉa than mới nào mà lại còn tiếp tục khai thác chỗ than cuối cùng của hố Dochart này! Giờ đây, tất cả đã cạn kiệt! Lời nói cuối cùng mà tôi dành cho các bạn là lời chào từ biệt. Tất cả chúng ta đã từng sống nhờ vào công việc khai thác than, giờ đây than đã hết. Đại gia đình của chúng ta sẽ buộc phải phân tán và trong tương lai cũng khó lòng có cơ may để tập họp lại những đứa con ly tán. Nhưng dù các bạn có đi đến bất cứ nơi nào, chúng tôi vẫn để mắt dõi theo bước đi của các bạn, và những lời dặn dò, tiến cử của chúng tôi vẫn đi theo các bạn. Giờ đây, xin từ biệt các bạn và cầu Chúa luôn ở bên các bạn! Nói xong, mắt đẫm lệ, James Starr giang rộng vòng tay ôm lấy người thợ già nhất mỏ. Kế đó, những người đốc công của các giếng khác nhau, lần lượt đến siết chặt tay ông kỹ sư, trong lúc đám thợ mỏ, giơ cao nón và reo hò: - Từ biệt ông James Starr, người giám đốc và cũng là người bạn của chúng ta! Những lời từ biệt đó, rồi đây sẽ trở thành một kỷ niệm sâu sắc trong những trái tim quả cảm. Và lần lượt kẻ trước người sau, đám thợ rời khỏi mảnh sân rộng đó. Chỉ còn lại duy nhất một người ở lại bên James Starr. Người đó chính là đốc công Simon Ford. Bên cạnh ông già là một thiếu niên, tuổi chừng mười lăm, cậu bé đó chính là Harry, con trai ông, người đã từ vài năm qua, bắt đầu học việc trong mỏ. James Starr và Simon Ford quen biết nhau từ lâu, và càng hiểu nhau, họ càng quý trọng nhau. - Từ biệt nhé, Simon - Ông kỹ sư nói. - Từ biệt ông James, - Viên đốc công đáp lại - nhưng có lẽ ông cho phép tôi nói thêm. Tạm biệt ông! - Đúng vậy, tạm biệt Simon! - James Starr tiếp lời - Chắc ông cũng hiểu là tôi sẽ vui sướng chừng nào khi gặp lại ông để ta cùng trò chuyện về khu mỏ Aberfoyle của chúng ta! - Vâng tôi biết, thưa ông James. - Đừng quên là cánh cửa ngôi nhà tôi ở Edimbourg luôn mở rộng với ông! - Edimbourg quá xa vời! - Viên đốc công lắc đầu nói. - Vâng! Thế ông dự tính sẽ cư trú ở đâu? - Ngay nơi đây, thưa ông James! Chúng tôi sẽ không rời xa khu mỏ, nơi đã nuôi nâng đời tôi, dù cho nguồn sữa mẹ đó có cạn kiệt! Vợ tôi, con trai tôi và tôi, chúng tôi sẽ thu xếp sao cho mình luôn trung thành với khu mỏ này! - Vậy thì vĩnh biệt Simon - Ông kỹ sư nói mà giọng đã nghẹn ngào vì cảm động. - Không, không phải vĩnh biệt mà là tạm biệt, thưa ông! - Viên đốc công trả lời - Ông hãy tin lời Simon Ford này là vùng mỏ Aberfoyle sẽ gặp lại ông! Đây là toàn bộ những gì đã xảy ra mười năm về trước, mặc dù ý muốn của người đốc công là sẽ sớm gặp lại, nhưng kể từ đó James Starr đã không còn nghe nói đến người đốc công này nữa. Và thế là sau mười năm xa cách, lá thư của Simon Ford đã đến tay người kỹ sư, trong thư lại khẩn khoản mời ông tới ngay mỏ than Aberfoyle. Một tin quan trọng! Nhưng tin gì mới được chứ? Hố Dochart, giếng Yarow à? Ôi! biết bao nhiêu kỷ niệm của quá khứ đã ùa về trong tâm trí ông? James Starr đọc đi đọc lại bức thư. Ông tìm cách lật đi, lật lại vấn đề theo mọi chiều hướng có thể được. Tại sao Simon lại không viết rõ thêm một chút. Ông thầm trách Simon Ford quá tiết kiệm lời nói. Rất có thể là viên đốc công này đã khám phá ra một vỉa than mới có thể khai thác? Không! “Không, ông tự nhắc lại lần nữa, không! Làm sao có thể tưởng tượng những gì mà ta đã hoài công tìm kiếm, giờ đây lại được Simon Ford phát hiện? Tuy nhiên, viên đốc công già này thừa biết trên đời này, ta chỉ quan tâm đến có một điều, rồi còn đề nghị ta giữ kín chuyện này nữa chứ...” James Starr cứ loay hoay mãi với những ý nghĩ trên. Mặt khác, người kỹ sư hiểu rất rõ Simon Ford là một người thợ mỏ khéo léo, rất có ý thức về nghề nghiệp của mình. Ông chưa bao giờ gặp lại người đốc công này kể từ khi công việc khai thác ở mỏ Aberfoyle chấm dứt. Ông cũng không rõ viên đốc công già giờ đây ra sao, hiện làm gì, ở đâu cùng với vợ con. Tất cả những gì ông biết bây giờ chỉ là một cuộc hẹn ở giếng Yarow và người con trai của Simon Ford tên là Harry sẽ chờ ông ở nhà ga xe lửa Callander suốt cả ngày mai. Rõ ràng là họ muốn mời ông đến thăm khu hố Dochart. “Ta sẽ đi, nhất định ta sẽ đi!” James Starr lẩm bẩm trong miệng, trong lòng như có lửa đốt khi thấy giờ hẹn càng đến gần. Thế nhưng, một sự cố bất ngờ đã xảy ra. Nó giống như một dòng nước lạnh làm ngưng tụ nhất thời những giọt hơi nước bốc lên trong ấm nước sôi. Thực vậy, vào khoảng sáu giờ chiều, người gia nhân đã mang đến cho ông một lá thư thứ hai. Lá thư này đựng trong một chiếc phong bì xấu xí, nét chữ đề ngoài phong bì được viết bởi một bàn tay ít khi cầm đến bút. James Starr vội xé phong bì ra. Bên trong chỉ một mẩu giấy nhỏ đã bị thời gian làm ố vàng. Hình như nó được xé ra từ một quyển tập cũ. Trên mẩu giấy đó chỉ vẻn vẹn một dòng chữ sau đây: “Kỹ sư James Starr không cần bận tâm đến lá thư của Simon Ford làm gì. Lá thư đó giờ đây không còn nói lên điều gì nữa”. Bức thư không có tên người gửi. ... Mời các bạn đón đọc Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle của tác giả Jules Verne.
Những Đứa Con Của Thuyền Trưởng Grant - Jules Verne
Những đứa con của thuyền trưởng Grant là một câu chuyện phiêu lưu hấp dẫn từ đầu đến cuối. Câu chuyện là cuộc hành trình của 2 người con đi tìm cha sau một vụ đắm tàu. Trên đường thám hiểm, thuyền trưởng Grant đã gặp nạn và cầu cứu đất liền bằng cách thả chai thủy tinh xuống biển. Một trong những bức thư đó đã đến được bờ biển quê hương của thuyền trưởng Grant. Một đoàn thám hiểm được thành lập. Trên đường đi tìm thuyền trưởng Grant, đoàn người đã trải qua nhiều sóng gió, thủy thủ nổi loạn, bị thổ dân bắt làm tù binh. Cuối cùng, bằng sự dũng cảm, mưu trí, đoàn tìm kiếm đã thoát khỏi nguy hiểm và tìm được thuyền trưởng Grant. Câu chuyện hấp dẫn với những tình tiết lý thú sẽ lôi cuốn độc giả, đặc biệt là những người thích phiêu lưu mạo hiểm.  *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. *** Ngày 26 tháng 7 năm 1864, một chiếc tàu buồm lộng lẫy băng băng lướt trên sóng kênh Bắc Cực theo hướng gió Đông - Bắc đang thổi mạnh. Trên cột buồm trước của tàu phất phới lá cờ Anh, còn trên lá cờ hiệu màu xanh da trời nơi đình cột buồm cao nhất nổi lên hai chữ thêu kim tuyến " E" và 3G". Chiếc tàu buồm ấy mang tên " Duncan" và người chủ của nó là huân tước Edward Glenarvan, hội viên quan trọng nhất của câu lạc bộ thuyền buồm nổi tiếng khắp vương quốc liên hiệp Anh. Trên boong tàu Duncan " có huân tước Glenarvan với người vợ trẻ là huân tước phu nhân Helena và người anh họ của huân tước - thiếu tá Mac Nabbs. Mới đây không lâu, ngoài biển khơi, cách vịnh Fort of Clyde vài dặm, đã diễn ra cuộc chạy thử chiếc tàu buồm này và bây giờ chiếc tàu đang quay trở lại cảng Glasgow. Nơi chân trời hiện rõ đảo Arran. Khi ấy, người thủy thù trực phiên cho biết có một con cá to nào đó đang bơi sau tàu "Duncan". Thuyền trưởng John Mangles lập tức ra lệnh báo cho huân tước Glenarvan biết và huân tước, có thiếu tá Mac Nabbs đi cùng, đã lên ngay tầng lái. - Anh cho biết, theo anh đó là con cá gì? - Huân tước hỏi thuyền trưởng. - Thưa Huân tước, tôi nghĩ đây là một con cá mập bự. - John Mangles đáp. - Cá mập ở vùng nước nầy? - Huân tước kêu lên. - Điều đó không còn nghi ngờ gì nữa, - thuyền trưởng nói tiếp; Những con cá mập như thế này ở biển nào và vì độ nào cũng thấy có cá. Đó là con cá búa. Hoặc là tôi lắm lẫn hoặc là chúng ta đang phải đưng đầu với một trong những con quái vật chết tiệt. Nếu như ngài huân tước cho phép và huân tước phu nhân Glenarvan vui lòng chứng kiến một cảnh săn bắn cá thú vị, thì chúng ta sẽ có thể mau chóng biết đích xác đó là con cá gì? - Còn ý kiến bác thế nào, bác Mac Nabbs? Glenarvan quay sang hỏi thiếu tá. - Chúng ta nên bắt nó chăng? - Tôi hưởng ứng trước tiên của chú, - thiếu tá điềm nhiên trả lời. - Nói chung, cần phải tiêu diệt nhiều càng tốt những con vật ăn thịt người ấy. John Mangles phán xét, - Nhân cơ hội này ta vừa được thấy một chuyện lạ thường, lại vừa làm một việc có ích. - Vậy thì ta bắt đaâu John - Huân tước Glenarvan nói. Ông sai người báo cho vợ biết và huân tước phu nhân Helena rất thích thú với cuộc săn cá hấp dẫn sắp diễn ra, đã vội vàng lên ngay tầng lái với chồng. Biển lặng sóng, nên từ đài chỉ huy theo dổi mọi hoạt động của con cá mập chẳng khó khăn gì; lúc thì nó lặn ngụp, lúc thì nó vọt thật mạnh lên mặt nước. John Mangles ra những mệnh lệnh cần thiết. từ mạn thuyền bên phải, các thủy thủ thả xuống biển một sợi dây cầu chác chắn. Lưỡi câu mốc một miếng thịt heo to làm mồi. Con cá mập háu ăn, mặc dù ở cách tàu "Duncan " đến 50 yards (1), nó đã đánh hơi thấy mồi và nhanh chóng đuổi kịp tàu. thấy rõ những cái vẫy của nó, đuôi vẫy màu xám, chân vãy màu đen, băng băng rẻ sóng, còn cái đuôi thì giúp nó giữ đường bơi thằng không chê được. Con cá mập càng bơi đến gần tàu, mọi người càng nhìn thấy rõ đôi mắt lồi to thâm ẩn của nó. Khi nó lật ngửa người cái mồm của nó để lộ bốn hàm răng, cái đầu của nó hé ra nom giống như một cái búa kép cấm vào càm. John Mangles đã không lầm - đó đúng là con cá mập háu ăn nhất - con cá búa. Cả hành khách lẫn đội thủy thủ tàu " Duncan " đều hết sức chăm chú theo dõi con cá mập. Kìa, nó đã đến sát lưỡi câu, kìa, nó đã ngữa mình lên đớp mồi cho dễ. Loang một cái, cả miếng mồi to tướng đã mất hút trong cái mồm tộng hoắc của nó, lai loang một cái, con cá mập giật mạnh sợi dây và bị mắc lưỡi câu. Các thủy thủ liên tranh thủ thời gian dùng hệ thống ròng rọc gắn vào trụ buồm lớn kéo con cá mắc câu lên. Con cá mập cảm thấy đang bị tách ra khỏi môi trường tự nhiên thân thuộc, nên giãy giụa một cách tuyệt vọng. Nhưng người ta đã nhanh chóng trị được nó bằng cách quăng dây thòng lọng xiết cứng đuôi, làm tê liệt hoạt động của nó. vài giây sau, con cá mập đã được trục lên khỏi mạn tàu và quăng trên boong. Lập tức, một người trong đám thủy thủ thận trọng tiến lại gần con cá mập và lấy rìu chặt mạnh một nhát đứt phăng cái đuôi kinh khủng của nó. Cuộc săn đã kết thúc. Chẳng còn gì đáng sợ con quái vật nữa. ý định trả thù của những người thủy thủ đã được thỏa mãn, nhưng tính tò mò của họ thì chưa. Cần phải nói rằng, trên tất cả các tàu biển người ta có quy định phải khám nghiệm kỹ lưỡng dạ dày của cá mập. Những người thủy thủ thừa biết giống cá mập háu ăn này rất liều mạng, nên thường chờ đoơi cuộc khám nghiệm như vậy đem lại một sự bất ngờ nào đó, và sự chờ đợi của họ không phải bao giờ cũng uổng công. Huân tước phu nhân Glenarvan không muốn tham dự cuộc mổ xẻ gớm ghiếc này đã dđ lên mui tàu. Con cá mập vẫn còn thở. Nó dài 10 feet (2) và nặng 600 pound 3. Đó là kích thước và trọng lượng thông thường đối với loại cá mập này. Nhưng cá búa, dầu là không phải giống cá mập to nhất, song lại được coi là giống cá nguy hiểm nhất. Chẳng mấy chốc con cá to tướng ấy đã bị người ta dùng rìu phanh thây mà không cần thủ tục gì cả. Chiếc lưõi câu đã lọt xuống tận dã dày con cá. Hóa ra cái dạ dày của nó rổng tuếch. Có lẽ con cá mập đã ăn chay từ lâu. Những người thủy thủ thất vọng, đã định quẳng con cá mập xuống biển, bỗng phó thuyền trưởng để ý thấy một vật gì đó bám chặt vào nội tạng con cá. - Ồ, cái gì thế này? - Ông ta kêu lên. - Ừ đúng rồi, một mảnh đá, con cá mập đã nuốt mảnh đá để giữ thăng bằng khi bơi, - một thủy thủ đáp. - Làm gì có chuyện ấy! - Một thủy thủ khác lên tiếng, - Đó chỉ đơn giản là một miếng mồi mà thôi; miếng mồi ấy đã trôi vào dạ dày con cá và chưa kịp tiêu hóa. - Im đi các cậu! - Phó thuey-én trưởng Tom Austin xen vào câu chuyện. Các cậu không thấy con cá này là một con sâu rượu sao? Để không mất đi cái gì cả, nó không những đã nốc cạn rượu maàcòn nuốt luôn cả chai nữa. - Thế đó! - Huân tước Glenarvan kêu lên - Một cái chai trong bụng con cá mập? Một cái chai chính cống, - phó thuyền trưởng khẳng định. Nhưng có lẽ, cái chai này đã ra khỏi hầm rượu từ đời tam hoánh nào rồi. Vậy thì Tom, huân tước Glenarvan nói: - anh khui nó ra, nhưng hãy cẩn thận đó. Vì trong những cái chai tìm thấy ở biển thường có những bức thư quan trọng. - Chú nghĩ vậy ư! Thiếu tá Mac nabbs hỏi: - Ít nhất cũng có thể là như thế. - Ồ, tôi sẽ không tranh luận với chú, - thiếu tá đáp lại. - Không chừng cái chai này ẩn giấu điều bí mật nào đấy cũng nên. - Bây giờ đây chúng ta sẽ biết điều đó, - Glenarvan thốt lên. Tom, anh cho rửa sạch chai đi, rồi đưa lên mui. Tom tuân lệnh và cái chai tìm thấy trong bối cảnh lạ lùng ấy chẳng bao lâu đã được để trên bàn trong căn phòng chung. Huân tước Glenarvan, thiếu tá Mac Nabbs, thuyền trưởng John Mangles và huân tước phu nhân Helena - quả người ta nói không ngoa rằng mọi người phụ nữ đều tò mò - đứng vây quanh bàn. Ở trên biển, bất kỳ điều nhỏ nhất nào cũng trở thành một sự kiện. Mọi ngưòi im lặng chừng một phút. Ai nấy đều nhìn cái chai mỏng manh cố đoán xem trong đó đựng cái gì. Bí mật của một tai nạn đấm tàu ư, hay đơn giản là bức thư của một người đi biển vô tích sự nào đó phó mặc cho sóng gió? Nhưng đã đến lúc cần khám phá xem sự thế ra sao, và huân tước Glenarvan bắt đầu xem xét cái chai, sau khi đã có những biện pháp cần thiết đề phòng trường hợp bất trắc xảy ra. Lúc ấy nom ông giống như một điều tra viên hình sự đang phân tích một trọng tội. và đương nhiên ông ta chăm chú vào công việc như vậy là đúng, bỡi vì thường khi cái tưởng không đâu lại có thể hé mở rất hiều điều. Trước khi mở chai. Glenarvan xem xét kỹ bên ngoài cỏ. Cổ chai dài, cứng cáp còn nguyên đoạn dây thép buộc đã bị gỉ. Thành chai chắc chắn tới mức có thể chịu được áp suất vài atmasphete. Điều ấy nói lên rằng đây là một cái chai đựng rượu Champagne. Đó chính là cái chai mà các nhà trồng nho tên là Épernay và Ai đã đập vào thanh ghế, nhưng không hề bị một vết nứt nhỏ nào. Không có gì đáng ngạc nhiên khi chính cái chai ấy đã có thể vượt qua mọi thử thách của những cuộc viễn du. ... Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Của Thuyền Trưởng Grant của tác giả Jules Verne.
Người Hoa Tiêu trên Sông Danube - Jules Verne
  *** Jules Verne sinh ngày 8 tháng hai năm 1828 tại Nantes, mất ngày 24 tháng Ba năm 1905 tại Amiens (Pháp). Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, người đi tiên phong trong lịch sử thể loại Khoa học viễn tưởng. Năm 1863, cuốn tiểu thuyết đầu tay Năm tuần trên khinh khí cầu của Jules Verne được xuất bản tại nhà xuất bản Pierre- Jules hetzel, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong ngành xuất bản Pháp thời bấy giờ và đã gặt hái thành công vang dội vượt ra ngoài biên giới nước Pháp. Sau thắng lợi đầu tiên đó, Jules Verne đã ký với hetzel hợp đồng 20 năm sáng tác các tiểu thuyết cho tờ Tạp chí giáo dục và giải trí chuyên dành cho giới trẻ. Trong vòng 40 năm, Jules Verne đã sáng tác loạt tiểu thuyết Những chuyến du hành kỳ thú (Voyages extraordinaires) bao gồm 62 tiểu thuyết và 18 truyện ngắn. Các tiểu thuyết của Jules Verne được đánh giá rất cao; chúng tiên đoán về cuộc sống hiện đại và các thành tựu khoa học kỹ thuật. Jules Verne đã viết về những chuyến du hành bằng máy bay hay tàu ngầm trong không gian, dưới lòng đất hay dưới nước... trước khi những phương tiện này được phát minh. Theo Index Translationum, ông là tác giả thứ hai được dịch nhiều nhất trên thế giới với tổng số 4.702 bản dịch các thứ tiếng, chỉ sau Agatha Christie. Năm 2011, ông là tác giả Pháp được dịch nhiều nhất trên thế giới. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của tác giả, năm 2005 được gọi là “Năm Jules Verne”. *** Vào ngày đó, thứ bảy 5 tháng tám 1876, cả một đám đông người ồn ào tụ tập tại quán rượu “Cuộc gặp mặt của các ngư dân”. Những tiếng hát, tiếng ly tách, tiếng hoan nghênh, tiếng la hét trộn lẫn thành sự ồn ào kiinh khủng, chốc chốc lại bật lên những tiếng thét to: “Hô!” bộc lộ niềm vui tràn ứ. Những ô cửa sổ nhỏ của quán rượu trông thẳng ra sông Danube, ven sông là một thành phố nhỏ tuyệt diệu của Ditmaringen, thủ phủ cua triều đại Phổ, tọa lạc bên nguồn sông vĩ đại vùng Trung Âu. Sau khi đeo xong tấm biển, được kẻ bằng những kiểu chữ Gô-tích thật đẹp, treo trên cửa ra vào, các hội viên của “Hội vùng sông Danube” đi vào quán rượu. Đây là một hội quốc tế bao gồm những ngư dân thuộc nhiều quốc gia khác nhau nằm ở ven sông Danube. Nếu không có sự đánh chén thì cuộc nhóm họp nào cũng mất đi phần náo nhiệt vui tươi – thức uống phải ngon nhất hạng. Thế nên ở đây người ta uống bia Huyn-khen hảo hạng và rượu ngon Hungary – ly cốc nào cũng luôn đầy tràn. Họ phì phà thuốc lá và những ống điếu dài lúc nào cũng nhả khói thơm lựng ngập tràn cả gian phòng lớn mời tố. Nếu những người nói chuyện không nhìn thấy mặt nhau, ắt họ cũng nghe được tiếng nhau, nhất là đối với những người không bị nặng tai. Là những con người điềm tĩnh và lặng lẽ khi bắt tay vào việc, những ngư dân này sẽ hóa thành những người ồn ào nhất trên đời, khi họ đã xếp mọi dụng cụ đồ lề của mình sang một bên. Họ không chịu thua bọn thợ săn trong các câu chuyện về những chiến công vĩ đại, mà đây là điểm mạnh của cánh săn bắn. Đến lúc tàn tiệc sáng khá là ngon lành, mà tụ hội quanh những cái bàn là hàng trăm khách được mời đến – những dũng sĩ của cái cần câu, những người ủng hộ nhiệt tình con nước, những lẻ si mê cái móc câu. Khỏi phải nói, những chiến công giờ sáng này đã hong khô cổ họng của họ, cứ theo số lượng chai đặt ra trong phiên tráng miệng. Sau đó đến lượt hàng lố chai rượu mùi được quyết định dùng đồ uống thay cho cà phê. Đồng hồ gõ ba tiếng – khi khách khứa rời bàn. Thật tình mà nói, trong số họ đã có vài người loạng choạng và họ không thể cất bước nổi nếu không có tay dìu của bạn bè. Nhưng số đông vẫn còn cứng cựa, như những vị khách quen mắt dũng mãnh và bướng bỉnh của các phiên họp thần thánh kéo dài mà hàng năm đều tái diễn vài lần nhân các cuộc thi của “Hội vùng sông Danube”. Danh tiếng của những cuộc thi (đã chuyển thành những cuộc chè chén) này vang dội trên suốt chiều dài con sông trứ danh, không kém gì những âm điệu luân vũ của Strauss. Tụ hội lại đây là các đấu thủ từ công địa Bađanh, từ Vuốctemhéc, Bavaria, Áo, Hungary, từ Rumani, Xecbi và thậm chí từ những tỉnh thuộc Thổ - Bungary và Bexarabia. Hội đoàn này tồn tại đã năm năm. Dưới sự cai quản của vị chủ tích Micletxcô, người Hungary, hội đoàn rất phát đạt. Tài lực của Hội tăng tiến đã cho phép đưa ra những giải thưởng lớn tại các hội thi, và lá cờ của hội nổi bật lên nhờ vô số những huy chương giành được trong sự đấu tranh bền bỉ với các hội đoàn những người câu cá khác. Ban chấp hành các giám đốc của hội, những người rất am hiểu các đạo luật về sự câu cá trên các vùng sông, đã ủng hộ những người đồng chí khi thì chống lại nhà nước, lúc lại chống phía tư nhân và bảo vệ các quyền hạn, đặc lợi của họ bằng một sự kiên trì đáng kể, dám nói rằng, bằng một sự bướng bỉnh hết sức chuyên nghiệp, vốn là đặc tính của giống hai chân trội hẳn trong giống người đặc biệt say mê sự đánh bắt cá bằng cần câu. Cuộc thi vừa được diễn ra, đây là lần thứ hai trong năm 1876. Vào lúc 5 giờ sáng, những đối thủ đã rời khỏi thị trấn và tụ tập trên bờ trái sông Danube gần Ditmarigen. Họ thảy đều ăn bận theo đồng phục của hội đoàn: áo choàng ngắn không làm gò bó các cử động, quần dài được nhét ống vào đôi ủng đế cao, mũ với phần lưỡi trai lớn. Đương nhiên, họ có trong tay cả bộ các loại dụng cụ khác nhau mà đã được liệt kê trong “Sách chỉ nam của người câu cá”. Những cần câu, những vợt phụ, chỉ câu được bó lại trong các túi da nai, những cái phao đủ mọi độ sâu, những hạt chì đủ mọi kích thước cho hòn chì, những con ruồi nhân táo, những sợi dây nhỏ, dây gân Florentina. Sự câu cá được tự do, bất cứ con cáo nào câu được cũng được tính điểm, và mỗi người câu cá đều có thể cho nó ăn thêm gì cũng được. Khi đồng hồ điểm sáu giờ, chín mươi bảy đấu thủ đều vào chỗ với cần câu trên tay, chuẩn bị ném móc câu. Khi kèn trỗi nhạc hiệu, thí chín mươi bảy sợ chỉ câu đồng loạt vút lên trên mặt sông. Vài giải thưởng đã được công bố tại hội thi, hai giải đầu, mội người được 100 phloring, được quy định phát cho người câu cá câu được số cá nhiều nhất, và cho người câu được con cá lớn nhất. Hoàn toàn không có diễn biến gì xảy ra cho đến hồi kèn hiệu thứ hai. Hội thi kết thúc vào lúc 11g. Số cá câu được của mỗi người đều được giao lại cho ban giám khảo gồm chủ tịch Micletxco và bốn hội viên của “Hội vùng sông Danube”. Dù rằng những người đánh cá bằng cần câu là những người nóng nảy nhất trên đời, song hoàn toàn không có một ai nghi ngờ đến sự hết sức công bằng của những nhân vật cao cấp và có uy thế này, nên không có một sự phản kháng nào xảy ra. Chỉ phải trang bị bằng lòng kiên nhẫn để nhận biết kết quả của cuộc thẩm xét tận tâm: sự phân chia các giải thưởng khác nhau căn cứ theo số cân hay số lượng cần phải đươc giữ trong bí mật cho đến tận lúc phát giải mà trước đó là bữa tiệc hữu nghị giữa những người dự thi. Giờ ấy đã đến. Những người câu cá – đó là không nói đến những người Ditmaringen tò mò – ngồi yên lặng chờ đợi trước bục diễn đàn gồm vị chủ tịch và các hội viên khác của hội đoàn. Quả thật, nếu có đủ ghế tựa, ghế dài và ghế đẩu, thì sẽ có khá đủ những chiếc bàn, mà trên cac bàn đã bày ra những vại bia, những chai rượu đủ các loại, những ly, cốc đủ cỡ lớn và nhỏ. Khi mọi người đã yên vị, và các ống tẩu đã bắt đầu nhả khói, vị chủ tịch đứng lên. - Nghe nào! Nghe nào! Những tiếng hoan hô vang động. Ngài Micletxco uống cạn cốc bia, bọt bia vẫn còn lòng thòng trên ria mép ông ta. - Thưa các bạn đồng nghiệp – ông nói bằng tiếng Đức, thứ ngôn ngữ mà các hội viên đều biết; không phân biệt các dân tộc – các bạn đừng mong mỏi ở tôi lời lập luận cấu trúc theo cách cổ điển với lời vào đề, phần nội dung chính, rồi đến đoạn kết bài. Không, chúng ta có mặt ở đây không phải để thưởng thức những ngôn từ nghi thức trang trọng mà tôi sẽ chỉ nói đến các công việc nhỏ bé của chúng ta theo tình bằng hữu, thậm chí sẽ nói, theo tình anh em, nếu như cách diễn đạt như thế lại thích hợp hơn đối với một hội đoàn quốc tế. Đáp lại hai câu nói quá dài này – như thường lệ mỗi khi bắt đầu diễn từ, thậm chí khi người phát ngôn không muốn làm người lắm lời – là tràng vỗ tay đồng lòng vang lên kèm theo với hàng loạt những tiếng la “Hay lắm!”, “Hô!” bị đứt quãng bởi những tiếng nấc cục. Tiếp đó ngài chủ tịch nâng cốc và toàn bộ những cái cốc cùng cạn sạch. Tiếp tục bài diễn văn, ngài Micletxco đã sắp xếp những người đánh cá bằng cần câu lên hàng đầu của nhân loại. Ông ta nhấn mạnh tất cả những phẩm chất, tất cả những đức tính mà những người câu cá đã được thiên nhiên hào phóng ban cho, ông ta chỉ rõ ràng phải cần đến biết bao nhiêu là sự nhẫn nại chịu đựng, sự nhanh trí, tính lạnh lùng, trình độ trí thức cao, để đạt được thành tích trong nghệ thuật bắt cá, bởi lẽ đây là cái lớn hơn nghề nghiệp, đây chính là nghệ thuật, và nó còn cao hơn nhiều so với các chiến công mà những thợ săn đã huênh hoang một cách vô ích. - Có thể so sánh nghề đi săn với sự đánh bắt cá được hay sao? – ông ta lớn tiếng. - Không! Không! – những cử tọa đồng loạt ứng tiếng. - Công trạng như thế nào khi phải giết một chú gà gô hay một cô thỏ, khi các ngài nhìn thấy chúng trong tầm bắn và khi con chó – mà chẳng lẽ chúng ta có con chó? – đi tìm thú săn cho các ngài? Các ngài nhận định con thú săn ấy từ xa, các ngài không bắn ngay nó vội, và các ngài sẽ vãi ra một số lượng đạn chì không đếm xuể, phần lớn những viên đạn chì ấy bay đi một cách vô ích… Trái lại, để đánh bắt con cá thì các ngài sẽ không thể theo dõi bằng cái nhìn… con cá ẩn náu dưới mặt nước… Phải nhờ đến rất nhiều kỹ xảo, mưu mẹo, trí tuệ và sự lém lỉnh để buộc con cá phải cắn câu, để giật nó, để lôi nó lên khỏi mặt nước, lúc thì nó treo lơ lửng bất động trên đầu sợi cước, lúc thì rung rung giãu giụa tựa như đang hoan nghênh các ngài vì chiến thắng. Lời này, lời đáp lại là những tiếng hô muốn vỡ phòng: “Hoan hô!”. Nhất định la ngài chủ tịch biết làm rung nảy lên tình cảm của các hội viên. Hiểu rằng không thể đi quá xa trong những lời tán dương các bạn đồng nghiệp của mình, ông ta đã đánh bạo mà không sợ bị buộc tội cường điệu – đặt ra cho họ phần công việc tao nhã cao hơn mọi người khác, tâng bốc lên tận trời xanh các nghề đánh cá khoa học của những người nhiệt thành và thậm chí ông ta còn quay lại để tưởng nhớ vị nữ thần tuyệt vời được đưa lên hàng đầu bởi những người hâm một trẻ tuổi của cổ La Mã tại các kỳ hội lớn của những người đánh cá. Những điều ám chỉ này có hiểu ra được hay không? Có lẽ thế, bởi vì họ đã gây nên làn sóng phấn khởi thật tình. Sau đó, vừa lấy lại hơi thở và sau khi uống cạn thêm một cốc vại bia sủi bọt nữa. Ông ta tiếp tục; - Tôi chỉ còn một điều là chúc mừng các bạn nhân sự phát đạt của hội đoàn mà hang năm đều được bổ sung thêm nhiều hội viên mới và tiếng tăm của hội đã được lặp nên một cách vững chãi trên toàn Trung Âu. Tôi sẽ không nói với các bạn về thành tích của chúng ta. Các bạn đã biết rõ chúng, cac bạn đã tham gia làm nên chúng, và đó là vinh dự lớn để nhập cuộc thi. Báo cí Đức, Tiệp, Rumani đều không tiếc lời ca ngợi, đánh giá hết sức cao, và tôi xin nói thêm là, hết sức xứng đáng! Tôi xin nâng cốc chúc mừng, và xin các bạn hãy ủng hộ với tôi, các nhà báo đã hết sức tận tụy với công việc quốc tế của “Hội vùng sông Danube”! Tất nhiên, mọi người đồng thanh đáp lại lời của ngài chủ tích. Những chai rượu được dốc cạn vào các cốc, còn những cái cốc thì được lật úp vào những cái cổ họng cũng hết sức nhẹ nhàng như thế, như nước sông vĩ đại và ngọn nguồn của nó tuôn ra biển cả. Có thể chấm dứt được vào chỗ này, nếu như bài diễn văn của ngài chủ tịch đã được kết thúc bằng lời chúc rượu sau cùng. Nhưng những lời chúc rượu khác được tuôn ra có lẽ là rất ư hợp thời. ... Mời các bạn đón đọc Người Hoa Tiêu trên Sông Danube của tác giả Jules Verne.