Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Hậu Margot - Alexandre Dumas

"Hoàng hậu Margot" là thiên tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu nhất Alexandre Dumas mà ngay khi ra đời đã gây tiếng vang lớn trong dư luận văn học ở Pháp và châu Âu lúc bấy giờ. Sau đó thiên tiểu thuyết này nhanh chóng được chuyển thành vở kịch lớn cùng tên, thu hút đông đảo người xem. Khi điện ảnh ra đời, tác phẩm đã được dựng thành phim và chiếu rộng rãi nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm "Hoàng hậu Margot", thông qua các chuyện tình éo le giữa hoàng hậu Margot với bá tước de Mole, cũng như giữa quận chúa de Nervers và bá tước de Coconnas, đã dựng lại một thời kỳ đẫm máu trong lịch sử nước Pháp vào giữa thế kỷ XVI. Đó là thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh tôn giáo cực kỳ tàn khốc giữa hai giáo phái Giatô và Tin lành. Đó cũng là thời kỳ tranh đoạt vương quyền quyết liệt trong nội bộ triều đình Pháp với đủ các mưu mô, thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm... Bạn đọc sẽ được gặp lại các nhân vật lịch sử có thật của thời đại đó: Thái hậu Catherine de Médicis, vua Charles IX, Henri de Navarre, quận công de Guise... mà nổi bật nhất trong số đó là Hoàng hậu Marguerite de Valois (Hoàng hậu Margot). Với tài năng sắc đẹp và trí tuệ phi thường của mình, hoàng hậu Margot đã đóng góp phần xứng đáng loại bỏ vai trò của dòng họ Valois lỗi thời và phản động để xác lập vương quyền cho Henri de Navarre, chồng mình, thuộc dòng họ Bourbon có phần tiến bộ hơn. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Tiếng Latinh của ông de Guise Từ ngày thứ hai, 18 tháng 8 năm 1572, lễ hội tưng bừng diễn ra tại cung điện Louvre. Trong những ngày ấy, tất cả các cửa sổ của toà Hoàng cung cổ kính đều được chiếu sáng rực rỡ thay cho cái vẻ âm u mà người ta vẫn thấy thường ngày. Nếu trước đây các quảng trường và phố xá đều vắng vẻ khi chuông đồng hồ ở Saint-Germain l Auxerrois mới điểm chín giờ tối, thì nay dù đã nửa đêm ở đó vẫn còn tấp nập, nhộn nhịp những đám thị dân. Trong bóng đêm, đó là những đám đông chen chúc, hỗn độn mang một vẻ dữ tợn như mặt biển tối sầm sôi động với những ngọn triều gầm réo. Những đợt triều đó, gồm hàng nghìn con người, tràn lên mặt kè sông, đổ vào các phố Fossés Saint-Germain, rồi dội vào chân tường điện Louvre, vào chân tường dinh thự de Bourbon. Nhưng có lẽ bắt nguồn ngay từ chính lễ hội này, một điều gì đó vừa bí ẩn vừa ghê gớm đang xuất hiện trong đám dân chúng này. Họ cảm thấy sự tưng bừng mà họ đang chứng kiến đây chỉ là màn giáo đầu cho một sự kiện nào đó vào tuần tới mà chính họ sẽ là những kẻ tham gia cuồng nhiệt nhất. Lẻ hội này chính là lễ thành hôn giữa công chúa Marguerite de Valois, con gái vua Henri II và là em vua Charle IX với Henri de Bourbon vua xứ Navarre. Sáng nay, trên một chiếc bục lớn trước cửa nhà thờ Đức Bà, Hồng y giáo chủ de Bourbon đã làm phép cưới cho đôi uyên ương theo đúng lễ nghi được dành riêng cho hôn lễ các công chúa nước Pháp. Đây là cuộc hôn nhân khiến hết thảy mọi người đều ngạc nhiên. Những người sáng suốt nhất cũng phải vắt óc suy đoán. Người ta không tài nào hiểu nổi vì sao phe Tân giáo và Cơ đốc giáo xưa nay vốn thù nghịch nhau giờ lại xích lại gần nhau đến như vậy. Làm sao ông hoàng Condé trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho quận công hoàng đệ d Anjou về việc cha ông bị tên Montesquiou ám sát tại Jarnac? Làm sao quận công de Guise trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho đô đốc de Coligny về việc cha mình bị Poltrot de Méré giết hại tại Orléans. Chưa hết! Cách đây chưa đầy hai tháng, hoàng hậu Jeanne de Navarre, người vợ can đảm của Antoine de Bourbon yếu đuối, người mẹ đã dẫn dắt con trai mình tới cuộc hôn nhân vương giả này, đã qua đời. Nhiều tin đồn kỳ lạ được lan đi quanh cái chết đột ngột đó. Khắp nơi dậy lên tiếng xì xầm, thậm chí còn có kẻ dám lớn tiếng cho rằng do bà đã phát giác được điều bí mật gì đó rất khủng khiếp nên Thái hậu Catherine de Médicis sợ bị tiết lộ, đã cho đầu độc bà bằng một đôi găng tay tẩm hương do một gã nào đó tên là René, người xứ Florence, vốn nổi tiếng khéo léo về các công việc loại này, chế tạo. Tiếng đồn ngày càng lan rộng và càng được khẳng định, vì sau khi bà hoàng vĩ đại này tạ thế, theo yêu cầu của con trai bà, hai thầy thuốc, trong đó có ông Ambroise de Paré nổi tiếng đã được phép mổ và nghiên cứu tử thi, trừ bộ não. Song thật oái oăm, vì Jeanne de Navarre đã bị đầu độc bằng đường khứu giác, nên chỉ có bộ não có thể để lại dấu vết của tội ác đó thì lại không được phép khám nghiệm. Người ta còn được biết vua Charle đã có một sự kiên trì đáng kinh ngạc đối với cuộc hôn nhân này đến mức được coi như một kẻ ương ngạch. Bởi vì xét cho cùng, ngoài việc đem lại hoà bình trong vương quốc, nó còn mở cửa để thu hút về Paris những thủ lĩnh Tân giáo chủ chốt, điều mà những người theo đạo Cơ đốc vẫn e ngại. Vì cặp tân hôn này, vợ thì theo đạo Cơ đốc, chồng thì theo Tân giáo, nên người ta buộc phải đề đạt tới Grégoire, là đấng tối cao tại Rome, xin được miễn trừ. Khi thấy lệnh miễn trừ đến chậm, Jeanne de Navarre tỏ ra rất lo ngại. Một hôm bà đã bày tỏ với Charle IX nỗi e ngại rằng lệnh miễn trừ có thể không đến thì được nhà vua trả lời: - Xin đừng quá e ngại, cô thân mến ạ! Cháu còn tôn trọng cô hơn cả đức giáo hoàng và yêu quý em gái cháu hơn là cháu lướng. Tuy cháu không phải là người Tân giáo nhưng cháu cũng không phải là thằng ngốc và nếu cái ông giáo hoàng ấy quá đần thì đích thân cháu sẽ cầm tay Margot đến cưới con trai cô giữa những lời giảng kinh Tân giáo. Lời đó lập tức được truyền từ cung Louvre tới khắp thành phố, làm hả lòng hả dạ những người Tân giáo đồng thời khiến những người Giatô phải hậm hực, suy nghĩ. Những người này đang tự hỏi xem liệu có phải nhà vua đã thực sự phản lại họ không hay ông ta chỉ đóng một tấn tuồng mà một sớm một chiều nó sẽ được kết thúc một cách hết sức bất ngờ. Đối với Charle IX, nhiều điều thật không giải thích nổi, nhất là thái độ của ông đối với đô đốc de Coligny, người đã điên cuồng chống lại nhà vua trong suốt năm, sáu năm nay. Và cũng trong thời gian đó, Charle IX đã từng treo giá cái đầu ông này một trăm năm mươi ê quy vàng. Ấy thế mà nay nhà vua chỉ tin dùng có mỗi mình ông ta, lại còn gọi ông ta là cha và cao giọng tuyên bố rằng từ nay trở đi chỉ có ông ta là người xứng đáng được quyền điều khiển chiến cuộc. Đến nỗi Thái hậu Catherine de Médicis, người điều khiển chính các hành động, ý đồ, thậm chí cả nguyện vọng của nhà vua trẻ tuổi này, cũng phải tỏ ra lo ngại thực sự. Điều lo ngại này không phải là vô căn cứ, vì trong một lúc thổ lộ tâm tình, Charle IX đã bày tỏ với đô đốc về cuộc chiến ở Flandres như sau: - Thưa cha, có một điều phải lưu ý: đó là Thái hậu. Như cha đã biết, bà ta cứ muốn dúng mũi vào mọi việc. Hiện nay bà ta còn chưa biết tí gì về việc này. Chúng ta phải giữ kín để bà ta mù tịt, vì con biết lúc nào bà ta cũng cứ sôi sục lên, bà ta sẽ làm hỏng việc mất. Dù lõi đời và khôn ngoan đến mấy, Coligny cũng khó mà nghi ngờ một sự tin cậy hoàn toàn đến như vậy. Trước đó, ông đến Paris lòng đầy nghi kỵ và trước khi ông rời Châtillon, một bà già nông dân đã quỳ sụp xuống chân ông kêu khóc: "Ôi, thưa ngài, ông chủ tốt bụng của chúng con, xin người đừng đi Paris. Nếu người tới đó, người sẽ chết cùng với tất cả những ai đi theo người". Nhưng rồi nỗi nghi ngại trong ông cũng dần dần tan biến. Nó cũng tan biến đối với Téligny, con rể ông, người được nhà vua ban cho những ân sủng đặc biệt, được nhà vua gọi là người anh em và xưng hô cậu cậu tớ tớ như ông thường cư xử với những người bạn thân nhất của mình. Vì vậy trừ một vài kẻ còn định kiến và đa nghi, hết thảy những người Tân giáo đều cảm thấy yên lòng. Cái chết của cố hoàng hậu Jeanne de Navarre được coi là hậu quả của bệnh sưng màng phổi. Trong những gian phòng rộng lớn ở Louvre tràn ngập những người Tin lành với lòng tin tưởng rằng, nhờ cuộc hôn nhân của thủ lĩnh Henri trẻ tuổi, họ sẽ được quay lại cái thời giàu sang phú quý. Đô đốc de Coligny, La Rochefoucault, ông hoàng Condé, Téligny, tóm lại là tất cả những nhân vật đầy thế lực của giáo phái này, những người mà ba tháng trước đây vua Charle và Thái hậu Catherine đã nhăm nhăm muốn treo cổ, đều hoan hỉ thấy mình được nghênh tiếp trọng thể và bỗng chốc trở nên đầy thế lực ở Paris. Chỉ còn Thống chế Monmorency là người duy nhất không tài nào tin được sự hoà hợp lạ lùng này. Không một lời hứa hẹn nào có thể làm xiêu lòng ông, không một sự giả dối nào có thể che được mắt ông, cho nên ông vẫn một mực ẩn dật trong lâu đài của mình ở Isle - Adam, viện cớ rằng vẫn còn đau buồn về cái chết của thân phụ mình là nguyên soái Andre Monmorency bị Robert Stuart giết bằng một phát súng lục tại trận Saint-Denis. Nhưng cứ xét sự kiện này xảy ra đã trên ba năm nay và tính đa cảm là một thứ đạo đức không mấy hợp thời thượng, nên chẳng mấy ai tin tưởng vào cái chuyện chịu tang quá đỗi lâu ngày như vậy. Vả chăng, cứ trông vào mọi sự đang diễn ra cũng khiến cho cử chỉ đó của thống chế Monmorency thành sai trái: Nhà vua, thái hậu, quận công d Anjou và quận công d Alençon hết lòng thù tạc tiếp khách khứa trong ngày hội của Hoàng gia. Quận công d Anjou nhận được từ chính những người Tân giáo những lời khen ngợi xững đáng về hai trận đánh ở Jarnac và Moncontour mà ở đó ông đã giành được thắng lợi trước khi tròn tuổi mười tám, về mặt này ông còn trẻ hơn cả Cédar và Alecxandre. Quận công d Alençon nhìn tất cả những điều trên với con mắt vờ vĩnh đầy ve vuốt của mình. Thái hậu Catherine vui mừng rạng rỡ và tràn trề vẻ ân cần. Bà hết lời khen ngợi ông hoàng Henri de Condé về cuộc hôn nhân mới đây của ông ta với Marie de Clevơ. Cuối cùng là chính ông de Guise lại mỉm cười với những kẻ kình địch dữ dội của tộc họ và quận công de Maten thao thao bàn với ông de Tavan và đô đốc về cuộc chiến tranh, hơn lúc nào hết, đang cần phải được tuyên bố chống Philip II. Ở giữa những nhóm người nói trên nổi bật lên một người. Người đó đang đi đi lại lại, đầu hơi nghiêng nghiêng và với đôi tai tinh tường đã thâu tóm được tất cả mọi chuyện. Đó là một chàng trai khoảng mười chín tuổi, cặp mắt sắc sảo, tóc đen cắt ngắn, lông mày rậm, mũi khoằm như mỏ chim ưng, có nụ cười tinh quái, mặc dù râu cằm và ria mép mới chớm mọc. Chàng mới nổi bật nhờ trận đánh d Arnay le Duc, nơi chàng đã tỏ ra gan dạ đến mức liều lĩnh. Chàng nhận được hết lới khen ngợi này đến lời ca tụng khác. Chàng chính là học trò yêu của Coligny và là người hùng trung tâm của lễ hội. Ba tháng trước đây, tức là lúc thân mẫu chàng chưa băng hà, người ta gọi chàng là hoàng tử xứ Bearn, hiện nay người ta gọi chàng là vua xứ Navarre trong khi chờ đợi để rồi sẽ gọi chàng là vua Henri đệ tứ. Tuy vậy, thỉnh thoảng một áng mây u tối lướt nhanh qua vầng trán chàng. Chắc là chàng chưa quên cách đây mới hai tháng thôi, mẹ chàng đã lìa đời, và hơn ai hết, chàng vẫn ngờ rằng mẹ mình bị đầu độc Nhưng áng mây u tối đó chỉ thoáng lướt qua vì những kẻ chuyện trò với chàng, những kẻ tâng bốc chàng, những kẻ đang kề vai sát cánh với chàng chẳng phải ai xa lạ mà chính là những kẻ đã ám hại mẹ chàng: bà Jeanne d Albert(1) dũng cảm. Cách vua xứ Navarre vài bước, quận công de Guise trẻ tuổi, với vẻ tư lự và lo âu đang chuyện gẫu với Téligny trong lúc ông này tỏ ra vui vẻ và cởi mở. So với anh chàng người Bearn, quận công vẫn còn may mắn hơn. Mới hai mươi hai tuổi mà tiếng tăm của ông đã nổi như cồn, gần được như cha ông là Françoise de Guise vĩ đại. Quận công là một lãnh chúa tao nhã, cao lớn, ánh mắt đầy tự hào pha lẫn kiêu ngạo, với cái vẻ đường bệ bẩm sinh khiến người ta có cảm giác rằng bên cạnh ông, những ông hoàng khác nom chỉ như những gã tiện dân. Mặc dù còn trẻ, ông vẫn được những người Gia tô giáo tôn làm thủ lĩnh của họ, cũng giống như những người Tin lành(2) coi Henri de Navarre là thủ lĩnh của mình. Thoạt tiên, quận công mang tước hiệu hoàng từ xứ Goanhvin và tham chiến lần đầu trong cuộc vây hãm Orléans dưới quyền chỉ huy của cha mình. Chính cha ông đã ngã gục trên cánh tay ông, trước khi chết còn kịp chỉ cho ông thấy đô đốc Coligny là kẻ ám hại mình. Cũng như Anibal, quận công đã nghiêm trang thề trước vong linh cha: nhất quyết báo thù đô đốc Coligny cùng cả nhà ông ta, quyết tróc nã, tiêu diệt những kẻ cùng giáo phái với đô đốc đến kẻ cuối cùng mới thôi, vì quận công đã tự phong cho mình làm thiên thần báo oán của Chúa. Vị hoàng thân này đã làm dấy lên một sự ngạc nhiên quá mức khi người ta tận mắt thấy ông, người vốn rất trung thành với lời thề của mình, nay lại chìa tay ra với kẻ thù muôn kiếp, hơn thế lại còn chuyện trò thân mật với con rể của con người mà ông ta sẽ quyết giết như đã hứa với người cha hấp hối. Buổi tối này quả thực đầy những sự việc đáng ngạc nhiên. Thực tế, nếu có biệt tài tiên đoán được mọi sự kiện của tương lai (mà may thay con người lại không có), nếu có khả năng đọc được những điều sâu kín trong lòng người mà chỉ Chúa mới nắm được, thì người quan sát nào được may mắn dự buổi lễ hội này chắc chắn sẽ cực kỳ khoái trá trước cảnh tượng kỳ dị nhất về tấn trò đởi mà sử sách đã từng nói tới. Nhưng cái người quan sát ấy lại không có mặt trong những sảnh phòng bên trong cung Louvre, mà chỉ tiếp tục đứng ngoài phố, nhìn lễ hội với cặp mắt nảy lửa và với giọng gầm gừ đe doạ. Người quan sát ấy chính là quần chúng. Với cái linh cảm được mài sắc ấy một cách kỳ diệu bởi nỗi căm thù, quần chúng theo dõi từ xa bóng của những kẻ thù không đội trời chung của họ và thể hiện các cảm tưởng của mình một cách rõ ràng như một người điếc tò mò đứng xem người ta nhảy múa. Âm nhạc tạo ra nhịp điệu và làm say lòng người nhảy nhưng người điếc thì chỉ thấy đó là những động tác hết sức lố lăng. Cái tiếng nhạc làm say sưa những người Tân giáo cũng chính là âm thanh tự mãn của dòng họ. Những ánh chớp lóe lên trong mắt thị dân Paris giữa đêm tối, đó là những ánh chớp của lòng căm thù, nó sẽ chiếu sáng cả tương lai. Mặc dù vậy trong cung cấm mọi việc vẫn tiếp diễn một cách vui vẻ. Lại thêm một màn khá ngoạn mục khiến hết thảy mọi người đều cảm thấy khá êm ái và huy hoàng: ấy là lúc vị hôn thê kiều diễm trẻ trung, sau khi gỡ chiếc áo choàng lễ phục dài sát đất và chiếc khăn voan, bước vào phòng lễ hội. Cùng sóng đôi với nàng là quận chúa de Nervers xinh đẹp, bạn chí cốt của nàng. Sau đó, anh nàng, vua Charle IX, đưa nàng đi giới thiệu với các đình thần quan trọng nhất trong số khách của ông ta. Vị hôn thê đó là con gái vua Henri II, viên ngọc của ngai vàng nước Pháp, Marguerite de Valois, người mà trong tình thân mật, nhà vua Charle IX chỉ gọi là cô em Margot của tôi. Chắc chắn từ xưa tới nay chưa có một sự tiếp đón nào lại xững đáng hơn sự tiếp đón mà người ta đang giành cho hoàng hậu mới xứ Navarre lúc này. Marguerite chưa đầy hai mươi tuổi mà đã trở thành đối tượng đề ca ngợi của hết thảy những thi sĩ. Người thì so sánh nàng với nữ thần Bình minh, kẻ thì ví nàng với Cythérée(3). Vẻ đẹp của nàng quả là nghiêng nước nghiêng thành trong cái triều đình mà Catherine de Médicis đã thu hút về tất cả những mỹ nhân như những tiên dung làm đắm đuối lòng người. Nàng có mái tóc đen, nước da sáng rỡ, mắt nhìn mê đắm ẩn sau hàng mi dài, đôi môi nhỏ đỏ thắm, cổ cao thanh tú, thân hình thon thả và mềm mại, bàn chân nhỏ nhắn như chân con trẻ của nàng ẩn trong đôi hài sa tanh. Những người Pháp coi nàng như quốc bảo, tự hào được thấy trên đất nước họ nở ra một bông hoa lộng lẫy đến thế. Những người nước ngoài đến nước Pháp không những loá mắt về sắc đẹp của nàng khi được nhìn nàng mà họ còn choáng ngợp về kiến thức của nàng nếu được nói chuyện với nàng. Bởi Marguerite không chỉ là người phụ nữ đẹp nhất thời đại mà nàng còn là người phụ nữ có học thức nhất. Người ta dẫn lại lời một nhà bác học Ý, sau khi được nàng tiếp chuyện trong một giờ bằng tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, đã bước ra và thốt lên trong niềm xúc động: "Được hội kiến với triều đình mà chưa được gặp Marguerite de Valois nghĩa là chưa nhìn thấy cả nước Pháp và chưa gặp triều đình". Cũng vì thế nên không thiếu những lời đàm tiếu nhằm vào vua Charle IX và hoàng hậu xứ Navarre. Về tài đàm tiếu của những người Tin lành thì khỏi phải bàn, vì vậy đã có nhiều lời ám chỉ quá khứ, nhiều ước đoán cho tương lai được khéo léo xen vào giữa những lời hô hào qui thuận nhà vua. Nhưng đối với tất cả những lời ám chỉ này, Charle chỉ trả lời với một nụ cười xảo quyệt trên đôi môi tái nhợt: - Khi trao cô em Margot của tôi cho Henri de Navarre, tôi đã trao trái tim mình cho tất cả những người Tin lành trong vương quốc. Đó là lời làm yên lòng kẻ này và khiến kẻ khác tủm tỉm cười, vì nó thực sự có hai nghĩa: một là theo nghĩa nhân ái, vì hắn Charle cũng không có ẩn ý gì trong câu nói thực lòng đó; hai - nó mang theo một nghĩa khác: nó nhằm lăng mạ cô dâu, chú rể và nhằm cả vào kẻ thốt ra câu nói đó. Thực ra câu nói này có thể gợi lại những điều tai tiếng âm ỉ do những kẻ sính tin đồn muốn tìm cách làm vấy lên tấm áo tân hôn của Marguerite de Valois. Trong lúc đó, de Guise vẫn đang chuyện trò với Téligny, nhưng ông không chú tâm lắm vào chuyện trò mà thỉnh thoảng lại ngoái đầu nhìn về nhóm các bà, các cô trong đó hoàng hậu xứ Navarre nổi bật lên rực rỡ. Mỗi khi ánh mắt của nàng bắt gặp cái nhìn của chàng quận công trẻ tuổi thì một áng mây mở lại lướt qua vầng trán duyên dáng được kết những ngôi sao bằng kim cương tạo nên một vầng hào quang lung linh của nàng và khi ấy một ý định mơ hồ nào đó được để lộ ra qua thái độ sốt ruột và xao xuyến của nàng. ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Hậu Margot của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Minh Đạo Nhân Sinh
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Minh Đạo Nhân Sinh của tác giả Christine Gross Loh & Michael Puett. Một buổi sáng nắng giòn tan vào mùa thu năm 2013, tôi tham dự một lớp triết học Trung Quốc tại Đại học Harvard. Tôi có mặt ở trường để viết một bài cho báo Atlantic để lý giải vì sao một lớp dạy về chủ đề phức tạp như vậy lại trở thành lớp phổ biến thứ ba ở trường này, đứng sau hai lựa chọn dễ đoán được đó là kinh tế học và khoa học máy tính. Giáo sư Michael Puett, một quý ông cao lớn, tràn đầy năng lượng ở độ tuổi bốn mươi, đứng trên bục sân khấu tại Nhà hát Sanders giảng bài sôi nổi trước hơn bảy trăm sinh viên. Anh khá cừ khôi trong việc thực hiện các bài giảng hấp dẫn mà không cần bất kỳ ghi chú hay file trình chiếu nào – suốt năm mươi phút liền chỉ thuần nói và nói. Sinh viên không được yêu cầu đọc bài viết nào khác trừ những tác phẩm được dịch sang tiếng Anh của chính các triết gia: Luận ngữ của Khổng Tử, Đạo đức kinh, hay các trước tác của Mạnh Tử. Họ không cần phải có bất kỳ kiến thức tiền đề hay mối quan tâm gì trước với lịch sử hay triết học Trung Quốc; họ chỉ cần cởi mở và sẵn lòng gắn bó với các tác phẩm cổ xưa này. Lớp học này nổi tiếng bởi lời hứa táo bạo mà mỗi năm giáo sư đều cam kết vào ngày đầu khóa: “Nếu bạn nghiêm túc lĩnh hội những tư tưởng trong các tác phẩm này, chúng sẽ thay đổi cuộc đời bạn”. Tôi lấy bằng tiến sĩ về lịch sử Đông Á tại Harvard, khi còn là học viên sau đại học, tôi từng tham gia giảng dạy cho các sinh viên đại học về triết học Trung Quốc. Thế nên tôi chẳng xa lạ gì các tác phẩm ấy. Nhưng khi nghe Michael giảng ngày hôm đó và suốt những tuần tiếp theo, tôi thấy anh đã đưa được những tư tưởng này vào cuộc sống theo cách mà trước giờ tôi chưa từng trải nghiệm. Anh yêu cầu sinh viên không phải chỉ đánh vật với ý tưởng của các nhà tư tưởng mà còn phải để cho những ý tưởng ấy thách thức những giả định cơ bản của họ về chính mình và về thế giới họ đang sống. Michael giảng về triết học Trung Quốc tại các trường đại học và tổ chức khác trên toàn thế giới. Sau mỗi bài nói chuyện, mọi người luôn tìm đến anh, thiết tha muốn biết làm thế nào để có thể áp dụng những ý tưởng này vào cuộc sống của họ và các vấn đề thực tế như: mối quan hệ, nghề nghiệp, những mâu thuẫn trong gia đình. Đó là vì họ nhận ra những nguyên tắc này cho thấy một góc nhìn mới mẻ về một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa là thế nào; một quan điểm mâu thuẫn với rất nhiều điều họ vẫn cho là đúng. Đó là một cách nhìn đã tác động đến nhiều người theo hướng tốt đẹp hơn. Các sinh viên của Michael đã chia sẻ với tôi những câu chuyện rằng cuộc sống của họ đã thay đổi thế nào nhờ những tư tưởng này. Một số người bảo tôi họ đã thay đổi cách nhìn nhận về các mối quan hệ, bây giờ họ mới nhận ra rằng những hành động nhỏ nhất cũng gây ra một hiệu ứng lan tỏa tới bản thân họ và mọi người xung quanh. Như một sinh viên đã giải thích: “Giáo sư Puett đã mở ra cánh cửa đến với con đường khác biệt trong sự tương tác với thế giới quanh tôi, quá trình xử lý cảm xúc của tôi, kiến tạo bản thân tôi và cả những người khác, một cảm giác điềm tĩnh mà trước giờ tôi chưa từng cảm nhận được”. Những người trẻ thành công được định vị để trở thành những nhà lãnh đạo tương lai trong bất kỳ nghề nghiệp nào họ theo đuổi ấy cho tôi biết những tư tưởng này đã thay đổi cách họ tiếp cận với các quyết định lớn trong cuộc sống và quỹ đạo riêng của họ như thế nào. Dù họ quyết định đi theo con đường tài chính hay nhân loại học, luật hay y học, thì những tư tưởng này cũng trang bị cho họ những công cụ khác và một thế giới quan khác với những gì họ từng biết, mở ra một cánh cửa mới về mục đích của cuộc sống và những khả năng vô hạn của nó. Một sinh viên đã nói với tôi: “Quá dễ để có tư duy rằng bạn đang xây dựng một mục tiêu tối hậu nào đó và đang từng bước leo đến kết cuộc tốt đẹp của một giấc mơ – dù mục tiêu đó là một danh vọng hay vị trí trong cuộc đời. Nhưng đây thật sự là một thông điệp có sức ảnh hưởng mạnh mẽ: khi sống theo một cách khác, bạn sẽ tự khai mở cho mình những khả năng mà bạn không bao giờ tưởng tượng là mình có thể”. Và không phải chỉ những tác phẩm triết học ấy thôi đã định hình được các sinh viên. Chính bản thân Michael mới là nguồn cảm hứng. Anh được biết đến bởi sự ân cần, khiêm tốn và tận tâm giúp sinh viên của mình phát triển: những đặc điểm khởi nguồn trực tiếp từ hàng thập niên đắm chìm trong tư tưởng Trung Quốc của anh. “Thầy là hiện thân hoàn hảo cho những bài giảng”, một sinh viên đã nói. Vậy trong những triết lý ấy có gì mà gây tác động to lớn đến vậy với những người nghiên cứu chúng? Không có tư tưởng nào trong số đó bảo bạn “chấp nhận và trân trọng bản thân”, “tìm ra chính mình”, hay phải làm theo một loạt chỉ dẫn để đạt được mục tiêu cụ thể. Trên thực tế, chúng chính là thứ đối chọi với kiểu tư duy đó. Chúng không cụ thể, không ra lệnh, cũng không đao to búa lớn. Thay vào đó, chúng thay đổi từ nền tảng theo những cách không thể đoán định hay hình dung ra trước. Một sinh viên lý giải rằng thật nhẹ nhõm biết bao khi nhận ra những gì chúng ta nghĩ là vốn dĩ và đã ăn sâu một cách thâm căn cố đế trong đầu thật ra không phải là vậy: “Bạn có thể áp dụng những thói quen mới và thật sự thay đổi cách bạn tiếp nhận thế giới, phản ứng lại với nó và tương tác với người khác. Tôi đã học được rằng có thể sử dụng sức mạnh của thói quen, hay 'lễ nghi', để đạt được những điều mà bạn không bao giờ nghĩ là mình có thể, dù bạn nghĩ mình là ai đi nữa”. Từ lâu, chúng ta đã nhìn nhận tư tưởng của người Trung Quốc qua những lăng kính sai lầm, có xu hướng cho rằng nó không thể thoát ra khỏi “một thế giới truyền thống” và vì thế cứ nghĩ nó chẳng liên quan gì đến cuộc sống đương đại của chúng ta. Nhưng như những sinh viên này có thể chứng thực, lời dạy của các triết gia Trung Quốc cổ đại buộc chúng ta phải đặt nghi vấn nhiều niềm tin mà chúng ta vẫn cho là hiển nhiên. Những tư tưởng của các vị về cách con người tiếp cận thế giới của hai ngàn năm trước – rằng làm thế nào chúng ta có thể gắn kết với người khác, đưa ra quyết định, đối phó với những thăng trầm cuộc sống, cố gây ảnh hưởng lên người khác, chọn lựa hướng đi cho đời mình – cũng phù hợp với ngày nay giống như hai ngàn năm trước vậy. Thực tế, chúng còn thích hợp hơn bao giờ hết. Michael và tôi nhận ra rằng có thể đưa những tư tưởng này đến với tất cả chúng ta, và đó là lý do cuốn sách này ra đời. Ở những trang tiếp theo, chúng tôi sẽ chỉ ra cho bạn thấy lời dạy của các triết gia Trung Quốc có thể khiến bạn suy nghĩ lại về bản thân và tương lai của mình như thế nào. - Christine Gross-Loh *** Khổng Tử. Mạnh Tử. Lão Tử. Trang Tử. Tuân Tử. Có thể bạn đã biết đến một số trong những tư tưởng gia này; cũng có những người hẳn bạn chưa từng nghe nói tới. Một viên quan trở thành thầy dạy học, dành cả cuộc đời để truyền dạy kiến thức cho một nhóm nhỏ môn đệ. Một người khác chu du từ vùng này sang vùng khác để cố vấn cho các quan lại địa phương. Một người nữa sau này được tôn là thần thánh. Cuộc đời và những trước tác của họ dường như đã quá mơ hồ và xa lạ với cuộc sống hiện đại của chúng ta. Rốt cuộc, những triết gia Trung Quốc sống hơn hai ngàn năm trước có thể dạy gì cho chúng ta về nghệ thuật sống? Nếu bạn từng nghĩ về họ, thì hẳn bạn nghĩ họ là những bậc hiền triết điềm tĩnh, phun châu nhả ngọc ra những lời vô vị hay ho về sự hài hòa và tự nhiên. Trong khi đó, ngày nay chúng ta hướng đến cuộc sống hiện đại, năng động, tự do. Giá trị, phong tục, công nghệ và văn hóa của chúng ta hoàn toàn khác họ. Nếu chúng tôi nói với bạn rằng mỗi người trong số những nhà tư tưởng này lại đưa ra một quan điểm sâu sắc khác thường về cách trở thành một con người tốt hơn và tạo ra một thế giới tốt hơn thì sao? Nếu chúng tôi nói với bạn rằng khi bạn nghiêm túc tiếp thu chúng, những tư tưởng trong các tác phẩm Trung Quốc kinh điển khác thường này có khả năng biến đổi cách bạn sống thì sao? Đó chính là chủ đề trọng tâm của cuốn sách này, rằng lời dạy của các triết gia Trung Quốc cổ đại đối với các vấn đề rất giống với chúng ta hiện nay sẽ cho ta những quan điểm hoàn toàn mới mẻ về cách để sống một cuộc đời tốt đẹp. Hầu hết chúng ta đều nghĩ mình đang làm đúng khi nhìn vào nội tâm, tìm ra chính mình và định đoạt cuộc đời chúng ta nên trở thành thế nào. Chúng ta tìm ra loại nghề nghiệp nào phù hợp nhất với tính cách và khuynh hướng của chúng ta. Chúng ta nghĩ về kiểu người nào sẽ phù hợp với mình. Và chúng ta nghĩ rằng nếu tìm ra những điều ấy – con người thật sự của chúng ta, nghề nghiệp mà chúng ta định theo đuổi và người bạn đời phù hợp – thì cuộc đời sẽ viên mãn. Chúng ta sẽ nuôi dưỡng con người bản chất của mình và lập ra một kế hoạch để được hạnh phúc, thịnh vượng và thỏa mãn bản thân. Dù chúng ta có nhận ra hay không, thì quan điểm về cách xây dựng một cuộc sống tốt đẹp như thế này đã khởi nguyên từ lịch sử, cụ thể là tư tưởng của những người theo thuyết Calvin* về vận mệnh tiền định thế kỷ 16, một “người được chọn”** và một Thiên Chúa sắp đặt kế hoạch cho từng người để đi theo. Những người theo thuyết Calvin chối bỏ các lễ nghi mà họ cho là rỗng tuếch và cứng nhắc, thay vào đó họ đề cao niềm tin thành khẩn vào Đấng Tối Cao này. Ngày nay, chúng ta không còn suy nghĩ theo kiểu số mệnh tiền định, theo kiểu “người được chọn”, thậm chí một số người trong chúng ta không còn nghĩ đến Thiên Chúa nữa. Nhưng phần lớn suy nghĩ của chúng ta hiện nay đều là di sản của những quan điểm Tin Lành thuở ban đầu ấy. * Thần học Calvin còn được biết đến là “Thần học cải cách”, được đặt theo tên của nhà thần học người Pháp Jean Calvin (1509 – 1564). Thần học Calvin hướng đến quyền tể trị tuyệt đối của Đức Chúa Trời và tin rằng Kinh thánh có thẩm quyền trên mọi vấn đề của đức tin. Năm luận điểm của Thần học Calvin bao gồm: Sa ngã toàn diện, Lựa chọn vô điều kiện, Sự chuộc tội có giới hạn, Ân điểm bất khả kháng, Sự gìn giữ các Thánh đồ. ** Luận điểm “Lựa chọn vô điều kiện” của Thần học Calvin cho rằng Thiên Chúa lựa chọn (không có điều kiện) một số người để cứu rỗi và định trước cho họ một số phận. Nhiều người hiện nay tin rằng mỗi người nên là một cá nhân duy nhất hiểu rõ chính mình. Chúng ta hiện tin rằng ta nên xác tín và trung thành với một chân lý, không phải một vị thần tối cao mà là với chính bản thân ta. Chúng ta mong muốn được sống theo đúng bản thân mình. Nhưng sẽ ra sao nếu những tư tưởng mà chúng ta tin rằng giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của mình thật ra lại đang giới hạn chúng ta? Chúng ta thường liên tưởng triết học với những tư tưởng trừu tượng, thậm chí vô tích sự. Nhưng sức mạnh của các nhà tư tưởng trong cuốn sách này nằm ở chỗ họ thường minh họa cho những lời dạy của mình bằng các khía cạnh bình thường, cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Họ tin rằng chính từ cấp độ thường ngày ấy lại dễ dẫn đến những thay đổi lớn, và một cuộc đời viên mãn sẽ bắt đầu. Khi chúng tôi nghiên cứu những nhà tư tưởng này, hy vọng của chúng tôi là bạn sẽ cho phép họ thách thức một số quan niệm mà bạn xem trọng nhất. Một số tư tưởng của họ có thể mang tính trực giác; và những tư tưởng khác thì không như thế. Chúng tôi không nhất thiết mong đợi rằng bạn sẽ đồng ý với mọi thứ bạn đọc. Nhưng chính cuộc gặp gỡ với những tư tưởng quá khác biệt so với tư tưởng của chúng ta sẽ giúp ta nhận ra rằng những giả định của chúng ta về việc sống thế nào cho tốt thật ra chỉ là một trong số rất nhiều cách khác nhau. Và một khi đã nhận ra điều đó, bạn không thể quay về cuộc sống trước đây của mình mà không có sự thay đổi nào. *** Tóm tắt Cuốn sách "Minh Đạo Nhân Sinh" của Christine Gross-Loh và Michael Puett là một cuốn sách về triết học Trung Quốc, tập trung vào các tác phẩm của Khổng Tử, Lão Tử và Mạnh Tử. Cuốn sách khám phá cách những tư tưởng này có thể áp dụng vào cuộc sống hiện đại, giúp chúng ta sống một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Review Cuốn sách được chia thành ba phần chính: Phần 1: Lễ nghi và đạo đức Phần này khám phá tầm quan trọng của lễ nghi và đạo đức trong triết học Trung Quốc. Lễ nghi được hiểu là những thói quen và hành vi được chấp nhận xã hội, trong khi đạo đức là những nguyên tắc hướng dẫn hành vi của chúng ta. Các tác giả chỉ ra rằng lễ nghi và đạo đức không chỉ là những quy tắc cứng nhắc mà còn là những công cụ giúp chúng ta kết nối với người khác và sống một cuộc sống có ý nghĩa. Phần 2: Bản chất con người Phần này khám phá cách triết học Trung Quốc nhìn nhận bản chất con người. Các tác giả chỉ ra rằng triết học Trung Quốc không coi con người là những cá nhân tách biệt mà là những phần tử của một mạng lưới phức tạp. Chúng ta được kết nối với nhau và với thế giới xung quanh bằng những mối quan hệ, và những mối quan hệ này định hình nên bản thân chúng ta. Phần 3: Sống một cuộc đời tốt đẹp Phần này khám phá cách chúng ta có thể áp dụng những tư tưởng của triết học Trung Quốc vào cuộc sống hàng ngày. Các tác giả chỉ ra rằng triết học Trung Quốc có thể giúp chúng ta sống một cuộc đời tốt đẹp hơn bằng cách giúp chúng ta: * Tạo dựng các mối quan hệ lành mạnh * Đưa ra quyết định có suy nghĩ * Đối phó với những thăng trầm của cuộc sống * Tìm thấy ý nghĩa và mục đích Đánh giá Cuốn sách "Minh Đạo Nhân Sinh" là một cuốn sách xuất sắc, cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về triết học Trung Quốc. Cuốn sách được viết một cách dễ hiểu và hấp dẫn, và các tác giả đã làm một công việc tuyệt vời trong việc giải thích những khái niệm phức tạp của triết học Trung Quốc. Cuốn sách này là một tài nguyên quý giá cho bất kỳ ai quan tâm đến triết học Trung Quốc hoặc muốn tìm hiểu cách sống một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Mặt mạnh Cuốn sách được viết một cách dễ hiểu và hấp dẫn, và các tác giả đã làm một công việc tuyệt vời trong việc giải thích những khái niệm phức tạp của triết học Trung Quốc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về triết học Trung Quốc. Cuốn sách có thể giúp người đọc sống một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Mặt yếu Cuốn sách có thể hơi dài và nhiều thông tin đối với một số người đọc. Kết luận Cuốn sách "Minh Đạo Nhân Sinh" là một cuốn sách xuất sắc, cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về triết học Trung Quốc. Cuốn sách này là một tài nguyên quý giá cho bất kỳ ai quan tâm đến triết học Trung Quốc hoặc muốn tìm hiểu cách sống một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Mời các bạn mượn đọc sách Minh Đạo Nhân Sinh của tác giả Christine Gross Loh & Michael Puett.
Chiếc Ngai Vàng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Chiếc Ngai Vàng của tác giả Lan Khai. Lan Khai (24 tháng 6 năm 1906 – 1945). Trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam trước năm 1945, Lan Khai được xem là một cây bút sung mãn, một nhà văn "đường rừng" sáng giá. Dù ở thể loại nào ngòi bút của ông vẫn thuyết phục được cảm tình và lý tính của độc giả. Đặc sắc nhất vẫn là ở lĩnh vực sáng tác hiện thực về đời sống miền núi. Mời các bạn đón đọc Tiểu thuyết lịch sử: Chiếc ngai vàng. *** Tóm tắt Chiếc ngai vàng là tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Lan Khai, viết về cuộc đời và sự nghiệp của vua Hùng thứ 18, An Dương Vương. Tác phẩm được chia thành 12 chương, kể về cuộc đời của An Dương Vương từ khi còn là một thiếu niên, đến khi trở thành vua Hùng, rồi đến khi thất bại trước quân xâm lược Triệu Đà. Đánh giá Chiếc ngai vàng là một tiểu thuyết lịch sử xuất sắc, được đánh giá cao về mặt nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm đã tái hiện một cách chân thực và sinh động lịch sử nước ta thời Hùng Vương, đặc biệt là cuộc đời và sự nghiệp của An Dương Vương. Về mặt nội dung, Chiếc ngai vàng đã khắc họa một cách sâu sắc và cảm động hình tượng của An Dương Vương - một vị vua anh minh, dũng cảm nhưng cũng mắc sai lầm đáng tiếc. Tác phẩm đã thể hiện niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Về mặt nghệ thuật, Chiếc ngai vàng có lối viết hấp dẫn, lôi cuốn, kết hợp hài hòa giữa yếu tố lịch sử và yếu tố nghệ thuật. Tác phẩm sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như: miêu tả, kể chuyện, đối thoại,... để khắc họa nhân vật và sự kiện một cách sinh động. Chiếc ngai vàng là một tác phẩm văn học có giá trị, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam. Một số nhận xét của độc giả về tác phẩm "Chiếc ngai vàng là một tiểu thuyết lịch sử hay và ý nghĩa. Tác phẩm đã giúp tôi hiểu thêm về lịch sử nước ta thời Hùng Vương, đặc biệt là cuộc đời và sự nghiệp của An Dương Vương." "Chiếc ngai vàng là một tác phẩm văn học xuất sắc, được viết với lối văn hấp dẫn, lôi cuốn. Tôi rất thích tác phẩm này." "Chiếc ngai vàng là một tác phẩm văn học giàu giá trị nhân văn. Tác phẩm đã thể hiện niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân dân ta." Kết luận Chiếc ngai vàng là một tiểu thuyết lịch sử hay và ý nghĩa, xứng đáng được bạn đọc đón nhận. Mời các bạn mượn đọc sách Chiếc Ngai Vàng của tác giả Lan Khai.
Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn - Dominique Loreau Sinh ra và lớn lên tại Pháp, nhưng vì luôn tò mò về những đất nước khác trên thế giới, tôi đã quyết tâm đi đây đi đó trong những năm tháng sinh viên. Mười chín tuổi, tôi làm trợ giảng tại Anh và hai mươi bốn tuổi, tôi theo học đại học tại Missouri, Mỹ. Tôi cũng khám phá gần như toàn bộ các bang khác của Mỹ, cùng với Canada, Mexico và các nước Trung Mỹ. Khi tham quan Vườn Trà Nhật Bản tại công viên Cổng Vàng của San Francisco, tôi tha thiết muốn tìm ra cội nguồn của vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Vậy là tôi tới Nhật Bản, một đất nước luôn cuốn hút tôi đến mức không từ ngữ nào có thể diễn tả được. Tôi đến Nhật Bản và ở lại đó. Việc trải nghiệm hai nền văn hóa hoàn toàn khác biệt nhau gợi lên sự tự vấn không ngừng trong tôi. Tôi bắt đầu tìm kiếm một cách sống hoàn hảo. Và bằng quá trình loại bỏ dần dần, tôi bắt đầu hiểu rằng theo đuổi sự giản dị là con đường đúng đắn dành cho mình, để sống thoải mái và có một tâm hồn thanh thản. Tại sao lại là Nhật Bản? Tôi thường được hỏi khi kể với mọi người rằng mình đã sống ở đây hơn ba mươi năm. Và cũng như tất cả những người đã chọn Nhật Bản là quê hương thứ hai, tôi trả lời: Nhật Bản là niềm say mê, là sự cần thiết sâu thẳm trong tim. Tôi cảm thấy dễ chịu, bị mê hoặc, thậm chí cho đến tận bây giờ, bởi viễn cảnh mỗi ngày là một khám phá thú vị mới. Trong nhiều năm, tôi luôn bị Thiền Nhật Bản và các hình thức biểu thị của nó như tranh thủy mặc, đền đài, những khu vườn, suối nước nóng, nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản (ikebana)... lôi cuốn. Tôi quả thực rất may mắn, khi sớm được gặp một bậc thầy về tranh thủy mặc (sumi-e) và dành trọn mười năm để học hỏi không chỉ về nghệ thuật tranh thủy mặc nói riêng mà còn về quan niệm rất Nhật Bản đằng sau môn nghệ thuật ấy: thái độ chấp nhận tất cả những gì cuộc sống ban tặng mà không cần phải phê phán, phân tích hay giải thích. Nói một cách đơn giản, tranh thủy mặc là một sự thể hiện của cách sống Thiền. Tôi dạy tiếng Pháp tại một viện đại học Phật giáo và tham gia một khóa tu tập tại Thiền viện Aichi Senmon Niso-do ở Nagoya. Khi rời khỏi đó, tôi mới hiểu hơn bao giờ hết, đằng sau nét hiện đại của đất nước, vẻ bề ngoài công nghệ cao là một triết lý sống được truyền từ đời xưa, thấm nhuần trong mọi khía cạnh của cuộc sống tại Nhật Bản đến từng chi tiết nhỏ bé nhất. Càng hiểu về nước Nhật, tôi càng nhận thức được tính tích cực và giá trị bồi đắp của sự giản dị: một nguyên tắc mà những triết gia cổ điển, những vị thánh Cơ Đốc giáo, các đại sư Phật giáo và những vị hiền triết Ấn Độ đã nỗ lực truyền bá hàng thế kỷ, để chúng ta có thể sống tự do mà không bị gò bó bởi định kiến, áp lực và gánh nặng đang làm sao nhãng sự tập trung của chúng ta, gây ra các hội chứng căng thẳng. Sự giản dị mang đến giải pháp để giải quyết rất nhiều vấn đề. Tuy nhiên, học cách sống đơn giản lại không hề đơn giản chút nào. Tôi đã trải nghiệm một quá trình biến đổi dần dần, nhu cầu sống một cuộc sống với ít vật dụng hơn ngày một tăng lên và bù lại, tôi cảm thấy mình nhẹ nhõm hơn, tự do hơn, cơ động hơn và, tất nhiên, tinh tế hơn. Từng chút một, tôi nhận ra rằng khi giảm bớt hành trang, những gì tôi đã bỏ lại dường như càng ít quan trọng đi. Chúng ta thật sự cần rất ít để tồn tại. Và vì thế, tôi đã giác ngộ một chân lý uyên thâm rằng, càng sở hữu ít đồ vật hơn, chúng ta càng cảm thấy tự do và trưởng thành. Tôi cũng hiểu được sự cần thiết của lời cảnh báo: chủ nghĩa tiêu dùng, tính trì trệ (cả về thể chất và tâm lý) và sự tiêu cực luôn chực chờ để đánh gục chúng ta mỗi khi nản chí. Cuốn sách này tập hợp những ghi chép trong nhiều năm sống tại Nhật Bản của tôi, lưu giữ và tổng hợp những trải nghiệm, những điều bất ngờ mà tôi gặp quá trình đọc và suy ngẫm, một sự biểu thị của lý tưởng cá nhân, một tín ngưỡng, quy tắc hành xử, một lối sống mà tôi rất muốn duy trì và luôn nỗ lực để thực hành. Tôi giữ tất cả những cuốn sổ ghi chép của mình, mang chúng theo mỗi khi đi đây đó, như là kim chỉ nam nhắc nhở tôi về những điều mà tôi thường quên hoặc không thực hành. Chúng mang đến cho tôi cảm giác dễ chịu, là sự khẳng định và cũng là cội nguồn của niềm tin nội tâm khi cả thế giới bên ngoài dường như đang trở nên xiên lệch. Những cuốn sổ ghi chép là kho báu chứa đựng những lời khuyên và bài tập thực hành mỗi khi cần thiết để thấm nhuần, thích nghi với những thách thức mới, với sự thay đổi về nhu cầu, khả năng và tình huống (bạn sẽ tìm thấy chỗ để tự ghi chép ở trang 307). Chúng ta mới chỉ mới bắt đầu nhận thức về nguy cơ của sự thừa thãi và dư dả vật chất. Ngày càng có nhiều người kiếm tìm niềm vui và lợi ích của cách sống đơn giản hơn, gần gũi với thiên nhiên hơn và vượt lên trên sự cám dỗ để sáng tạo ra những phong cách sống mới hiện đại, nhiều ý nghĩa. Cuốn sách này dành cho tất cả những độc giả như thế. Tôi hy vọng rằng, cuốn sách sẽ giúp quảng bá sự hiểu biết đúng đắn về nghệ thuật sống tối giản như một cách sống viên mãn thật sự. *** Tóm tắt Cuốn sách Nghệ thuật tối giản - Có ít đi, sống nhiều hơn của Dominique Loreau là một cẩm nang hướng dẫn về cách sống tối giản, được tác giả đúc kết từ những trải nghiệm của bản thân trong nhiều năm sống tại Nhật Bản. Theo tác giả, sống tối giản không có nghĩa là sống thiếu thốn, mà là sống với những gì thật sự cần thiết, để có được sự tự do, bình yên và hạnh phúc trong tâm hồn. Cuốn sách được chia thành ba phần chính: Phần 1: Tối giản vật chất Phần này đề cập đến những lợi ích của việc tối giản vật chất, chẳng hạn như: * Giảm bớt căng thẳng và lo lắng * Tăng cường sự tự do và chủ động * Cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần Tác giả cũng đưa ra một số lời khuyên cụ thể để giúp độc giả bắt đầu thực hiện lối sống tối giản, chẳng hạn như: * Tách biệt bản thân khỏi những thứ không cần thiết * Tạo ra một không gian sống gọn gàng, ngăn nắp * Tập trung vào những trải nghiệm hơn là vật chất Phần 2: Tối giản tâm trí Phần này đề cập đến những cách để tối giản tâm trí, chẳng hạn như: * Học cách chấp nhận * Tập trung vào hiện tại * Tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn Tác giả cũng chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình tối giản tâm trí, chẳng hạn như: * Học cách chấp nhận những điều không thể thay đổi * Tập trung vào những điều tích cực trong cuộc sống * Tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn thông qua thiền định Phần 3: Tối giản mối quan hệ Phần này đề cập đến những cách để tối giản mối quan hệ, chẳng hạn như: * Loại bỏ những mối quan hệ độc hại * Tập trung vào những mối quan hệ có ý nghĩa * Tạo ra sự cân bằng trong các mối quan hệ Tác giả cũng đưa ra một số lời khuyên cụ thể để giúp độc giả cải thiện các mối quan hệ của mình, chẳng hạn như: * Loại bỏ những mối quan hệ không mang lại giá trị * Tập trung vào những mối quan hệ có ý nghĩa * Tìm kiếm sự cân bằng trong các mối quan hệ Đánh giá Cuốn sách Nghệ thuật tối giản - Có ít đi, sống nhiều hơn là một cuốn sách hữu ích và dễ đọc, cung cấp cho độc giả những thông tin và lời khuyên thực tế để bắt đầu thực hiện lối sống tối giản. Tác giả đã chia sẻ những trải nghiệm và quan điểm của bản thân một cách chân thành và gần gũi, giúp độc giả hiểu rõ hơn về những lợi ích của lối sống tối giản. Cuốn sách phù hợp với những độc giả đang tìm kiếm một lối sống đơn giản, bình yên và hạnh phúc hơn. Một số câu nói hay trong sách "Sống tối giản không có nghĩa là sống thiếu thốn, mà là sống với những gì thật sự cần thiết." "Khi chúng ta sở hữu ít hơn, chúng ta sẽ có nhiều thời gian hơn để dành cho những thứ quan trọng." "Tối giản không chỉ là một lối sống, mà còn là một cách suy nghĩ." "Tối giản không phải là một mục tiêu, mà là một hành trình." Kết luận Cuốn sách Nghệ thuật tối giản - Có ít đi, sống nhiều hơn là một cuốn sách đáng đọc dành cho những ai đang tìm kiếm một lối sống đơn giản, bình yên và hạnh phúc hơn. Mời các bạn mượn đọc sách Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn của tác giả Dominique Loreau.
Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman. CÓ BAO GIỜ BẠN TỰ HỎI... Ấn tượng bạn để lại trong lòng cấp trên của bạn như thế nào? Bạn có nên tin vào những điều cấp trên đã hứa hay không? Bạn đang nuôi dưỡng mối quan hệ với một khách hàng tiềm năng, hay đang lãng phí thời gian của bản thân? Liệu các thành viên trong nhóm có hiểu những gì bạn nói hay không? Làm thế nào để biết rằng anh ấy/cô ấy thật sự ủng hộ ý kiến của bạn? Khán giả đang chán ngán, thất vọng, hay thích thú với những gì bạn đang trình bày? Lời đáp cho những câu hỏi trên đang ở ngay trước mắt bạn. Bạn biết đấy, chính ngôn ngữ là phương tiện được dùng để chuyển tải thông điệp trong công việc cũng như trong giao tiếp thường ngày. Tuy nhiên, có những điều không phải lúc nào cũng được nói ra bằng ngôn ngữ. Chẳng hạn, cấp trên của bạn nói rằng cô ấy sẽ xem xét việc thăng chức cho bạn, nhưng trong khi nói, cô ấy lại khoanh tay và mỉm cười gượng gạo. Rõ ràng hai thông điệp mà cô ấy đưa ra hoàn toàn trái ngược nhau. Tương tự, nếu một khách hàng nói với bạn rằng ông ấy không quan tâm tới chuyện mua xe mới, nhưng ánh mắt ông ấy lại không rời bản hợp đồng trên bàn thì điều đó nghĩa là ông ấy thực sự muốn có một chiếc xe mới. Dấu hiệu của giao tiếp không lời thường tiết lộ những động cơ và cảm xúc ẩn chứa bên trong như sự sợ hãi, lòng trung thực, niềm vui, sự do dự, nỗi thất vọng và hơn thế nữa… Những cử chỉ nhỏ nhặt nhất, như cách đồng nghiệp của bạn đứng hoặc bước vào phòng cũng cho thấy sự tự tin, thận trọng hoặc độ tin cậy nơi họ. Rồi, cách bạn ngồi, đứng hoặc cách bạn nhìn người khác cũng hé lộ phần nào trạng thái cảm xúc trong con người bạn. Bạn là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Ngay từ lúc lọt lòng, tôi đã là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Có thể bạn sẽ ngạc nhiên về điều này. Nhưng, giống như tôi – bạn cũng là một chuyên gia như vậy. Khi còn là trẻ sơ sinh, chúng ta đã biết biểu lộ nhiều nét mặt khác nhau để thể hiện tâm trạng và nhu cầu của bản thân. Chúng ta biết chỉ đúng những vật mình thích, biết kết nối với mẹ qua ánh mắt yêu thương. Lớn hơn một chút, chúng ta biết tiếp thu những cử chỉ và biểu hiện phù hợp với truyền thống văn hóa trong gia đình. Rồi khi trưởng thành, chúng ta học cách chọn lọc (và che đậy) những dấu hiệu mình muốn hoặc không muốn. Tất cả những điều đó được thực hiện một cách vô thức. Đối với tôi, từ khi tôi theo học chương trình cao học và chuẩn bị trở thành nhà trị liệu thì việc thực hiện những dấu hiệu không lời đã không còn là vô thức nữa. Tôi bắt đầu để ý tới các cử chỉ mà mình thể hiện hoặc bắt gặp trong giao tiếp. Việc tham gia giảng dạy chương trình Ngôn ngữ Thần kinh học và Phương pháp Erickson trong thôi miên và liệu pháp tâm lý đã dạy tôi cách quan sát những chuyển động mắt, những biểu hiện trên gương mặt và những cử chỉ cơ thể nhằm khám phá sự đồng thuận hay phản kháng ẩn chứa bên trong chúng. Khi tôi bắt đầu tư vấn cho nhiều tổ chức thương mại và diễn thuyết trước đông đảo khán giả trong và ngoài nước, tôi chú ý hơn tới ngôn ngữ cơ thể mình, sao cho mọi cử chỉ, tư thế, và biểu hiện của tôi đều phản ánh chính xác thông điệp mà tôi muốn truyền tải. Sau này, tôi truyền lại ý tưởng và kỹ thuật đó cho các nhân viên và các nhà quản lý mà tôi đào tạo. Trước khi cho ra đời cuốn sách này, tôi đã tìm hiểu hầu hết những tiến bộ gần đây trong nhiều lĩnh vực. Các nhà nghiên cứu thuộc ngành tâm lý học, thần kinh học, y học, xã hội học, nhân chủng học và giao tiếp học đã chia sẻ với tôi phương pháp và suy nghĩ của họ trong lĩnh vực giao tiếp không lời. Nhờ những đóng góp ấy, tôi hiểu hơn vì sao và làm thế nào ngôn ngữ hình thể lại có được sức mạnh kỳ diệu đến như vậy. Ngôn ngữ hình thể nơi công sở Hiểu rõ vai trò của ngôn ngữ hình thể trong các hoạt động thường ngày là việc hết sức quan trọng. Rất nhiều nhân viên, nhà quản lý chỉ vì không đọc được dấu hiệu ngôn ngữ cử chỉ của đối phương, hoặc không nhận ra sự khác biệt về văn hóa khi đưa ra cử chỉ, khiến cho mọi nỗ lực trong mối quan hệ hai bên bị đổ vỡ. cũng như sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp, đặc biệt là trong môi trường công sở. Khi nắm vững các kỹ năng được trình bày ở đây, bạn sẽ không chỉ đọc chính xác các dấu hiệu không lời từ đối phương, mà còn biết sử dụng ngôn ngữ hình thể một cách hiệu quả, nhờ đó đạt được lợi thế cạnh tranh trong đàm phán. Và điều này có thể áp dụng vào bất cứ lĩnh vực nào! Thực tế cho thấy, thành công trong công việc gắn liền với trình độ và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hình thể. Những ví dụ sau sẽ chứng minh rất rõ điều ấy. Khả năng lãnh đạo Vào cuối Thời đại Công nghiệp (Industrial Age), hiệu quả của lối quản lý mệnh lệnh và kiểm soát đang suy giảm mạnh. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo (từ các thành viên ban quản trị cấp cao đến các tổ trưởng sản xuất) đều phải tìm cách lãnh đạo cấp dưới thông qua ảnh hưởng của mình hơn là dựa vào quyền hành từ chức vụ. Ảnh hưởng đó có được nhờ vào hai khả năng sau: ■ Hiểu tâm lý nhân viên, biết lắng nghe những gì họ nói và biết đọc những thông điệp không lời mà họ thể hiện. ■ Cử chỉ và lời nói phải đồng bộ. Điều này có nghĩa là ngôn ngữ hình thể phải phù hợp với lời nói để từ đó củng cố nội dung muốn truyền đạt thay vì phá hỏng nó. Giáo dục Ngôn ngữ cử chỉ của giáo viên là nhân tố quan trọng thúc đẩy học sinh hoàn thành bài tập về nhà. Nghiên cứu ở các nhóm học sinh tiểu học, trung học và đại học cho thấy, ở mọi lứa tuổi khác nhau, học sinh đều có thiện cảm với những giáo viên hay sử dụng cử chỉ thân thiện hơn, như giao tiếp bằng mắt, gật đầu, hướng người về trước, mỉm cười… Việc phát huy những cử chỉ này ở giáo viên sẽ giúp học sinh có thêm động lực học tập, các em sẽ yêu thích giờ học hơn và sẵn sàng nghe theo lời thầy cô giáo. Bán hàng Khi một nhân viên bán hàng gặp gỡ khách hàng tiềm năng, khách hàng sẽ đánh giá nhân viên ấy dựa vào vẻ ngoài và cách cư xử của họ. Quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng bảy giây nhưng ấn tượng đó lại kéo dài. Việc bán hàng được hay không tùy thuộc vào những hành vi không lời được thể hiện ngay trong lần gặp đầu tiên. Trang điểm, tư thế, tác phong, nét mặt và ánh mắt là những yếu tố mà các nhân viên bán hàng thành công cần nắm vững và biết cách vận dụng. Đàm phán Một cuộc đàm phán thành công có thể nhờ vào khả năng nắm bắt những ẩn ý sau lời nói của đối phương. Để có được điều này, bạn cần hiểu được ngôn ngữ hình thể. Nhà đàm phán tài ba là người nhận ra khi nào nên trì hoãn hoặc thúc đẩy quá trình đàm phán. Họ biết cách xoa dịu và bình ổn những tình huống căng thẳng. Tuy nhiên, thay vì chỉ căn cứ vào lời nói, cách chủ yếu họ sử dụng để đánh giá diễn biến xung quanh là quan sát những cử chỉ không lời vốn bộc lộ những động cơ vô thức và dễ bị bỏ qua. Y tế Kỹ năng giao tiếp không lời của bác sĩ đối với bệnh nhân có một vai trò rất quan trọng. Mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều trị bệnh (như các thiết bị kỹ thuật, dụng cụ y tế), nhưng việc nhạy bén với những dấu hiệu không lời và thể hiện "sự thấu cảm lâm sàng" đối với người bệnh sẽ đem lại cảm giác hài lòng nơi người bệnh, giúp họ bình tâm và lạc quan hơn. Pháp luật Khi thẩm vấn nghi phạm, thay vì chỉ lắng nghe những câu trả lời mâu thuẫn nhau, một cảnh sát được đào tạo bài bản sẽ tìm kiếm những phản ứng tâm lý thoáng qua trên khuôn mặt nghi phạm. Chẳng hạn nụ cười thoáng qua có thể ngầm hiểu rằng nghi phạm tự tin rằng hắn vừa đánh lừa được thẩm vấn viên. Dịch vụ khách hàng Nhiều người cho rằng thái độ phục vụ tận tình của nhân viên chính là chìa khóa đem lại thành công cho dịch vụ khách hàng. Nghiên cứu cho thấy khả năng nhận biết các dấu hiệu không lời của nhân viên cũng quan trọng không kém. Việc nắm bắt ngôn ngữ hình thể một cách tinh tế sẽ giúp nhân viên hiểu rõ khách hàng thật sự đang nghĩ gì hoặc cảm nhận được gì. Xây dựng kỹ năng Vận dụng kỹ năng giao tiếp không lời nghĩa là bạn đi vào tìm hiểu và áp dụng những cử chỉ gần như vô thức trước đó. Thay vì chỉ cảm nhận về một ai đó, bạn có thể nhìn vào dấu hiệu hình thể để đọc suy nghĩ của họ. Thay vì chỉ hy vọng rằng bản thân tạo được ấn tượng tốt thì bạn có thể biết cử chỉ nào giúp bạn có được sự tự tin và lấy được thiện cảm từ đối phương. Nắm được các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết này không chỉ giúp bạn học hỏi những điều mới mẻ mà còn giúp bạn nhận thức được sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ để từ đó phát huy hơn nữa năng lực của bản thân. Bạn sẽ biết cách tạo ấn tượng tốt đẹp ngay từ lần gặp đầu tiên. Bạn cũng sẽ biết cách giải mã một ánh mắt, một nét mặt hay cử chỉ nào đó và nhanh chóng xây dựng niềm tin với khách hàng cũng như các thành viên trong nhóm. *** Đánh giá Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời của tác giả Carol Kinsey Goman là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình, đặc biệt là trong môi trường công sở. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản đến các ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau. Ưu điểm: Nội dung cuốn sách được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, với nhiều ví dụ minh họa sinh động. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt đến những ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau như lãnh đạo, bán hàng, đàm phán, dịch vụ khách hàng,... Cuốn sách có tính ứng dụng cao, giúp người đọc nâng cao kỹ năng giao tiếp và thành công hơn trong công việc. Nhược điểm: Một số thông tin trong cuốn sách có thể hơi cũ, cần cập nhật thêm. Kết luận: Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng và các kỹ năng thực tế giúp người đọc hiểu rõ hơn về ngôn ngữ không lời và sử dụng nó một cách hiệu quả trong giao tiếp. Mời các bạn mượn đọc sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman.