Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lang Thang Chữ Nghĩa - Tập 2

  Tạp văn Lang thang chữ nghĩa Phan Huy Đường 1.Ngày ngày Lang thang chữ nghĩa Trong văn học Pháp, Lang thang chữ nghĩa thuộc loại Carnet của nhà văn, thi sĩ, triết gia. Lúc viết, họ hay giả vờ : ghi cho mình đừng quên thôi, không có ý đăng. Như Pensées của Pascal ấy mà. Nhưng nhiều người thầm kín mong sẽ được người đời đăng và quan tâm, thậm chí mê, sau khi mình đã đi chầu Diêm Vương. Ở Alain, thường là những châm ngôn (aphorismes). Ở Sartre thì mỗi đề tài són thành vài... trăm trang : Carnets de la drôle de guerre, Carnets pour une morale et tutti quanti. Sartre trung thực với triết lý của chàng khi chàng cho phép đăng tất cả thư từ, bản nháp et tutti quanti mà chàng đã từng viết : chúng đã từng là (est été) chính mình, sao phải phụ nhận chúng ? Ở tôi, Lang thang chữ nghĩa là triết dưới hình thái... mì ăn liền ! Nó chỉ khác mì ăn liền thông dụng ở một điểm thôi : thiếu bột gia vị phong phú của công nghiệp đánh chén. Muốn thưởng thức nó một cách trọn vẹn, phải tưới nước dùng độc nhất hợp khẩu vị với nó : Tư duy tự do (Nxb Đà Nẵng, 2006) và http://amvc.free.fr/PHD/TDTD/TuDuyTuDoTable.htm. 2009-05-30. PHD 2.Ngôn ngữ đời thực và nghệ thuật bằng ngôn ngữ Ngày nào con người biết nói chuyện thật thà với nhau vì biết tin cậy, quý trọng và trìu mến nhau bất kể khác biệt thậm chí đối kháng nhau, ngày ấy thơ văn tiêu vong. Chính vì ngôn ngữ chính trị và ý thức hệ, trong đó có thơ văn, là công cụ hữu hiệu nhất cho phép con người lừa nhau, giả dối với đời, giả dối với chính mình, một cách rất văn chương, mà trong thế giới ngôn ngữ[1] còn có đất sống cho thơ văn. Khi người ta gọi một kế hoạch đào thải con người ra ngoài xã hội, biến nó thành kẻ thất nghiệp, không cần thiết nữa cho xã hội – môi trường tồn tại, nên người và làm người của nó – và, vì thế, không có quyền kiếm ăn để tồn tại bằng lao động của mình, không có quyền sống như một con người, là kế hoạch xã hội tính (plan social, hàm ý : một kế hoạch nhân ái bảo vệ con người trong xã hội), thơ văn sẽ còn điều đáng nói với người đời. Sau đó, chỉ còn những điều chưa hề có ai nói tới mà vẫn đầy người khát khao hướng tới, trên khắp thế giới, ở cả loài người hôm nay. Như em chẳng hạn, hè hè. Khó lắm đấy, bạn đời văn chương Ziao Chỉ ơi… Có mấy nhà văn nhà tư tưởng Ziao Chỉ đã làm được điều ấy cho người đời không Ziao Chỉ trong thế kỷ 20-21 ? Trong lĩnh vực tư tưởng, nếu có, ta xin lạy thầy cho con được làm đệ tử. Trong khi chờ đợi, ta đành lang thang chữ nghĩa. Bạn đời ơi, hãy cùng ta lang thang nhé. Chẳng vinh hiển gì, nhưng cũng zui zui, và chẳng chết ai cả. Biết đâu cũng có lúc gặp nhau. Ngoài chuyện ấy, ta chẳng là gì, có gì, còn ai. Hè hè… 2009-04-09.PHD [1] quan hệ hoàn hảo nhất giữa người với người trong tư cách người. Không có nghĩa là tốt đẹp nhất, chỉ có nghĩa là đầy đủ nhất, kể cả dưới dạng "nghệ thuật" nhất, đểu nhất : văn chưong. 3. Quán tính của ngôn ngữ Ta tư duy bằng ngôn ngữ. Quan tính của ngôn ngữ của người đời trong đầu ta, rất đáng sợ. Nhưng quán tính của ngôn ngữ của chính ta trong đầu ta, có lúc còn đáng sợ hơn. Ta bấp bênh tự do giữa hai sự lệ thuộc ấy. 2009-04-11.PHD 4.Một loại nhà văn Chúng ta nặng tình chữ nghĩa, sống với nội tâm nhiều hơn với đời thực người thực. Chữ nghĩa quay cuồng trong đầu ta, tỏa vào cơ thể, lộ thành nét vui nỗi buồn trong vẻ mặt, hơi thở, cử chỉ, lời nói… Thỉnh thoảng tuôn vào ngòi bút. Năm thì mười họa biến thành văn. Máu thịt của ngôn từ ở ta là như thế. Nó cũng cho phép con người thương nhau. 2009-04-13.PHD 5.Ngôn ngữ của tiềm thức Khi viết văn tiếng Việt hay tiếng Pháp, tôi không bao giờ dịch từ tiếng này qua tiếng kia. Tuy vậy, trong văn tiếng Việt của tôi, thỉnh thoảng có cách nói đúng là "Tây con". Rõ ràng tiếng Pháp đã ngấm vào tiềm thức của tôi nên ngay khi viết chính mình bằng tiếng Việt, nó cũng hồn nhiên tự phát. Trong lĩnh vực này, con người chưa tự do ở đó. Nó mãi phải vươn tới tự do ngay ở chính mình. Thỉnh thoảng đọc văn tiếng Pháp của mình, tôi phát hiện điều ngược lại : rõ ràng có ý, có câu, gốc gác VN. Tôi không bao giờ sửa : đó là tiếng Pháp của tôi và tôi không có nhu cầu đầu quân Hàn lâm viện Pháp. Giao lưu văn hoá có thể như thế đó. Học thuyết Darwin hiện đại hoá + Khoa học về neuron + Ngôn ngữ học có thể giải thích được Freud lắm. Nếu như Marx nói, "gốc gác của con người chính là con người"[1], thì bản-thể của ta là ngôn ngữ của loài người đọng ở trong óc não của ta. Ngoài vài tiếng nói đang tiêu vong của các bộ lạc đang ngắc ngoải trong rừng thẳm vùng Amazonie, mọi ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt, đều lai căng vì không ngôn ngữ nào phát triển và tồn tại được cho tới ngày nay một cách biệt lập với các ngôn ngữ khác. Ai muốn đi tìm bản-thể của mình, chỉ cần trực diện đối đầu với ngôn ngữ đanh hoành hành trong đầu mình, tri phối tình cảm và tư duy của chính mình. Không dễ nhé, bạn đời ơi. 2009-04-13.PHD [1] Mais la racine pour l’homme, c’est l’homme lui-même. Marx Engels, Études Philosophiques, Éditions Sociales, 1974, p. 27 6. Sợ - 2 Nỗi sợ cho thân phận của chính mình tự nó đã khủng khiếp. Nhưng có lúc nỗi sợ cho thân phận của thân nhân – cha mẹ, anh chị em, con cháu, bạn bè… chẳng hạn, hay cho những người ta quý trọng đang đứng mũi chịu sào trong hoàn cảnh khác hoàn cảnh êm ả của ta, còn kinh hoàng hơn nữa : nó có khả năng thắt họng ta, người dám liều cầm bút. Không có phương trình giải đáp toàn hảo, tuyệt đối, vĩnh cửu. Ứng xử thế nào đi nữa cũng đượm mùi ngụy biện. Hậu sinh nhớ nhé. Làm gì, nói gì bây giờ đây ? Đến bao giờ kiếp người mới hết là kiếp nhục ? Hè hè… 2009.04.22.PHD 7.Hành động bằng văn chương Khi hành động vì những giá trị, ý tưởng, tri thức đáng khiến ta hành động, vẫn phải biết nhắm hiệu quả trong bối cảnh nào đấy. Khi viết văn, chỉ có thể yêu điều "vô tư" và, nếu được, zui zui ! Câu hỏi nan giải của kẻ muốn hành động bằng văn chương một cách có ý thức đó. 2009-04-24.PHD Phan Huy Đường *** Vĩnh biệt người “Ăn mày văn chương” Trần Tuấn Không nhớ rõ tự bao giờ, trong hộp thư điện tử của tôi vào mỗi tháng lại nhận được một email gửi từ “Ăn mày văn chương”. Mỗi email bên dưới đều có mấy lời lịch lãm, đại ý rằng “Nếu bạn không muốn nhận thông tin hàng tháng này ở đây -Xin cho tôi một lời - phanhuy.duong@...”. Lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên, nhưng vào đọc thì thật thú vị. Đó là một website về văn chương nghệ thuật được điều hành bởi một nhóm 6 nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nghiên cứu văn chương hiện đang sống tại Pháp. Nhưng nhóm tác giả lại không coi đó là Website văn nghệ thông thường, mà gọi đó là “Trạm Đọc”. Người khởi xướng “Ăn mày văn chương” là nhà văn, dịch giả, nghiên cứu triết học Phan Huy Đường. Ông sinh năm 1945 ở Hà Nội, từ 1963 sang Pháp du học rồi định cư luôn tại đây. Phan Huy Đường viết tiếng Pháp và tiếng Việt, là tác giả và dịch giả của rất nhiều cuốn sách: “Một hành trình tư duy”, “Vẫy gọi nhau làm người”, “Tư duy tự do”, “Chơi trò Babel”, “Aimer – Mourir – Yêu-Chết”, “Thơ người dị ứng với thơ”, “Một mối tình ngụ cư”, “Nhạc ở tôi”, “Lang thang chữ nghĩa”,… (Trong đó cuốn “Tư duy tự do” được in tại NXB Đà Nẵng, 2006). Ông nghiên cứu triết học, là chuyên gia về Jean-Paul Sartre, về các tác giả thơ Pháp, về Hậu hiện đại. Ông viết tiểu thuyết. Ông dịch sang tiếng Pháp hầu hết các tác phẩm của Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Trần Vũ, Bảo Ninh, Nguyễn Duy… Bộ “sưu tập” văn chương đương đại Việt Nam mà ông hợp tác với NXB Philippe Picquier (Pháp) thật bền bỉ và đồ sộ, lên đến hơn 50 tác giả… … Sau rồi tôi mới dần hiểu ra vì sao hàng tháng tôi lại được mời đọc “Ăn mày văn chương”. Bởi Phan Huy Đường cũng chính là một sáng lập và biên tập viên của Diễn Đàn (diendan.org), nơi tôi thường được đăng tác phẩm. Với ông, tôi là một bạn đọc đáng tin cậy chăng? Và có lẽ còn vì ông và tôi cùng thân thiết với nhà văn Đà Linh, nguyên TBT Nhà xuất bản Đà Nẵng… Còn “ĂN MÀY VĂN CHƯƠNG”? Một tiêu chí văn chương thật độc đáo và khiêm nhường. Như những gì ông lý giải:  “Trong văn học, Tôi có thể ăn mày văn chương trong nghĩa sau: Tôi kêu gọi người khác đọc những gì Tôi viết vì không có ai đọc thì những gì Tôi viết chỉ tồn tại như một mớ giấy lem nhem mực, không thành tác phẩm, không thành văn. Tác phẩm và văn chương hình thành trong quá trình đọc của độc giả. Vì thế nó có khả năng tồn tại trong một không gian và thời gian rộng lớn hơn không gian và thời gian của tác giả. Điều trên cần thiết nhưng không đầy đủ. Nếu người đọc tiếp cận bài vở của Tôi với một tấm lòng bẩn thỉu đầy hận thù, ganh ghen, với đầu óc đầy thành kiến, nghi kỵ, không gợn chút tự do tin người, có đọc nghìn lần đi nữa thì trước tác của Tôi cũng không thành văn được. Chỉ khi nào người ấy đọc trước tác của Tôi với lòng nhân và lý trí tự do của con người, trước tác đó mới có khả năng thành văn, mới có khả năng tồn tại vượt thời gian và thời đại của Tôi. Và đây là điều kiện cuối cùng, cơ bản nhất : trước tác của Tôi phải có khả năng khơi lòng nhân và lý trí tự do nơi người đọc, như thế nó mới có khả năng tìm được người đọc xứng đáng và trở thành văn chương. Vì vậy, khi Tôi đọc văn của người khác, điều đầu tiên Tôi cố gắng làm là quét sạch kiến thức của Tôi để có thể đón nhận một con người khác Tôi, trong tư thế của một con người tự do, bình đẳng và trìu mến. Đó, với Tôi, là thái độ ăn mày văn chương. Và cũng chỉ là thái độ văn chương thôi. Còn phải viết sao cho hình thức với nội dung quyện lại thành một, biến thành văn phong trung thực của một con người, biến thành nghệ thuật” (hết trích). Con người uyên bác, hài hước mà cũng đầy lặng lẽ, khiêm nhường Phan Huy Đường vừa từ biệt cõi đời này. Khiêm nhường đến nỗi cuộc chia xa của ông cả tôi và nhiều người cũng biết thật muộn màng... Theo như tin buồn trên diendan.org, ông đã đột ngột từ trần ngày 4 tháng 10 năm 2019 tại bệnh viện Georges Pompidou, Paris, thọ 74 tuổi. Lễ hoả táng đã cử hành ngày 11.10.2019 trong vòng tay gia đình… Một mùa mất mát lớn của văn chương chữ nghĩa, từ Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Trần Tuấn Kiệt, nay đến Phan Huy Đường. Xin vĩnh biệt Người đã cho chúng ta “Ăn mày văn chương” suốt cõi! Trần Tuấn Mời các bạn đón đọc Lang Thang Chữ Nghĩa của tác giả Phan Huy Đường.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Cơn Gió Bụi - Trần Trọng Kim
Năm 1949, khi tác giả còn sống, nhà xuất bản Vĩnh Sơn (Sài Gòn) đã xuất bản cuốn hồi ký này. Việc xuất bản cuốn hồi ký Một cơn gió bụi vào trung tuần tháng 4/2017 vừa qua đã cung cấp thêm cho bạn đọc những trang sử liệu giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, mà Trần Trọng Kim là một nhân chứng lịch sử quan trọng. Cuốn hồi ký gồm 12 chương, mỗi chương kể về một giai đoạn cuộc đời tác giả với những sự kiện gắn kết với nhau và không tách rời bối cảnh lịch sử Việt Nam khi đó. Sử gia Trần Trọng Kim (1882 - 1953), bút hiệu Lệ Thần, quê xã Đan Phổ (nay là Xuân Phổ), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân là nhà giáo, tốt nghiệp Sư phạm ở Pháp (1911), về nước dạy học tại trường Trung học Bảo hộ (Trường Bưởi, nay là trường THPT Chu Văn An - Hà Nội). Trần Trọng Kim là Thủ tướng đầu tiên Nội các độc lập của Đế quốc Việt Nam. *** Khi tôi về Sài gòn, trong lưng chỉ còn có 20 đồng bạc Ðông Dương. Ông Cousseau thấy vậy có đưa tiền, nhưng tôi không lấy. Sau tôi gặp những người quen biết có giúp đỡ ít nhiều để mua thuốc thang và may vá lặt vặt. Tôi đến nhờ ông cử Bùi Khải, ông vì tình anh em, tiếp đãi một cách thành thực và tử tế, các cháu đều hết lòng kính mến. Nhưng vì cả gia quyến bốn năm người đến ở đấy lâu ngày, ăn không ngồi rồi, nghĩ cũng khó coi. Con gái tôi biết tiếng Anh, có nhiều người muốn học, định đi thuê nhà để dạy học, nhưng không thuê được nhà. Sài gòn cũng như ở bên Tàu, cái nạn khan nhà thật là điêu đứng. Muốn thuê một cái nhà nhỏ, ít ra cũng phải trả tiền trà mất một vài vạn bạc, thì lấy tiền đâủ Sau hai vợ chồng con tôi gặp những người quen nói ở trên Nam Vang, bên Cao Miên, cơm gạo rẻ và dễ thuê nhà, chúng nó mới xin giấy lên Nam Vang. Lên ở nhà khách sạn được mấy ngày chẳng may con tôi bị bỏng suýt chết. Nhờ có những người quen biết trông nom giúp đỡ nên không việc gì. Nhà ở Nam Vang lại có phần khó thuê hơn ở Sài gòn, thành ra nhà vẫn chưa thuê được, con tôi phải về ở nhà ông Phạm Chí Tùng trong khi chờ đợi có nhà ở. Ông Phạm Chí Tùng là người rất hiền hậu, thấy con tôi lên ở nơi xa lạ, hết lòng giúp đỡ, coi như anh em trong nhà vậy. Con tôi đi Nam Vang chờ đến ba tháng, nhờ ông Pignon can thiệp mấy lần, hội đồng coi việc nhà cửa mới thuê cho được một căn nhà, mở lớp dạy học tiếng Anh, lần hồi cũng đủ ăn tiêu. Tôi ở Sài gòn, có cóp nhặt những sách của tôi, định tìm nhà xuất bản cho in lại. Lúc ấy tôi gặp ông Trần Văn Văn đến thăm tôi. Khi tôi ở Huế, ông có ra làm việc ở bộ kinh tế với ông Hồ Tá Khanh, cho nên đã quen từ trước. Ông thấy tôi ở trong cái hoàn cảnh rất eo hẹp, ông liền cho tôi vay một món tiền khá lớn và ông nhận việc tìm nhà xuất bản để in những sách của tôi. Trong lúc nguy nan, gặp được người bạn như ông Trần Văn Văn đến thăm tôi thật là ít có. Ấy cũng là một sự may mắn, nhờ trời dun dủi làm cho đỡ được bao nỗi đau buồn khổ não. Vào khoảng tháng chín năm 1947, thì cậu Bùi Nam, anh em nhà tôi ở Hà Nội vào Sài gòn thăm chúng tôi, biết rõ tin tức người nhà. Lúc ấy nhạc mẫu tôi đau nặng chưa biết thế nào, cậu Nam được tin vội vàng ra ngay, ra đến nơi buổi trưa, thì buổi chiều mẹ tôi mất. Tình mẹ con, nỗi đau đớn, nhà tôi rất sầu khổ. Cái sầu khổ lúc ấy lại có phần tăng thêm là vì phải khi loạn lạc, mình phiêu lưu ở đất khách quê người, không thấy được mặt mẹ trong phút cuối cùng. ... Mời các bạn đón đọc Một Cơn Gió Bụi của tác giả Trần Trọng Kim.
Hồi ký cựu chiến binh sư đoàn Mãnh Hổ - Kim Jin Sun
Đây là cuốn hồi ký của Kim Jin Sun, một cựu chiến binh Hàn quốc đã tham chiến ở VN trong biên chế sư đoàn Mãnh Hổ. Ông này đã về hưu với quân hàm Đại tướng. Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, tướng Kim giữ chức Đại uý, Đại đội trưởng Đại đội 11 trong sư đoàn Mãnh hổ. Tướng Kim khá được trọng dụng vì "chỉ biết truy tìm và diệt Việt Cộng (VC)" với biệt danh "tướng cướp rừng xanh". Tuy nhiên qua hồi ký này người đọc sẽ thấy những gì diễn ra trong cuộc chiến ở Việt Nam đã làm tướng về hưu Kim Jin Sun phải suy nghĩ và ân hận trong giai đoạn cuối đời. Ông đã từng quay lại thăm Việt Nam. Mặc dù mới lập gia đình được 10 tháng, tôi đã phải tạm biệt vợ, quên đi hai chữ tình yêu để sang Việt Nam. Ở đó tôi đã lùng sục khắp các hang núi như một con thú, tìm mọi cách để tiêu diệt hoặc bắt toàn bộ đối phương. Đã có rất nhiều người bị chết bởi những kế hoạch của tôi. Tại nơi chiến trường chỉ có giết và giết đó, các giá trị đạo đức đối với chúng tôi cũng bị tan vỡ chẳng khác nào những mảnh đạn pháo. Và dần dần tôi cũng trở thành một con người không biết gì khác ngoài bắn giết. Sự điên dại trên chiến trường là điều không thể tưởng tượng được bằng lý trí lúc bình thường. Tôi không hề cảm thấy bận lòng khi thấy đứa trẻ chăn trâu hay một dân thường bị chết. Tôi đã truy lùng với một khoái cảm còn hơn cả cảm giác đi săn thú. Tôi đã ăn uống và chụp ảnh không hề vướng bận ngay bên cạnh những xác chết. Tôi đã xông vào hầm của đối phương không một phút chần chừ và bóp cò súng không hề run sợ. Chiến tranh đã qua lâu mà tôi vẫn không thể hiểu nổi tại sao mình lại có thể hành động như vậy. Tôi đã bắn giết mà không hề quan tâm và cũng không thể hiểu được bản chất của chiến tranh VN. Tôi không được phép suy nghĩ gì khác ngoài việc phải giết thật nhiều VC để tồn tại và ngăn chặn CS. Tôi đã chiến đấu liên tục với một chiếc mũ cao bồi trên đầu. Trong bộ não của tôi được nhồi đầy những ý nghĩ rằng miền Bắc là nơi những kẻ ác tụ tập. Sau khi kết thúc cuộc đời binh nghiệp với quân hàm đại tướng, tôi đã có dịp sang thăm Hà nội. Cái đập vào mắt tôi lúc đó là một sân bay nhỏ bé. Tiếng súng đã tắt 20 năm rồi..., tại sao một VN như vậy lại có thể thắng được siêu cường số một là nước Mỹ. Tôi cũng muốn đi tìm lời giải cho những hành động của những người lính giải phóng mà tôi đã từng gặp và giao chiến. Những người sống và chiến đấu trong hoàn cảnh mà con người bình thường khó có thể sống nổi, những người lính giải phóng đã lao thẳng vào căn cứ địch, chỉ với trái lựu đạn; người chiến sĩ giải phóng đã chống cự gần 8 giờ đồng hồ với một thân hình gần như cụt cả tay chân, không chịu đầu hàng... lúc đó tôi đã viết vào nhật ký như sau: “Thật đáng thương cho chiến dịch Tết Mậu Thân của VC. Lúc đó tôi chẳng hiểu vì cái gì mà họ lại lao vào đội quân hùng mạnh của Mỹ và Hàn quốc như vậy. Thật đáng thương. Không thể hiểu nổi những người lính VC gầy guộc như một đứa bé, trên tay chỉ có một khẩu súng cổ lỗ và một trái lựu đạn vì cái gì mà chiến đấu như vậy”. Quang cảnh trận Điện Biên Phủ mà tôi được xem ở một bảo tàng Hà nội thật là cảm động. Và tôi đã hiểu rằng Hồ Chí Minh là một lãnh tụ vĩ đại, một con người vĩ đại. Người đã dẫn dắt cả dân tộc VN đi theo chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. ông là một người có nhân cách lớn. Tôi đã bị sốc và vô cùng cảm động khi thăm địa đạo Củ chi, nơi tượng trưng cho trí tuệ, sự kiên trì và ý chí đấu tranh của VN. Tôi đã cảm thấy đã tìm được lời giải cho câu hỏi vì sao họ lại chiến đấu, vì sao họ lại chiến thắng. Tôi thấy đã đến lúc đưa ra những kết luận cho riêng mình về chiến tranh và lịch sử của VN. Tôi muốn viết ra đây về bản thân tôi và cuộc chiến tranh mà tôi đã tham gia. Nếu không, cuốn sách này sẽ không thể hiện được sự ân hận của tôi, cũng như không đem lại một chút ý nghĩa nào. Tôi mong các độc giả sẽ đọc cuốn sách này để hiểu thêm về chiến tranh. Mong các bạn hiểu hơn về đất nước VN nhỏ bé mà kiên cường, hiểu thêm về sự ngạo mạn của các cường quốc, hiểu cho những ân hận về những tội ác mà tôi và các chiến hữu đã gây ra ở VN. Mời các bạn đón đọc Hồi ký cựu chiến binh sư đoàn Mãnh Hổ của tác giả Kim Jin Sun.
Hồi ký Wilfred Burchett - Wilfred Burchett
Wilfred Graham Burchett (sinh ngày 16 tháng 9 năm 1911 tại Melbourne, Úc, mất ngày 27 tháng 9 năm 1983 tại Sofia, Bulgaria) là một phóng viên cánh tả nổi tiếng. Burchett từng tường thuật Chiến tranh thế giới thứ hai cho báo chí Anh. Ông cũng chính là phóng viên phương Tây đầu tiên có mặt tại Hiroshima, Nhật Bản sau khi Mỹ thả bom nguyên tử, lúc thành phố còn đầy mùi bụi phóng xạ. Một trong những dòng chữ đầu tiên mà Burchett viết về sự kiện này là: “    Tôi viết để cảnh báo thế giới    ” Ông là phóng viên phương Tây hiếm hoi từng sống cùng với bộ đội Việt Nam tại chiến khu Việt Bắc và chiến trường miền Nam trong hai cuộc chiến tranh của người Việt Nam chống lại quân đội Pháp và Mỹ. Burchett đã viết trên 40 cuốn sách trong cuộc đời. Ông qua đời vì bệnh ung thư năm 1983 tại Sofia, Bulgaria ở tuổi 72. Ông là bác của nhà văn Stephanie Alexander. *** Triết gia Anh Bertrand Arthur William Russell (1872-1970) coi Wilfred Burchett là người đầu tiên lên tiếng thông báo cho dư luận phương Tây về cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Wilfred Burchett (1911 - 1983), nhà báo Australia nổi tiếng thế giới từ những thập niên 1940 và 1950, được mệnh danh là “Con sói cô độc”. Australia đã từng coi Burchett là “kẻ thù số 1”, nhưng mới đây đã cho xuất bản cuốn Hồi ký của nhà báo nổi loạn: Tiểu sử tự thuật của Wilfred Burchett. Burchett là nhà báo nói tiếng Anh đầu tiên chứng kiến và tường thuật hậu quả tang thương của vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima. Trong tờ Daily Express của Anh ra ngày 6/9/1945, ông đã mô tả chi tiết sự khủng khiếp tại “bãi thử hạt nhân sống” với một động cơ rất đỗi đơn giản: “Tôi viết những dòng này để cảnh báo thế giới”. Từ đó cho đến khi ông qua đời trong cảnh lưu vong năm 1983 ở Sofia (Bulgaria), Burchett đã dành toàn bộ thời gian để đề cập những gì diễn ra sau lằn ranh chiến tranh ở Triều Tiên, Việt Nam. Ông đã sống ở Liên Xô, Trung Quốc, Campuchia; bị chính quyền nước nhà coi là điệp viên KGB và kẻ thù số một của Australia. Cho nên sẽ không khó tin khi biết rằng Burchett có quan hệ thân thiết với Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Trong chương “Chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất”, Burchett đã đề cập chi tiết cuộc gặp đầu tiên của ông với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại chiến khu Việt Bắc tháng 3 năm 1954, ít lâu trước chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử đánh bại thực dân Pháp. Lúc đó mặc dù nhiều nguồn tin phương Tây tung tin Bác Hồ đã chết, nhưng Burchett vẫn quyết tâm tìm gặp bằng được. Và hai tuần trước chiến dịch, Burchett đã hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phản công lớn mà người Pháp nói đến là gì?”. Bác Hồ đặt ngược chiếc mũ trên bàn, đưa những ngón tay gầy guộc theo rìa bên ngoài của chiếc mũ và nói: “Tình hình thế này. Đây là những ngọn núi nơi mà lực lượng chúng tôi đang chiếm giữ. Dưới kia là thung lũng Điện Biên Phủ. Đó là nơi đóng quân của người Pháp với những đội quân thiện nghệ nhất mà họ có tại Đông Dương. Họ sẽ không bao giờ rút ra ngoài”. “Và đây chính là Stalingrad của Đông Dương?” - Burchett hỏi. Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: “Căn cứ vào điều kiện ở đây thì đúng như vậy. Nói khiêm tốn, thì đó là một điều gì đó giống như thế”. Trong một chương đáng nhớ khác có tên gọi là “Lửa lại cháy ở Việt Nam” (Renewed Fires in Vietnam), Burchet đã chỉ ra rất đúng rằng chỉ sau vài năm nữa cuộc chiến của nhân dân Việt Nam chống lại chế độ Sài Gòn được Mỹ ủng hộ sẽ có kết cục tương tự, giống như những gì mà Việt Minh đã làm được trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp và chế độ tay sai. Theo ghi nhận của Burchett, Tết Mậu Thân 1968 là chiến dịch đỉnh cao trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai: Đó là một trong những kỳ tích chiến tranh cho đến thời điểm đó. Cuộc đối đầu với người Mỹ chỉ là một ví dụ nữa trong cuộc kháng chiến lâu dài của người Việt chống lại giặc ngoại xâm: Hán, Nguyên - Mông, Pháp, Nhật, Mỹ. Những người hiểu được lịch sử Đông Dương giống như Burchett có thể nhìn thấy kết cục chắc chắn của cuộc chiến là việc ký kết hiệp định hoà bình ở Paris ngày 27/1/1973. Báo The Australian (Người Australia) ra ngày 3/12/2005 nhận xét: “Đọc những dòng hồi ức này, không ai không thể so sánh cuộc chiến của những người yêu nước Việt Nam với tình hình ở Iraq hiện nay. Trong cả hai trường hợp, ta có cảm giác người Mỹ bị mắc kẹt trong cuộc chiến không thể thắng nổi”. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi Washington thông qua Kissinger đã thử mời Burchett làm trung gian đàm phán giữa chính quyền Nixon với Hà Nội. Năm qua, báo New York Post đã đăng tải cuộc điều tra chi tiết cho thấy, chính Kissinger đã trực tiếp ra lệnh làm ngơ quy định hạn chế phạm vi đi lại ở New York trong bán kính 40 km đối với Burchett. Cuộc gặp gỡ giữa họ diễn ra trong phòng mạch của một bác sĩ bên bữa ăn sáng. Theo nhiều tờ báo, ngay cả những người ghét cay ghét đắng quan điểm chính trị của Burchett, cũng thừa nhận rằng ông là người có duyên một cách tuyệt đối. Denis Warner - Thông tín viên lâu năm của tờ Herald Melbourne, một đối thủ của Burchet - đã dành những lời nồng ấm để nói về đối thủ của mình: “Một trong những tính cách kiệt xuất của ông ta là lòng quả cảm vĩ đại. Ông ta không bao giờ tính đến hiểm nguy nếu thấy cơ hội có tin. Ông là món quà tặng tuyệt vời đối với ngôn ngữ...”. Nhân cách của Burchett, cuộc đời và sự nghiệp của ông còn được đề cập trong bộ phim tài liệu Kẻ thù số 1 của David Bradbury - Đạo diễn từng đoạt giải Oscar. Ông nhận xét: “Burchett là người Australia vĩ đại. Ông yêu những người dân bình dị. Ông là người nhân ái. Ông thực sự tin rằng ngòi bút của ông phải được sử dụng vì mục tiêu tiến bộ xã hội”. Wilfred Burchett viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh “Cảm giác đầu tiên của tôi là sự thân mật, ấm áp và giản dị. Hồ Chủ tịch có khả năng khiến người ta thấy nhẹ nhõm ngay từ khoảnh khắc đầu tiên và trình bày những vấn đề phức tạp nhất chỉ trong vài từ và cử chỉ rõ ràng. Trong những cuộc gặp tiếp theo với nhân cách vĩ đại này, sự ấm áp, giản dị, cách thể hiện rõ ràng xuất phát từ trí tuệ mẫn tiệp, và sự thấu hiểu trọn vẹn chủ đề khiến ta có ấn tượng vô cùng sâu sắc. Bất cứ ai được Hồ Chủ tịch tiếp đều bình luận về những phẩm chất ấy và cao hơn hết là cảm giác của họ ngay lập tức được “ở nhà” với Người”.   Mời các bạn đón đọc Hồi ký Wilfred Burchett của tác giả Winfred Burchett.
Máy bay Mỹ trên bầu trời Điện Biên Phủ - Marc Bertin
Packet sur Diên Biên Phu - La vie quotidienne dun pilote de transport (Máy bay Packet trên vùng trời Điện Biên Phủ - Cuộc sống hàng ngày của một phi công lái máy bay vận tải) là tên cuốn hồi ký của đại tá không quân Pháp Marc Bertin, được xuất bản năm 1991.  Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Marc Bertin là trung úy phi công, lái máy bay vận tải hạng nặng C119 do Mỹ chế tạo, làm nhiệm vụ thả dù và chở hàng tiếp tế cho quân đội viễn chinh Pháp đóng tại thung lũng lòng chảo Điện Biên Phủ, từ ngày 20 tháng 11 năm 1953 là khi Pháp bắt đầu nhảy dù chiếm đóng cánh đồng Mường Thanh cho tới ngày 7 tháng 5 năm 1954 khi quân Pháp ở đây hoàn toàn thất bại.  Sau khi nghỉ hưu, Marc Bertin đã dành thời gian hồi tưởng lại những kỷ niệm cũ trên chiến trường Việt Nam và viết cuốn sách nhằm tưởng nhớ tới 15.148 chiến binh Pháp đã chiến đấu trong hỏa ngục Điện Biên Phủ, tưởng nhớ tới đại tá không quân Soulat, đội trưởng đội máy bay C119, tưởng nhớ tới các nhân viên phi hành đã tận tụy hỗ trợ cho các hoạt động, đồng thời còn để tặng cho người vợ là nguồn an ủi, động viên và tặng các con để chúng thêm hiểu biết.  Trong lời đề tựa, đại tướng không quân Pháp Francois Maurin, Chủ tịch Hội cựu chiến binh không quân vận tải pháp nhận xét đây là một cuốn sách được viết bằng ngồi bút giản dị và khách quan của một nhân chứng lịch sử. Truyện kể của ông là một trong những dẫn chứng về sự tham gia của không quân ở Điện Biên Phủ, cho tới nay vẫn hiếm được công bố.  Do đầu đề cuốn sách quá dài, bản dịch tiếng Việt thu gọn lại trong tên sách: Máy bay Mỹ trên vùng trời Điện Biên Phủ.  *** Buổi tối ngày 7 tháng 5 tại Điện Biên Phủ, một sự yên lặng lạ lùng xuất hiện sau những trận đánh dữ dội, náo động. Chỉ còn một cụm cứ điểm mang tên Isabelle cách sở chỉ huy của tướng De Castries vài kilômét về phía Nam, dưới sự chỉ huy của đại tá Lalande, là đang cố đẩy lùi cuộc tiến công quyết liệt của Việt Minh, những người đang nắm phần thắng. Cuộc cầm cự kéo dài tới gần 1 giờ sáng ngày 8 tháng 5 thì kết thúc. Điện Biên Phủ sụp đổ báo trước sự cáo chung của cuộc phiêu lưu quân sự trong chiến tranh thuộc địa, tạo một bước ngoặt trong quan hệ giữa các nước gọi là văn minh với các dân tộc bị đặt dưới sự bảo hộ của họ. Tuy nhiên, trong lúc này, các chiến binh ở Điện Biên Phủ vẫn chưa có đủ thời gian rảnh rỗi để ước lượng tầm vóc của toàn bộ cuộc chơi trong trận đánh. Những binh lính trong các chiến hào thung lũng lòng chảo đã tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt. Bị bao vây, bị kẹp chặt trong những gọng kìm, họ chỉ có thể sống và chiến đấu nhờ tuyến vận tải tiếp tế hậu cần do không quân đảm nhiệm. Vai trò của lực lượng máy bay vận tải trong cuộc chiến ở Điện Biên Phủ là thiết yếu. Vậy mà, đã xảy ra rất nhiều trường hợp các phương tiện của cơ cấu tổ chức không đủ để đảm đương nhiệm vụ. Sự yếu kém của lực lượng máy bay vận tải trong một đất nước mà giao thông vận chuyển đường bộ cũng tỏ ra cực kỳ chậm chạp, rất dễ bị phá hoại, hoạt động quân sự mặt đất phải gắn liền với chuyển vận đường không, đã là mối quan tâm của Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang của Pháp tại Đông Dương. Vì vậy, ngay từ đầu năm 1953, Bộ tổng tư lệnh đã đề nghị Mỹ giúp đỡ và đã được các nhân vật cấp cao của Mỹ chấp nhận cho Pháp được sử dụng vài chiếc máy bay vận tải cỡ lớn, được gọi là Flying Box Car nghĩa là “xe ôtô ca bay” do các nhân viên phi hành Mỹ điều khiển bên cạnh các quân nhân Pháp. Thoạt đầu, mới chỉ là một sự giúp đỡ hạn chế, tạm thời, khiêm tốn. Nhưng sau đó, trước những yêu cầu thực tế ngày càng to lớn, nó đã trở thành một sự đỡ đầu có tính chất chiến đấu. Đến thời kỳ xảy ra cuộc chiến tại Điện Biên Phủ thì sự giúp đỡ này đã vượt quá rất nhiều khuôn khổ một đội máy bay vận tải, có lúc lên tới 29 máy bay vận tải cỡ lớn với 22 kíp phi hành. Đó là khởi đầu sự tham gia của máy bay Mỹ C119 cho tới khi kết thúc cuộc chiến tranh của lực lượng viễn chinh Pháp tại Viễn Đông. Đội máy bay vận tải cỡ lớn C119 Packet chỉ tồn tại trong thời gian diễn ra chiến dịch ở Điện Biên Phủ, là đơn vị không có truyền thống, không để lại một ghi chép nào trong lịch sử, nằm trong lực lượng không quân vận tải của Pháp như một thực thể non yểu của kiếp phù du, lai tạp, số phận chỉ dành cho nó sự quên lãng. Để những kỷ niệm về một mảng hoạt động quân sự đặc biệt khỏi tan biến hết, tôi quyết định ghi lại nhật ký hoạt động của đội máy bay vận tải C119 Packet, mặc dù những mẩu chuyện mà tôi có thể thu lượm được không nhiều, những hoạt động cá nhân hòa trong những hoạt động liên quan của tập thể. Sau khi suy nghĩ, tôi đã nối lại công việc bị bỏ dở dang vài năm và đã cố sưu tầm nghiên cứu để có được một công trình đầy đủ hơn về mặt tư liệu. Tuy nhiên, dù tham vọng như vậy, cuốn sách này vẫn chỉ có tính chất cá nhân. Những câu chuyện dưới đây chỉ mang một đặc thù của sự cam kết (lái máy bay vận tải), không thể làm quên được, dù trong chốc lát, cuộc sống của những lính dù, lính lê dương, lính thuộc địa, lính bộ binh, công binh, kỵ binh, pháo binh, những sĩ quan, hạ sĩ quan, lính thường, tất cả những con người cùng trong một chiến thuvền của máu, lửa, sắt thép, những người còn sống sót giữa những thây ma, không hy vọng được một người nào tới thay thế, không có một sự giải thoát nào ngoài cái chết hoặc những trại tù binh của Việt Minh. MARC BERTIN Mời các bạn đón đọc Máy bay Mỹ trên bầu trời Điện Biên Phủ của tác giả Marc Bertin.