Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giải Mã Các Giấc Mộng Qua Ánh Sáng Phân Tâm Học (Pierre Daco)

Cuốn sách Giải Mã Các Giấc Mộng Qua Ánh Sáng Phân Tâm Học nguyên tác có tựa đề Interpre tation des Rêves là một cuốn sách khảo luận nghiêm túc nhằm giải thích một cách đúng đắn các giấc mộng dựa trên cơ sở lý luận của Phân tâm học, đánh đổ những kiểu Đoán điềm giải mộng thần bí vu vơ và cả những kiểu giải thích duy sinh lý thô thiển.

Đây là một tác phẩm rất hữu ích trong việc tìm hiểu giáo dục trẻ thơ cũng như soi sáng và trị liệu những bất ổn tinh thần trong người lớn, đồng thời góp phần khơi nguồn cho cảm hứng sáng tạo và phê bình văn nghệ...

***

Giấc mộng là hành lang nối liền những căn hầm mênh mông của vô thức với những tầng trên của ý thức chúng ta, hiển thị nhân cách sâu xa, chân ngã thực tướng cốt yếu của chúng ta. Như thế, giấc mộng đặt chúng ta trực kiến hiện tiền với chính mình.

Tác giả Pierre Daco là một chuyên gia về Phân tâm học nổi tiếng của thế giới, người tiếp thu và vận dụng những lý thuyết Phân tâm học của Sigmund Freud, Carl Gustav Jung, Alfred Adler… vào việc kiến giải một cách sâu sắc những hiện tượng tâm lý và ứng dụng một cách hiệu quả các phương pháp tâm trị liệu. Ông dẫn dắt chúng ta tiến vào hành trình khám phá những ý nghĩa của các giấc mộng. Xuyên qua nhiều giấc mộng rút ra từ kho tư liệu nghề nghiệp độ sộ của mình, tác giả cho ta thấy bằng cách nào người ta có thể đạt đến việc giải thích một cách chính xác những giấc mộng của chính mình và sử dụng một cách hữu ích những dấu hiệu mà chúng trao gửi đến cho chúng ta. Tìm mua: Giải Mã Các Giấc Mộng Qua Ánh Sáng Phân Tâm Học TiKi Lazada Shopee

Nguyên tác có tựa đề “L’ Interprétation des Rêves” là một quyển sách khảo luận nghiêm túc nhằm giải thích một cách đúng đắn các giấc mộng, dựa trên cơ sở lý luận của Phân tâm học, đánh đổ những kiểu “đoán điềm giải mộng” thần bí vu vơ và cả những kiểu giải thích duy sinh lý thô thiển.

Một lập trường nhân bản rất sáng tỏ và dứt khoát: “Không phải thần linh nói trong giấc mộng của tôi, cũng không phải thân xác tôi nằm mộng, mà chính Tôi mộng”.

Vấn đề là giải thích sao cho hợp lý, chính xác, căn nguyên và ý nghĩa của những dấu hiệu trong giấc mộng để hiểu rõ bản thân, để giải tỏa những ức chế và vướng mắc trong nội tâm, để đạt đến một trạng thái tinh thần quân bình, hài hòa và lành mạnh.

Đây là một tác phẩm rất hữu ích trong việc tìm hiểu và giáo dục trẻ thơ cũng như soi sáng và trị liệu những bất ổn tinh thần nơi người lớn, đồng thời góp phần khơi nguồn mạch cho cảm hứng sáng tạo và phê bình văn nghệ… Dứt khoát là một phản đề của những quyển sách mê tín nhảm nhí bạn luận lăng nhăng về đề tài này!

Quyển “L’ Interprétation des Rêves” nằm trong tủ sách “Savoir Pratique” của nhà xuất bản Marabout, một nhà xuất bản uy tín, đứng đắn với những đầu sách chọn lọc, giá trị.

Nhà xuất bản chúng tôi cho ra đời bản Việt ngữ của tác phẩm trên nhằm phục vụ cho nhu cầu chính đáng hiểu mình hiểu người của tất cả bạn đọc gần xa.

NHÀ XUẤT BẢN TRẺ

***

NĂM NĂM SONG HÀNH…

Nếu ta đem sắp nối tiếp nhau những giấc mộng ban đêm của một người 50 tuổi, ta có thể nói rằng ông ta đã nằm mộng trong khoảng 5 năm. Năm năm! nghĩa là khoảng 1800 ngày, 45000 giờ…

Như vậy trong khoảng 5 năm cuộc đời mình, ông ta đã sống trong một thế giới khác, rất khác với thực tại thường ngày. Người ấy liên hệ với những con người, những nơi chốn, những đồ vật, những con thú… mà trong lúc nằm mơ, người ấy coi là những thực thể, cũng giống như những hiện tượng trong đời sống thực khi thức. Vì thế mà Trang Tử trong Nam Hoa Kinh có chuyện nằm mơ thấy mình hóa bướm, thức giấc lại thấy mình là Trang Chu nên không biết mình là Trang Chu nằm mơ thành bướm hay mình là bướm nằm mơ thành Trang Chu…

Hơn thế nữa: con người ấy trong 5 năm nằm mơ, đã biết đến một sự gấp mình hoàn toàn lên tự thân (un total repli sur soi), Và từ đó, người ấy đã khám phá những sức mạnh tiềm ẩn hiện hữu nơi mình. Hơn nữa người ấy còn thường thấy mình đứng trước một cánh cửa khép hờ hé mở ra vũ trụ.

Trong cuộc sống đêm tối dày đặc đó, không gian và thời gian như không còn hiện hữu nữa hay nói đúng hơn là bị xáo trộn hẳn đi. Nhưng những hành động được thực hiện: người nằm mộng bay lượn, bơi lội, điều khiển dàn nhạc, lao vào bầu trời… một cách rất tự nhiên vì mọi chuyện trong giấc mộng được cảm nghiệm như là thực. Người nằm mộng đã đắm mình vào thời gian: anh ta thấy mình trở thành trẻ thơ hoặc sống lại những nơi chốn của thời thơ ấu. Những người chết sống lại và nói chuyện với anh ta. Những tiếng nói vang lên và đôi khi những ác mộng nẩy sinh.

Như vậy có một đời sống thứ hai, song hành với đời sống ban ngày. Nhưng thường thì lúc thức giấc, nhiều giấc mộng lại biến hẳn gọi trí nhớ hoặc ít ra dường như biến hẳn. Chúng biến đi đâu?

Một cuộc phiêu lưu cá nhân

Không gì có tính cá nhân hơn là giấc mộng. Giấc mộng là sự thân mật tuyệt đối, là tình trạng khỏa thân toàn diện của chúng ta. Những tầng sâu kín nhất trong nhân cách chúng ta trồi lên trên bề mặt. Giấc mộng vượt thoát chúng ta: chúng ta không kiểm soát được một khi nó diễn ra. Chúng ta chẳng thể làm gì được và trong bất kỳ trường hợp nào chúng ta cũng không thể chịu trách nhiệm về các giấc mộng, từ những giấc mộng thiêng liêng nhất cho đến những giấc mộng kinh khiếp nhất… Giấc mộng lôi kéo chúng ta vào những ngóc ngách hiểm hóc của nó mà chúng ta chẳng thể cưỡng lại được.

Nhưng giấc mộng chẳng phải là tiến trình bí mật nhất của chúng ta, động thái tích cực nhất của chúng ta đấy sao? Chính từ những hậu trường của đêm tối sẽ xuất hiện những chân lý thâm sâu. Nhưng với ánh quang huy của buổi rạng đông thì những hoạt cảnh đời, những giao tế xã hội, những động thái giả tạo - nói chung là hiển thể (le paraitre) lại trở về và ta đánh mất đi những chân lý cơ bản. Và đấy là lý do tại sao không nên cắt đứt những giấc mộng mà phải tìm cách giải mã những ý nghĩa của chúng.

Những điều dối trá, vu vơ?

Phải chăng mộng mị chỉ là hư huyễn, chiêm bao là lời nói dối trong đêm? Không còn ai tin như thế trong thời đại chúng ta. Nếu nhiều giấc mộng hình như chẳng có ý nghĩa nào thì trái lại, phần lớn các giấc mộng cần được xem xét nghiêm túc, dầu chỉ bởi vì chúng ta đã tuyệt đối coi chúng là nghiêm túc khi chúng ta đang nằm mộng. Nhưng cũng cần nói thêm rằng tất cả những gì mà một người thực hiện đều có một ý nghĩa và rằng tất cả những gì nó làm đều nhằm đáp ứng một yêu cầu. Nếu không nó đã không làm. Không có một giấc mộng nào lại không bao hàm ý nghĩa đặc thù. Những giấc mộng diễn tả (hay tố cáo) những ước muốn bị vùi lấp của chúng ta, những khó khăn bị che giấu của chúng ta; nó đưa ra những đích ngắm; nó thông báo những tình huống xuất phát từ động thái hiện tại của chúng ta.

Giấc mộng có tầm quan trọng lớn lao trong việc chỉ ra cho chúng ta biết thực sự chúng ta là gì, và chúng ta có thể trở thành cái gì, nhờ vào chiều hướng hiếm khi được khai phá.

Hãy nói cho tôi biết anh nằm mơ thấy những gì…

Những giấc mộng ban đêm luôn mê hoặc người ta. Cho nên chẳng lấy gì làm lạ là từ xa xưa cho đến giờ con người luôn tìm kiếm ý nghĩa ngẫu nhiên của cái vũ trụ dị kỳ đó.

Những hình tượng thường rất mãnh liệt kia, thấm vào ý thức như một chất sáp nóng bỏng, có ý nghĩa gì? Và ý nghĩa của những giấc mộng được cảm nhận như những điềm tiên báo, thực ra là gì?

Các công trình của những vùng huyền bí của nhân cách, tạo ra những thông điệp để rồi đến sáng mai lại rơi vào bóng tối, bán chất của nó là gì?

Đây là một giấc mộng nêu ra làm ví dụ. Một giấc mộng chói loà, rực rỡ:

- Tôi thấy mình thấy trên một mũi đất cao, phóng tầm mắt nhìn vào một thung lũng xanh tươi chập chờn như sóng lượn, đẹp mê hồn. Những hình thể sóng lượn như một khúc giao hưởng biến ảo, tạo nên Thung Lũng Địa Đàng. Tôi thấy cơ man nào là những thân cây với cành quả trĩu vàng rực hay hồng tươi nhìn đến ngon mắt và những cành bên trên vẫn còn tiếp tục nở đầy hoa. Bao nhiêu là cây hoa đào, bao nhiêu là bụi hoa hồng. Thung lũng đầy cỏ tươi xanh mơn mởn; hàng đàn bỏ gặm cỏ yên lành, trải dài đến mút mắt. Đây đó những nhóm nam thanh nữ tú quây quần khiêu vũ với nhịp khoan thai; họ khiêu vũ theo điều nhạc ba thì, một thứ Valse chậm, ở bên ngoài thời gian. Thật huyền hoặc… Tôi cảm nhận âm nhạc với khiểu thẩm âm tinh tế; âm nhạc êm đềm bàng bạc khắp nơi; đó là phần đầu trong một bài “Cantat” của Bach; bài: Wie schon leuchtet der Morgenstern (Đẹp diệu kỳ, ngời rạng ánh Sao Mai). Những người đó tươi cười nắm tay nhau và ra hiệu cho tôi. Tôi cảm thấy lâng lâng hạnh phúc, và tôi tin rằng tôi sẵn lòng đánh đổi cả phần đời còn lại của tôi cho một giờ hạnh phúc tuyệt vời đến như vậy.

Tiếp đó, từ cuối chân trời, đằng sau tôi, ba chiếc phi cơ phản lực bay đến, với hình dáng thuôn thả, xinh xắn. Rồi bỗng nhiên tôi thấy mình ngồi vào chiếc phi cơ ở giữa, hai chiếc kia hộ tống hai bên thành đội hình tam giác, và bay đi thật chậm, lững lờ như mây trôi, êm đềm như cánh gió; tất cả cơ lực của chúng vẫn còn đang ở tiềm thể. Chúng bay êm như ru và chỉ ở độ cao cách mặt đất chừng 10 mét. Tất cả cảnh vật bên dưới diễu hành khoan thai, dịu dàng trước mặt tôi: cỏ cây, hoa lá, con người, đàn bò,… tất cả đều hiền lành, dễ thương chi lạ… âm nhạc vẫn tiếp tục văng vẳng. Sẽ không bao giờ tôi quên được giấc mơ kì diệu đã cho tôi năng lượng và niềm vui mà tôi chưa từng tưởng tượng ra…

Chúng ta đọc các giấc mộng này một cách thản nhiên vì đó là giấc mộng của một người khác. Nhưng cảm giác của chính người nằm mơ giấc mộng đó, sống thực sự giấc mộng huy hoàng đó, trong chiều sâu viên mãn của nó, sẽ như thế nào? Một cuộc đào thoát vào cảnh phi thực, có người sẽ nói như thế. Không đâu. Hẳn nhiên là có “điều gì đó” nơi anh ta đã tạo ra giấc mộng đó, một điều gì đó đã âm thầm “làm việc” trong những niềm u ẩn sâu xa nhất của tồn thể. Tôi sẽ phân tích kĩ giấc mộng này ở chương VI.

Giấc mộng đã gây nên ấn tượng sâu xa nên dĩ nhiên người đó khao khát tìm hiểu ý nghĩa. Vả chăng, nhiều giấc mộng khác cũng đủ sức mạnh khiến người nằm mộng cảm thấy bị thôi thúc phải kể lại cho người khác nghe, ngay cả khi không tìm được ý nghĩa nào.

Tất cả những nghiên cứu về giấc ngủ và giấc mộng, tất cả những toan tính giải thích, đều phải đi đến, một đàng là rất nhiều loại chìa khác “đoán điềm giải mộng” và đàng khác là tâm lý học các miền sâu nhờ vào những tên tuổi uy tín lẫy lừng, nếu kể ra cho đủ sẽ quá dài, nhưng hai khuôn mặt chính có lẽ vẫn là Sigmund Freud và Gustave Jung.

***

Dịch giả Phan Quang Định (Phan Nhân Phương) nay đã 61 tuổi (sinh năm 1945 tại Quảng Nam), là giáo sư triết học và ngoại ngữ tại nhiều trường ở Sài Gòn, Blao và Bình Dương từ những năm 1967 - 1975, phiên dịch và cộng tác biên dịch với nhiều nhà xuất bản (NXB) như NXB Trẻ, NXB Văn Nghệ - NXB Văn hóa - Thông tin trong hơn 30 năm qua. Đến nay, ông xuất bản hơn 40 cuốn, phần lớn là sách văn học dịch như: Thế giới đàn ông không có đàn bà (E.Hemingway), Lịch sử văn hóa Pháp (Xavier Darcos), Tuyển tập truyện ngắn các nhà văn trẻ Hoa Kỳ (nhiều tác giả), Những người hành hương kỳ lạ (Gabriel Marquez), Mắt biếc (Tony Morrison), Mây trời kỳ diệu (Francoise Sagan). Trong số đó, cuốn biên khảo về những bí ẩn của các giấc chiêm bao nhan đề Giải mã các giấc mộng qua ánh sáng phân tâm học đã được bạn đọc nhiều giới đón nhận khá nồng nhiệt, phải chăng vì sức hấp dẫn và sự gần gũi của đề tài này đối với bất cứ một ai?

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giải Mã Các Giấc Mộng Qua Ánh Sáng Phân Tâm Học PDF của tác giả Pierre Daco nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Dự đoán tương lai bằng phương pháp số hóa
Cuốn sách “Dự đoán tương lai bằng phương pháp số hóa” phát hành dựa trên sự mã hóa các chữ thành số như: Mã số, mã vạch cho sản phẩm, mã hóa tên người…Những số tự nhiên trong số hóa đã mang một chức năng khác, nó ẩn chứa các thông tin để biết như giá cả, thứ loại của sản phẩm hay những thông tin cá nhân… Môn dự đoán qua số hóa cũng trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển đến ngày nay. Bằng phương pháp số hóa, mỗi người có một cách khai thác, ứng dụng theo hướng mà họ quan tâm.Thời xa xưa người Trung Hoa đã vận dụng số hóa vào nhiều môn dự đoán như : Ngọc chưởng thần quái, Bát quái thần toán, Tính danh dự đoán học … Đến thế kỷ XX phương pháp số hóa bắt đầu ứng dụng vào một số lĩnh vực : công nghệ, thương mại, quân sự…
36 KẾ NHÂN HÒA
Trong xã hội ngày nay, cơ hội nhiều và thử thách cũng nhiều. Mọi người đều khao khát thành công, tạo dựng sự nghiệp, xây dựng gia đình ổn định. Nhưng muốn có được một chỗ đứng ổn định trong thương trường, xã hội mà không có một hệ thống triết lý, mưu kế xử thế cao siêu thấu đạt lòng người thì rất khó thành công. Nhân sinh xử thế cốt ở chữ "Độ", xử sự đúng phân lượng là cảnh giới tối cao. Cương trực vốn rất tốt nhưng quá cương trực thành gai góc, sắc sảo khiến người ta sợ hãi thì người đời khó chấp nhận. Hòa vốn tốt nhưng nếu chỉ cầu hòa đến đánh mất nguyên tắc, thiếu chủ kiến riêng, nhân nhượng, tất cả chỉ để cầu hòa thì thường bị coi là hèn. Cổ xưa từng nói: Thiên thời không bằng địa lợi. Địa lợi không bằng Nhân hòa. Cuốn ebook 36 Kế Nhân Hòa này nhằm cung cấp cho bạn đọc một ít kỹ xảo xử thế nhân gian, mong rằng có thể giúp bạn thuận buồm xuôi gió thẳng tiến đến thành công.Mục LụcKế 1. Kế ban ơnKế 2. Kế vu hồiKế 3. Kế mượn cớKế 4. Kế tấn công cạnh sườnKế 5 Kế khen thưởngKế 6 Kế lán tụngKế 7. Kế kích tướngKế 8: Kế dát vàngKế 9: Kế chữa thẹnKế 10. Kế phủng trường (Kế phò tá)Kế 11. Kế mượn uy danhKế 12. Kế hóa giảiKế 13. Kế nhượng bộKế 14. Kế lự tràoKế 15. Kế nhìn mặtKế 16. Kế hai mặtKế 17. Kế đe dọaKế 18. Kế thăm dòKế 19. kế nắm đằng chuôiKế 20. Kế che đậyKế 21. Mài cho mềm ngâm cho nhũnKế 22. Kế câu cáKế 23. Kế hạ đàiKế 24.Kế phản hồi ( nghĩ lại, quay ngược )Kế 25. Kế ứng biếnKế 26. Kế giả nguKế 27. Kế bán khôn mà ănKế 28. Kế lộ xấuKế 29. Kế phản pháoKế 30. Kế phản ngữKế 31. Kế bè đảngKế 32. Kế đe dọaKế 33. Kế xuống đài.Kế 34. Kế ám thịKế 35. Kế đàm phánKế 36. Kế thăm dò
Bát Tự Hà Lạc lược khảo - Học Năng
Bát tự Hà Lạc (có sách ghi là Tám chữ Hà Lạc) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý của Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành,... bằng cách lập quẻ Tiên thiên với hào nguyên đường và quẻ Hậu thiên; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. Bát tự Hà Lạc (có sách ghi là Tám chữ Hà Lạc) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý của Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành,... bằng cách lập quẻ Tiên thiên với hào nguyên đường và quẻ Hậu thiên; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. LỜI NÓI ĐẦUMột ông bạn già bảo Soạn giả: “Suốt đời anh chỉ lấy số giúp cho người, Tài Tử thế. Nếu không thích hành nghề, thì sao chẳng viết sách đi? Môn Bát Tự Hà Lạc của anh có cỡ lắm rồi đấy!”.Chỗ thân nên mới trả lời văng mạng rằng: “Cớ gì! mắc cỡ thì có. Nào đã biết gì đâu mà viết với lách. Học số tuy gần 40 năm thật, nhưng lẽ quyển Kinh Dịch chưa sờn, chứ đừng có nói là đã hân hạnh dứt lấy một lần, thì phỏng viết sách ra có ích gì, hay chỉ làm thiệt lấy đôi ba ram giấy và ít ký mực của học sinh nghèo”.Ông bạn nghe xong mỉm cười rồi lại nghiêm nét mặt mà nói: “Chà! mặc cảm vừa vừa thôi chứ. Tuổi anh nay mai sắp sang tuần “Thất - Thập cổ lai hi rồi”, liệu ít nữa, xuống lòng đất mẹ có mang được tí sở học đi không? Mà nếu thiên hạ ai cũng nghĩ (Tếu) như anh cả, thì rồi môn BÁT - TỰ HÀ - LẠC đến mất giống ư?Tuy câu chuyện đối đáp tầm phào như trên, mà rồi cũng làm cho đầu óc phải suy nghĩ. Soạn giả tự nhủ: “Ừ, anh bạn nói cũng có lý. Như người học Phật có ứng khẩu được KỆ mới là hiểu KINH. Học sách Thánh Hiền mà không làm được bài vở gì thì sao gọi là triết học. Suốt đời chưa trình làng được một chữ nghĩa nào về LÝ - SỐ, thì rồi đây, khi sang thế giới bên kia lỡ gặp các Cụ: Chu Công, Khổng Tử, Trần Đoàn, Thiệu Khang Tiết v.v... liệu các Cụ có để yên cho hay không, hay Khai trừ thẳng cánh”. Nghĩ vậy mà thấy rờn rợn góc gáy, nên rấp tâm phải viết một cái gì về LÝ SỐ, mặc dù vẫn viết rằng: Viết ra thì cũng tội, mà không viết ra cũng tội.Nhưng viết gì đây?Tử Vi, KINH DỊCH, MAI HOA, KỲ MÔN,GIÁP ĐỘN v.v... đều đã đủ mặt ở thị trường sách vở từ trong Thư Cục, Ấn Quán cho ra đến vỉa hè. Nhìn kỹ thì thấy thiếu BÁT TỰ và HÀ LẠC LÝ SỐ là 2 môn thịnh hành nhất ở các phố Hoa Kiều.Gần đây, tình cờ gặp một thầy Tướng Số, người Hoa Kiều là chỗ quen nên ông ta hỏi: “Học giả Việt Nam các ông chỉ có lấy Tử Vi thôi, không ai biết lấy BÁT TỰ và HÀ LẠC à?”.Chẳng lẽ soạn giả lại vô lễ nổi xung lên, nhưng liền nhớ ngay câu chuyện đối thoại xưa giữa YẾT KIÊU đục thuyền và giặc Nguyên, nên cũng bắt chước lối hiên ngang mà trả lời rằng: “Học giả Việt chúng tôi, trừ hạng tôi ra, lấy đấu mà đong không hết, còn ai cũng uyên thâm đủ các môn NHÂM, CẦM, ĐỘN, TOÁN cả, con cháu Trạng Trình mà không tinh thông sao được. Ông đã đọc Sử nước tôi chưa? Sở dĩ chúng tôi chỉ lấy Tử Vi thôi, là vì khoa ấy dễ phổ biến hơn hết”.Ông thầy Tàu ngồi im. Lời của ông tuy không có gì là kỵ thị Văn Hóa, nhưng vô tình đã lùa ngọn roi châm chọc vào bên cạnh sườn Học Vấn gầy còm của Soạn giả, khiến hắn này phải có một quyết định như câu Dịch, hào 3 quẻ quải: “Quyết quyết độc hành”.Thôi, đúng cũng là số đến ngày phải cầm bút rồi, mặc dầu đây không phải là “Bút Mộng Hoa” của Thi Hào Lý Bạch chi cả mà chỉ là bút rỉ mực cợn, đi đôi với bộ mắt đã mờ, gân tay đã mỏi, nhưng cũng cứ cố gắng và mạo muội vạch ra cuốn BÁT TỰ - HÀ LẠC này.
Âm Phù Kinh - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Tựa Âm Phù Kinh là một quyển sách rất nhỏ của Đạo Lão, tương truyền là do Hoàng Đế (2697-2597) viết. Nhưng có nhiều học giả không công nhận như vậy. Trình Chính Thúc (Trình Di, Trình Y Xuyên, 1033-1107) cho rằng sách này được viết vào thời Ân (1766-1154) hay thời Chu (1122-255). Chu Hi (Chu Nguyên Hối, 1130-1200) cho rằng Lý Thuyên, một đạo sĩ đời vua Đường Huyền Tông (713-755) đã ngụy tạo ra. Chu Hi soạn Âm Phù khảo dị. Thiệu Khang Tiết (1011-1077) cho rằng Âm Phù Kinh được viết ra vào đời Chiến Quốc. Đạo tạng có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên. Trương Quả Lão (một vị trong Bát Tiên đời Đường) cũng có viết Âm Phù Kinh và có dẫn Y Doãn, Thái Công, Chư Cát Lượng, Lý Thuyên. Lại có bản do 11 người chú: Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc, Trương Lương, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong, Lý Thuyên, Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh. - Thạch Đại Dương Nhân Sơn, một người rất giỏi về Đạo Phật, chú Âm Phù theo Phật. - Lý Gia Du giỏi Dịch giảng Âm Phù theo Dịch. - Đơn Chân Nhân, Khấu Trương, Trương Quả Lão, Lý Thuyên là các Đạo Gia nên bình Âm Phù theo Lão. Trịnh Tiều Nghệ Văn cho biết trước sau có 38 bộ Âm Phù Kinh biên soạn thành 51 quyển. Như vậy mỗi người chú Âm Phù một cách. Binh gia giải theo Binh Gia, Đạo Gia giải theo Đạo Gia, Phật Gia giải theo Phật Gia. Nhưng Âm Phù Kinh vẫn là Âm Phù Kinh. (Xem Vô Tích Hoàng Nguyên Bính tiên thích, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, Tựa) Tại sao một quyển sách chỉ vẻn vẹn có ba bốn trăm chữ mà được nhiều học giả mê thích như vậy? Thưa vì nó đưa ra một học thuyết quá hay: Đó là hãy bắt trước Trời mà hành sự thì muôn việc đều hay. (Quan Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi hành tận hĩ. 觀 天 之 道 執 天 之 行. 盡 矣.) Trung Hoa Đạo giáo Đại Từ Điển viết: «Thánh Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các đắc kỳ nghi...» «Thánh nhân xem Trời, bắt chước Trời hành sự, nếu việc Trời việc người ăn khớp với nhau, làm gì cũng hợp đạo Trời, không làm gì sai trái với tự nhiên, thì trị nước hay tu thân đều tốt đẹp.» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm.) Xưa nay chỉ có ăn ở theo đúng cơ Trời, thời Trời, là hay, là tốt mà ít ai nhận thấy. Chúng ta thấy ngày có mặt trời, đêm có mặt trăng. Mà mặt trời thời hằng cửu, bất biến, mặt trăng thì tròn khuyết biến thiên. Mặt trời là Thái Cực, mặt trăng là Âm Dương. Trăng có tròn có khuyết, con người có khi tốt có khi xấu, nhưng lúc chung cuộc phải tiến tới viên mãn như trăng ngày rằm, như mặt trời chính Ngọ. Chu kỳ mặt trăng gồm đủ 64 quẻ Dịch mà chúng ta không thấy. Mỗi chớp mắt, mở mắt của chúng ta, mỗi một ngày một đêm, mỗi một tháng, mỗi một năm cũng gồm đủ 64 quẻ Dịch. Như vậy rõ ràng là Trời muốn chúng ta sống theo đúng tự nhiên, thì mọi sự sẽ chu toàn. Ngay quẻ Kiền đã dạy chúng ta phải bắt chước Trời mà hành sự. Đại Tượng quẻ Kiền viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健. 君 子 以 自 強 不 息: Trời cao mạnh mẽ xoay vần, Nên người quân tử quyết tâm tự cường. (Không hề ngưng nghỉ triển dương) Câu thứ 4 của Âm Phù Kinh cũng hết sức hay: Thiên Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã. (天 性 人 也, 人 心 機 也. 立 天 之 道 以 定 人 也.) Thiên Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời để xác định (xem) con người (tiến bộ đến đâu.) Đọc Âm Phù Kinh, tôi mới thấy rõ, Con người chính là Trời (Thiên Tính Nhân dã), còn Con người chỉ là Cái máy. Lập ra đạo Trời, cho thấy đâu là Đạo Người rốt ráo. Đạo Con Người thật ra là đạo tự nhiên bất biến. Con người sinh ra không phải là để khổ đau, mà chính là để luôn luôn sung sướng. Con người sinh ra cốt là để nhìn thấy trong mình, ngoài mình, đâu đâu cũng là Chân Thiện Mỹ. Con người hiện chưa được vậy, là vì quá ích kỷ và con u mê dốt nát mà thôi. Gần cuối sách, Âm Phù Kinh lại dạy bài học thứ ba: Thị cố quân tử tri tự nhiên chi Đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi. (是 故 君 知 自 然 之 道 不 可 違, 因 而 制 之.) Cho nên người quân tử không thể đi sai Đạo tự nhiên. Chỉ có thể nhân đó biến chế mà thôi. Xưa nay, người ta thường chống đối với tự nhiên, thích chinh phục thiên nhiên. (Going against Nature, conquering Nature). Nhưng cũng có người cho rằng cần phải tìm hiểu Tự Nhiên, Hiểu Tự Nhiên là Cứu Rỗi mình (Knowledge of Nature, as a way of Salvation), và chủ trương Theo Thiên Nhiên (Following the way of Nature). Cũng có người chủ trương theo tự nhiên là chết, đi ngược tự nhiên mới được trường sinh. (Thuận tắc tử, nghịch tắc Tiên). Biến chế Tự Nhiên Âu Châu dịch là Manipulation of Nature. (Xem Science and Civilisation in China, Vol. V, Joseph Needham, Index, nơi chữ Nature, tr. 541) Tôi tuyệt đối chủ trương ta không thể sống ngược với Thiên Nhiên được, nhưng phải nương theo Thiên Nhiên mà sống. Nếu dạy người đi ngược chiều hướng này là làm hại người mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn chấp nhận lời trên của Âm Phù Kinh. Câu Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên trong các sách luyện đơn là cốt dạy con người đi sâu vào phía Tâm Linh, chứ đừng để Tâm Thần phát tán ra ngoại cảnh, nhất là khi về già. Nghịch đây không phải là đi ngược Thiên Nhiên. * Chiều đi từ quẻ Phục cho tới quẻ Kiền thường được gọi là Chiều Nghịch. Chiều đi từ quẻ Cấu cho tới quẻ Khôn là chiều Thuận. Thuận là Thuận của phàm nhân; Nghịch là Thuận của Thánh Tiên. Âm Phù Kinh chủ trương: Bắt chước Trời mà hành sự, theo đúng cơ trời mà biến hóa, như vậy để cầu trường sinh. hay làm cho nước giàu dân mạnh, hay làm cho binh cường tướng mạnh để chiến thắng, tất cả đều là một nguyên tắc. (Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng.) (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh là: «Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.» (Âm Phù Kinh là sách Thánh Nhân thay Trời dạy huyền cơ Đạo Lý.) Thánh Nhân dụng tâm hết sức thâm trầm, thấy được Thiên Tính Bản Nhiên của mình, rồi theo đúng cơ vi, sống hợp nhất với lẽ Tự Nhiên. Nhìn vào lòng mình, theo đúng cơ vi Trời Đất, hiểu thế là hiểu rõ Âm Phù Kinh. «Thánh Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý. Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hĩ.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Thần Trời Đất với Thần trong ta là Một, nên khi hoạt động thời in như thần, khi tĩnh lặng thì có đủ Thần trong mình, mình và Thái Không là Một, mình với vạn hữu là bạn, Thể Tính của mình và Thể Tính của trời đất không có gì khác biệt, thế gọi là Đắc Đạo. «Thiên Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc Đạo.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh dạy ta lẽ Thiên Đạo và Nhân Tâm ám hợp với nhau, và muốn ta sống đúng theo Trời. «Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 333) Âm Phù Kinh xưa nay chỉ có hơn 300 chữ hay hơn 400 chữ. (SĐD, tr.333) Cộng thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phách thêm Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (SĐD, tr.333) Âm Phù Kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau. Và giải Âm là Âm, Phù là Phù Hợp. (SĐD, tr. 333) Âm Phù Kinh đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (SĐD, tr. 334) «Vạn vật hữu hình viết Âm, Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự Nhiên chi Đạo viết Kinh.» Lại nói: «Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã, Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (SĐD, tr. 334) Tôi dịch Âm Phù Kinh vì thấy một quyển sách nhỏ bé như vậy mà sao lại có nhiều danh nhân bình giải như thế. Tôi thấy những người như Lý Thuyên đời vua Đường Huyền Tông, ưa thích Đạo từ nhỏ, mới đầu Ông có được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Ông đọc cả ngàn lần mà vẫn không hiểu được thâm ý. Theo truyền thuyết thì Ông đã tới Ly Sơn và đã được một bà cụ dạy cho huyền nghĩa Âm Phù, Ông mới hiểu ý nghĩa Âm Phù. Sau đó Ông viết: Hoàng Đế Âm Phù Kinh Sớ, 3 quyển, Thái Bạch Âm Kinh, 10 quyển, Ly Sơn Lão Mẫu truyền Âm Phù huyền nghĩa, 1 quyển. Ông làm quan giữ chức Giang Lăng Tiết Độ Sứ phó Ngự Sử Trung Thừa. Ông là người có mưu lược, sau đó vào danh sơn qui ẩn, phục khí, tịch cốc, thanh tâm tu đạo, không rõ chết ra sao. Ông còn viết thêm ít sách khác. (Xem Du Tấn, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 97)