Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trí Thông Minh Thực Dụng - 5 Phút Mỗi Ngày Để Thay Đổi Cuộc Sống
Trí thông minh thực dụng là cuốn sách tư duy giúp khai mở cho chúng ta về trí tuệ cảm xúc (EI) của con người, tìm hiểu thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài, từ đó giải quyết các vấn đề liên quan đến khả năng thích ứng, kiểm soát căng thẳng, và chúng ta cũng nhận thức được vai trò của EI trong cuộc sống của mỗi người. Trí tuệ cảm xúc (EI) vẫn được gọi là “lương tri cấp cao” và đã được chứng minh là chỉ số dự đoán thành công tốt hơn nhiều so với IQ. Và không giống chức năng nhận thức, những năng lực cảm xúc của bạn có tính linh hoạt, có thể điều chỉnh và rất có khả năng mở rộng. Với rất nhiều câu chuyện đầy cảm hứng về những công ty đã gõ cánh cửa mở ra sức mạnh của EI, cùng với thông tin về những người đang phải đối mặt với những tình thế khó xử trong thế giới thực, và những kế hoạch hành động dễ thực hiện, cuốn Trí thông minh thực dụng mở ra trước mắt bạn những bài học cuộc sống then chốt, nhưng vẫn thường bị bỏ qua, bao gồm cách: · Giải quyết xung đột theo cách mang mọi người tới gần nhau hơn và biết vì sao sự tách rời là mối lo thực sự.  · Trở nên hòa hợp với đủ các cung bậc cảm xúc và biến chúng từ kẻ thù thành đồng minh của bạn.  · Chuyển từ suy nghĩ về thành công trên phương diện tiền bạc sang khám phá điều bạn thực sự muốn đạt được, và sau đó, tích cực làm việc để đạt được những mục tiêu đó.  · Xây dựng các mối quan hệ cá nhân và nghề nghiệp lành mạnh, nền tảng của hạnh phúc và sự viên mãn. · Sử dụng trí tuệ cảm xúc để chèo lái một cách hiệu quả trước sự thay đổi và đối phó với sự căng thẳng. · Nuôi dưỡng tinh thần lạc quan và những thói quen tinh thần khác của những người hạnh phúc – trong khi tránh cách nhìn hữu hạn “Pollyanna ”. Với rất nhiều câu chuyện thực tế để người đọc có thể rút ra những bài học bổ ích cho việc tăng cường trí tuệ cảm xúc bản thân cũng như ứng dụng trong cuốc sống, Trí thông minh thực dụng là cuốn sách tư duy nên đọc dành cho bất cứ ai muốn thay đổi bản thân để đạt được những mục tiêu thiết thực cho cuộc đời mình. Tác giả cuốn sách HARVEY DEUTSCHENDORF là thầy dạy trí tuệ cảm xúc đã làm việc trong lĩnh vực này hơn 10 năm và là nhà Quản lý được Chứng nhận của BarOn EQi, bài kiểm tra chỉ số EI có giá trị khoa học đầu tiên được Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ chứng nhận. Ông sống tại Alberta, Ca-na-đa. *** BÍ QUYẾT CỦA HẠNH PHÚC Chúng ta hẳn đã có lần đặt câu hỏi, tại sao có những người thành công khá dễ dàng còn một số khác lại phải vật lộn cả đời mà vẫn không có được thành công như vậy, dù đã loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, may mắn hay nền tảng khác. Trí thông minh thực dụng sẽ giúp các bạn trả lời một phần nào đó câu hỏi trên. Cuốn sách sẽ khai mở cho chúng ta về trí tuệ cảm xúc (EI) của con người, tìm hiểu thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài, từ đó giải quyết các vấn đề liên quan đến khả năng thích ứng, kiểm soát căng thẳng, và chúng ta cũng nhận thức được vai trò của EI trong cuộc sống của mỗi người. Từ thế kỷ XX, các nhà tâm lý học đã bắt tay vào việc nghiên cứu nghiêm túc các dạng trí tuệ khác nhau, và cho rằng ngoài IQ còn có những lĩnh vực khác cần xem xét, đó chính là khởi nguồn cho trí tuệ cảm xúc ngày nay. Đúng như trong cuốn sách này khẳng định, mục đích của EI là giải quyết các vấn đề “làm thế nào” của cuộc sống chứ không giải quyết câu hỏi “vì sao”. Và điều này đang dần trở nên thiết thực hơn, quan trọng hơn với tất cả chúng ta, bởi mỗi chúng ta đều đang tìm cách làm thế nào để có một cuộc sống hạnh phúc hơn, một công việc thành công hơn và một cuộc đời đáng sống hơn. Cuốn sách đưa chúng ta tìm về cội nguồn của vấn đề, đó là phải có mục đích rõ ràng để thuyết phục bản thân làm điều này hay điều khác. Bởi từ xa xưa, các triết gia đã cho rằng, hạnh phúc chính là việc theo đuổi một mục tiêu nào đó. Ngày nay, việc lựa chọn mục đích tùy thuộc vào mỗi cá nhân, mỗi người tự tìm cho mình một mục tiêu nhất định để đạt tới. Ở Việt Nam thời gian gần đây rộ lên việc giáo dục kỹ năng mềm cho các độ tuổi, cả trong và ngoài nhà trường. Trước đây, việc giáo dục còn nặng về kiến thức, các cá nhân không được trang bị về những kỹ năng như giải quyết tình huống hay giải tỏa căng thẳng... Giờ đây, khi được học và hiểu về những kỹ năng này, con người linh hoạt hơn trong các tình huống cuộc sống, cũng dễ dàng đương đầu được với những áp lực từ cả xã hội và công việc vốn đang ngày càng đè nặng lên mỗi cá nhân. Để tìm ra được mục đích của mình cũng như trả lời cho câu hỏi làm thế nào để có được cuộc sống thú vị hơn, công việc thành công hơn, trang bị kiến thức về trí tuệ cảm xúc và thấu hiểu về tâm lý con người trong xã hội hiện đại là hoàn toàn cần thiết. Đặc biệt cuốn sách có rất nhiều câu chuyện thực tế để người đọc có thể rút ra những bài học bổ ích cho việc tăng cường trí tuệ cảm xúc bản thân cũng như ứng dụng trong cuộc sống. Đây là một cẩm nang chi tiết, giúp bạn đạt được những mục tiêu thiết thực cho cuộc đời mình. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! Hà Nội, tháng 3 năm 2011 NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đào tạo Nghề Đông Dương *** Công cụ mạnh nhất là công cụ con người sẽ sử dụng. Những kỹ thuật trong cuốn sách này thật đơn giản, dễ hiểu và dễ sử dụng, không đòi hỏi nhiều thời gian. Tôi hiểu và tôn trọng thực tế rằng, trong cuộc đời, bạn có nhiều mối quan tâm khác nhau mà thời gian thì hữu hạn. Dù có thể bạn rất quan tâm tới trí tuệ xúc cảm thì điều đó vẫn phải phù hợp với thế giới của bạn, chứ không phải ngược lại. Cuốn sách này cung cấp cho bạn những kỹ thuật đơn giản, hiệu quả và chỉ cần năm phút mỗi ngày. Thành công không phải là một bước đột phá. Nó là sự tích lũy những thay đổi nhỏ có được nhờ sự kiên trì, kỷ luật tự giác và học cách tận dụng tối đa trí tuệ xúc cảm. Với câu hỏi: Nâng cao trí tuệ xúc cảm có khó không, câu trả lời là có và không. Không, vì nó không khó về mặt kỹ thuật. Nó không đòi hỏi kiến thức đặc biệt, chỉ số IQ cao hay cần nhiều bí quyết kỹ thuật. Nhưng nó không dễ thực hiện. Nó đòi hỏi ý thức kỷ luật tự giác để duy trì hành động trong một khoảng thời gian dài, ngay cả khi không có kết quả rõ ràng ngay lập tức. Có thể trong phần lớn cuộc đời, tiềm thức chúng ta đã hoạt động theo những cơ chế mặc định tự hủy hoại bản thân. Thời xa xưa, cùng với bản năng sinh tồn, nhiều cơ chế hành vi ra đời do sự cần thiết, nhằm giúp loài người thoát khỏi những tình huống khó khăn. Nhiều người trong chúng ta dựa vào nỗi giận dữ và các xúc cảm mạnh khác để đối phó và thoát khỏi những gia đình bất ổn, những tình huống không may khác trong thời kỳ được nuôi dưỡng. Tuy nhiên, khi thoát ra khỏi hoàn cảnh đó, sự tức giận không còn giúp chúng ta nhiều nữa mà thậm chí còn chống lại chúng ta. Lúc đó, điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra rằng suy nghĩ và hành vi trước đây từng cần thiết nay đã trở nên lỗi thời, có hại và chúng ta phải nỗ lực phát triển cách suy nghĩ mới về bản thân, về những người xung quanh và về môi trường của chúng ta. Những gì va vấp phải trong những năm tháng trưởng thành sẽ có ảnh hưởng đối với chúng ta cho đến tận cuối đời – tại nơi làm việc, trong gia đình và trong tất cả những quan hệ tương tác của chúng ta với thế giới. Mặc dù một vài điều chúng ta học được là tốt và sẽ rất có ích thì cũng có một số điều có thể phá hoại tương lai của chúng ta. Tin tốt là chúng ta có thể thay đổi những gì đã học trong quá khứ và học được những cách mới và tốt hơn để tương tác với thế giới xung quanh. Không giống chỉ số thông minh (IQ) – gần như được ấn định cả đời khi chúng ta bước vào tuổi trưởng thành, chúng ta có thể thay đổi được trí tuệ xúc cảm (EI). Bước đầu tiên là xác định đâu là sở trường của bạn và điều gì có ích cho bản thân. Trong cuốn sách Go Put Your Strengths to Work (Tạm dịch: Kích hoạt sức mạnh của bạn), tác giả Marcus Buckingham nói rằng, chúng ta nên tập trung vào việc tạo ra một môi trường làm việc sử dụng các thế mạnh nhiều hơn là quan tâm tới những điểm yếu. Lý thuyết của ông cho rằng, sẽ có lợi hơn khi chúng ta tập trung và cải thiện những lĩnh vực mà chúng ta vốn đã giỏi và có tài năng. Quan điểm này giống với tâm lý học tích cực, khẳng định rằng khi giúp đỡ người khác, chúng ta sẽ đạt được kết quả tốt hơn nhiều nếu tập trung vào những thế mạnh thay vì những điểm yếu của họ. Đây là một sự thay đổi có ý nghĩa so với quá khứ, khi đó tâm lý học tập trung chủ yếu vào các điểm yếu và làm thế nào để cải thiện chúng. Nói chung, tôi nghĩ rằng tập trung vào điểm mạnh là cách làm đúng đắn. Bất kỳ khi nào đưa ra ý kiến đánh giá EI cho ai đó hoặc khi hướng dẫn, đầu tiên tôi xác định và nói về các thế mạnh của người đó trước khi nhìn nhận những thách thức. Tuy nhiên, trong khi tập trung vào các điểm mạnh, vẫn có một số lĩnh vực chúng ta không được phép bỏ qua, ngay cả nếu đó không phải là sở trường của chúng ta. Các lĩnh vực quan trọng này sẽ hủy hoại chúng ta và phủ nhận những thế mạnh của bản thân nếu chúng không được quản lý tốt. Câu hỏi, vì sao một số người thì thành công, trong khi những người khác phải vật lộn cả đời và đạt được rất ít thành công, vẫn luôn hấp dẫn loài người. Trong phần lớn thế kỷ XX, chúng ta vẫn để tin rằng, đó là vì trí thông minh nhận thức, hay IQ, quyết định mức độ thành đạt của chúng ta. Tuy nhiên, thực tế phổ biến và năng lực quan sát giản đơn của chúng ta cho chúng ta biết rằng điều này không đúng, rằng hẳn phải có nhiều yếu tố dẫn tới thành công hơn việc chúng ta đạt kết quả thế nào trong các bài kiểm tra ở trường. Trong cuốn Successful Intelligence (Tạm dịch: Trí tuệ thành đạt), Robert Sternberg xem xét trường hợp của hai sinh viên tốt nghiệp trường Yale và cách họ thể hiện trong thế giới thực. Penn là một thành viên sáng tạo và xuất sắc của lớp, có thể đưa ra những ý tưởng của riêng mình. Về lý thuyết, anh chắc chắn là sinh viên tốt nghiệp thủ khoa trường Yale. Chỉ có duy nhất một vấn đề, Penn khá kiêu ngạo và gần như hoàn toàn thiếu những kỹ năng thực tế. Mặc dù Penn được tất cả các công ty hàng đầu phỏng vấn, sự kiêu ngạo khiến không công ty nào tiếp nhận anh cả. Lời đề nghị duy nhất đến từ một công ty hạng hai và anh cũng chỉ có thể trụ ở đó được ba năm. Còn người kia, Mart, bạn cùng phòng của Penn, không giỏi về học lực nhưng lại có trí tuệ xã hội tuyệt vời. Mart nhận được bảy lời đề nghị sau tám cuộc phỏng vấn. Dù không xuất sắc nhưng anh luôn là người đáng tin cậy và các kỹ năng xã hội giúp sự nghiệp của anh ngày càng phát triển. Hãy nghĩ lại thời kỳ học phổ thông của bạn. Bạn có nhớ những bạn học sáng giá có điểm số tuyệt vời và mọi người đều trông đợi họ sẽ làm được những điều vĩ đại cho thế giới? Họ có làm tốt như mọi người trông đợi? Thế còn những học sinh bị mọi người cười nhạo vì bỏ học đi bán xe cũ? Trong các buổi họp lớp, bạn có thấy những học sinh xuất sắc trước kia thì lái taxi, còn những học sinh bỏ học lại trở thành triệu phú? Tất cả chúng ta đều biết những câu chuyện tương tự như vậy, biết những người từng rất giỏi khi nhìn vào điểm số họ đạt được ở trường, nhưng lại phải vật lộn để thích nghi với xã hội. Ted Kaczynski[1] – được mệnh danh là “Unabomber” (kẻ chuyên đánh bom máy bay và trường đại học) và tên Ted - Ted Bundy khét tiếng[2] - chỉ là hai trong nhiều ví dụ nổi tiếng. Mặt khác, chúng ta biết ai đó có thể sẽ không đạt được kết quả cao trong bài kiểm tra IQ nhưng vẫn sống rất tốt. Do đó, quan niệm rằng phải có những yếu tố khác – ngoài IQ – tham gia vào việc xác định thành công của một người, không phải là điều gì ngạc nhiên đối với phần lớn chúng ta. Trong đời mình, chúng ta vẫn luôn thấy điều này. Ví dụ, trong cuốn sách Working with Emotional Intelligence (Trí tuệ xúc cảm – Ứng dụng trong công việc)[3], Daniel Goleman đã khảo sát trường hợp của một công ty tư vấn để tìm ra những hậu quả do thiếu khả năng kiểm soát sự tùy hứng. Các nghiên cứu về trường hợp thất bại trong công việc - được tiến hành nhờ hồ sơ của công ty tư vấn, đã đánh giá từng nhân viên trong đợt kiểm tra trên 4.265 người, từ lãnh đạo công ty cho tới những người lao động chân tay. Trong những phát hiện của Goleman có trường hợp một nhà quản lý doanh nghiệp. Người này khá hung hăng với tất cả những người ông ta tiếp xúc. Cuối cùng, ông ta bị sa thải vì một nữ nhân viên tố cáo tội quấy rối tình dục. Một trường hợp khác, một nhà quản lý hướng ngoại khác thường, nổi tiếng vì phong cách thoải mái và thích tụ tập đã vượt quá ranh giới bảo mật và rốt cuộc bị sa thải vì để lộ thông tin mật của công ty. Tương tự, cả CEO và CFO được tuyển chọn kỹ lưỡng của ông ta đều bị sa thải do quản lý kém nguồn ngân sách của công ty. Cả hai đều thiếu đạo đức và ít quan tâm tới tác động do hành động của mình gây ra. Tất cả những người này đều thiếu khả năng kiểm soát cơn bốc đồng của mình. Họ có rất ít, hoặc thậm chí không có, khả năng trì hoãn sự thỏa mãn tức thời. Nếu biết tự kiềm chế, con người có thể suy nghĩ kỹ lưỡng về hậu quả có thể xảy ra với những gì họ chuẩn bị làm và chịu trách nhiệm về lời nói, việc làm của mình. Hãng tư vấn đó đã nghiên cứu về sự tự kiềm chế trong công việc và khuyên rằng, “khi lựa chọn nhân lực cho công việc thuộc lĩnh vực công nghiệp – ở tất cả các cấp độ – sẽ là khôn ngoan khi từ chối những ứng viên có mức tự kiềm chế thấp hoặc rất thấp”, vì “khả năng họ gây ra rắc rối là vô cùng lớn”. (Tuy vậy, công ty này cũng lưu ý rằng con người có thể được giúp đỡ để xử lý tốt hơn tính bốc đồng của họ - kiểm soát cơn bốc đồng kém không nhất thiết là bản án tử hình cho sự nghiệp của người đó). Nhiều công việc, cuộc hôn nhân, mối quan hệ và tình bạn khác lại bị phá hủy bởi ai đó, trong một khoảnh khắc tức giận, nói ra những lời do sự thúc bách của tình thế mà sau đó họ phải dành cả đời để nuối tiếc. Do đó, điều quan trọng là phải xác định những lĩnh vực có khả năng gây hại cho chúng ta và ít nhất phải trung hòa chúng để chúng không trở thành những vật cản đường tới thành công. Không may là bộ não của chúng ta không được lập trình như máy tính; chúng ta không thể đơn giản đăng nhập và thay đổi cài đặt trong vòng vài giây. Tuy nhiên, chúng ta có thể phát triển những trạng thái mặc định mới bằng cách liên tục rèn luyện các cách giải quyết vấn đề tốt hơn. Qua thời gian, những kỹ thuật này sẽ trở nên dễ dàng hơn và cảm giác là một phần thực con người ta vậy. Khi đó, những suy nghĩ và hành vi trước đây sẽ bắt đầu có vẻ không tự nhiên và không còn quen thuộc nữa. Lúc này chúng ta sẽ biết rằng, một thay đổi thật sự và lâu dài đang hình thành trong cuộc sống của chúng ta và thay đổi chúng ta theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Cuối cùng, những mẫu thức mới này sẽ trở thành trạng thái mặc định mới của chúng ta, tự nhiên và tự động đến với chúng ta. Mời các bạn đón đọc Trí Thông Minh Thực Dụng - 5 Phút Mỗi Ngày Để Thay Đổi Cuộc Sống của tác giả Harvey Deutschendorf.
Thật Đơn Giản - Tạo Dựng Quan Hệ
Tạo dựng quan hệ không đơn thuần là việc trao đổi danh thiếp, mà là việc xây dựng các mối quan hệ nhằm hỗ trợ cho bản thân chúng ta, qua đó hỗ trợ người khác trong mọi mặt cuộc sống. Mạng lưới quan hệ của bạn càng rộng và mạnh thì nó càng ẩn chứa nhiều tiềm năng và cơ hội. Mỗi chúng ta cần sống rộng mở để có được cuộc sống dễ chịu hơn cho chính mình và những người xung quanh. Vì những nguyên nhân vĩ đại và mục tiêu cao cả, các mạng lưới quan hệ dù to hay nhỏ, đều tiềm ẩn năng lực thay đổi thế giới. Những người tạo dựng quan hệ cừ khôi hiếm khi sinh ra đã có khả năng này. Không phải từ khi trong bụng mẹ họ đã có thể ê a hay giữ liên lạc với mọi người và phát triển mạng lưới quan hệ. Cho dù họ có nhạy cảm với việc tạo dựng mạng lưới quan hệ, nhưng vẫn cần học cách để thật sự giỏi trong việc này và bạn cũng vậy. Bạn có thể tìm thấy các lời khuyên bổ ích từ những người tạo dựng quan hệ cừ khôi trong cuốn sách này. Họ đã thiết lập các kỹ năng tạo dựng quan hệ nhờ vào luyện tập, đôi khi họ cũng mắc nhiều sai sót và vấp phải sự từ chối, song cuối cùng họ vẫn đạt được những mục tiêu của mình đồng thời hỗ trợ người khác giành được mục tiêu của họ. Nếu thực hành kiên trì theo những công cụ và kỹ năng nêu trong cuốn sách, bạn sẽ nhanh chóng thực hiện chúng một cách tự nhiên, tự động, và thoải mái. Nhờ vào sự kiên nhẫn và luyện tập chăm chỉ, khi cơ hội đến bạn sẽ trở thành một người tạo dựng quan hệ cừ khôi. Khi quyết định tạo dựng quan hệ Khi quyết định tạo dựng quan hệ Hãy cân nhắc mỗi từ bạn viết Mỗi cuộc trò chuyện bạn có Mỗi buổi gặp mặt bạn tham dự Để diễn đạt những niềm tin nền tảng và mơ ước tốt lành Hãy khẳng định với mọi người về tầm nhìn thế giới mà bạn mong muốn Tạo dựng quan hệ từ tư tưởng Tạo dựng quan hệ từ hành động Tạo dựng quan hệ nhờ tình yêu thương Tạo dựng quan hệ từ tâm Bạn là tâm điểm của một mạng lưới quan hệ Bạn là tâm điểm của thế giới này Bạn luôn tự do và là nguồn năng lượng mạnh mẽ của cuộc sống, của Chúa trời Hãy khẳng định Hãy lan tỏa Và thể hiện nó Hãy nghĩ về nó ngày cũng như đêm Và bạn sẽ chứng kiến phép màu xuất hiện: sự vĩ đại của chính cuộc đời bạn Một thế giới của những sức mạnh lớn, phương tiện truyền thông và sự độc quyền Nhưng là của 6.5 tỷ công dân thế giới Tạo dựng quan hệ là sự tự do mới mẻ Nền tự do dân chủ mới Một dạng thức mới của hạnh phúc Robert Muller, Trợ tá của Tổng thư ký Liên hợp quốc STEVEN D’SOUZA *** Phần 1 Tạo dựng quan hệ theo tình huống 1. Tạo dựng quan hệ là gì? Mọi người thường nói bạn nên tạo dựng quan hệ nhưng chưa ai định nghĩa được chính xác điều đó là gì? Phải chăng việc tạo dựng quan hệ chỉ đơn thuần là tham gia các sự kiện, hội nghị hoặc tiệc tùng, ăn tối rồi thu thập danh thiếp và cố gắng thực hiện việc bán hàng hay nó là cái gì đó sâu sắc hơn thế và thật sự bổ ích? Bạn cần những kỹ năng gì khi tạo dựng quan hệ và phải chăng có một hay nhiều kiểu để tạo dựng quan hệ. Một trong những câu trả lời hay nhất cho các câu hỏi trên chính là giới thiệu bản thân với những người bạn gặp trong một sự kiện “phát triển quan hệ”. Hãy nhớ lại lần gần đây nhất bạn tham gia một sự kiện mà ở đó bạn biết rất ít về những người cùng tham dự và bạn có thể nhận ra một vài kiểu tính cách trình bày dưới đây. Mẫu người thích tiếp thị “Tôi! Tôi! Tôi!” – câu nói ẩn chứa điều mà những nhà tâm lý học gọi là mẫu người thích tiếp thị. Mẫu người này nhìn nhận mọi người và bản thân như là hàng hóa. Và họ coi việc mua và bán chính là cơ hội bán hàng của mình. “Bạn làm gì?” – mẫu người thích tiếp thị hỏi, đồng thời quan sát gu ăn mặc của bạn, sau đó quyết định xem liệu bạn có thể là khách hàng tiềm năng và đáng để dành thời gian nói chuyện hay không. Có lẽ ngoại trừ tính cách thích tiếp thị, thì mẫu người này cũng không đến nỗi tệ lắm. Họ không mấy khi nói về bản thân mà thường kể về kế hoạch làm ăn hoặc về sản phẩm của mình và cố gắng để bạn thấy được lợi ích của chúng và hy vọng có thể bán được hàng. Với cuộc hội thoại cứng nhắc, những phép ẩn dụ khó hiểu và những câu chuyện không ăn nhập, bạn bắt đầu tự hỏi liệu mẫu người thích tiếp thị đã đọc hết cuốn sách How to win friends and manipulate people (Đắc nhân tâm và nghệ thuật lôi kéo) hay có lẽ họ chỉ tham gia một khóa học ngắn ngày về “Những kỹ năng thuyết phục”. Một lần mẫu người thích tiếp thị đã thử 101 cách khác nhau trong cuốn sách dạy bán hàng của mình để lôi kéo bạn. Mặc dù bạn biết tất cả lợi ích của việc mua “những thiết bị điện tử” mà mẫu người này bán với giá bán buôn, nhưng bạn vẫn không mua và họ bỏ đi. Mẫu người thích tiếp thị lại tiếp tục trò chuyện với một khách hàng tiềm năng khác nhưng không quên đưa cho bạn tấm danh thiếp và nhờ giới thiệu với mọi người. Hãy bỏ qua mẫu người thích tiếp thị. Mẫu người hay kể lể Sở trường của mẫu người hay kể lể là nói chuyện nhảm nhí. Chỉ sau 10 phút bạn có thể biết hầu hết mọi thứ về mẫu người này từ “những vật tượng trưng cho địa vị“ mà họ có được cho đến khoản tiền được thưởng sau một phi vụ làm ăn thành công như một quí tộc trẻ đầy quả cảm. Bạn không hỏi nhiều nhưng lại nhận được rất nhiều câu trả lời cho cả những câu hỏi không hề đưa ra. Đây là một trong những cách giúp bạn biết rằng mình đang ở công ty của mẫu người hay kể lể. Mẫu người hay kể lể càng tiếp tục câu chuyện của mình với một giọng đều... đều... bao nhiêu, thì bạn càng muốn bỏ đi bấy nhiêu, nhưng dường như họ không hay biết. Đối với một số quan điểm mà họ đưa ra, bạn cũng có điều liên quan để nói ‒ những điều mà ít ra cũng đáng nói hơn nhiều so với điều vụn vặt của họ. Nhưng bạn có cố nói chen vào dù chỉ một từ cũng không được, dường như trong cuộc hội thoại này chỉ mình họ độc thoại. Cuối cùng, cũng có một người trong phòng nhận ra mẫu người này, rồi đi tới trò chuyện với người đó. Bạn nắm lấy cơ hội và rời đi nhanh chóng trong khi mẫu người hay kể lể tìm được nạn nhân kế tiếp. Mẫu người nổi tiếng Chúng ta có thể coi mẫu người nổi tiếng ở đây là một nữ danh ca. Mọi người nhận ra cô ấy ngay khi bước chân vào phòng, và trước khi bạn có cơ hội giới thiệu bản thân với nữ danh ca này thì cô ấy đã có được chỗ ngồi tuyệt vời nhất trong khi mọi người đang vây quanh trò chuyện với cô. Mọi con mắt trong phòng đều hướng về phía cô ấy. Nữ danh ca chỉ dùng rượu sâm banh hảo hạng được mang tới bởi một người cô không hề quen biết, nhưng đó lại là người đặc biệt biết ơn cô vì đã tới tham dự bữa tiệc của họ. Cô khá kiểu cách trong khi nhấm nháp những chiếc kẹo sô-cô-la được mang tới bởi người bồi bàn đáng yêu. Cô cười rất nhiều nhưng dường như có vẻ xa cách và như thể cô đang ở trong “thế giới riêng” của mình vậy. Chỉ một số người được gần cô và dường như cô thích thú với điều này. Cô rời khỏi bữa tiệc trước khi bạn “tính” đến việc nói chuyện với cô ấy. Cô đi tới bữa tiệc tiếp theo để “gặp gỡ” những người thú vị hơn – những người có thể hiểu rõ giá trị của cô ấy. Mẫu người hay xin lỗi Mẫu người hay xin lỗi dường như không biết vì lí do gì mà tối nay họ lại tham dự trong buổi gặp mặt này. Bởi lẽ điều đầu tiên mẫu người này nói với bạn là họ “thật sự xin lỗi” vì không mang theo quà, cũng như ăn mặc không phù hợp hoặc quá đơn điệu... Mẫu người này xin lỗi mọi thứ, kể cả khi họ quên tên của bạn. Vào cuối buổi tối đó, bạn ước gì mẫu người này là một kí tự trên bàn phím để rồi nếu họ còn xin lỗi một lần nữa, bạn sẽ nói: “Tôi thề, tôi sẽ nhấn phím xóa!” Mẫu người hay xin lỗi rời khỏi bữa tiệc sớm trước hai giờ đồng hồ – sau khi đã xin lỗi mọi người rằng mình có việc phải về nhà. Nhưng ít ra mẫu người này cũng đến tham dự bữa tiệc, mặc dù có vẻ như không hề muốn vậy... Mẫu người thích ở nhà Bạn không bao giờ có cơ hội gặp những người như vậy ở một sự kiện nào đó. Mặc dù nhìn bề ngoài thì mẫu người thích ở nhà có vẻ khá năng động và lôi cuốn khi gặp gỡ qua Internet. Có lẽ chúng ta sẽ gặp lại mẫu người này ở phần cuối của cuốn sách khi xem xét kỹ thuật mạng, nhưng có một điều chắc chắn rằng họ không phải là người bạn có thể mời đi uống một cái gì đó. Vâng! Có lẽ đây là một người bạn ảo! Mẫu người thích chầu rìa Chúng ta khó lòng gặp mặt mẫu người thích ở nhà, song với mẫu người thích chầu rìa thì cũng không khác là bao, dù cho họ cũng có mặt trong căn phòng này. Mẫu người thích chầu rìa ăn mặc khá lộng lẫy, thậm chí là quá chỉnh chu. Điều đó cũng khó chịu giống như những cuộc trò chuyện với mẫu người này, đó là những đoạn độc thoại bị ngắt quãng bởi các khoảng lặng tẻ nhạt đợi chờ sự hồi đáp. Nét đặc trưng nổi bật của mẫu người thích chầu rìa đó là giỏi lắng nghe, tuy nhiên lại quá mức đến nỗi việc này có thể tiếp diễn mãi mãi ngay cả khi không có ai nói cả. Đây chính là vấn đề rắc rối mấu chốt trong việc nói chuyện với mẫu người thích chầu rìa – thực tế là không hề có cuộc hội thoại nào. Những cuộc hội thoại mỗi lúc càng trở nên vụn vặt hơn. Dường như bạn vừa là người bắt đầu, vừa phải kết thúc mỗi cuộc hội thoại, cũng như cung cấp phần lớn khúc giữa của những cuộc hội thoại ấy. Sau khi nói chuyện với mẫu người thích chầu rìa một lúc, thì không hề có bất kỳ cuộc hội thoại nào nữa và thay vào đó là sự tưởng tượng. Bạn bắt đầu tự hỏi: “Phải chăng người này không thích mình” hay “Có lẽ người này ít nói”. Cũng vì mẫu người thích chầu rìa không có khả năng bắt đầu cuộc hội thoại nên hầu như mọi lúc họ đều ngồi một mình nhưng dường như không ai nhận ra điều đó. Mẫu người chỉ gặp một lần Bạn gặp mẫu người này từ đầu buổi tối và cảm thấy hai người khá hợp nhau. Mẫu người này thường để lại ấn tượng tốt cho mọi người ngay khi mới gặp. Bạn và mẫu người này cùng kể cho nhau nghe việc các bạn đến đây như thế nào, đồ uống ở đây đắt đỏ ra sao và cả việc hai người cùng xem một bộ phim đến hai lần. Nhưng nửa tiếng sau thì câu chuyện của cả hai người cạn dần và cả hai đều phải nỗ lực để câu chuyện tiếp tục. Bạn nhìn xung quanh và thấy một số người mà bạn nghĩ rằng gặp gỡ họ hẳn là thú vị, nhưng đúng lúc đó thì người này lại mời bạn uống cái gì đó tại quầy bar. Trước khi kịp nhận ra buổi tuối hôm đó đã trôi đi, thì bạn đã dành nó vào một cuộc trò chuyện tẻ nhạt, vô vị. Tuy nhiên, khoảng thời gian ban đầu không đến nỗi tệ. Vào cuối buổi tối, mẫu người này ghi lại địa chỉ e-mail của mình lên một mặt của chiếc khăn và hứa sẽ giữ liên lạc với bạn trong một vài tuần tới. Trong vòng hai tuần thì chiếc khăn đó còn khó tìm hơn cả một người mất tích, dĩ nhiên là mẫu người chỉ gặp một lần đã lặn mất tăm và bạn không bao giờ còn nghe về người này nữa. Mẫu người đóng vai trò kết nối Trong mỗi buổi tối hay sự kiện đều có một điểm nhấn và đối với bạn mẫu người đóng vai trò kết nối chính là điểm nhấn trong sự kiện đó. Họ tiếp cận bạn ngay từ đầu, giới thiệu bản thân với bạn, cũng như đề cập đến việc hai người may mắn thoát khỏi cuộc trò chuyện với mẫu người thích kể lể. Mẫu người này khá nồng hậu và dường như thật sự quan tâm tới bạn. Họ hỏi ý kiến của bạn về chuyến đi du lịch châu Á vào kỳ nghỉ hè này và cùng bàn luận về các môn thể thao. Mẫu người đóng vai trò kết nối khá là hòa đồng. Một điểm mà mẫu người này thật sự gây ấn tượng với bạn là cách dẫn dắt mọi người nhập chuyện nhưng hầu như không mất công sức. Họ dường như biết tất cả mọi người, có thể giới thiệu tên từng người và nói với bạn một vài điều về họ. Chính điều này là khởi đầu của cuộc trò chuyện. Sau đó, bạn đã hiểu ra rằng bản thân họ đã từng gặp những người này. Vào cuối buổi, mọi người đều đưa thông tin liên lạc chi tiết cho mẫu người đóng vai trò kết nối và tất cả đều nhận được lời mời đến dự tiệc vào dịp Giáng sinh. Người này sẽ giữ liên lạc với tất cả những người mà mình gặp và quí mến. Thực tế, người này thật sự quí bạn. Sau buổi tối hôm đó, bạn nhận được một bức ảnh điện tử tuyệt đẹp kèm theo tấm hình của Singapore với thông điệp: “Mong rằng những kí ức đẹp đẽ của bạn được giữ mãi”. Bạn rất vui và hy vọng hai người sẽ tiếp tục giữ liên lạc với nhau. Vậy tạo dựng quan hệ chính xác là gì? Tất cả các ví dụ trên chỉ là những bức tranh phác họa về phương pháp hay cách thức thể hiện sự tồn tại của chúng ta thông qua việc tạo dựng quan hệ. Chúng có thể khiến bạn mỉm cười bởi bạn nhận ra rằng những tính cách này không chỉ có ở người khác mà còn hiện hữu ngay trong chính mình. Vậy nghĩa thật sự của từ “tạo dựng quan hệ” là gì? Dưới đây là một số khái niệm về “tạo dựng quan hệ”: • Tạo dựng quan hệ giỏi tức là biết tận dụng tất cả những mối quan hệ bạn có nhằm đạt được ích lợi cho cả đôi bên. • Tạo dựng quan hệ giống như một cuộc hành trình. Cộng tác với người khác để cùng hướng tới đích chung và tận hưởng sự thú vị của chuyến đi đó. • Tạo dựng quan hệ là việc sử dụng thông minh mối quan hệ với người khác. • Tạo dựng quan hệ chính là nói về việc xây dựng thanh danh nghề nghiệp của bạn tốt lên, đồng thời thiết lập một mạng lưới quan hệ bạn có thể trông cậy mỗi khi cần sự hỗ trợ. Tóm lại, “tạo dựng quan hệ” là: • Tạo dựng quan hệ liên quan đến những mối liên hệ cụ thể, đó là mối liên hệ giữa con người với nhau. Để miêu tả tập hợp những con người có quan hệ với nhau, chúng ta sẽ dùng từ “cộng đồng”. • Tạo dựng quan hệ không chỉ là việc tạo ra công cụ hỗ trợ đắc lực, mà còn tạo nên nguồn tài nguyên giúp bạn đạt được những mục tiêu như mong muốn. • Tạo dựng quan hệ có thể làm phong phú chất lượng sống của bạn cũng như của người khác. • Tạo dựng quan hệ là một động từ gợi cho ta thấy tính năng động, tự nhiên của nó. Mạng lưới quan hệ có thể phát triển song cũng có thể thu hẹp nếu bạn không biết cách gìn giữ và xây dựng nó. Định nghĩa Tạo dựng quan hệ là nghệ thuật xây dựng những mối quan hệ tương hỗ giúp đỡ các cá nhân và cộng đồng như một tổng thể nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Xây dựng một cộng đồng Một trong những nhân tố tạo nên sự khác biệt của cuốn sách này đó chính là việc tạo dựng quan hệ không mang “tính cá nhân”. Nó không phải hoạt động kiểu “Tôi!Tôi !Tôi” của mẫu người thích tiếp thị. Người tạo dựng quan hệ cừ khôi nhận thức được rằng họ là một phần của cả hệ thống vận hành dựa trên sự tương hỗ và mỗi cá nhân trong hệ thống đó là một phần của cộng đồng – những con người có liên quan mật thiết với nhau. Ngay từ khi sinh ra chúng ta đã biết cách tạo dựng quan hệ – trong đó có cả bạn. Tạo dựng quan hệ là điều mà tất cả chúng ta đều học từ lúc bé để có được những nhu cầu cơ bản. Chúng ta có thể không sử dụng từ “tạo dựng quan hệ” nhưng mỗi người trong xã hội đều có liên hệ với một mạng lưới quan hệ cụ thể nào đó. Câu hỏi duy nhất cần đặt ra ở đây không phải là: “Chúng ta có tạo dựng quan hệ hay không?” mà là: “Chúng ta tạo dựng quan hệ có hiệu quả không?” Người tạo dựng quan hệ cừ khôi nhận ra rằng họ càng có nhiều mối quan hệ tương hỗ bao nhiêu, thì họ càng được hưởng lợi từ những lựa chọn tiềm năng và các cơ hội ấy bấy nhiêu. Lời khuyên Tạo dựng quan hệ liên hệ mật thiết với sự đa dạng và tính sáng tạo. Phạm vi lựa chọn càng nhiều bao nhiêu thì khả năng để giành được mục tiêu của bản thân cũng như hỗ trợ người khác càng lớn bấy nhiêu. Các cộng đồng trong đó những cá nhân tạo dựng quan hệ thiết lập nên thường không có địa điểm cố định. Có lẽ những cộng đồng này chỉ thể hiện qua các lợi ích đa dạng của chúng hoặc chúng là ảo. Chúng có thể có các cộng đồng khác gia nhập vào cũng như tách ra từ chúng, song chúng được liên kết bởi một nhân tố – người tạo dựng quan hệ cừ khôi đóng vai trò cầu nối hay mối liên kết thiết yếu đến từng cộng đồng. Phần bỏ trống dưới đây là dành cho bạn viết định nghĩa của chính mình về việc tạo dựng quan hệ Tạo dựng quan hệ là.... Mời các bạn đón đọc Thật Đơn Giản - Tạo Dựng Quan Hệ của tác giả Steven D'Souza.
Kiểm Soát Thời Gian - Chu Toàn Mọi Việc
Ngày nay, trong nhịp sống gấp gáp của thời đại công nghiệp, thời gian dường như đã trở thành một thứ vô giá. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách quản lý thời gian của mình một cách hiệu quả nhất, thậm chí có rất nhiều người đã vướng phải thứ mà các chuyên gia tâm lý vẫn gọi là “Cạm bẫy thời gian”. Nó khiến con người cảm giác như thời gian của họ bị tắc lại trong dòng chảy vô tận của công việc và trách nhiệm, và cuộc sống trở nên khó khăn và mất kiểm soát hơn cho dù họ đã cố gắng hết sức. Trải qua hơn một thập kỷ nghiên cứu tường tận với sự tham gia của nhiều doanh nhân trên khắp thế giới, Alec Mckenzie và Patricia Nickerson đã cùng nhau cho ra đời siêu phẩm “The Time Trap” – "Nghệ thuật quản lý thời gian" cuốn cẩm nang kỳ diệu tiết lộ những cách thức tối ưu giúp bạn kiểm soát thời gian một cách hiệu quả nhất. Với các chiến thuật thông minh, những kinh nghiệm được rút ra từ các bài phỏng vấn chuyên sâu cùng nhiều công cụ quản lý thời gian hiệu quả được sắp xếp hợp lý và logic, cuốn sách sẽ giúp bạn: § Tránh những cách “tiết kiệm thời gian” không hiệu quả. § Xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót. § Tính toán thời gian hợp lý cho từng nhiệm vụ. § Xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian. § Giúp bản thân trở nên năng động và chuyên nghiệp hơn Trải qua bốn lần tái bản, hơn nửa triệu ấn phẩm được độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới đón nhận nồng nhiệt, có thể nói, "Nghệ thuật quản lý thời gian" chính là bộ công cụ quản lý thời gian hiệu quả nhất tính đến thời điểm hiện tại. *** Mặc dù nhận thức được rằng thời gian là một phần quan trọng mang tính chi phối cũng như ảnh hưởng rất lớn đến công việc và cuộc sống, nhưng phần lớn chúng ta không thể quản lý hiệu quả thời gian của mình. Hàng đống công việc chất chồng cần giải quyết, những thời điểm “vắt chân lên cổ” chạy cho kịp thời hạn dự án hay nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhưng vẫn có những khoảng thời gian “chết”, bạn ngồi ở bàn làm việc với hàng đống giấy tờ tài liệu nhưng lại chẳng biết phải bắt đầu từ đâu, và thời gian cứ thế trôi đi vô ích. Điều đó đồng nghĩa với việc bạn đã rơi vào “những chiếc bẫy thời gian” – điều mà hai tác giả Alec Mackenzie và Pat Nickerson định nghĩa rõ ràng và chi tiết trong cuốn sách hàng đầu giúp bạn quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian của mình – Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc. Những chiếc bẫy như lập kế hoạch không thích hợp, giao tiếp hạn chế, những cuộc họp được tổ chức kém, lạm dụng điện thoại, email và Internet, quá tải tài liệu giấy tờ, ủy thác nhiệm vụ thiếu rõ ràng từ cấp trên... khiến con người cảm giác như thời gian của mình bị tắc lại trong dòng chảy vô tận của công việc và trách nhiệm, làm cho cuộc sống trở nên khó khăn và mất kiểm soát cho dù đã cố gắng hết sức. Sau bốn lần tái bản với gần một triệu ấn phẩm được độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới đón nhận nồng nhiệt, có thể nói Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc chính là bộ công cụ quản lý thời gian hiệu quả nhất tính đến thời điểm hiện tại. Với các chiến thuật thông minh, những kinh nghiệm được rút ra từ các bài phỏng vấn chi tiết cùng nhiều công cụ quản lý thời gian hiệu quả, cuốn sách sẽ giúp bạn xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian; sắp xếp thời gian hợp lý cho các nhiệm vụ, xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót; trở nên năng động và chuyên nghiệp hơn trong công việc. Alpha Books trân trọng giới thiệu cuốn sách này với mong muốn mang đến cho độc giả thêm một bộ cẩm nang giúp quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian – một tài sản vô giá trong công việc và cuộc sống mà nếu biết khai thác cũng như sử dụng đúng đắn, bạn có thể đạt được những thành công to lớn.  Chúc các bạn thành công! Hà Nội tháng 6, năm 2012 CÔNG TY SÁCH ALPHA *** TẠI SAO THỜI GIAN VẪN LUÔN NGĂN CẢN PHẦN TỐT NHẤT CỦA CHÚNG TA? Chúng ta vẫn thường tự nhủ: “Mình sẽ không có đủ thời gian đâu!” Có lẽ Noah và gia đình ông cũng từng nói thế khi hối hả chọn các cặp súc vật để mang lên con thuyền lớn . Chúng ta đều có 24 giờ, hay 1.440 phút mỗi ngày. Vậy lợi thế của Noah là gì? Ông có một thời hạn chính xác phải hoàn thành, những mục tiêu rõ ràng, và những hướng dẫn cụ thể từ Đấng Tối cao về thời điểm và quá trình chính xác phải tiến hành. Nếu bạn không thấy được những lợi thế tương tự, quá trình bạn tạo ra trong khoảng thời gian được giao có thể sẽ khác hoàn toàn so với văn hóa, hoàn cảnh, và đặc biệt là lựa chọn của bạn. Điều hiển nhiên là càng có ít lựa chọn hơn thì cuộc sống của bạn sẽ đơn giản hơn. Nếu từng sống sót qua một thảm họa thiên nhiên, hay đơn giản là một đợt cắt điện kéo dài, bạn sẽ biết cảm giác bị quăng trở lại với “thời kỳ đồ đá” như thế nào. Bạn sẽ phải tích cực làm việc từ sáng sớm tinh mơ cho đến tối mịt vì sự sinh tồn; và bạn thậm chí sẽ làm nhiều hơn nếu có thể, nhờ ánh trăng, lửa, nến hay nhờ nguồn điện, cho tới khi bạn chìm vào giấc ngủ. Sau này, bạn sẽ luôn nhớ đến những nỗ lực với niềm tự hào, nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ muốn những điều đó tái diễn thêm một lần nào nữa. SỰ XAO LÃNG, NHỮNG KỲ VỌNG, SỰ KHẨN CẤP Tại sao chúng ta có thể làm chủ thời gian của mình trong thời kỳ khủng hoảng, nhưng lại không thể làm chủ được thời gian trong những ngày bình thường? Chính bởi sự kết hợp của bộ ba “siêu bẫy” bao quát toàn diện, từ đó hình thành nên những chiếc bẫy thời gian. Đó là: Những xao lãng tầm thường Những kỳ vọng quá mức Những vấn đề quan trọng khẩn cấp Sự xao lãng làm rò rỉ quỹ thời gian của chúng ta như thế nào? Hãy suy nghĩ về hoàn cảnh sống hoặc công việc hiện tại của bạn, đặc biệt khi nó gây ra những ảnh hưởng nhất định tới thời gian của bạn. Nếu bạn giống như hầu hết những người khác, thì ắt hẳn nhà cửa, ô tô, và văn phòng của bạn phải tràn ngập các thiết bị hiện đại và nguồn dữ liệu. Bạn có thể cập nhật tình hình thế giới mỗi tích tắc, phản ứng kịp thời với bất cứ thách thức hay cơ hội nào xuất hiện. Nhưng liệu bạn có nên làm điều đó hay không? Sự kết nối quan trọng như thế nào? Vậy làm thế nào tổ tiên chúng ta, vốn không có những công cụ tốc độ cao và kết nối mạng 24/24, lại vẫn có thể nghiên cứu, phát minh, và đạt được nhiều thành tựu đến vậy – từ những bức hình khắc trong các hang đá cho tới các nhà thờ, từ việc xây dựng cả một đế chế cho tới nguồn điện lưới, từ đường ray xe lửa cho tới phóng xạ, từ việc dùng chảo đãi vàng cho tới việc dùng khoan khoan lấy lõi – tất cả đều hoàn toàn thô sơ, đều thuộc thời kỳ ‘trước thời laptop’? Họ được ban phát nhiều sự thông minh tài trí hơn chúng ta? Hay họ khỏe mạnh hơn, khéo léo hơn? Hay họ không mắc phải chiếc bẫy lớn đầu tiên – Những Xao lãng tầm thường? Đa nhiệm giúp tiết kiệm hay lãng phí thời gian? Hãy xem xét cuộc sống hiện tại của bạn. Ở bất cứ nơi đâu, con người cũng đều cố gắng thuyết phục số đông rằng đa nhiệm là một nhiệm vụ cần thiết. Hãy nhìn những người đang lái xe tới công sở ở làn đường kế bên. Nếu họ cũng đang thực hiện đa nhiệm để tiết kiệm thời gian, họ sẽ phải sử dụng thiết bị định vị GPS và các chương trình giao thông trên đài để tìm ra một hướng đi thông thoáng. Họ cũng có thể sẽ phải cố gắng tiết kiệm thêm thời gian bằng cách đọc tin nhắn hay trả lời điện thoại trong khi đang nhâm nhi ly cà phê và lao xuống dốc với vận tốc 112 km/h. Liệu khoảng thời gian họ tiết kiệm được bằng việc thực hiện đa nhiệm có xứng đáng không? Hay nó sẽ tan thành khói bụi khi một người lái xe khác, cũng đang bận rộn đa nhiệm tương tự, đột nhiên hỏi chuyện?  Ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu tranh luận về quan niệm rằng đa nhiệm sẽ tiết kiệm thời gian. Thực chất, trí não con người không thể xử lý hai dòng suy nghĩ đối ngược nhau tại cùng một thời điểm mà không làm giảm chất lượng của cả hai. Thay vào đó, chúng ta hoàn toàn có thể làm tốt hơn nếu giải quyết từng nhiệm vụ một và theo trình tự. Chúng ta có thể nâng cao hiệu quả bằng cách sử dụng công cụ nhắc nhở, ghi nhớ kèm hình ảnh để theo kịp lịch trình. Và trên thực tế, chúng ta có thể đẩy nhanh quá trình từ nhiệm vụ này sang nhiệm vụ khác. Nhưng đến lúc đó, bạn chắc chắn đã rất mất tập trung rồi. TIẾNG NÓI THỰC SỰ Đây là những gì Ken Mayo − điều phối viên mạng kiêm nhiếp ảnh gia của Hiệp hội Y tế Công giáo Mỹ − nói về đa nhiệm: Cho đến giờ, tôi tin chắc rằng đa nhiệm là phản tác dụng. Mục tiêu là cố gắng để đạt được kết quả tốt, nhưng tôi lại thấy chất lượng công việc bị ảnh hưởng rõ rệt. Bây giờ, tại một thời điểm tôi chỉ cố gắng làm một việc. Nếu không thể hoàn tất, tôi cố gắng chia nhiệm vụ hay dự án đó thành nhiều giai đoạn. Sau đó, khi trở lại với nhiệm vụ hay dự án đó, tôi sẽ thấy việc nhớ được phải bắt đầu lại từ đâu dễ dàng hơn. Duy trì sự tập trung Có thể bạn nhận ra rằng mình mắc nhiều lỗi nhất vào những thời điểm cuối cùng của một công việc, khi trí óc bạn đã xao lãng trước khi những ngón tay của bạn kịp hoàn thành đánh máy, hoặc khi tay búa của bạn nện vào chiếc đinh cuối cùng. Nếu có thể duy trì sự tập trung từ đầu đến cuối, giải quyết công việc nhanh gọn, rồi sau đó chuyển sang nhiệm vụ tiếp theo, thì có lẽ chúng ta đã đạt được những thành công nhất định nào đó. Nếu liệt kê những nhiệm vụ tiếp theo ra giấy, lưu sẵn trên màn hình, giữ chúng trong tầm mắt, chúng ta có thể đẩy nhanh tiến độ. Nhưng cùng lúc, chúng ta cũng nên dành cho mỗi công việc sự tập trung toàn vẹn, chứ không phải là sự tập trung bị-phân-tán, để tiết kiệm thời gian tối ưu nhất. LÀM THẾ NÀO ĐỂ SỬ DỤNG KHOẢNG THỜI GIAN BẠN TIẾT KIỆM ĐƯỢC? Tại các buổi hội thảo về Quản lý thời gian, chúng tôi thường hỏi những người tham gia – với vẻ mệt mỏi kiệt quệ hiện rõ trên khuôn mặt – rằng nếu được tặng thêm một giờ mỗi ngày, họ sẽ sử dụng món quà kỳ diệu này như thế nào. Đa số họ đều đồng thanh “Ngủ!” Câu trả lời này có làm bạn ngạc nhiên không? Hay khiến bạn thất vọng? Hay bạn cũng có câu trả lời tương tự? Theo nhiều nghiên cứu về việc ngủ của các nhà khoa học, một người Mỹ trưởng thành ngày nay chỉ dành khoảng 6 tiếng 40 phút cho giấc ngủ mỗi đêm – không đúng với con số 8 tiếng mà các thế hệ trước đây được khuyến cáo. (Ngay cả các quảng cáo đệm cũng thường khuyên chúng ta nên tối đa hóa giấc ngủ 6 tiếng liên tục bằng việc mua những bộ chăn ga gối đệm tốt hơn!) Nhưng chúng ta đã sử dụng khoảng thời gian lúc sắp đi ngủ như thế nào? Rất nhiều người trưởng thành thú nhận rằng họ thường lăn ra ngủ ngay sau bữa tối, hoặc đờ đẫn “thư giãn” trước màn hình ti vi trong khi con cái họ dán mắt vào các trang web xã hội, các tin nhắn mạng, các trò chơi trực tuyến, trang web tải nhạc và làm bài tập về nhà. À vâng, bài tập về nhà! Cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi phải khó khăn lắm chúng mới thức dậy nổi vào sáng hôm sau. Nhân đây tôi cũng muốn hỏi, những lao động trưởng thành làm gì trong 24 giờ kỳ diệu của mình? Hãy cùng xem xét một vài cách hiệu quả để thoát khỏi những chiếc bẫy thời gian của chúng tôi. THOÁT KHỎI SỰ XAO LÃNG: TẬP TRUNG THỜI GIAN VÀO MỘT MỤC TIÊU Giả sử bạn được tặng một giờ quý báu vào thời điểm tùy chọn – không phải khi mệt mỏi (giống như những người tham gia hội thảo đã đồng thanh trả lời là dành thời gian để ngủ), mà là đang tràn đầy năng lượng – khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong ngày của bạn – thì câu trả lời của bạn có thể sẽ khác. Vậy hãy hỏi con người tràn đầy sức sống trong bạn rằng: Bạn sẽ sử dụng giờ thứ 25 như thế nào? • Tiếp tục làm việc? • Chơi thể thao, hay tập thể dục? • Tụ tập bạn bè? • Chơi bóng cùng lũ trẻ? • Dọn dẹp phòng ốc? • Nghỉ ngơi thư giãn? • Đọc và học? • Bình tâm cầu nguyện? • Vẽ tranh? • Tham quan bảo tàng? • Chơi guitar? • Làm vườn? • Nấu ăn? • Sơn lại phòng? • Đi spa trị liệu? • Tham gia tình nguyện? Thêm những lựa chọn của bạn vào chỗ trống dưới đây: • ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- • ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Dù bạn lựa chọn điều gì, thì có một điều chắc chắn là: bạn cố gắng dành riêng giờ thứ 25 cho dự định đó, mà không cho phép bất cứ sự xao lãng ngẫu nhiên nào tác động. Bạn sẽ chỉ tập trung vào công việc đó. Bạn sẽ hiểu rõ động cơ của việc quản lý những giờ phút hiếm hoi đó. Vậy nếu bạn được tặng thêm một giờ tại công sở? Hãy hình dung cấp trên cũng tặng cho bạn một lựa chọn tương tự – có thêm một giờ mỗi ngày – không phải để giải quyết công việc cho họ, mà để giải quyết việc của riêng bạn? Vậy có nhiệm vụ nào quan trọng với bạn và sự nghiệp của bạn, không thể hoàn thành do bạn còn phải dành thời gian cho khách hàng, đồng nghiệp, hay cấp trên không? Bạn thường tự nhủ: “Đây là việc của riêng mình. Mình sẽ chỉ giải quyết nó khi đã hoàn thành những việc khác.” Nhưng những giờ phút riêng tư ấy sẽ chẳng bao giờ tới trong giờ làm việc, vậy nên bạn vẫn cứ vắt kiệt sức mình cho những buổi làm thêm giờ không lương để giải quyết cho xong việc. Có lẽ khi nghiền ngẫm cuốn sách này, bạn có thể thêm công việc đó vào danh sách những mục tiêu xứng đáng với những quyết tâm quản lý tốt nhất thời gian của mình. Kỳ vọng: Chúng ta nên làm gì tại nơi làm việc?  “Được lựa chọn làm việc gì tại công sở ư? Ai được tự do làm thế?” Bạn hay hỏi như vậy. Chính bạn! Đúng vậy, chính bạn. Bạn không những có quyền mà còn có nghĩa vụ lựa chọn những việc phải làm tại công sở. Dù bạn muốn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ấy đến thế nào, dù chính sách của công ty bạn có đặt khách hàng làm trung tâm đến bao nhiêu – thì tất cả mọi người, sớm hay muộn, đều phải đặt ra một vài tiêu chuẩn rõ ràng để những việc họ làm tại công sở trong 8 đến 10 tiếng hàng ngày trở nên hiệu quả. Hãy cân nhắc những tiêu chí dưới đây khi bạn đảm trách một nhiệm vụ mới. Có thể bạn sẽ nhận ra rằng bạn đã và đang sử dụng một vài hay tất cả những biện pháp này. Có thể những tiêu chí dưới đây đã mang lại cho bạn một chút thành công mà bạn đang tận hưởng. Mời các bạn đón đọc Kiểm Soát Thời Gian - Chu Toàn Mọi Việc của tác giả Leander Kahney & Quốc Đạt (dịch).
SISU - Vượt Qua Tất Cả: Nghệ Thuật Sống Của Người Phần Lan
Sisu là một từ khó diễn giải trong tiếng Phần Lan và không có từ tiếng Anh tương đương. Thuật ngữ này là sự pha trộn của lòng can đảm, sự dẻo dai, tinh thần bền bỉ và tính kiên trì – những phẩm chất giúp định hình nghệ thuật sống "vượt qua tất cả" của con người và đất nước Phần Lan. Tinh thần sisu không chỉ tồn tại trong trái tim mỗi người dân của xứ sở này, mà còn được thể hiện trong cuộc sống thường nhật nơi đây. Là một quốc gia nhỏ bé ở vùng Bắc Âu, nổi tiếng với thời tiết và môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng Phần Lan chưa bao giờ rời khỏi nhóm những quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao nhất thế giới. Đối với người dân Phần Lan, "dành thời gian hòa mình với thiên nhiên" là một trong những yếu tố hàng đầu làm nên hạnh phúc, bên cạnh sự độc lập, bình yên, trật tự, hữu dụng và sự công bằng. Và tất cả những yếu tố này đều có thể được gói gọn trong một bí quyết mang tên sisu – tinh thần vượt qua tất cả. Thật khó định nghĩa chính xác sisu là gì. Không có một từ tiếng Anh nào có ý nghĩa tương đương với sisu, và ngay cả trong tiếng Phần Lan thì sisu cũng đại diện cho một tổ hợp nhiều đặc điểm khác nhau, bao gồm quyết tâm sắt đá, nghị lực, lòng can đảm, sự dũng cảm, ý chí bền bỉ, sự ngoan cường và kiên trì. Tinh thần sisu sẽ thức tỉnh khi những khó khăn và nghịch cảnh khiến bạn muốn bỏ cuộc, khi mà chỉ có dũng khí mới có thể giúp bạn tiếp tục tiến lên. Nhưng sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu bạn nói rằng mình có tinh thần sisu nhưng không thể hiện được tinh thần đó. Sisu là lối tư duy hướng đến hành động, chứ không phải chỉ là tỏ ra can đảm. Trong một xã hội mà con người phải đối mặt với vô vàn thử thách để sinh tồn và phát triển thì sisu là thiết yếu. Sisu không phải là nguồn sức mạnh giúp ta chạy một mạch lên đỉnh núi, mà sisu là nguồn lực xuất hiện khi nguồn năng lượng mà ta nhận thức được đang dần cạn kiệt, khi nghịch cảnh kéo đến và ta dường như không còn lối thoát. Chính vào lúc đó, sisu sẽ trỗi dậy để giúp ta không ngừng đặt từng bước chân lên con đường phía trước. Khác với những chiến công hoặc hành động xuất phát từ sự liều lĩnh hay chủ nghĩa anh hùng cực đoan, những chiến tích của tinh thần sisu luôn diễn ra trong thầm lặng. Tinh thần sisu thể hiện ở mọi mặt của cuộc sống Phần Lan, từ việc chuẩn bị thật kỹ lưỡng để đương đầu với những khó khăn thử thách, mạnh mẽ thừa nhận những điểm yếu của bản thân, dành thời gian để im lặng suy nghĩ, nói những lời trung thực và thẳng thắn chứ không hoa mỹ, tôn thờ sự bình đẳng và công bằng, cho đến những chuyến đi bộ đường dài trong rừng, tận hưởng mùa hè trong những ngôi nhà gỗ nhỏ bé ở vùng hẻo lánh thốn thiếu tiện nghi và đi tắm hồ vào giữa mùa đông lạnh giá Tất cả những điều đó đã tạo nên một phong cách sống bình dị mà kiên cường, hòa mình với thiên nhiên nhưng cũng vô cùng hiện đại. Mang tập sách Vượt qua tất cả - Nghệ thuật sống của người Phần Lan đến với bạn đọc Việt Nam, chúng tôi mong rằng tất cả chúng ta sẽ đón nhận Sisu và vững vàng đối mặt với những thử thách trong cuộc sống. Để rồi từ đó bạn sẽ tìm được những bài học và lời khuyên để bắt đầu tận hưởng cuộc sống này, để tìm thấy hạnh phúc và niềm vui trong ngay cả những thời khắc khó khăn nhất. Bởi lẽ sisu là một đặc điểm mang tính phổ quát. Có thể người Phần Lan đã gọi tên nó, định nghĩa nó, nhưng tinh thần sisu – tinh thần vượt qua tất cả – không hề giới hạn ở đất nước hay con người Phần Lan, mà bất kỳ ai trên thế giới này cũng có thể nắm bắt và vận dụng sisu. Sisu luôn hiện diện trong bạn, và có lẽ bạn cũng từng vận dụng sisu rồi đấy. *** SISU LÀ GÌ?   - giới thiệu về sisu   Có thể nói sisu là một từ mà người dân Phần Lan rất yêu thích. Trở nên phổ biến từ những năm 1920 nhưng có nguồn gốc từ quá khứ xa xôi, thuật ngữ khó diễn giải này là sự pha trộn của lòng can đảm, sự dẻo dai, tinh thần bền bỉ và tính kiên trì – một đặc điểm đã định hình không chỉ số phận của một dân tộc mà còn cả cuộc sống thường nhật của mỗi người dân Phần Lan.   Chỉ số hạnh phúc của Phần Lan luôn xếp thứ hạng cao trong các cuộc khảo sát quốc tế. Là một quốc gia nhỏ bé với khoảng 5,5 triệu dân, nép mình ở rìa phía đông bắc châu Âu, thế nhưng Phần Lan đã khẳng định vị trí của mình trên bản đồ thế giới – một cách thầm lặng và khiêm nhường. Bạn sẽ khó tìm được một người Phần Lan nào ra vẻ ba hoa, vì ở đất nước này, chỉ nhấn kèn xe thôi cũng bị xem là một việc cực kỳ thô lỗ. Nếu hỏi một người Phần Lan về bí quyết thành công của chúng tôi, thông thường bạn sẽ nhận được một cái nhún vai và một câu trả lời không mấy rõ ràng rằng chẳng có một bí quyết nào cả. Thế nhưng những người tin rằng bí quyết nằm ở sisu lại nghĩ khác. Chúng tôi luôn thầm tự hào về tinh thần sisu của mình.   Thế thì đối với người Phần Lan, hạnh phúc nghĩa là gì? Theo một cuộc khảo sát mới đây, sự độc lập, bình yên, trật tự, hữu dụng và công bằng đều có vị trí cao trong danh sách những yếu tố góp phần làm nên hạnh phúc, và “dành thời gian hòa mình cùng thiên nhiên” là yếu tố dẫn đầu danh sách này. Quan niệm sống của người Phần Lan vẫn còn nhuốm màu lịch sử của những năm tháng thiếu thốn và buộc phải chinh phục môi trường khắc nghiệt. Điều đó giải thích vì sao trong thời buổi tiện lợi này, nhiều người Phần Lan vẫn thích trải qua kỳ nghỉ hè trong những ngôi nhà gỗ nhỏ thiếu thốn một số tiện nghi cơ bản, cũng như tại sao chúng tôi có tình cảm vừa yêu vừa ghét đối với khí hậu.   Tinh thần sisu đã được chứng thực trong suốt bề dày lịch sử, khi Phần Lan đã xây dựng và tái thiết tương lai của dân tộc mình nhiều lần. Tôi tin rằng sisu mang lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích nếu ta nhìn nhận sisu như một chuẩn mực sống. Mời các bạn đón đọc SISU - Vượt Qua Tất Cả: Nghệ Thuật Sống Của Người Phần Lan của tác giả Joanna Nylund.