Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giữa Lòng Tăm Tối

Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Joseph Conrad (1857 - 1924) là một trong những tác gia vĩ đại nhất của nền văn học Anh quốc. Ông là bậc thầy của nghệ thuật tạo tổng thể văn xuôi, phong cách tự sự, xây dựng nhân vật và mô tả tâm lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều cây bút khác sau này như TS Eliot, F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway hay George Orwell. Thế nhưng tác giả của những áng văn đầy chất thơ Shakespeare này lại là một người gốc Ba Lan tới định cư tại xứ sở sương mù, và đến tận năm hai mươi tuổi mới nói trôi chảy tiếng Anh. Là người ngoại quốc, từng trải qua những năm tháng lênh đênh trên những con tàu thương gia của Anh và Pháp, Conrad đã truyền tải được xúc cảm của những miền đất khác vào nền văn học Anh, phản ánh một thế giới hoàn toàn bị thống trị bởi người châu Âu. Giữa lòng tăm tối là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Joseph Conrad, là kiệt tác văn học mà giới mộ điệu văn chương đều đã quen thuộc. Cuốn tiểu thuyết bao trọn câu chuyện phiêu lưu hải hồ của Marlow dựa trên hành trình có thật của chính tác giả vào năm 1890. Là người của biển cả, Marlow nghe theo tiếng sóng vẫy gọi, khao khát đi tới những miền đất chưa định danh trên địa đồ - “những khoảng trống của niềm hân hoan”, “một vạt trắng cho giấc mơ huy hoàng”, dấn thân vào “vùng tăm tối vô phương thấu hiểu”, cùng với tính hiếu kỳ thản nhiên của một trí óc tế nhị và trạng thái điềm tĩnh của một con tim sắt đá. Trên một con tàu hơi nước vá víu xập xệ thiếu thốn đủ đường, cùng thủy thủ đoàn là mấy tay da đen của bộ tộc ăn thịt người lúc nào cũng bốc mùi thịt hà mã thiu, Marlow ngược dòng con sông Congo hùng vĩ, bí hiểm mà mê hoặc để hoàn thành một nhiệm vụ tưởng chừng như bất khả thi. Ông phải đi cứu Kurtz - người được ca tụng khắp nơi là “thiên tài toàn năng”, kiếm được nhiều ngà voi nhất Công ty, được cả dân da đen yêu kính hết mực và đang ốm thập tử nhất sinh ở vùng thượng nguồn - về với văn minh, trước khi gã lìa đời. Sau bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy của chốn rừng thiêng nước độc, Marlow tới được nơi, gặp được người, nhưng chỉ trở về với một tập tài liệu và lời tuyệt mệnh: “Nỗi kinh hoàng! Nỗi kinh hoàng!” Miền hoang dã Phi châu tạo ra bao nhiêu trở ngại cho con tàu của Marlow thì Giữa lòng tăm tối cũng gây ra bấy nhiêu sóng gió trong giới văn chương thậm chí cả giới phân tâm học, hoạt động nhân quyền hay nghiên cứu châu Phi cũng nhảy vào cuộc. Người ta bàn ra tán vào, khẩu chiến rồi cả bút chiến với nhau về cách hành văn của tác giả, cấu trúc, ý nghĩa của tác phẩm và vô vàn những thứ khác. Một trong những chủ đề được tranh cãi quyết liệt nhất chính là vấn đề phân biệt chủng tộc. Chinua Achebe - nhà văn, nhà thơ người Nigeria từng chỉ trích tác phẩm này là “phân biệt chủng tộc một cách khủng khiếp” với những hình ảnh miêu tả người da đen như những kẻ mọi rợ ngu đần, như những con vật chịu đòn roi. Những tình cảnh đáng thương, những vụ tra tấn kinh hoàng đều được kể lại bằng chất giọng lạnh lùng, vô cảm. Thế nhưng những lập luận khác lại cho rằng tại thời điểm Conrad viết cuốn tiểu thuyết này, khái niệm “phân biệt chủng tộc” vẫn chưa thành hình, quan niệm về khác biệt chủng tộc vẫn còn in đậm. Đó là thời người da đen bị trưng bày như thú lạ tại những nước đế quốc, và bị đối xử như súc vật, nô lệ tại những vùng thuộc địa. Vì thế, không thể trách cứ Conrad được. Tuy vậy, chính nhà văn cũng từng khẳng định rằng Giữa lòng tăm tối ngầm ý chỉ ra “tội ác của sự kém hiệu quả và ích kỷ thuần túy khi khai hóa văn minh ở châu Phi”. Thật vậy, hãy đọc những dòng này trong truyện: “Tôi ngờ rằng với họ cai trị chỉ đơn thuần là bóp nghẹt, không hơn. Họ là kẻ chinh phục, mà chinh phục thì chỉ cần vũ lực - vốn chả có gì đáng huênh hoang, vì sức mạnh của anh chỉ là ngẫu nhiên phát sinh từ cái yếu của kẻ khác. Họ vơ vét được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vơ vét để mà vơ vét. Đó chẳng qua là cưỡng đoạt bằng bạo lực, sát nhân có tình tiết tăng nặng trên diện rộng...” Như thế, Giữa lòng tăm tối, ở một chừng mực nào đó, có thể coi là một bản cáo trạng về lòng tham, thói ưa hủy diệt và quyền lực chuyên chế của chủ nghĩa thực dân, “một bài phân tích về sự suy nhụt nhuệ khí của người da trắng, khi anh ra thoát khỏi vòng kiềm tỏa của châu Âu, bám rễ ở miền nhiệt đới với vũ khí trang bị đến tận chân răng, để thu lợi từ tầng lớp bị trị”. Và con sông dẫn tới “trái tim của một vùng tăm tối khôn cùng” không phải là con sông Congo cuộn xoáy ở lục địa Đen mà là con sông Thames êm đềm, dưới bầu trời hôn ám của “đế chế nơi mặt trời không bao giờ lặn”. Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Bằng ngôn từ mơ hồ mà dứt khoát, huyền bí mà hữu hình, Joseph Conrad đã viết nên một áng văn đậm chất thơ, hấp dẫn, ám ảnh và đầy tính biểu tượng - một kiệt tác của của nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy, của phiêu lưu, của thiên nhiên hoang dại, hùng vĩ, và ảo tưởng của cả thời đại. *** Nellie, chiếc thuyền hai buồm, buông neo không một tiếng buồm lật phật, lặng lẽ nghỉ ngơi. Nước đã xuống, gió cơ hồ đã lặng; được buộc dưới sông, nó chỉ còn một việc là đậu đó đợi triều lên. Cửa sông Thames trải dài trước mắt chúng tôi, như khởi đầu của một thủy lộ dài bất tận. Ngoài khơi xa biển và trời liền thành một tấm áo không thấy đường may, và trong không gian lung linh này, những cánh buồm rám nắng vẫn dập dờn trên ngọn thủy triều như đứng yên thành từng cụm vải bạt đỏ chóp nhọn, lấp lánh ánh vécni từ những cột buồm. Sương lan trên những bãi bồi phẳng lì chạy dài tít tắp về phía biển. Bầu trời trên Gravesend[1] tăm tối, còn phía xa dường như vẫn ngưng tụ thành một quầng u ám thảm sầu, âm trầm bất động trùm lên đô thành lớn nhất và vĩ đại nhất trên trái đất. Tay Giám đốc Công ty là thuyền trưởng và chủ nhà của chúng tôi. Bốn người bọn tôi[2] trìu mến nhìn bóng lưng gã đứng trên mũi thuyền, nhìn về phía biển. Cả sông không có hình ảnh nào đại dương bằng nửa gã. Nhìn gã như một hoa tiêu, niềm tin của người đi biển được nhân cách hóa. Khó mà nhận ra, nghề của gã không phải ngoài kia, nơi giang khẩu lung linh, mà ở sau lưng, giữa vùng âm trầm u ám nọ. Giữa chúng tôi, như đã có lần tôi từng nói[3], có sự gắn bó của biển khơi. Ngoài việc neo đậu lòng nhau sau những quãng dài xa cách, nó còn giúp chúng tôi chịu đựng được những huyên thuyên, thậm chí là định kiến, của nhau. Tay Luật sư - loại bạn già chơi rất được - bởi tuổi cao đức trọng nhất hội, sở hữu cái đệm duy nhất trên boong, và nằm trên tấm thảm duy nhất. Tay Kế toán ôm theo hộp domino và đang lẩn mẩn xây nhà với những mảnh ngà. Marlow ngồi xếp bằng ở đuôi tàu, lưng dựa vào cột buồm lái. Má hóp, da vàng, lưng thẳng, dung mạo khắc khổ, đôi tay buông xuôi, lòng bàn tay ngửa ra trước, gã nhìn như một bức ngẫu tượng. Tay giám đốc, yên tâm là neo đã chắc, xuống đuôi tàu nhập bọn với chúng tôi. Cả bọn uể oải trò chuyện đôi lời. Rồi boong tàu chìm trong im lặng. Bởi lẽ gì đó, chúng tôi không bắt đầu ván domino ấy. Chúng tôi thấy trầm tư, chẳng có hứng làm gì ngoài tĩnh tâm quan sát. Ngày tàn dần trong cái bình lặng của ánh quang huy thanh tĩnh và tú lệ. Nước tỏa sáng một cách bình yên; vòm trời, không một gợn mây, như một khoảng mênh mông ôn nhuận ngập tràn thứ ánh sáng vô nhiễm; màn sương trên đầm lầy miền Essex[4] giống một tấm sa mỏng phát quang, rủ xuống từ những triền cao cây phủ trong nội địa, buông từng lớp trong mờ lên những bãi bồi. Chỉ riêng vùng ảm đạm phía tầy, vần vũ trên thượng lưu, là mỗi lúc một thêm u ám, như thể phẫn nộ trước sự lấn tới của mặt trời. Và cuối cùng, trong một đường lặn hình cung không thể cảm nhận được, mặt trời chìm dần, và từ màu trắng rực đổi sang sắc đỏ đục không phát quang và tỏa nhiệt, như thể sắp đột ngột tắt lịm, bị hạ sát khi chạm phải quầng u ám đang vần vũ trên một vùng người. Lập tức mặt nước bắt đầu thay đổi, và vẻ bình lặng kia bớt xán lạn nhưng lại nồng đậm hơn. Con sông lâu đời an tĩnh nghỉ ngơi giữa dòng nước mênh mang lúc ngày tàn, sau bao thuở phục vụ đắc lực chủng tộc định cư hai bên bờ, trải rộng trong vẻ tôn nghiêm bình đạm của một thủy lộ dẫn đến những chốn tận cùng trái đất. Bọn tôi quan sát dòng chảy khả kính này, không phải dưới hồng quang rực rỡ của một ngày ngắn ngủi một đến rồi đi không trở lại, mà trong ánh sáng uy nghi của ký ức trường tồn. Và quả thực, với kẻ từng, như người ta vẫn nói, “đi theo tiếng gọi biển khơi” với niềm đam mê và sùng kính, không gì dễ dàng hơn việc triệu hoán những anh linh quá khứ trên hạ lưu sông Thames. Con nước thủy triều vẫn miệt mài, tận tụy xuống lên, tràn ngập ký ức về người và thuyền từng được nó đưa về lại cố hương hoặc đem vào hải chiến. Nó từng quen biết và phục vụ tất cả những con người mà dân tộc này hằng tự hào, từ Sir Francis Drake tới Sir John Franklin, đều là Hiệp sĩ, có tước hiệu và không tước hiệu[5] - những hiệp khách giang hồ của biển cả. Nó từng vận chuyển những con tàu với cái tên lấp lánh như ngọc trong đêm tối thời gian, từ chiếc Golden Hind trở về với hai mạn tròn chất đầy châu báu và được ngự giá Nữ hoàng đến thăm, rồi từ ấy rời xa dòng chảy huyền thoại này[6], đến chiếc Erebus và Terror, theo đuổi những cuộc chinh phục khác - và không bao giờ quay lại[7]. Nó biết rõ cả hải thuyền và hải khách. Họ giong buồm từ Deptford, Greenwich và Erith[8] - kẻ phiêu lưu lẫn người lập nghiệp; tàu Hoàng gia cùng thuyền thương khách; thuyền trưởng, đô đốc, đám hắc thương[9] vùng Viễn Đông, các “tướng lĩnh tự phong của Hải đội Đông Ấn. Săn vàng hay cầu danh, ai nấy đều khởi hành theo dòng chảy ấy, mang gươm, và thường là cầm đuốc, sứ giả của quyền uy từ lục địa, hộ tống một điểm tinh hỏa từ ngọn lửa thiêng. Có sự vĩ đại nào không từng theo con nước của dòng sông ấy đến với bí ẩn của một miền đất lạ!... Giấc mơ của con người, hạt giống của thịnh vượng chung, mầm mống của đế quốc. Mặt trời lặn; hoàng hôn trùm lên dòng sông, và ánh đèn bắt đầu xuất hiện ven bờ. Hải đăng Chapman, một vật thể ba chân mọc lên từ bãi lầy, chiếu sáng rực rỡ. Ánh đèn từ những con tàu di chuyển trên thủy đạo - một dòng ngược xuôi tấp nập của những ngọn đèn. Và xa hơn về tây, trên thượng lưu, vùng trời phía trên thành phố khổng lồ kia vẫn mang dấu hiệu bất tường, một vầng âm trầm u ám trong ánh tịch dương, một tia nhìn giận dữ chói gắt dưới trời sao. “Nơi đây,” Marlow đột ngột lên tiếng, “cũng từng là một trong những chốn tối tăm trên trái đất.”[10] Gã là người duy nhất trong cả hội còn “đi theo tiếng gọi biển khơi.” Nếu có nói xấu được gã điểm gì thì đó là gã không đại diện cho tầng lớp của mình. Gã là hải khách nhưng cũng là lãng khách, trong khi phần lớn những người đi biển khác sống một cuộc đời, ta tạm gọi là, yên vị. Đầu óc họ mang tâm thức tại gia, và nhà của họ luôn đi cùng họ - con tàu; và tổ quốc của họ cũng vậy - biển cả. Tàu nào cũng giống tàu nào, và biển cả thì muôn đời vẫn thế. Trong sự bất biến của môi trường quanh họ, những duyên hải xa xôi, những mặt người xứ lạ, những bao la biến động của cuộc đời, tất cả lướt qua, được che phủ không phải bởi cảm giác huyền bí mà dưới một thái độ vô tri ít nhiều khinh thị; bởi đối với người đi biển, chẳng có gì huyền bí trừ bản thân biển cả, người tình của sự hiện tồn của y, và khó nhìn thấu như chính số mệnh. Với họ, sau giờ lao động, một cuộc dạo chơi hoặc truy hoan tùy tiện trên bờ là đủ khám phá bí mật của cả một lục địa, và nhìn chung họ thấy bí mật này chả có gì đáng biết. Chuyện của dân đi biển có một sự giản đơn trực diện, toàn bộ ý nghĩa của nó chỉ gói gọn trong một cái vỏ lạc vỡ[11]. Nhưng Marlow không phải dân đi biển điển hình (không kể xu hướng huyên thuyên ở gã), và với gã, ý nghĩa của sự kiện không nằm trong hạt lạc, mà ở ngoài, bao quanh sự tích phát sinh ra nó giống như nguồn sáng nhiệt phát sinh hồng quang, tương tự như những quầng sáng đôi khi ta vẫn quan sát thấy nhờ quang phổ của ánh trăng. Bình luận của gã không làm ai ngạc nhiên. Marlow là như thế. Phát ngôn ấy được đón nhận trong im lặng. Thậm chí chẳng ai buồn lầm bầm; và lúc này gã đang nói, rất chậm rãi... “Tôi đang nghĩ về thời xa xưa, khi quân La Mã lần đầu đặt chân đến đây, một ngàn chín trăm năm trước[12] - như mới hôm qua... Ánh sáng đã phát xuất từ dòng sông này từ... thời các Hiệp sĩ, nhỉ? Phải; nhưng nó như một lưỡi lửa chạy trên đồng cỏ, một vệt chớp giữa trùng mây. Chúng ta sống dưới ánh sáng bập bùng ấy - cầu cho nó bền lâu như vòng quay của trái đất này! Nhưng hôm qua bóng tối vẫn ở đây. Thử tưởng tượng, cảm giác của viên chỉ huy một chiếc... gọi là gì nhể? – Trireme[13] ưu tú trên Địa Trung Hải, đột nhiên bị điều lên phương bắc; vội vàng đi đường bộ băng qua Gauls; và được giao một con thuyền, loại vẫn được các quân đoàn La Mã - hẳn toàn những kẻ khéo tay ghê gớm - đóng cả trăm chiếc trong một, hai tháng, nếu những gì ta vẫn đọc là đáng tin. Thử hình dung ra gã ở đây - nơi tận cùng thế giới, biển màu chì, trời màu khói, kiểu thuyền vững chãi như cây đàn concertina[14] - bơi ngược sông đem theo quân nhu, hoặc mệnh lệnh, hoặc gì cũng được. Bờ cát, đầm lầy, rừng rú, man dân - cơ hồ không có gì vừa miệng người văn minh, không có gì để uống ngoài nước sông Thames. Ở đây chẳng có rượu Falernian[15], và cũng chẳng có chuyện lên bờ. Thi thoảng lại thấy một doanh trại thất tung trong hoang dã, như cây kim mất tích giữa đụn rơm - giá, sương, bão táp, bệnh dịch, lưu đày và chết chóc - cái chết lởn vởn trong không khí, dưới nước, trong bụi rậm. Binh sĩ chắc hẳn chết ở đây như ngả rạ. Phải rồi - gã sống sót. sống tốt là đằng khác, sống mà không nghĩ ngợi gì nhiều, có chăng chỉ đủ để sau này khoác lác về những gì đã trải qua. Họ đủ nam nhi để đối mặt với bóng tối. Mà có lẽ gã đã phấn chấn hơn khi tơ tưởng đến cơ hội được đề bạt lên hải đội ở Ravenna[16] trong ngày một ngày hai, nếu gã có bạn bè thân cận ở Rome và sống sót qua mùa lam chướng này. Hoặc hãy nghĩ tới một công dân trẻ tử tế, khoác toga - chắc hẳn cháy túi vì cờ bạc - theo gót thái thú, hoặc thuế quan, thậm chí thương gia, đến đây mong kiếm chác được chút gì. Đặt chân lên đầm lầy, cuốc bộ xuyên rừng, và khi đến dịch trạm trong nội địa, thì cảm thấy cái man di, man di cùng cực, vây bủa lấy mình, - tất cả sự sống hoang dã bí hiểm sục sôi trong rừng rậm, trong rừng già, trong tim đám man dân. Chẳng có thời gian để làm quen với những bí ẩn ấy. Gã phải sống giữa chốn vô minh, vốn dĩ là điều đáng hận. Song nó cũng tỏa ra sức dụ hoặc, tác động lên gã. Thứ dụ hoặc nảy sinh từ oán hận - hãy tưởng tượng nỗi hối hận, cơn khát khao đào tẩu, sự ghê tởm trong bất lực, tâm lý buông xuôi, cảm giác căm ghét ngày một dâng cao.” Mời các bạn đón đọc Giữa Lòng Tăm Tối của tác giả Joseph Conrad.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ly Dị, Tuyệt Vọng Và Dễ Thương - Christie Craig
Một món quà ấm áp dành cho những trái tim từng tan nát vì sự phản bội và đau đớn vì hạnh phúc hôn nhân đổ vỡ. Kể từ khi nữ nhiếp ảnh Lacy Maguire bắt được chồng cũ chơi trò Ép Cô Thư Ký vào Vách Thang Máy, cô hài lòng với chú chó Fabio, ba con mèo và một lời thề độc thân. Nhưng tất cả chuyện đó thay đổi khi chú chó Fabio lôi vào nhà một chàng cảnh sát đang trúng đạn và chạy trốn. Lần đầu tiên trong suốt cả một thời gian dài, Lacy xem xét lại lời thề của mình. Vì quý ông Chase Kelly quyến rũ, đang bị tổn thương, sẽ có thể là một cách khá thú vị để phá vỡ những nỗi sợ hãi trong quá khứ của cô. Trong khi Lacy đang có một trái tim đau khổ cần phải cứu chữa, một đống thiệp Giáng sinh cần phải hoàn tất, và một người mẹ từng có sáu lần ly dị luôn giục giã cô cải thiện cuộc sống tình dục của mình. Giờ, nếu cô có thể giữ cho hai người họ còn sống và anh ta thoát khỏi việc tù tội… thì việc Chase trở thành tù nhân của cô sau này và mãi mãi cũng không phải là ước mơ xa vời. *** Christie Craig, sinh ra và lớn lên ở Alabama, là một nhà văn đạt giải thưởng, có sách xuất bản hàng triệu bản, một diễn giả đầy sức thuyết phục, đồng thời là một giáo viên dạy viết văn. Các bài báo và ảnh chụp của bà xuất hiện trên gần ba ngàn tạp chí lưu hành khắp nước. Là người đã lọt vào vòng chung kết giải Golden Heart, cũng như là người lọt vào vòng chung kết trong các cuộc thi do RWA tài trợ, bà có được sự công nhận trong dòng văn học lãng mạn, với văn phong hài hước dí dỏm, pha trộn giữa các tình huống ly kỳ hồi hộp và gợi tình. Nhận giải Holt Medallion Award of Merit dành cho thể loại Best Romantic Comedy Romance Novel năm 2009. Bà hiện sống ở Texas cùng chồng, con trai, với một chú chó và ba con mèo. Sách Christie Craig do Chibooks xuất bản: 1. Shut up and Kiss Me 2. Gotcha! 3. Wedding Can Be Murder! 4. Divorced, Desperate and Delicious 6. Divorced, Desperate and Deceived 7. Divorced, Desperate and Dating *** Ghen tuông tràn vào máu Chase như nọc độc. Anh ra lệnh cho mình phải hít thở, không được phản ứng như kẻ ngu xuẩn. “Anh không phải chạy xe theo em như thế đâu Eric,” Lacy nói. “Em đã nói là em đi được mà.” Chase nhăn nhó. Hóa ra đây là tay bác sĩ thú y thiếu kiên nhẫn, kẻ chỉ muốn được chia sẻ tội lỗi cùng người yêu anh. Có lẽ mình nên phản ứng như tên ngu xuẩn mới phải. Eric khẽ chạm tay trên cánh tay trần của Lacy. “Anh là loại người gì đây nếu không biết bảo đảm cho em được về nhà an toàn chứ?” Là loại người chết ngắc nếu mày còn chạm vào cô ấy lần nữa. Tay Chase nắm chặt hơn khi gã kia cúi xuống. Nhưng Lacy đã quay mặt đi nên môi gã chỉ chạm được vào má nàng. Nhưng dù thế, Chase vẫn không muốn môi gã ở bất cứ chỗ nào gần nàng hết. “Cảm ơn anh đã cho em vào phòng khám của anh hôm nay.” Lacy đặt một tay lên ngực anh chàng để ngăn không cho anh ta hôn nữa. “Thôi, em phải vào nhà đây. Ngày hôm nay dài quá rồi.” Chase quyết định cho Eric hai giây để hiểu thông điệp đuổi về của Lacy, sau đó anh sẽ bắt hắn hiểu thông điệp của mình. Anh thấy thất vọng khi Eric chỉ nhún vai và bỏ đi. Lacy đứng nhìn hắn lên xe và rời ngõ nhà nàng sau đó quay lại mở khóa cửa. ... Mời các bạn đón đọc Ly Dị, Tuyệt Vọng Và Dễ Thương của tác giả Christie Craig.
Giọt Rừng - Mikhail Prisvin
Mikhail Prisvin là một trong những nhà văn Nga viết về thiên nhiên nổi tiếng nhất. K. Paustovski, tác giả Bông hồng vàng rất quen thuộc với độc giả Việt Nam đã viết về ông: “Nếu như thiên nhiên có thể cảm thấy sự biết ơn đối với con người vì con người đã đi sâu vào đời sống bí ẩn của thiên nhiên và ca ngợi vẻ đẹp của nó, thì trước hết sự biết ơn đó phải dành cho Mikhail Prisvin”. Về M. Prisvin, xin đọc bài của K. Paustovski ở cuối sách, ở đây chỉ ghi lại mấy nét tiểu sử của nhà văn. Mikhail Mikhailovitr Prisvin (Михаил Михайлович Пришвин) sinh ngày 4 tháng 2 năm 1873 tại trang ấp Khrusevo (Хрущево) gần thành phố Eles (Елец), tỉnh Orlovskaia (Орловская губерния), miền Trung nước Nga, trong một gia đình ban đầu khá sung túc nhờ thừa kế tài sản của ông nội giàu có nhưng sau bị phá sản vì người bố ham mê săn bắn, cờ bạc. Thuở nhỏ ông học ở trường trung học Eles nhưng bị đuổi học vì “xung đột với thầy giáo” – ông thầy này về sau cũng là một nhà văn khá nổi tiếng và trở thành bạn đồng chí hướng của Prisvin. Sau khi học qua các trường Trung học Tiumen, Cao đẳng Bách khoa Riga, năm 1902, ông tốt nghiệp kĩ sư Nông học Đại học Tổng hợp Leipzig (Đức), làm việc ở nhiều vùng nông thôn Nga, xuất bản một số cuốn sách và bài viết về nông nghiệp. Từ năm 1905, ông bắt đầu bước vào nghề báo chí, năm 1906 in truyện ngắn đầu tay Sasok (Сашок), từ đó M. Prisvin lần lượt cho ra đời những cuốn sách tạo nên tên tuổi của ông trong làng văn nước Nga như Ở xứ sở những con chim không sợ hãi (В краю непуганых птиц, 1907), Bên những bức tường của thành phố vô hình (У стен града невидимого, 1909), Adam và Eva (Адам и Ева, 1909), Aral đen (Черный Арал, 1910)... Năm 1912 - 1914, xuất bản bộ Tuyển tập tác phẩm đầu tiên của M. Prisvin gồm ba tập. Trong thời gian Thế chiến thứ nhất, M. Prisvin làm phóng viên chiến tranh, sau đó làm nghề dạy học ở Smolensina (Смоленщина). Năm 1925, ông viết Những nguồn mạch Berendei (Родники Берендея) mà năm 1935, được bổ sung in lại với tên mới Lịch thiên nhiên (Календарь природы). Từ năm 1927 đến 1930, nhà văn xuất bản bộ mới Tuyển tập tác phẩm gồm bảy tập với lời giới thiệu của M. Gorki. 1933 là năm ra đời một trong những tác phẩm hay nhất của Prisvin Nhân sâm (Женьшень). Năm 1940, ông viết trường ca bằng văn xuôi Phaselia (Фацелия) và tập tiểu phẩm trữ tình – triết học Giọt rừng (Лесная капель), cả hai được xuất bản năm 1943. Sau Thế chiến II, những tác phẩm đáng chú ý của M. Prisvin có thể kể Kho mặt trời (Кладовая солнца, 1945), Câu chuyện của thời đại chúng ta (Повесть нашего времени, 1946), Rừng thông cao vút (Корабельная чаща, 1954), Đôi mắt của đất (Глаза земли, 1957), v. v… Nhà văn qua đời ngày 16 tháng 1 năm 1954 tại Moskva. Tên của ông được đặt cho nhiều đường phố ở các địa phương khác nhau của nước Nga. *** Thuở xưa khi còn là những đứa trẻ hiếu kì, chúng tôi thường hay đập vỡ đồ chơi của mình cũng như bất cứ thứ quà tặng nào, thậm chí cả đồng hồ, để biết được bên trong có những gì. Rồi ở trường, người ta cũng dạy chúng tôi cách ứng xử với thiên nhiên như thế: được dẫn ra ngoài cánh đồng, mỗi người hái một bông hoa rồi bứt cánh để đếm xem hoa có bao nhiêu cánh, bao nhiêu nhuỵ, đài hoa kết cấu ra sao v.v... Nói chung, sự thể xảy ra với bông hoa cũng hệt như với những đồ chơi thời thơ bé: hình dạng bị dập nát, xé nhỏ - và không còn cả bông hoa cũng chẳng còn cả đồ chơi nữa. Còn bây giờ thì chúng tôi học thiên nhiên không chỉ không phá hỏng hình ảnh của bông hoa đá sống động(1) mà ngược lại còn làm giàu cho thiên nhiên những hình ảnh mang tính người của mình. Chính tôi cũng đã học được điều đó trong quá trình ghi chép viết lách. Và thế là Giọt rừng của tôi ra đời như một trải nghiệm nghiên cứu đầy chất thơ cái thiên nhiên được hiểu trong sự hoà hợp với con người sống trong nó và tạo ra nó. Mikhail Prisvin Mời các bạn đón đọc Giọt Rừng của tác giả Mikhail Prisvin.
Đàn Cổ Cầm Khỏa Thân - Sơn Táp
Đàn cổ cầm khỏa thân’ của Shan Sa (Sơn Táp) xuất bản năm 2010 tại Pháp và lọt vào Top 10 cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất châu Âu cùng năm. Tiểu thuyết lấy bối cảnh Trung Hoa từ năm 420 đến 585, trong thời kỳ hỗn loạn về chính trị. Đế quốc Trung Hoa bị chia làm hai miền Nam Bắc. Một cô gái thuộc tầng lớp quý tộc, từ nhỏ đã sống trong nhung lụa, được bao quanh bởi nghệ thuật và thi ca, đã bị bắt cóc và buộc phải kết hôn với một người lính của miền Nam. Cô gái cuối cùng đã yêu kẻ bắt cóc mình và mang thai đứa con của ông. Họ cùng đến Tử Cấm Thành, vượt qua bao nhiêu khó khăn, anh lính năm xưa trở thành hoàng đế của Trung Hoa, còn cô gái thành hoàng hậu. 200 năm sau, một nghệ nhân làm đàn Cổ cầm đột nhập ngôi mộ của hoàng đế, lấy gỗ từ ngôi mộ của ông làm nên một cây đàn. Khi tiếng đàn cất lên, nó đã đánh thức linh hồn của vị hoàng hậu năm xưa, đưa mối tình ngủ sâu hai thế kỷ sống lại. Cuốn tiểu thuyết được đặt trong một không gian đậm chất nghệ thuật và cổ điển, với yếu tố tình dục được miêu tả khéo léo, yếu tố ấm nhạc như một phần không thể thiếu, len lỏi trong từng con chữ. *** Shan Sa (Sơn Táp) là bút danh của Diêm Ni, sinh ngày 26/10/1972, một nhà văn người Pháp gốc Hoa nổi tiếng. Cô sinh ra trong một gia đình trí thức cao cấp ở Bắc Kinh và rời Trung Quốc để đến Paris năm 1990. Năm lên 8, cô đã có thơ in thành tuyển tập. Năm 14 tuổi, cô được giải thưởng văn học thiếu nhi toàn quốc và xuất bản bốn tập thơ khi còn ở trong nước. Năm 1997, với bút danh Sơn Táp, cô từng bước chiếm lĩnh văn đàn Paris. Tiểu thuyết "Thiếu nữ đánh cờ vây" xuất bản năm 2001, giành được bốn đề cử giải văn học lớn của Pháp và đoạt giải thưởng văn học Goncourt dành cho giới trẻ. *** “Đàn cổ cầm khỏa thân" là một cuốn tiểu thuyết về thời gian. Với thời gian, vật đổi sao dời. Thông qua số phận của đàn cổ cầm, Sơn Táp kết nối các điểm thời gian với nhau, xen lẫn chúng, hòa chúng với nhau: thế gian hàng trăm năm, hàng nghìn năm, đổi thay như một bản nhạc cô độc đang suy tư về chính cuộc đời. Đó là thế giới “thượng lưu”, tầng lớp quý tộc cao cấp nhất ở Trung Nguyên, nay đã không còn tồn tại. Từ thế giới đó bước ra một cô gái gia giáo, tài sắc cùng người cha nghệ sĩ giao du với các tầng lớp thấp hèn bị gia phong cấm kỵ. Tiếng đàn dịu ngọt từ đôi bàn tay thiếu nữ còn chưa tắt thì chiến tranh đến, trong một buổi sáng “mặt trời ném xuống cửa sổ một tấm mạng đỏ rực”, buổi sáng đã lấy đi cái đầu của cha nàng ngay giữa sân nhà. Cái tấm mạng đỏ rực của chiến tranh ấy còn mang cuộc đời nàng đi đến đâu? Phải chăng số phận nàng là sự lặp lại của số phận người con gái năm xưa - chủ nhân cây đàn cổ gia bảo của gia đình nàng? Đi đến tận đâu để rồi nàng gặp một người con trai mà nàng chỉ được thấy dáng người thấp thoáng trong bức tranh chính nàng vẽ ra? Đó là chàng Thẩm Phong của gần hai trăm năm sau, đứa con trai mồ côi sống cùng thầy là thợ làm đàn vào thời buổi cái nghề đang rơi vào vận mạt. Chàng thanh niên mới lớn đắm chìm trong đam mê âm nhạc, ngây thơ trộm mộ trong chùa để cứu sống bạn, để rồi bị triều đình truy đuổi, khép tội chết. Lịch sử vốn dĩ nghiệt ngã với mọi cuộc đời, nhưng dường như có những cuộc đời mà điểm bắt đầu và kết thúc rất khó nhận ra. Thẩm Phong sinh ra từ đâu? Chàng có chết không? Người con gái kinh qua bão táp lịch sử có chết không? Kết cục câu chuyện về họ thế nào? Đặt những câu hỏi này cũng giống như đặt ra câu hỏi: “Âm nhạc bắt đầu từ đâu và kết thúc ở đâu?” vậy… Tiếng đàn dìu dặt mãi không thôi, những trang cuối cùng vẫn chưa phải là giới hạn. Ở ngã ba lịch sử, văn minh, nghệ thuật của quê hương mình, Sơn Táp vẽ ra những bức tranh tỉ mỉ bằng ngôn ngữ tiểu thuyết, với những chất liệu đầy kỳ thú, tất nhiên, nhưng cũng với những điều đơn giản thường nhật mà chỉ có nhà văn mới đem lại độ căng trên từng con chữ nữa. Cả thế gian dồn nén lại trong cuốn tiểu thuyết, như thời gian, như âm nhạc, như độ dày ẩn trong khoảnh khắc không nói nên lời của một người yêu đàn được ngắm một cây đàn cổ cầm. Khỏa thân. CÉNACLE A Mời các bạn đón đọc Đàn Cổ Cầm Khỏa Thân của tác giả Sơn Táp.
Buồn Như Thể Muốn Tan Ra - Dora Nguyen
Với cuốn truyện dài đầu tay “Buồn như thể muốn tan ra”, Dung Keil lại xuất hiện với bút danh hoàn toàn mới: “Dora Nguyen”. Chúng tôi đã có một cuối tuần thực sự vui vẻ. Chúng tôi mua burger để ngồi ăn trên tàu về thành phố. Từ ga Kent, chúng tôi có thể mua được vé ưu đãi đi rất nhiều nơi. Lúc tàu chạy qua những nhà máy sản xuất xi măng, tôi mở túi lấy máy ảnh ra chụp lại. – Chứ ở Việt Nam người ta không sản xuất xi măng hả? – Jan là người vô cùng kiên nhẫn trong hành trình châm chích tôi. – Có, nhưng em không nghĩ thành phố này cũng có những nhà máy giống hệt ở nước em như thế! – Tôi thật thà thanh minh. – Chứ em nghĩ ở đây người ta không cần xây đường, xây nhà hả? Tôi nghĩ kĩ rồi: Khi châm chích tôi, Jan có lòng kiên nhẫn vô biên. Dora Nguyen sinh ra ở Việt Nam và sống trong tình yêu ở Malaysia. Cô là một cô gái nhỏ sở hữu nỗi tự ti rất lớn, thích viết lách và luôn mong có thể viết ra những điều không khiến chính bản thân mình thất vọng. “Trong tình yêu, dù niềm vui hay là nỗi buồn đều là những phút giây đáng giá” đã từng là thông điệp mà tác giả gửi gắm trong rất nhiều câu chuyện của mình. Các tác phẩm đã xuất bản: Yêu như một cái cây (4/2014) Cấp Visa cho trái tim (1/2014) Chuyện ngàn lẻ một độ – Nhớ (2013) *** Tôi đã không mất quá nhiều thời gian để hoàn thành “Buồn như thể muốn tan ra” - cuốn truyện dài đầu tay của mình. Những kỉ niệm như đã được xếp đặt một cách ngay ngắn trong ngăn trang trọng nhất của trái tim, chỉ chờ đến ngày được mỉm cười qua từng câu chữ. Song hơn ai hết, tôi hiểu để có được những trải nghiệm đó hoàn toàn không phải điều dễ dàng và tôi thực sự muốn cảm ơn những người đã cùng tôi làm nên những ngày tháng ấy. Cảm ơn tòa soạn báo Điện tử Giáo Dục Việt Nam, Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam và phòng Thương mại Ireland tại Hà Nội đã tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu đất nước, con người và nền giáo dục Ireland”, tạo sân chơi cho những bạn trẻ mê viết lách và luôn mơ ước được hiểu sâu hơn nữa về đất nước của “cỏ ba lá”, của “khoai tây”, của “thánh Patrick” và những điều rất đỗi bình dị… Cảm ơn chị Trần Phương Mai - chuyên gia tư vấn, cán bộ liên lạc của Phòng Thương Mại Ireland - đã giúp đỡ tôi rất tận tình trong quá trình chuẩn bị giấy tờ làm visa, đặt vé máy bay, mua bảo hiểm; hỗ trợ tôi trước, trong và sau khoảng thời gian tôi sang Ireland học tập. Cảm ơn thầy Brendan, cô Carolyn, cô Youngsin đã chào đón tôi rất nhiệt tình và giúp tôi hòa nhập với môi trường học tập ở Trung tâm Ngôn ngữ thuộc Đại học tổng hợp Cork (UCC Language Center - University College Cork, Ireland). Cảm ơn hai bác Patricia và Matthew Mulcai vì sự quan tâm chu đáo, về những bữa sáng có mì hoặc phở, về những bữa tối có cơm Việt Nam, về sự thương yêu rộng lượng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ có thể quên. Cảm ơn chị Quỳnh Vân và anh Đức Long, biên tập viên mảng truyện ngắn của tòa soạn báo Sinh viên Việt Nam - Hoa Học Trò đã cho tôi cơ hội được rèn giũa ngòi bút và thỏa sức vẫy vùng trong trí tưởng tượng của chính mình. Cảm ơn Zbooks đã đặt lòng tin ở một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ của tôi, đã cho “Buồn như thể muốn tan ra” một cơ hội được xuất hiện trước bạn đọc. Cảm ơn ông bà, bố mẹ, anh trai, chị dâu, Chuột Chít và Sherman đã luôn ở bên động viên, cổ vũ trên mỗi bước đường tôi đi. Cảm ơn bạn đã chọn mua và đọc cuốn sách này khi mà Dora Nguyen chỉ là một cái tên rất lạ, rất mới. Trong cuộc đời mình, tôi luôn mong có thể viết ra những điều không khiến bản thân mình phải thất vọng. Nhưng hơn tất cả, tôi mong bạn - những người đã tin tưởng chọn cuốn sách này - sẽ có thể tìm thấy những câu chuyện bạn luôn muốn nghe, những điều trái tim bạn luôn muốn được an ủi. Gửi từ Malaysia, Dora Nguyen Mời các bạn đón đọc Buồn Như Thể Muốn Tan Ra của tác giả Dora Nguyen.