Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khuôn Mặt Người Khác

Mặt, xét cho cùng, là vẻ biểu cảm của nó. Mà vẻ biểu cảm, đó là một loại phương trình biểu thị mối quan hệ với những người khác. Đấy là con đường mòn liên kết ta với người. Nếu con đường đó bị vùi lấp thì ngay cả những người gắng tìm cách đi trên con đường đó cũng sẽ đi ngang qua trước nhà ta như đi ngang qua một chốn hoang phế không người. Nếu không kịp thời dọn quang con đường mòn thì cuối cùng người ta sẽ quên rằng đã từng có con đường đó.  Tâm hồn con người được bọc trong một bộ da. Người ta bị mất tay mất chân, bị hỏng mắt là chuyện bình thường. Người bị thương bận tâm đến cái gì nhiều nhất? Không phải là tính mạng, không phải là sự phục hồi các chức năng của cơ thể, không. Điều làm họ băn khoăn trước hết là có giữ được cái hình dạng trước đây hay không. Nếu như trong Người đàn bà trong cồn cát (1962), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Kobo Abe viết bằng giọng văn xuôi đơn giản; thì Khuôn mặt người khác (1964) giọng văn đã trở nên phức tạp hơn bởi nhiều câu hỏi được đặt ra. Nếu như nhân vật chính của Người đàn bà trong cồn cát chỉ đơn giản là cố gắng để trốn thoát; thì nhân vật chính của Khuôn mặt người khác là cố gắng để tìm thấy chính mình và để đánh mất mình, và cố gắng tìm mọi cách để sống trong một xã hội mà dường như đã từ chối anh ta! Với Khuôn mặt người khác, Kobo Abe đã cố gắng để đối phó với các vấn đề lớn của bản sắc và cá tính trên quy mô quốc gia, bằng cách tập trung vào miêu tả một người đàn ông không tên. Anh là chủ nhiệm một phòng nghiên cứu hóa chất cao phân tử tại một viện khoa học. Trong lúc thí nghiệm đã xảy ra vụ nổ oxy lỏng, khuôn mặt bị biến dạng với những sẹo lồi, rất may là không ảnh hưởng gì đến mắt vì anh đeo kiếng. Bề ngoài, anh cố giữ được vẻ bình thản với khuôn mặt bị hủy hoại, nhưng đó chỉ là sự giả tạo. Trong anh luôn bùng nổ những cơn bão của tâm trạng dằn vặt, suy tư dữ dội, luôn đau khổ và mặc cảm, hoài nghi ở thái độ mọi người đối với bộ mặt kỳ dị của mình. Anh nghi ngờ cả sự gần gũi chăm sóc của người vợ vẫn chung sống cùng anh sau khi anh bị tai nạn. Và, mối quan hệ của anh với người vợ cũng bị biến dạng! Âm thầm và kiên trì bền bỉ, anh đã nghiên cứu chế tạo thành công bộ mặt nạ hoàn toàn giống mặt người, có khả năng biểu cảm linh hoạt như gương mặt thật. Anh giữ bí mật sự việc và nuôi dưỡng ý định dùng bộ mặt nạ thử thách tình yêu của vợ mình. *** Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. Khuôn mặt người khác là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho những đặc điểm các tác phẩm của Kōbō Abe. *** Thế là em đã vượt qua được cái mê cung rắc rối mà tìm đến. Tin ở cái kế hoạch mà anh ta gửi cho em, rốt cuộc em đã đến chỗ trú ẩn này. Chân bước rụt rè, em lên cái cầu thang cót két như bàn đạp cỗ đàn ooc-gơ. Căn phòng đây rồi. Nín thở, em gõ cửa, chẳng hiểu sao không có tiếng đáp. Thay cho tiếng đáp, một cô bé nhảy tâng tâng như con meo con chạy tới mở cửa cho em. Em gọi cô bé, toan hỏi xem người ta có nhắn gì cho em không, nhưng cô bé chẳng trả lời gì cả, chỉ mỉm cười và chạy đi. Em cần anh ta, thế là em ngó vào cửa. Nhưng em không thấy anh ta, không thấy một cái gì nhắc nhở đến anh ta, một căn phòng chết, trong đó tinh thần hoang phế đang lượn lờ. Cảnh tượng bức tường mờ đục khiến em giật mình. Em toan đi, tuy cảm thấy mình có lỗi, thì mắt em chợt bắt gặp ba quyển vở nằm trên bàn, bên cạnh là một bức thư. Đến đây em chợt hiểu ra rằng thế là em đã sa vào bẫy. Mặc dù lúc ấy những ý nghĩ hết sức cay đắng giày vò em, nhưng sự cám dỗ không thể nào cưỡng lại được. Hai tay run run, em xé phong bì và bắt đầu đọc thư... Chắc là em tức giận, chắc là em oán trách. Nhưng anh sẽ chịu đựng được cái nhìn của em, cái nhìn đàn hồi như chiếc lò xo kéo căng, và dù thế nào đi nữa anh vẫn cứ muốn em tiếp tục đọc. Anh không có hy vọng gì rằng em sẽ vượt qua được mấy phút đó một cách êm đẹp, và sẽ bước một bước về phía anh. Anh bị anh ta tiêu diệt hay anh ta bị anh tiêu diệt, cách nào chăng nữa thì màn của vở bi kịch những chiếc mặt nạ đã hạ xuống. Anh đã giết anh ta, đồng thời tự nhận mình là kẻ phạm tội và anh muốn thú nhận hết, thú nhận triệt để. Có thể vì em rộng lượng hay ngược lại, anh cũng vẫn cứ muốn em đọc tiếp. Người có quyền xử tử thì có trách nhiệm phải nghe cho hết lời khai của bị cáo. Còn nếu chỉ quay lưng lại với anh, kẻ đang quỳ gối trước em đây, thì liệu em có khỏi bị nghi oan là tòng phạm không? Thôi được, hãy ngồi xuống, cứ coi như em đang ngồi nhà. Nếu không khí trong phòng tù hãm thì mở cửa sổ ra. Ấm chén uống trà, nếu cần em lấy ở bếp. Hễ khi nào em bình tĩnh ngồi xuống thì nơi trú ẩn giấu kín ở cuối mê lộ này sẽ biến thành tòa án. Trong lúc em xem lời khai, để cho phần cuối tấn bi kịch của những chiếc mặt nạ càng có vẻ xác thực hơn, anh sẵn lòng chờ lâu thế nào cũng được, trong lúc chờ đợi, anh vá những chỗ thủng trên tấm màn sân khấu, vả lại, chỉ riêng việc hồi tưởng lại những chuyện đó cũng khiến anh không cảm thấy chán ngán. Vậy thì ta sẽ trở lại sự việc vừa mới xảy ra với anh, ba ngày trước cái thời điểm mà đối với em là “lúc này”: Đêm ấy, gió lẫn với trận mưa dường như có hòa tan mật ong làm cửa sổ rung lên thảm thiết. Suốt ngày anh đổ mồ hôi, thế mà khi mặt trời lặn, anh bỗng muốn sưởi ấm bên ngọn lửa. Các báo viết rằng trời sẽ lạnh trở lại, nhưng ngày đã trở nên dài hơn, chẳng làm sao lẩn tránh được thực tại đó và cứ một cơn mưa tạnh là đã cảm thấy ngay sự hiện diện của mùa hè. Chỉ cần nghĩ đến điều đó là tim anh bắt đầu phập phồng lo lắng. Ở tình trạng hiện nay, anh giống như một vật bằng sáp bất lực trước cái nóng nực. Chỉ cần nghĩ đến mặt trời chói lòa là da anh phồng rộp cả lên. ... Mời các bạn đón đọc Khuôn Mặt Người Khác của tác giả Kobo Abe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đồng Cỏ - Nguyễn Đình Toàn
Đồng Cỏ là một tác phẩm khác dự báo một Sài Gòn sắp mất. Nguyễn Đình Toàn mẫn cảm với thay đổi thời tiết cũng như với những biến chuyển của lịch sử. Dự cảm hay trực giác của nhà văn đi trước tấn thảm kịch, đi trước những đổ vỡ chia ly đã mang tính tiên tri. Đọc văn Nguyễn Đình Toàn, để sống với Hà Nội những ngày sắp mất nhưng cũng không bao giờ mất qua hơn 300 trang sách. Nguyễn Đình Toàn 1970, anh đã phải thốt lên: "mỗi lời dẫn cho một bản nhạc ở đây là một "nhạc thoại" một tác phẩm khác. Nó thể hiện tính thẩm văn và thẩm nhạc của người tuyển chọn là Nguyễn Đình Toàn". Rồi cuối cùng, hai người bạn họ Nguyễn ấy như Bá Nha Tử Kỳ cùng một kiếp tha hương, họ cũng đã gặp nhau không phải trên "một quê hương Việt Nam sợ hãi - chữ của Nguyễn Đình Toàn trong Đồng Cỏ" mà trên lục địa Mỹ Châu thênh thang tự do nhưng vẫn là lưu đầy. Truyện Nguyễn Đình Toàn rất giàu hình ảnh và nhiều chất thơ có thể đọc như một bài thơ xuôi/ prose poem. Khi đặt lời cho một bản nhạc thì tự thân phần lời ấy đã là một bài thơ. Nguyễn Đình Toàn viết nhạc, nổi tiếng với một số nhạc khúc, nhưng có lẽ những nốt nhạc được cất cánh từ những ý thơ ban đầu của Nguyễn Đình Toàn. Lời bản Tình Khúc Thứ Nhất đã là một thi phẩm trước khi kết hợp với phần nhạc của Vũ Thành An. *** Nguyễn Đình Toàn có bút hiệu ban đầu là Tô Hà Vân nhưng thành danh với tên thật và cũng là bút hiệu chính thức sau này; sinh ngày 6 tháng 9 năm 1936 tại huyện Gia Lâm, bên bờ sông Hồng, ngoại thành Hà Nội. Di cư vào Nam 1954, Nguyễn Đình Toàn bắt đầu viết văn làm thơ, viết kịch, viết nhạc, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học [trong nhiều năm, Nguyễn Đình Toàn phụ giúp Trần Phong Giao tuyển chọn thơ và truyện cho báo Văn]; Nguyễn Đình Toàn cũng viết feuilleton cho các nhật báo Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến; biên tập viên đài phát thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trong những năm 1970s. Sau 1975, cùng chung số phận như mọi văn nghệ sĩ Miền Nam, Nguyễn Đình Toàn bị bắt hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. Sang Mỹ định cư từ cuối năm 1998, Nguyễn Đình Toàn và vợ, chị Thu Hồng cùng phụ trách chương trình Đọc Sách cho đài phát thanh VOA, Nguyễn Đình Toàn còn viết cho tuần báo Việt Tide mục Văn Học Nghệ Thuật của nhà văn Nhật Tiến cho tới khi nghỉ hưu. Gia đình Nguyễn Đình Toàn hiện sống tại Nam California. Mời các bạn đón đọc Đồng Cỏ của tác giả Nguyễn Đình Toàn.
Yêu Tinh - Kim Eun Sook & Kim Su Yeon
"Một lời nguyền lãng mạn trói buộc Cô dâu và Yêu tinh…" Tựa như định mệnh đã sắp đặt, hai con người xa lạ bị cuốn vào với nhau. Thế nhưng kết cục và định mệnh chỉ ra lại là một lựa chọn thật bi thương. Càng muốn rời xa nhau, mối nhân duyên mạnh mẽ vốn được định sẵn từ rất lâu lại lần nữa đưa họ trở về với nhau. Và rồi, cả hai quyết định đấu tranh với số phận, làm trái lại ý Thần, thế nhưng… *** Yêu Tinh (Goblin) - một câu chuyện rất ý nghĩa và rất đáng xem, đáng đọc. Mình chỉ có ý định xem qua loa thôi nhưng ai ngờ mình lại bị cuốn theo câu chuyện li kỳ như thế . Rồi về sau bộ phim được xuất bản thành sách, mình lại cuồng bộ tiểu thuyết này luôn. Mỗi nhân vật đều mang một màu sắc riêng có vai trò riêng nhưng họ luôn gắn kết lại với nhau tạo nên 1 câu chuyện rất hay, mình nghĩ thiếu đi 1 trong những nhân vật đó thì chắc rằng câu chuyện sẽ không tạo nên sức hấp dẫn như vậy. Đầu tiên là mối tình giữa chú yêu tinh Kim Shin và cô dâu Eun Tak, một ông chú 900 tuổi và một cô bé 19 tuổi. Chú yêu tinh đã sống rất nhiều năm, đã phải mang trong mình tất cả những ký ức đau buồn. Chú trưởng thành như vậy nhưng đối với tình yêu, chú lại ngờ nghệch đến lạ.Cái tình yêu nó kéo dài hàng thế kỷ, và người buồn nhất chính là chú yêu tinh. Chú phải chờ đợi 1 lần rồi đến cả 2 lần. Đều là 1 mình chú chịu đựng, và mình cũng cảm thấy cô Eun Tak cũng rất đáng thương, hai người đều dành cho nhau những tình cảm chân thành, sâu sắc nhất nhưng lại phải trải qua quá nhiều đau khổ. Câu chuyện tình này được tái hiện có hạnh phúc và đau thương. Nhưng với mình đau thương bi đát nó quá lớn... Một chuyện tình nữa trong phim này đó là giữa cô chủ - thần chết. Mối tình giữa hài người cũng bi đát như vậy, nó kéo dài từ cả kiếp trước... Cái mối tình ấy có lẽ là sự trừng phạt của thánh thần đối với Thần chết vì đã gây ra lỗi lầm từ kiếp trước ấy. Họ gặp lại nhau khi đã không còn ký ức về nhau. Tưởng rằng sẽ êm đẹp cho đến khi mọi sư thật trong quá khứ được phơi bày. Liệu chuyện tình của họ sẽ như thế nào đây khi mà mang trong mình những lỗi lầm, sai trái. Qua đó mình thấy rõ hơn về luật nhân quả ở đời. Mỗi việc chúng ta làm đều được các vị thần nhìn nhận mà ta k thấy được các vị thần ấy ở đâu. Mọi việc làm sai trái của ta đều phải trả giá, trừng trị thích đáng. Vì vậy câu chuyện này cũng đã đem đến 1 cách sống rất đúng đối với chúng ta... Đây là một câu chuyện buồn nhưng rất rất hài hước trong quan hệ của các nhân vật, đặc biệt là giữa ông chú yêu tinh là thần chết . Cả hai đều rất “già”nhưng lại như những đứa trẻ vậy, rất hài hước, thú vị. Tất cả nhân vật từ yêu tinh, thần chết, cô dâu, chị chủ tiệm gà, người cháu của yêu tinh, ông già, thư ký....mỗi nhân vật đều tạo ra sức hút riêng, hấp dẫn riêng. Còn rất nhiều điều bí ẩn hay và ý nghĩa trong câu chuyện này mà mình k thể kể hết. Tóm lại đây là 1 bộ tiểu thuyết rất hay, rất cuốn hút. Mình rất vui khi nghe tin Shine xuất bản thành sách, đem đến cho mọi người câu chuyện ý nghĩa như vậy qua cuốn sách này.   Mời các bạn đón đọc Yêu Tinh của tác giả Kim Eun Sook & Kim Su Yeon.
Chuyện Con Mèo Và Con Chuột Bạn Thân Của Nó - Luis Sepúlveda
“Tôi có thể nói rằng Mix là con mèo của Max nhưng tôi cũng có thể tuyên bố rằng Max là con người của Mix.” Câu chuyện bắt đầu như thế. Gắn bó với nhau từ thủa thiếu thời, cho tới ngày Mix đã già và bị mù thì Max cũng tình nguyện không xê dịch bất cứ thứ gì trong nhà mình nữa. Thế nhưng đâu chỉ có chuyện người và mèo làm bạn cùng nhau! Max còn kết thân với Mex - một con chuột ba hoa lắm lời, còn cùng nhau dọa cho tên trộm sợ chết khiếp, cùng nhau thực hiện những chuyến phiêu lưu trên mái nhà để Mex ngộ ra rằng không phải cứ có cánh mới bay được! Dưới ngòi bút tài tình của Luis Sepúlveda, tình bạn tay ba Max-Mix-Mex đã được kể một cách đầy ngọt ngào, lôi cuốn, và “Cuốn sách đẹp đẽ này sẽ khiến lũ trẻ tan chảy và cả người lớn nữa. Đúng là một món khoái khẩu!” (La Croix) *** Mèo và chuột vốn là hai con vật “không đội trời chung” với nhau. Xưa nay, loài chuột chỉ cần nhìn thấy mèo là chạy bán sống, bán chết. Mấy chú mèo cũng chẳng kém cạnh, hễ nhác thấy bóng chuột là “đuổi cùng giết tận” chứ chẳng tha. Còn trong mắt con người, chuột là con vật gặm nhấm đáng ghét. Con người có thể làm bạn với mèo, nhưng không đời nào kết thân với chuột. Luis Sepúlveda đã làm thay đổi tất cả những định kiến đó bằng câu chuyện ngụ ngôn đầy cảm động Chuyện con mèo và con chuột bạn thân của nó. Nhân vật chính của tác phẩm là Mix, một con mèo già bị mù. Nhưng Mix không hề đáng thương chút nào, bởi bên cạnh chú mèo của chúng ta luôn có Max, một người chủ đồng thời cũng là một người bạn vô cùng tốt bụng. Max và Mix sống trong ở một căn hộ nhỏ, trên con phố yên tĩnh và rợp bóng cây. Hằng ngày, Max luôn để sẵn thức ăn vào bát của Mix trước khi đi làm để yên tâm rằng con mèo cưng của mình không bị đói. Để chắc chắn rằng Mix được an toàn, Max không bao giờ thay đổi vị trí đồ đạc trong nhà. Dù được ở bên một “người bạn” tốt bụng như Max, nhưng Mix vẫn cảm thấy cô đơn. Cho tới một ngày Mex, một con chuột giống Mexico xuất hiện và làm thay đổi chuỗi ngày nhàm chán của Mix. Từ đây, một con mèo già, bị mù, sâu sắc và biết lắng nghe làm bạn với một con chuột láu cá và thích kể chuyện. Hằng ngày, Mix và Mex rủ nhau ngồi trên bậu cửa sổ, Mex tả lại quang cảnh phố phường cho Mix nghe. Còn Mix thỉnh thoảng lại cõng Mex phi qua mái nhà, để chú chuột nhỏ tận hưởng cảm giác được bay lượn. Về phần Max, cậu thấy rất vui khi Mix có thêm một người bạn mới. Từ đó, trong căn hộ nhỏ, chàng thanh niên trẻ cùng một con mèo và một con chuột trở thành “bộ ba” thân thiết. *** Luis Sepúlveda sinh ngày 4/10/1949 tại Ovalee, Limari, Chile. Ông là một nhà văn, đạo diện, nhà báo và nhà hoạt động chính trị. Sau khi học Trung học ở Santiago, ông học ngành sản xuất phim tại Đại học quốc gia Chile. Ông hoạt động chính trị cùng đoàn thanh niên cộng sản từ năm 1961. Tác phẩm tiêu biểu: Lão Già Mê Đọc Truyện Tình - Luis Sepúlveda Chuyện Con mèo dạy Hải âu bay - Luis Sepúlveda Chuyện Con Ốc Sên Muốn Biết Tại Sao Nó Chậm Chạp - Luis Sepúlveda Chuyện Con Chó Tên Là Trung Thành Chuyện Con Mèo Và Con Chuột Bạn Thân Của Nó Kết thúc thế giới  Bóng tối của quá khứ chúng ta ... Giải thưởng: Ông già mê đọc chuyện tình – giải thưởng Premio Tigre Juan, một giải thưởng văn học cho các vấn đề sinh thái.  Giải Premio France Culture Etrangêre (1992), Premio Terra (1997), Premio de la Crítica en Chile (2001). Kết thúc thế giới: giải Premio Juan Chabás Chuyện con mèo dạy hải âu bay: giải Bernard Award Versele label (1998), 3rd Prize Salicornia Animals Book Festival for Youth (1998), Price Gabler Youth Book Fair 1997 in Concarneau Năm 2009: giải thưởng Premio Primavera de Novela cho tiểu thuyết La sombra de lo que fuimos (Bóng tối của quá khứ chúng ta) Mời các bạn đón đọc Chuyện Con Chó Tên Là Trung Thành của tác giả Luis Sepúlveda.
Nếu Một Đêm Đông Có Người Lữ Khách - Italo Calvino
Một cái kết mở thì rất nhiều nhà văn giỏi đã làm, nhưng một cái mở không tiến lên, thậm chí không kết, thì hình như chỉ một người như Italo Calvino mới dám biến thành trò chơi tiểu thuyết của mình. Làm cho một cuốn tiểu thuyết "đi tới" trong sự tiến triển hợp lý và đẹp đã là khó, nhưng giữ cho một cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh đứng yên ở ngưỡng bắt đầu còn khó hơn nhiều lần. Nếu một đêm đông có người lữ khách nhốt câu chuyện ngập ngừng trong vẻ tươi mới của sự khởi đầu trong suốt mấy trăm trang sách, buộc người đọc liên tục hào hứng với không ngớt những bước chân đầu tiên, dự cảm đầu tiên, đoán định đầu tiên. Cuốn tiểu thuyết từ khi ra đời đã giữ chân bao độc giả lòng vui sướng thỏa mãn ở ngay điểm xuất phát, và cũng là nguồn khai thác dồi dào cho không ít lý thuyết gia văn học nhìn thấy ở đây một trò chơi tài tình và một suy tư sâu sắc về bản chất của tiểu thuyết và văn chương. *** Đây là một tác phẩm của những sự khởi đầu, là một tập hợp bao gồm mười sự khởi đầu của mười cuốn tiểu thuyết khác nhau mà bạn không bao giờ biết được phần kết. Mười mảnh rời này được nối lại với nhau thông qua một câu chuyện mà trong đó bạn như là một người lữ khách đang làm cái công cuộc đi tìm một tác phẩm hoàn chỉnh, một văn bản thực thụ mà nó có vẻ như đang lẩn khuất đâu đó. Bằng phong cách hậu hiện đại, Italo Calvino đã phá vỡ mọi quy củ, mọi nét quen thuộc có được trong một cuốn tiểu thuyết truyền thống. Bên trong cuốn tiểu thuyết này lại xuất hiện những cuốn tiểu thuyết khác, rồi lần lượt mỗi cuốn tiểu thuyết xuất hiện bên trong đó lại bị ngắt quãng, việc ngắt quãng đó có chức năng như là một lối ẩn dụ mở rộng cho cái mỏng manh của sự bỏ lửng trong giao tiếp văn chương.   “Nếu một đêm đông có người lữ khách” là một tác phẩm hư cấu, nhưng lại có lối hành văn như thể nó là tập hợp của những bài tiểu luận. Thông qua một câu chuyện hư cấu về những câu chuyện hư cấu khác, Italo Calvino còn lồng vào đó những đoạn triết lí thâm trầm về sự đọc, sự viết, về vai trò của độc giả, của tác giả, và của sách. Ở đây, cái lằn ranh phân chia giữa độc giả, tác giả, nhân vật gần như bị xoá bỏ, người đọc cũng chính là nhân vật chính, còn tác giả cũng chính là người đọc. Có thể nói tác phẩm “Nếu một đêm đông có người lữ khách” này của Italo Calvino là một ví dụ tiêu biểu cho ý niệm “tác phẩm mở” mà Umberto Eco đã nêu ra vào năm 1962 trong tác phẩm Opera aperta (Tác phẩm mở) của mình, rằng những thông điệp trong những tác phẩm hoàn toàn mập mờ và những người thưởng thức tác phẩm, tức những người đọc, phải tham gia một cách chủ động hơn vào quá trình diễn giải và sáng tạo. *** Italo Calvino (1923–1985) tại Santiago de Las Vegas (Cuba), là nhà văn hậu hiện đại người Ý. Ông là con của hai nhà thực vật học Mario Calvino và Evelina Mameli (cháu của Goffredo Mameli) và em trai của Floriano Calvino, nhà địa chất học nổi tiếng. Khi còn trẻ, ông chuyển đến quê hương nước Ý và ở đấy gần suốt đời. Italo Calvino qua đời ngày 19 tháng 9 năm 1985. Tác phẩm: Nam Tước Trên Cây - Italo Calvino Tử Tước Chẻ Đôi - Italo Calvino Hiệp Sĩ Không Hiện Hữu - Italo Calvino Những thành phố vô hình Nếu Một Đêm Đông Có Người Lữ Khách Giải thưởng: Năm 1976 ông được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu.   Mời các bạn đón đọc Nếu Một Đêm Đông Có Người Lữ Khách của tác giả Italo Calvino.