Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Làm Bạc Giả

Paris, những năm đầu thế kỷ 20, định mệnh đã mang tên thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt… Không có một cốt truyện rõ ràng, không có một đường dây xuyên suốt, từ đầu đến cuối Bọn làm bạc giả là dòng chảy tùy hứng của số phận mà qua đó, bằng ngòi bút tài tình André Gide đã tạo nên một thế giới nhân sinh sâu thẳm, đi tới tận cùng vùng tăm tối trong bản thể con người. Được xem là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của Gide, cuốn sách này hàm ẩn cái chân lý văn chương trác tuyệt của ông và nhờ vậy mà trở nên bất tử. Nhận định "Bọn làm bạc giả là một cuốn bách khoa hiếm hoi về sự hỗn hoạn, nhu nhược và tuyệt vọng của nhân loại." - Nhà xuất bản Penguin Books "Tiểu thuyết của Gide mải mê chiêu đãi chúng ta một bữa tiệc đầy ắp những nốt nhạc và thanh âm, một mạng lưới chồng chéo những âm mưu và định mệnh. Nhưng sự hòa trộn đó không tạo nên một bản tạp âm chối tai mà là một phức điệu đích thực, một sự hỗn độn trong trật tự, hệt như một khúc fugue đầy biến động và vô phương hướng của Bach." - Giáo sư Robert Wexelblatt *** “Hình như họ muốn làm chúng ta tưởng rằng con người không có lối thoát nào khác ra khỏi tính ích kỷ, ngoài một lòng vị tha còn gớm ghiếc hơn! Tôi cho rằng nếu có cái gì đấy bỉ ổi hơn con người, và đê hèn hơn, thì đấy là số đông người. Chẳng có lí lẽ nào có thể thuyết phục được tôi là đem cộng những cá thể nhớp nhúa lại sẽ cho ra được một tổng thể tuyệt vời. Chẳng lần nào bước chân lên xe điện hoặc xe lửa mà tôi không ao ước xảy ra một tai nạn khủng khiếp biến cái đám người rác rưởi đó thành một đống nhão nhoét; ồ, kể cả tôi, tất nhiên…” ------------------- “Bọn làm bạc giả” là cuốn tiểu thuyết được coi như dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của André Gide. Chính bản thân tác giả cho rằng, đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong sự nghiệp của ông, bất chấp cả việc nó được viết  khi A. Gide đã 60 tuổi và có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ trước đó. “Bọn làm bạc giả” có nhiều tầng hình ảnh được đan lồng với nhau: những thiếu niên bị sa đà vào cuộc hoan vui; sự lưu hành tiền giả khiến người ta phải đặt ra câu hỏi: tiền giả chỉ đơn giản là tiền hay là sự phơi bày cảm xúc dối trá của con người; chuyện ngoại tình của các ông bố bà mẹ; chuyện sáng tác văn chương, chữa bệnh tâm thần bằng phương pháp tâm lí,…những vấn đề mang tính chất thời sự nóng hổi lúc bấy giờ. Cuốn tiểu thuyết mở ra từng dòng tự sự về thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt…Các nhân vật được xây dựng rất phức tạp với nhiều lớp lang về xuất thân, tư tưởng, hành động, tái hiện một bức tranh toàn cảnh đời sống tầng lớp thị dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.  “Bọn làm bạc giả” không được sắp xếp theo trình tự thời gian nhất định mà bị phá vỡ khi A.Gide đã đưa vào tác phẩm những trang nhật ký của nhân vật nhà văn Édouard. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm và tác phẩm tiếp theo đây cũng có cái tên “Bọn làm bạc giả”, nói cách khác, cuốn sách của A.Gide là tiểu thuyết bên trong tiểu thuyết .  *** Bernard tự nhủ: - Bây giờ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang thì phải. Hắn ngẩng đầu nghe ngóng. Không phải: cha và anh hắn ở lại tòa án, mẹ hắn bận đi thăm viếng, chị gái đi dự hòa nhạc; còn thằng út, thằng Caloub, thì trường học đã cầm chân hắn mỗi ngày sau khi bãi trường. Bernard Profitendieu ở nhà hì hục học thi tú tài, còn ba tuần lễ trước mặt hắn nữa thôi. Gia đình tôn trọng sự tịch mịch của hắn, ngạ quỷ thì không. Bernard đã cởi áo veston mặc ngoài mà vẫn khó thở. Từ khung cửa sổ mở ra đường, chỉ có sức nóng ùa vào. Trán hắn nhễ nhại. Một giọt mồ hôi chảy xuống sống mũi, và rơi xuống lá thư hắn đang cầm nơi tay. Hắn nghĩ: “Diễn trò nước mắt rồi đây. Nhưng thà chảy mồ hôi còn hơn là chảy nước mắt.” Phải, ngày tháng đã rành rành. Không nghi ngờ vào đâu được: thư liên quan đến Bernard, chính hắn. Thư gửi cho mẹ hắn, một lá thư tình mười bảy năm xưa, không kí tên. - Chữ cái này là nghĩa gì? Chữ V, cũng có thể là N lắm chứ... Có nên hỏi mẹ không?... Mình hằng tin tưởng ở sự biết điều của mẹ. Mình tự do tưởng tượng một ông hoàng nào đó. Còn hơn nếu vỡ lẽ mình là con của một tên ma cô nào thì sao? Không biết cha đẻ là ai, mình mới đỡ sợ phải giống ông ta. Mọi cuộc điều tra đều sinh trói buộc. Đáng kể chăng là sự nhẹ nhõm. Đừng đào sâu. Hôm nay thế cũng đủ cho ta rồi. Bernard gấp thư lại. Thư cùng một khổ giấy với mười hai lá thư khác trong gói. Một dải màu hồng buộc lại tất cả mà hắn không cần phải tháo ra, hắn chuồi thư vào đó để thắt cả xấp lại như cũ. Hắn đặt xấp thư vào chiếc hộp nhỏ rồi đặt chiếc hộp vào ngăn kéo bàn. Ngăn kéo không phải mở ra, nó đã tiết lộ bí mật bằng ngỏ trên. Bernard chắp nối những miếng rời của mặt gỗ đỡ tấm mã não phủ lên. Hắn nhẹ tay thận trọng, sập tấm mã não xuống, đặt lại lên trên đó hai giá đèn bằng pha lê cùng với chiếc đồng hồ kềnh càng mà hắn vừa mới đem ra sửa chơi. Đồng hồ gõ bốn tiếng. Hắn vặn lại cho đúng giờ. - Hai cha con ông dự thẩm và ông luật sư không về trước sáu giờ đâu. Ta đủ thì giờ. Thế nào cũng phải cho ông dự thẩm về thấy trên bàn tờ thư đẹp đẽ trong đó ta sẽ nói ý nghĩa sự ra đi của ta. Nhưng trước khi viết, mình thấy rất cần giải thông tư tưởng một chút đã và đi tìm gặp thằng bạn Olivier để cầm chắc một chỗ đậu, ít nữa là tạm thời. Olivier bạn thiết của ta ơi, đã đến lúc ta thử lửa tính chiều lòng của cậu và để cho cậu chứng tỏ giá trị của cậu với ta. Cái đẹp trong tình bạn của hai đứa chính là từ trước tới nay chúng ta chưa hề lợi dụng nhau. Nào! Yêu cầu giúp đỡ một việc ngộ nghĩnh chắc không đến nỗi tẻ nhạt. Phiền nỗi Olivier không ở một mình. Mặc, ta sẽ tìm cách tách riêng hắn ra. Ta muốn cho hắn hoảng kinh vì sự trầm tĩnh của ta. Chính trong cõi bất thường mình mới cảm thấy mình tự nhiên hơn hết. Con đường T..., nơi Bernard Profitendieu sống cho tới hôm nay ở gần sát vườn Luxembourg. Tại đây, cạnh hồ nước Médicis, trên lối đi nhìn xuống hồ nước, mấy đứa bạn hắn có thói quen hẹn nhau mỗi ngày thứ tư từ bốn đến sáu giờ, chuyện trò về nghệ thuật, triết học, thể thao, chính trị và văn học, Bernard bước đi rất nhanh, nhưng khi qua khỏi cổng vườn, hắn nhác thấy Olivier Molinier và lập tức chậm chân lại. Cuộc hội họp hôm đó đông đảo hơn lệ thường, có lẽ vì đẹp trời. Có vài đứa nhập bọn mà Bernard chưa quen. Mỗi đứa trong bọn trẻ này, hễ đứng trước cả bọn, là đóng một vai trò và hầu như mất hết tự nhiên. Olivier bừng đỏ mặt khi thấy Bernard đi tới và, khá đột ngột, hắn bỏ người thiếu nữ đang chuyện trò, lảng ra xa. Bernard là bạn thân thiết nhất của hắn, vì thế Olivier vô cùng thận trọng không làm ra vẻ gì là kiếm tìm hắn; đôi khi hắn còn vờ vĩnh không trông thấy Bernard nữa là khác. Trước khi tới với Olivier, Bernard phải đối đầu với nhiều nhóm, và chính vì cũng giả vờ không tìm kiếm Olivier nên Bernard còn chần chờ. Bốn đứa bạn trong bọn đang đứng quanh một đứa nhỏ người để râu đeo kính xấp xỉ lớn tuổi hơn mấy đứa kia, đang cầm cuốn sách. Hắn tên Dhurmer. Dhurmer ngỏ lời với một đứa trong bọn một cách đặc biệt hơn, nhưng lấy làm sung sướng rõ rệt vì được cả bọn lắng nghe. Dhurmer nói: - Mày nghĩ coi. Tao gắng tới trang ba mươi vẫn không thấy màu sắc gì hết, một chữ để mô tả cũng không. Chàng ta nói về một người đàn bà, áo đỏ hay xanh tao cũng chẳng hay chứ đừng nói gì. Tao, hễ không có màu sắc thì giản dị lắm, tao chẳng nom thấy gì. Và vì cần đại ngôn, nhất là vì hắn cảm thấy mình bị coi như mất bớt vẻ chững chạc, hắn nhấn mạnh: - Tuyệt đối không thấy gì hết. Bernard không để tai tới thằng khoa ngôn nữa, hắn xét thấy không nên bỏ đi quá vội, nhưng hắn đã bắt đầu nghe bọn kia cãi cọ ở sau lưng và Olivier trở lại nhập bọn sau khi bỏ rơi người thiếu nữ; một đứa ngồi trên chiếc ghế dài đọc báo Action Française. Olivier Molinier, giữa bọn chúng, sao trông trịnh trọng thế! Hắn vẫn là một trong mấy đứa nhỏ tuổi nhất. Khuôn mặt còn trẻ thơ và ánh mắt của hắn biểu lộ sự sơ khai của tư tưởng. Hắn dễ đỏ mặt. Tính tình đằm thắm. Dù hắn tỏ ra hòa nhã đối với mọi người, không hiểu một sự dè dặt khó hiểu nào đó, một sự e ấp nào đó vẫn ngăn cách hắn với bạn bè. Hắn khổ tâm vì điều đó. Không có Bernard thì hắn đã khổ hơn. Giống như Bernard lúc này, Molinier ghé vào từng nhóm một lát vì nể bạn, nhưng những điều hắn nghe, không có gì khiến hắn lưu tâm. Hắn nhòm qua vai thằng đọc báo. Bernard, không quay lại, nghe Olivier nói: - Mày không nên đọc báo, nó làm mày ứ huyết. Và tên kia đáp trả lại chanh chua: - Còn mày, hễ ai nói tới Maurras(1) là mày xanh mặt. Tiếp theo, một tên thứ ba, giọng giễu, hỏi: - Bộ mày thích những bài của Maurras sao? Và tên thứ nhất đáp: - Chán ngấy, nhưng tao thấy Maurras có lí. Kế đó, một tên thứ tư mà Bernard không nhận ra giọng: - Còn cái gì không làm mày ngấy, mày đều tưởng là thiếu bề sâu? Tên thứ nhất cãi lại: - Mày tưởng chỉ cần ngốc là chọc cười được ư? - Lại đây! - Bernard vừa nói nhỏ giọng, vừa đột ngột nắm lấy tay Olivier. Hắn kéo Olivier đi ra xa mấy bước. - Trả lời mau, mình có chuyện gấp. Cậu có nói với mình là cậu không ngủ cùng một tầng lầu với hai ông bà, đúng không? - Mình đã chỉ cửa phòng mình cho cậu rồi, cửa phòng mở ra ngay cầu thang, đi một nửa tầng lầu là lên nhà chính. - Cậu có nói em cậu ngủ chung với cậu? - Phải, thằng Georges. - Cậu và Georges không thôi? - Ừ. - Thằng nhỏ biết kín miệng không? - Nếu cần. Tại sao thế? - Là thế này. Mình đã bỏ nhà, hay nói đúng hơn, tối hôm nay mình sẽ bỏ nhà. Mình chưa biết đi đâu. Cậu có thể chứa mình một đêm không? Olivier mặt tái bệch hẳn ra. Chấn động quá mãnh liệt, hắn không đủ sức nhìn Bernard. Olivier bảo: - Được, nhưng đừng đến trước mười một giờ. Mỗi đêm má xuống thăm hỏi trước khi đi ngủ rồi khóa cửa. - Thế thì làm sao... Olivier cười: - Mình có chìa khóa khác. Cậu sẽ gõ cửa khe khẽ để khỏi đánh thức Georges nếu hắn ngủ. - Liệu bác gác cổng có để mình vào không? - Mình sẽ báo cho bác biết. Yên trí! Mình với bác ăn ý nhau lắm. Chính bác cho mình cái chìa khóa kia đấy. Hẹn gặp lại. Hai người từ giã không bắt tay nhau. Và trong khi Bernard bỏ đi, nghiền ngẫm lá thư muốn viết mà ông dự thẩm sẽ phải bắt gặp khi trở về, thì Olivier, vốn không muốn người ta bắt gặp mình đứng riêng với Bernard, nên tìm tới Lucien Bercail mà bọn kia để cho đứng hơi riêng rời. Nếu không yêu Bernard nhất thì Olivier đã yêu thích Lucien lắm đấy. Bernard bạo gan bao nhiêu thì Lucien rụt rè bấy nhiêu. Ai nấy cảm thấy Lucien yếu ớt, dường như hắn chỉ sống bằng trái tim và trí tuệ. Hắn ít khi có can đảm sấn sổ tới, nhưng hắn đã mừng ra mặt ngay khi thấy Oilivier lại gần. Lucien có làm thơ chăng, mọi người đều nghi hoặc; tuy nhiên thiết tưởng Olivier là kẻ độc nhất được Lucien thổ lộ dự định. Cả hai lần ra mé khuôn viên. Lucien bảo: - Tôi muốn làm sao thuật lại, không phải chuyện một nhân vật, nhưng câu chuyện về một địa điểm, - đấy, chẳng hạn câu chuyện một lối đi công viên, như lối đi này, thuật lại những gì xảy ra - từ sáng tới chiều. Trước tiên bọn giữ em đến, rồi bọn vú em đeo những tấm dải... Không, không hẳn... trước tiên là người toàn màu xám tất cả, không phân biệt đàn ông đàn bà tuổi tác, để quét dọn lối đi, tưới cỏ, thay hoa, tóm lại để sửa soạn sân khấu và trang trí trước khi cổng mở, anh hiểu chứ? Bấy giờ bọn vú em vào. Bọn bé con vọc cát cãi cọ, bọn giữ em tát bọn nhỏ. Kế đó là các lớp học nhỏ bãi ra... thêm bọn đàn bà thợ thuyền nữa. Có những kẻ nghèo khó đến ngồi ăn trên ghế. Sau đó là bọn thanh niên kiếm tìm nhau, bọn khác trốn tránh nhau, bọn nữa đứng ngồi riêng, tư lự. Và kế đó là dân chúng, vào lúc nhạc trỗi lên và lúc các nhà hàng đóng cửa. Bọn học sinh, sinh viên như hiện giờ. Buổi chiều, bọn tình nhân hôn nhau, có những kẻ chia tay khóc lóc. Cuối cùng, hết ngày, một cặp người già... Và thình lình, một hồi trống khua: đóng cổng. Mọi người đi ra. Kịch chấm dứt. Anh hiểu chứ: một cái gì đó cho mình cái cảm giác thôi hết rồi của mọi thứ, cái cảm giác của sự chết... nhưng vẫn không nói tới cái chết, cố nhiên. - Phải, tôi hiểu lắm, - Olivier đáp, hắn đang nghĩ tới Bernard chứ có nghe lọt chữ nào đâu. Lucien hăng say nói tiếp: - Chưa hết, chưa hết! Tôi muốn, trong phần coi như màn vĩ thanh, chứng minh chính cái lối đi này đây, ban đêm, sau khi mọi người bỏ đi hết rồi, thì thanh vắng, đẹp hơn ban ngày nhiều; trong cảnh im lặng mênh mông, mọi tiếng động trong thiên nhiên xuất thần: tiếng vòi nước, tiếng gió trong lá, và tiếng lảnh lót của con chim đêm. Ban đầu tôi nghĩ tới chuyện thêm vào đó những bóng tối, có lẽ thêm những bức tượng... nhưng tôi cho rằng như thế lại nhạt nhẽo hơn; cậu nghĩ sao? Mời các bạn đón đọc Bọn Làm Bạc Giả của tác giả André Gide.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tay Sát Thủ Mù
Giữa những sát thủ mù, người thằn lằn, ma nữ, tiểu thư thượng lưu, nghệ sĩ hiện đại, tư sản học làm sang, cựu  chiến binh, thủ lĩnh công đoàn, tài phiệt… Margaret Atwood cuốn người đọc qua một câu chuyện trải hơn một thế kỷ,  hai lục địa và vài hành tinh. Từ những mảnh tưởng chừng rời rạc, Atwood đã dệt nên một tiểu thuyết đáng kinh ngạc,  thêm một lần nữa khẳng định vị thế của bà như một trong những tiểu thuyết gia đương đại hàng đầu, người kể những  câu chuyện ly kỳ một cách xuất chúng.   Nhận định   “Nghệ thuật kể chuyện vĩ đại trên quy mô lớn… Tuyệt hay.” - The Washington Post Book World   Hãy tưởng tượng vị hãn Agha Mohammed, kẻ đã lệnh đem hạ sát hoặc chọc cho mù mắt toàn bộ dân thành Kerman, không từ một ai. Đội cận vệ hăm hở bắt tay vào việc. Chúng gom cư dân thành hàng, người lớn cắt đầu, trẻ con khoét mắt… Về sau, đàn đàn lũ lũ trẻ con mù rời khỏi đô thành. Một số, sau khi xiêu dạt nơi thảo dã, lạc đường trong sa mạc mà chết khát. Số khác tìm được tới nơi người ở… hát những bài ca về cuộc tận diệt gái trai già trẻ Kerman… - RYSZARD KAPUŚCIŃSKI   Ta bơi, biển khơi vô tận, nhìn chẳng thấy bờ. Tanit nguyệt thần không biết xót thương, ta nguyện cầu, người đền đáp. Hỡi kẻ kia chìm trong bể ái, hãy nhớ về ta. - KHẮC TRÊN BÌNH TRO THỜI CARTHAGE   Lời là lửa cháy trong lòng kính tối. - SHEILA WATSON *** TAY SÁT THỦ MÙ – BẤT CẦN VÀ SAY ĐẮM Có rất nhiều điều để nói về văn chương Margaret Atwood, một tên tuổi lớn khác của văn chương Canada hiện đại (cùng với Alice Munro). Chẳng hạn như lối viết hết sức chi tiết, nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sống động, cách dẫn dắt tài tình hay ngôn ngữ sắc lạnh và có phần giễu cợt nhưng chứa chan tình cảm. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất có lẽ là tính nữ đậm đạc trong các tác phẩm của bà. NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA BÀ GIÀ IRIS “Bà Iris Chase Griffen đã đột ngột tạ thế thứ Tư tuần trước, thọ 83 tuổi, trong ngôi nhà của mình ở cảng Ticonderoga. Bà Griffen là chị gái nữ tác giả danh tiếng người thị trấn là Laura Chase. Bên cạnh đó bà còn là con gái Đại úy Norval Chase, chắc chắn sẽ được thị trấn ghi nhớ lâu dài, và cháu nội Benjamin Chase, người sáng lập công ty Công nghiệp Chase, đã mở Nhà Máy Cúc cùng nhiều cơ sở khác. Thêm vào đó, bà là vợ ngài Richard E. Griffen quá cố, nhà công nghiệp và chính trị gia lừng danh, cũng như chị dâu bà, Winifred Griffen Prior, nhà hảo tâm Toronto vừa qua đời năm ngoái, để lại quỹ tiền thưởng hào phóng cho trường trung học thị trấn ta. Gia đình còn lại cháu gái bà là Sabrina Griffen, cô vừa về nước và nghe đồn là sắp tới thị trấn lo liệu công việc cho bà ngoại” (tr. 469) Đó là những dòng trích bản tin về cái chết của bà Iris Chase Griffen mà tờ Sứ điệp và Tinh kỳ thuộc Cảng Ticonderoga đã đưa, trong chương cận kề chương cuối cuốn tiểu thuyết Tay sát thủ mù của Margaret Atwood (An Lý dịch; Nhã Nam & NXB Hội Nhà văn ấn hành 2015). Một bản tin tóm lược, giới thiệu ngược trở lại các nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết. Laura Chase: em gái của Iris người đã qua đời ở tuổi 25, sau một tai nạn ô tô, hay có thể nói là tự lái xe lao xuống vực, để lại một bản thảo dở dang: Tay sát thủ mù. Iris, khi về già, lọm khọm, đơn độc, bị bệnh tim, luôn sống trong trạng thái bị phơi bày sự tan hoang của tuổi tác. Bà muốn náu mình, muốn quên lãng. Nhưng việc tình cờ tìm thấy bản thảo của Laura khiến quá khứ sống dậy. Từng trang bản thảo, mỗi khi giở ra, khiến bà nhớ lại, liên tưởng, ráp nối và “ngoan cường viết” như hiệu đính (những phần trong bản thảo dang dở của cô em Laura), bình luận và hoàn thiện, một cách tinh tế, hài hước, thậm chí có phần độc địa. Một thiên truyện trải dài gồm ba câu chuyện đan cài vào nhau như dệt vải kiểu ngẫu hứng, rất phong phú và bất ngờ. Từ thời thơ ấu, với những biến cố lớn lao như chuyện chiến tranh và những rung động đầu đời. Tưởng chẳng là bao, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng khi chạm vào sột soạt trang giấy, khi chữ dẫn đường cho cảm xúc, thì Iris nhớ lại, cảm xúc cứ dâng mãi lên như nước dâng lên lòng hồ, rồi tràn bờ đập lai láng, miên man. Và dần dần hé lộ những bí mật trong cuộc đời từng nhân vật. Cấu trúc “truyện lồng trong truyện” Atwood sử dụng không phải tân kỳ gì. Nhưng đây không phải là cuốn sách đặt nặng vấn đề kỹ thuật hay cấu trúc (mặc dù nó được tác giả tính toán khá thông minh). Đây có lẽ là một tuyệt tác về văn phong, cách hành văn điêu luyện chỉ có ở những bậc thầy. Cho nên, câu chuyện dẫu dằng dặc, đôi khi có cảm giác lê thê, ảm đạm như bánh xe lửa rin rít trên đường ray ngày mưa vẫn khiến người đọc bị mê hoặc, chìm đắm. Từng câu chữ được viết ra, từng trang văn được bày biện ngập tràn cảm xúc, tỉ mẩn đến từng chi tiết. Tuy nhiên, không chỉ có vậy, văn chương Atwood vừa viễn tưởng về phía tương lai vừa phảng phất chút phong vị cổ điển u hoài. Giở bất kỳ trang văn nào, người đọc cũng có thể bắt gặp những câu, đoạn văn hay và lạ, tỉa ra những đoạn kinh điển. Một đoạn tả thời tiết: “Cái nóng mùa Hè đã về đầy đủ, vánh lại trên thị trấn như súp kem. Tiết trời sốt rét, một thời; tiết trời thổ tả. Hàng cây che đường tôi đi xòe những tán ô rũ rượi, giấy ẩm nhớp dưới tay, chữ viết đâm râu tua tủa như son môi rỉ vào đường chân chim ven khuôn miệng già cỗi. Chỉ cần leo thang đã trổ một hàng ria mồ hôi”… (tr. 48) Hoặc: “Thảm dệt ra đời này sang đời khác đều nhờ trẻ con nô lệ, bởi chỉ có ngón tay trẻ con mới đủ nhỏ cho những động tác tinh vi đến thế. Nhưng những giờ dằng dặc sít sao khiến đám trẻ lên tám hay chín là thảy mù lòa, và người bán thảm dựa vào đó mà tính toán cũng như quảng bá giá trị hàng hóa. Tấm thảm này đã khiến mười đứa trẻ mù đấy, họ rao thế”. (tr. 24) Những câu văn đầy bi phẫn và hài hước, bóc trần tất cả, từ chuyện tình yêu, hôn nhân đến chính trị, nghệ thuật, tài phiệt qua giọng kể cay độc, tưởng như vô cảm của bà già “khó ưa” Iris. Không dễ gì tìm được một tác giả có giọng văn vừa ngầu đời, bất cần mà vừa lại thi vị và say đắm như vậy. Nó dường như lột tả hết tính cách nhân vật, cô gái tên Iris với một vẻ nhu mì cam chịu nhưng ẩn chứa một nội tâm nổi loạn, cá tính ngang ngạnh tiềm tàng với khát vọng tự do. Không tâm sự hay thở than, không một chút ai oán, Iris chính là hiện thân của tính nữ, mềm mại dịu dàng nhưng không bao giờ đầu hàng hay bỏ cuộc, với sự bền bỉ âm thầm và khôn khéo. Iris là kiểu phụ nữ bao nhiêu sức mạnh lặn cả vào trong để sự nhún nhường ra mặt chiến đấu. Cô kiên cường nhưng không lộ liễu, mạnh mẽ nhưng không phô phang, nữ tính nhưng không ẻo lả. Và vì bà là một nhà thơ, nên chúng ta có một cuốn sách đầy chất thơ và tính ẩn dụ, đồng thời có một cuốn sách gai góc, đầy những vết thương. Tấm vải mà Margaret dệt nên vừa mềm mại vừa thô nhám, vừa êm ái vừa đầy vết cứa. Nó chính là thế giới được chiếu rọi từ ánh sáng phát ra phía tâm hồn những người phụ nữ, đầy nhạy cảm nhưng rất can trường. Không nhiều, nhưng đủ để quàng chiếc khăn lên mình như khát vọng của chính họ, được cuộc đời ôm ấp và vỗ về đầy dịu dàng và đau đớn. Như khoác lên mình thứ mà thế giới này ưu ái dành cho họ, là tình yêu. Một tác phẩm đáng thưởng thức, như lời Margaret mượn của Sheila Watson đề từ: Lời là lửa cháy trong lòng kinh tối. *** Mười ngày sau khi chiến tranh kết thúc, Laura em tôi lái xe lao khỏi cầu. Cầu đang sửa, nó phi thẳng qua biển báo Nguy hiểm. Chiếc xe rơi ba chục mét xuống vực, bổ qua những ngọn cây lơ thơ trổ lá, rồi cháy đùng đùng lăn xuống lòng con suối nông choèn dưới đáy. Từng tảng ván cầu lả tả rơi lên trên. Em tôi không còn lại gì ngoài tro tàn than vụn. Tôi được tin từ một viên cảnh sát: xe là xe tôi, họ tra ra biển số. Anh ta tỏ ra lễ độ: hẳn nhiên anh ta nhận ra họ Richard. Anh ta nói có lẽ bánh bị kẹt vào rãnh xe điện hoặc phanh bị hỏng, nhưng anh cũng có bổn phận báo tôi biết có hai người - một luật sư về hưu và một thu ngân ở nhà băng, toàn những người đáng tin tưởng cả - tự nhận đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Họ cho biết Laura đã chủ động quành xe rất gắt, và đâm qua tường cầu thản nhiên cứ như đang bước trên hè xuống. Họ có nhận ra tay em tôi vẫn đặt trên vô lăng nhờ đôi găng trắng. Không phải tại phanh, tôi nghĩ. Nó có những lý do riêng. Không bao giờ giống lý do của ai khác. Về mặt đó nó tàn nhẫn vô cùng. “Tôi nghĩ các anh cần người nhận dạng,” tôi nói. “Tôi sẽ cố gắng xuống đó ngay khi được.” Tôi nghe giọng mình vang lên bình tĩnh, như từ xa vọng lại. Thực tế tôi hầu như không thốt được thành lời; miệng tôi tê dại, mặt sắt lại vì đau. Cảm giác như vừa đi nhổ răng. Tôi tức muốn điên vì việc Laura đã làm, và còn vì viên cảnh sát cả gan ám chỉ nó đã làm thế. Một luồng gió nóng đang cuộn quanh đầu tôi, những cọng tóc bị bốc lên ngoằn ngoèo trong gió, như mực loang trong nước. “Tôi e rằng sẽ có điều tra, thưa bà Griffen,” anh ta nói. “Tôi hiểu mà,” tôi đáp. “Nhưng đây là tai nạn thôi. Em gái tôi chưa bao giờ lái xe thành thạo cả.” Tôi hình dung khuôn mặt trái xoan của Laura, búi tóc cài trâm gọn, chiếc áo chắc hẳn nó mặc lúc ấy: áo chẽn eo cổ tròn khoét hẹp, một màu nghiêm nghị - xanh nước biển hoặc xám ánh thép, hoặc lá cây thứ màu hành lang bệnh viện. Những màu thống hối - nhìn không giống đồ tự chọn, mà như đồ ép mặc trước khi nhốt lại. Nụ cười nửa miệng nghiêm trang; đôi mày nhướng lên kinh ngạc, như là nó đang chiêm ngưỡng khung cảnh trước mắt. Găng tay trắng - cử chỉ học của Pontius Pilatus[1]. Nó đang rửa tay cho sạch khỏi tôi. Khỏi tất cả chúng tôi. Nó nghĩ gì khi chiếc xe bay bổng khỏi cầu, lơ lửng giữa hoàng hôn đầy nắng, lấp loáng như cánh chuồn trong khoảnh khắc nín hơi trước lúc bổ nhào? Nghĩ tới Alex, tới Richard, tới lòng man trá, tới cha chúng tôi và cuộc lụn bại của ông; có lẽ là tới Chúa, và cuộc thỏa thuận tay ba chết người của nó. Hay tới tập vở học trò rẻ tiền hẳn nó đã giấu vừa sáng hôm ấy, trong ngăn để tất của tôi, vì biết tôi sẽ là người tìm thấy. Khi viên cảnh sát đi rồi tôi lên lầu thay áo. Muốn tới nhà xác tôi cần găng tay, và mũ có mạng. Để che đôi mắt. Có thể sẽ có nhà báo. Tôi sẽ phải gọi tắc xi. Cũng cần báo trước cho Richard lúc này đang ở văn phòng; chắc sẽ muốn chuẩn bị trước vài lời ai điếu. Tôi vào phòng thay đồ: cần có đồ đen, và khăn tay nữa. Tôi mở ngăn kéo, nhìn thấy tập vở. Tôi tháo nắm chun chằng chịt buộc ngoài. Tôi nhận ra răng mình đang va lập cập, người mình đang lạnh từ đầu đến chân. Chắc đang bị sốc, tôi kết luận. Trong đầu tôi lúc đó nhớ lại Reenie, từ hồi chúng tôi còn nhỏ. Luôn là Reenie lo lấy bông băng, băng những vết trầy xước hay đứt tay và các thương tích lặt vặt khác: mẹ đang nghỉ, hoặc đi làm việc thiện ở đâu đó, nhưng Reenie thì luôn có mặt. Chị sẽ túm lấy chúng tôi đặt ngồi lên bàn men trắng trong bếp, cạnh chỗ bột làm bánh đang nhào hay con gà đang chặt hoặc con cá đang làm ruột, và dúi cho cục đường đen để chúng tôi ngậm miệng. Nói xem đau ở đâu nào, chị bảo. Đừng có rú lên nữa. Bình tĩnh lại rồi bảo cho tôi đau ở đâu. Nhưng có những người không thể nói được đau ở đâu. Không thể bình tĩnh lại. Thậm chí không thể ngừng rú lên. Mời các bạn đón đọc Tay Sát Thủ Mù của tác giả Margaret Atwood & An Lý (dịch).
Vào Trong Dòng Nước
Đừng vội an tâm trước làn nước lặng - Ta chẳng thể nào biết bên dưới giấu những gì   Người ta tìm thấy xác một người mẹ đơn thân dưới con sông chảy qua thị trấn. Đầu mùa hè năm đó, một cô bé tuổi teen cũng gặp số phận tương tự. Họ không phải là những phụ nữ đầu tiên chết trông dòng nước hắc ám ấy, nhưng cái chết của họ đã khuấy động bao bí ẩn từng chôn vùi nơi đây.   Vẫn bằng cách viết đưa đẩy và những hiểu biết chính xác về tâm lý con người từng khiến hàng triệu độc giả hâm mộ từ tác phẩm bestseller quốc tế Cô gái trên tàu, Vào trong dòng nước đã một lần nữa thành công vang dội trên trường quốc tế. Ly kỳ một cách tao nhã, chậm rãi mà không buồn tẻ, Vào trong dòng nước là một câu chuyện trinh thám đậm chất văn chương không chỉ về những vụ án mạng cần điều tra mà còn về những lắt léo trong tâm trí con người, tính dối lừa của xúc cảm và ký ức; và, trên hết thảy, sự hủy diệt của quá khứ đen tối khi nó trườn tới quấn lấy hiện tại.   “Hawkins, bị ảnh hưởng bởi Hitchcock, có con mắt điện ảnh và đôi tai cho một thứ ngôn ngữ lạ lùng gợi nhiều liên tưởng… Vậy nên hãy đắm chìm vào đây. Phần thưởng sẽ là một cái kết ấn tượng. Và một trải nghiệm đọc có thể sẽ khiến bạn phải suy nghĩ kỹ trước khi nhúng dù chỉ một ngón chân xuống những dòng nước đen tối và lạnh giá ấy.” —USA Today   “Khi nói đến một sự căng thẳng đến mức ta có thể dùng dao mà cắt, không ai có thể tạo ra nó giỏi hơn Hawkins.” —New York Post    “Hawkins thực sự có tài trong việc khai thác cái cách chúng ta liên tục lật lại các câu chuyện trong đầu mình, trong việc tạo ra những độc thoại nội tâm vừa phong phú vừa gần gũi… Một tiểu thuyết hấp dẫn, sống động, thuyết phục, giàu tính nhân văn và lòng trắc ẩn đến độ đáng ngạc nhiên.”  —The A.V. Club *** Về cơ bản lối kể chuyện gần giống “Chuyện Nàng Nola”, thiên về miêu tả tâm nội tâm của từng nhân vật. Không hề có những phân đoạn giật gân hành động hay đúng chất trinh thám (quan điểm cá nhân). Tác giả đứng trên góc nhìn và suy nghĩ của từng nhân vật để hé lộ từng chút bí mật mà mỗi nhân vật nắm giữ. Tuy nhiên mạch chuyện khá chậm chạp và lê thê, nội dung không có cao trào. Cách diễn đạt hay miêu tả không khiến mình hứng thú đọc. Mình nghĩ cái kết về một tên giết người hàng loạt hay một lý do logic duy nhất cho từng cái chết ở vũng sông sẽ hấp dẫn và thuyết phục hơn. Nếu chấm chuyện nàng Nola 9/10 thì vào trong dòng nước cá nhân mình đánh giá 3/10. Thanks for your time. Mi Ha Tran Có anh chị nào thích Cô gái trên tàu không nhỉ? Nếu thích CGTT (nót Cô Giáo Thanh Thảo), chắc các anh chị cũng sẽ thích cuốn này. Tiếc rằng tôi, vì cảm tình với CGTT không đậm đà lắm nên tình cảm với tác phẩm này cũng chẳng mặn mà gì :(( Cô gái tuổi teen Katie Whittaker được vớt lên từ vùng nước được dân địa phương gọi là Vũng Sông Chết Đuối, đã chết. Vài tháng sau, bà mẹ đơn thân Nel Abbott cũng chết ngay ở vũng sông ấy, chân gãy, lưng gãy, tổn thương nội tạng. Cạnh vùng nước tử thần đó là vách đá cao tới 55m. Truyền thuyết cổ xưa kể lại, vũng sông đó là nơi người ta chuyên dìm những người phụ nữ bị cho là phù thủy xuống, nếu họ nổi mà không chìm, đích xác họ là phù thủy (tự nhiên khiến tôi liên tưởng rất nhiều tới 1 thứ bẩn thỉu hỡi ôi) :v Nhìn chung thì tôi thấy rằng đây là 1 cuốn tiểu thuyết khá, với cách viết đầy sáng tạo (mặc dù nó chỉ là 1 phiên bản nâng cấp của CGTT). Câu chuyện được kể dưới góc nhìn của nhiều nhân vật, liên tục hoán đổi cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Những trường đoạn tự sự đầy đau đớn, dằn vặt và tuyệt đẹp. Nhưng thực tế thì cấu trúc của tác phẩm này đơn giản. Tôi đã đoán được hehe nói ra ngại quá, gần chính xác cái kết khi mới chỉ đi đến 2/3 nội dung truyện, dù nỗ lực của tác giả là muốn che đậy từ đầu đến cuối. Nhưng chính vì tôi nhận thấy cấu trúc của truyện đơn giản nên tôi cảm giác những màn tung hỏa mù của tác giả đôi lúc thật sự rối rắm. Dẫu sao, cách triển khai tâm lý nhân vật rất đáng ghi nhận. Thế này nhé, nếu anh chị mà muốn đọc 1 cuốn sách thật sự kinh dị, thật sự kịch tính và đầy hành động, tôi xin có lời khuyên đừng tìm đến cuốn sách này làm gì. Mọi thứ còn lại đều thực sự ổn. Vậy thôi ^_^ *** Vũng Sông Chết đuối Libby “Lại lần nữa đi! Lại lần nữa đi!”   Đám đàn ông trói cô lại lần nữa. Lần này khác: ngón cái bàn tay trái với ngón cái bàn chân phải, ngón cái bàn tay phải với ngón cái bàn chân trái. Dây thừng thắt quanh eo. Lần này, họ mang cô vào trong dòng nước. “Xin làm ơn,” cô bắt đầu cầu xin, bởi vì cô không chắc có thể một lần nữa đối mặt với nó, làn nước đen cùng cái lạnh giá. Cô muốn quay trở về với mái ấm đã không còn tồn tại nữa, quay trở về cái thời cô cùng người dì còn ngồi trước lò sưởi kể chuyện cho nhau nghe. Cô muốn ở trên giường của cô trong ngôi nhà nhỏ của hai dì cháu, cô muốn trở về thời thơ ấu, muốn được hít mùi khói củi, mùi hoa hồng cùng hơi ấm ngọt ngào từ làn da dì. “Xin làm ơn.” * Cô chìm xuống. Đến lúc họ lôi cô lên lần thứ hai, môi cô đã tím tái, còn hơi thở cô đã tắt vĩnh viễn. Mời các bạn đón đọc Vào Trong Dòng Nước của tác giả Paula Hawkins & Huyền Vũ (dịch).
Lễ Vật Kinh Hoàng
Câu chuyện mở đầu bằng cái chết của một bé gái sơ sinh cùng những phản ứng kỳ lạ của gia đình đứa trẻ. Ban đầu nguyên nhân tử vong được cho là do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS), nhưng một dấu hiệu đáng ngờ xuất hiện trên mặt bé dẫn cảnh sát đi đến kết luận: đây là một vụ giết người. Cha của bé gái bị bắt khi đang cố mang xác bé chạy trốn và cụ ngoại của bé khăng khăng rằng hung thủ là “Inguma” – một ác ma trong thần thoại xứ Basque, tước đoạt mạng sống của con người trong lúc họ đang ngủ. Qua 1500 trang sách, nhân vật chính Amaia Sazalar đã để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc yêu thương và ngưỡng mộ về một nữ thanh tra tài năng, gan góc nhưng lại có tuổi thơ bất hạnh đến ám ảnh. Chính những trải nghiệm của bản thân đã làm nên một Amaia quyết đoán và luôn hành động độc lập, và nó khiến cho các đồng nghiệp của chị cảm thấy không hài lòng. Khi Amaia quyết định mở rộng điều tra các trường hợp trẻ sơ sinh dưới hai tuổi chết do SIDS trong thung lũng Baztan những năm gần đây, chị nhanh chóng tìm ra điểm tương đồng đáng ngờ và khiến cuộc điều tra rơi vào mớ rắc rối đáng lo ngại. Sự dối trá, phản bội và nghi kỵ nhau bắt đầu len lỏi bên trong từng thành viên của đội điều tra án mạng. Tạm xa vai trò của một người vợ, người mẹ, Amaia trở về nơi mọi sự bắt đầu để đối mặt với bóng ma quá khứ của mình và khám phá ra sự thật khủng khiếp đã hủy hoại thung lũng Elizondo xinh đẹp trong nhiều năm qua. *** Sau Vệ sĩ vô hình và Mối bất hòa truyền kiếp, tác giả Dolores Redondo cho ra mắt bạn đọc tập tiếp theo và cũng là tập cuối cùng trong xê ri tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztán. Câu chuyện mở đầu bằng cái chết của một bé gái sơ sinh cùng những phản ứng kỳ lạ của gia đình đứa trẻ. Ban đầu nguyên nhân tử vong được cho là do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS), nhưng một dấu hiệu đáng ngờ xuất hiện trên mặt bé dẫn cảnh sát đi đến kết luận: đây là một vụ giết người. Cha của bé gái bị bắt khi đang cố mang xác bé chạy trốn và cụ ngoại của bé khăng khăng rằng hung thủ là “Inguma” – một ác ma trong thần thoại xứ Basque, tước đoạt mạng sống của con người trong lúc họ đang ngủ. Qua 1500 trang sách, nhân vật chính Amaia Sazalar đã để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc yêu thương và ngưỡng mộ về một nữ thanh tra tài năng, gan góc nhưng lại có tuổi thơ bất hạnh đến ám ảnh. Chính những trải nghiệm của bản thân đã làm nên một Amaia quyết đoán và luôn hành động độc lập, và nó khiến cho các đồng nghiệp của chị cảm thấy không hài lòng. Khi Amaia quyết định mở rộng điều tra các trường hợp trẻ sơ sinh dưới hai tuổi chết do SIDS trong thung lũng Baztan những năm gần đây, chị nhanh chóng tìm ra điểm tương đồng đáng ngờ và khiến cuộc điều tra rơi vào mớ rắc rối đáng lo ngại. Sự dối trá, phản bội và nghi kỵ nhau bắt đầu len lỏi bên trong từng thành viên của đội điều tra án mạng. Tạm xa vai trò của một người vợ, người mẹ, Amaia trở về nơi mọi sự bắt đầu để đối mặt với bóng ma quá khứ của mình và khám phá ra sự thật khủng khiếp đã hủy hoại thung lũng Elizondo xinh đẹp trong nhiều năm qua.  Tác giả Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả trinh thám được đọc nhiều nhất tại Tây Ban Nha năm 2017 Bà là một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. Nhận xét của báo chí: Một tác phẩm bộ ba xuất sắc… một cuốn tiểu thuyết nổi bật… vô cùng lôi cuốn.                                                             (Sunday Times – Sách trong tháng ) Nhiều khía cạnh trong nhân cách được miêu tả rất hấp dẫn và đầy sức thuyết phục.                                                                         (Publishing Perspectives) Văn phong rất đẹp, uyển chuyển và duyên dáng.                                                                         (Raven Crime Read blog) Trích đoạn hay: Trích đoạn 1: [Sau khi chọn rượu vang, James và Amaia hài lòng thưởng thức không khí trong nhà hàng một lát. Họ không đả động đến đề tài tang lễ, và tránh làm tăng thêm sự căng thẳng hiển hiện giữa họ chiều hôm ấy. Họ biết là cần nói chuyện, nhưng có một thỏa thuận ngầm là đợi cho đến khi chỉ còn hai người. – Cuộc điều tra thế nào rồi? – James hỏi thăm. Chị nhìn anh, cân nhắc nên trả lời ra sao. Từ khi gia nhập lực lượng cảnh sát, chị thận trọng không bao giờ bàn bạc công việc của mình với gia đình, và họ biết không nên hỏi. Chị không muốn nói chuyện với James về những khía cạnh đáng sợ trong nghề nghiệp của mình, cũng như tốt hơn hết là không nhắc tới những sự kiện trong quá khứ của mình, dù James đã biết. Chị thấy khó nói về thời thơ ấu, và trong nhiều năm chị chôn vùi sự thật dưới vỏ ngoài giả dối. Khi các rào chắn kìm giữ mọi nỗi kinh hoàng mở toang, đưa chị tới ngưỡng lành mạnh, có thể thổ lộ với James về kẽ nứt trên bức tường sợ hãi cho phép ánh sáng tràn vào, tạo ra một chỗ cho họ sát bên nhau, một chỗ đưa chị trở lại cõi đời mà nếu thận trọng, những bóng ma cũ có thể không chạm được đến chị. Song, Amaia luôn biết rằng nỗi sợ không bao giờ mất đi hoàn toàn, nó chỉ co lại vào một nơi tối tăm, nhớp nháp và chờ đợi, giảm bớt thành một tia sáng màu đỏ nhỏ xíu có thể vẫn trông thấy dù không muốn, dù ta không thừa nhận sự tồn tại của nó, vì nó cản trở ta khỏi cuộc sống. Chị cũng biết nỗi sợ là việc cá nhân, dù có nói đến đâu hoặc đặt tên nó là gì đi nữa, nó cũng không ra đi; câu nói cũ, sáo mòn “gánh nặng chia đôi sẽ còn một nửa” không áp dụng ở nơi dính líu đến nỗi sợ. Chị luôn tin rằng tình yêu sẽ chiến thắng mọi thứ, sẽ mở toang cánh cửa và chị sẽ tự bộc lộ với James mọi gánh nặng trong quá khứ. Giờ đây, ngồi đối diện với anh, chị vẫn nhận ra anh chàng điển trai mà chị yêu say đắm. Người nghệ sĩ tự tin, lạc quan không bị ai muốn giết, nhìn nhận mọi sự việc với cung cách đơn giản gần như trẻ thơ, cho phép anh đi theo một con đường không thay đổi, chắc chắn không bị những hành động tàn ác tấn công. Nó cho phép anh tin rằng chỉ cần lật sang trang, chôn vùi quá khứ hoặc nói chuyện với một bác sĩ tâm thần trong nhiều tháng về việc mẹ đẻ thèm ăn thịt mình là sẽ giúp chị vượt qua nỗi sợ, sống trong một cõi đời có những đồng cỏ xanh tươi và bầu trời xanh biếc, chống đỡ bằng những thiện ý đơn giản là nó phải như thế. Kỳ vọng hạnh phúc là một lựa chọn khiến chị ngỡ ngàng vì nó ngây thơ, gần như là xúc phạm.] Trích đoạn 2: [Toàn thân Amaia run rẩy. Chị cảm thấy các cơ lưng căng cứng, sự căng thẳng chạy suốt hệ thần kinh như một dòng điện, đổ về các đầu ngón tay, cho chị một cảm tưởng lạ lùng, bất cứ lúc nào chúng cũng có thể nổ tung, giải phóng sức sống mãnh liệt này. Bụng Amaia quặn thắt, miệng khô khốc, không khí trong xe không đủ rót đầy phổi chị. Chị đỗ xe bên ngoài nhà Markina, chắn lối ra, và trở lại con đường nhỏ lát đá, cảm thấy nôn nao theo từng bước, lúc tim chị đập thình thịch trong ngực, rộn ràng trong tai. Amaia bấm chuông, kiên quyết và ăn năn bằng nhau, chị hồi hộp đợi lúc cố làm dịu nỗi lo đang đe dọa nhấn chìm chị. Lúc Markina mở cửa, ông vẫn đi chân không, tóc ông đã khô, rối bù xõa xuống vầng trán. Ông không nói gì, chỉ đứng nhìn chị, mỉm cười bí ẩn. Chị cũng không nói gì, nhưng giơ bàn tay lạnh giá cho đến lúc những ngón tay chị chạm vào miệng ông, vào đôi môi mềm mại, ấm áp của ông. Dường như khóe miệng ông trở thành mục tiêu của chị, định mệnh của chị, nơi nghỉ ngơi duy nhất của chị. Ông siết chặt tay chị, như sợ bỏ lỡ mối kết nối này, rồi đẩy cửa khép lại sau chị, đưa chị vào trong nhà. Đứng trước mặt ông, những ngón tay chị ép vào môi ông, chị ngập ngừng vài giây, tìm lời có nghĩa để nói, nhưng chị biết lúc này không thể cất nên lời, chị phải chịu thua một giọng nói khác, một ngôn ngữ khác, và như một người ngoài cuộc, chị chưa bao giờ có thể chia sẻ với ai. Rút tay khỏi môi ông, chị soi mình trong mắt ông, nó nhìn lại chị với vẻ sợ hãi và phấn khích. Chị táo bạo tiến tới, cơ thể họ bùng nổ, mắt nhắm lại, ông ôm chị, run rẩy. Ngước nhìn Markina, Amaia biết rằng chị có thể yêu người đàn ông này… Chị tuột chiếc áo khoác ướt và nắm tay ông, đưa ông tới phòng ngủ. Ánh sáng lọt qua tấm rèm chỉ đủ để nhận ra đường nét của đồ đạc nặng nề; chị kéo rèm, để bầu trời u ám chiếu sáng cả phòng. Lúc đứng cạnh giường, ông ngắm chị với một vẻ khiến chị phát điên, song ông vẫn không mỉm cười. Chị cũng thế. Mặt chị để lộ vẻ bứt rứt vì biết mình đang bầu bạn với một người ngang sức ngang tài. Chị đến gần hơn, đăm đăm nhìn ông, bị sự thống khổ mới mẻ chiếm lĩnh. Chị ngượng nghịu mơn trớn ông, mất tự tin khi nhận ra mình trong ông, nhận biết rằng chị ở đó vì lần đầu tiên trong đời, chị có thể thực sự bộc lộ bản thân, không chỉ trút bỏ quần áo mà cả gánh nặng cuộc sống ngượng ngùng, và lúc làm thế chị thấy mình phản chiếu trong ông như trong một tấm gương vậy. Chị biết mình chưa bao giờ khao khát bất cứ người nào theo kiểu này, chưa bao giờ trải qua sự mong mỏi nung nấu này với cơ thể một người đàn ông…] Trích đoạn 3: [Jonan Etxaide, Jonan, người bạn thân nhất của chị, có lẽ là người tinh tế nhất mà chị biết, đang nằm ngửa, tay chân dang rộng giữa một vũng máu lớn. Anh bị bắn hai phát. Một vào ngực như Montes nói, ngay dưới xương ức. Vết đạn đen ngòm và tương đối sạch, hầu hết máu chảy từ chỗ thoát ra. Phát đạn kia vào trán, để lại một vết tròn, làm mớ tóc màu hạt dẻ trên đỉnh đầu anh bết lại thành một đống đông cứng. Amaia tới gần, vẫn nắm chặt vũ khí và sửng sốt thấy nhiều cảnh sát khác trong phòng khách. Vào lúc đó, Amaia đã cố hết sức không thở, song không thể giữ lâu hơn được nữa. Chị hít vào, đem lại sự sống cho sinh vật đó, nó dâng lên tận cổ họng, làm chị nghẹn thở lúc há miệng và đành để nỗi kinh hoàng trong lòng mình thoát ra. Amaia cảm thấy đang bị ngạt thở. Nỗi đau mãnh liệt đến mức làm mắt chị ngứa ngáy lúc ngụm không khí cuối cùng rời khỏi phổi chị, nung đốt cổ họng chị. Đầu chị quay cuồng, và chị quỵ xuống cạnh tấm thân không còn sự sống của Jonan Etxaide. Rồi, nỗi đau nặng trĩu trong lòng chị đã thoát. Khi những giọt lệ trào ra, Amaia ngả người, mở mắt và trông thấy bàn tay nhợt nhạt của Jonan đặt trong vũng máu đen ngòm, gương mặt tuấn tú của anh đeo mặt nạ của người chết, khuôn miệng tái nhợt của anh hé mở, đôi môi không còn màu sắc. Cơn đau nhói khiến chị siết chặt tay vào ngực. Chỉ đến lúc đó, Amaia mới nhận ra mình vẫn đang cầm súng. Chị nhìn xuống, không biết nên để vào đâu… Chúng ta không có kinh nghiệm để nhận ra điều đó. Có một khoảnh khắc, một sự kiện, một lời nói, một cử chỉ, một cuộc điện thoại làm thay đổi mọi thứ. Khi nó xuất hiện, khi nó xảy ra, khi được nói nên lời, nó phá vỡ nguyên tắc chúng ta tưởng đang dẫn dắt cuộc sống của mình, khiến ta phải đối mặt với thực tế, phá hủy mọi dự định ngây thơ cho tương lai. Mọi thứ ta ngỡ là vững chắc đã sụp đổ, mọi nỗi lo toan trên đời dường như ngớ ngẩn, vì thứ bất biến duy nhất là sự hỗn loạn buộc ta phải chịu thua một cách nhún nhường trước uy quyền tối thượng của thần chết. Amaia không thể ngừng nhìn cái xác, nếu không trí lực của chị sẽ ngay lập tức phủ nhận và gào lên: không, không, không! Vì thế, chị bắt mình phải nhìn, dằn vặt mình bằng cảnh tượng mắt Jonan nhắm nghiền, da anh, môi anh tái nhợt, lúc này khô nứt, những cái lỗ đen sì khủng khiếp, nơi cái chết lọt vào, thứ máu quý giá của anh đông bết lại thành vũng đen sì, nhầy nhụa. Chị vẫn quỳ cạnh anh, không nhúc nhích, ngắm gương mặt của người bạn thân nhất, chịu thua cảm giác đau thương đã bắt chị làm con tin, chị nhận ra mình sẽ không bao giờ phục hồi vì cái chết của Jonan, nỗi đau mất anh sẽ vĩnh viễn như một cái gai nhọn trong tim chị. Nhận thức này giống như một gánh nặng, song chị phải tiếp nhận tai họa, cảm kích vì đã quen biết anh một thời gian và nuối tiếc vì anh đã ra đi mãi mãi.  NXB Phụ Nữ Mời các bạn đón đọc Lễ Vật Kinh Hoàng của tác giả Dolores Redondo & Đinh Thanh Vân (dịch).
Bí Ẩn Ở Styles
Vụ án bí ẩn ở Styles là tiểu thuyết hình sự đầu tay của nhà văn trinh thám Anh Agatha Christie. Cuốn sách được nữ nhà văn viết năm 1916 và được hãng John Lane xuất bản lần đầu tại Hoa Kỳ tháng 10 năm 1920. Tại Anh, tác phẩm được nhà xuất bản The Bodley Head xuất bản lần đầu ngày 1 tháng 2 năm 1921. *** Review THẢM KỊCH BÍ ẨN Ở STYLES - Agatha Christie The Mysteriuos Affair at Styles  Người dịch: #Thảm_Kịch_Bí_Ẩn_Ở_Styles #Agatha_Christie #SeriesHerculePoirot #Trinhthamcodien ------------------ Nhân dịp Trẻ vừa phát hành thêm 2 cuốn mới về Poirot, xin được phép đăng review về lần xuất hiện đầu tiên của vị thám tử đầu quả trứng, coi như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng thân thiện để khuyến khích Trẻ xuất bản trọn bộ Agatha nhanh hơn.