Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dạy Con Làm Giàu Tập 6 - Những câu chuyện thành công
Dạy Con Làm Giàu Tập 6 – Những câu chuyện thành côngTrong những cuốn Dạy con làm giàu trước, các bạn đã được làm quen với Kim tứ đồ miêu tả bốn loại người trong thế giới tài chính. Nhóm L và T ở cột bên trái của Kim tứ đồ tượng trưng cho nhóm người làm công lĩnh lương và nhóm làm tư hay chủ kinh doanh nhỏ. Nhóm C và Đ bên phải của Kim tứ đồ tượng trưng cho chủ doanh nghiệp hay công ty và nhà đầu tư.Những người chia sẻ các câu chuyện thành công của họ trong cuốn sách này đều muốn giành được một mục tiêu tương tự như nhau: sự tự do về tài chính. Tất cả họ đều phấn đấu để di chuyển sang cột bên phải của Kim tứ đồ.Những câu chuyện của họ nói lên sự khác nhau giữa việc hoàn toàn phụ thuộc vào người khác để có thu nhập với việc kiểm soát cuộc sống tài chính của bản thân. Họ chia sẻ những vấn đề tài chính mà họ sợ phải đối mặt cũng như cách họ chinh phục nỗi sợ đó. Như người bố giàu khuyên bảo, họ phát triển con đường riêng thích hợp cho mình.Họ có những bước đi đạt được sự an toàn về tài chính bằng cách mua những dự án kinh doanh hay đầu tư vào bất động sản hoặc cả hai. Những người đã sở hữu những dự án kinh doanh sử dụng các bài học của Người bố giàu để giúp họ điều hành doanh nghiệp tốt hơn và theo định hướng người chủ thân thiện hơn.Qua những câu chuyện thành công của những người đã đón nhận lời khuyên của Người bố giàu và đạt được sự thành công tài chính của riêng họ, bạn sẽ biết được:
Bánh Răng Khởi Nghiệp - Đường Đến Thành Công
Bánh Răng Khởi Nghiệp – Đường Đến Thành CôngKhởi nghiệp không phải là một điều quá lạ lẫm với người Việt nhưng những năm gần đây khởi nghiệp đã mang một luồn sinh khí mới đến với các bạn trẻ Việt Nam, cũng như tạo nên một ngọn gió mới, tươi trẻ và đầy năng lượng hơn đến với nền kinh tế Việt.Thế nhưng khởi nghiệp không phải là một con đường đầy màu hồng và dễ đi. Đó là con đường vừa có hoa hồng, vừa có gai của hoa hồng. Thế nên, có rất nhiều bạn, đã phải dừng chân dù con đường ấy vẫn trải dài và rộng mở. Nhưng nó chỉ dành cho những bạn đủ bản lĩnh cũng như sự kiên định trên con đường mà mình đã chọn.Việt Nam là một môi trường khởi nghiệp mới nổi ở thị trường Đông Nam Á, ẩn chứa nhiều tiềm năng và đang thú hút nhiều sự đầu tư và tham gia của những tổ chức đầu tư lớn và cả chính phủ. Ngày càng có nhiều câu chuyện khởi nghiệp thành công ở Việt Nam, tuy nhiên chỉ mới là số ít. Ở giai đoạn hiện tại, môi trường khởi nghiệp của chúng ta chỉ mới ở giai đoạn hình thành, mặt bằng chung cộng đồng vẫn còn thiếu kiến thức và phương pháp để biến những ý tưởng thành những kế hoạch kinh doanh thực sự.Nếu bạn đang lên kế hoạch theo đuổi một ý tưởng kinh doanh mới hoặc phát triển một mô hình kinh doanh đã có, bạn sẽ muốn tìm ra một vài lời khuyên. “Bánh răng khởi nghiệp” sẽ giúp bạn. Hãy dùng các mô thức trong “Bánh răng khởi nghiệp” để quyết định xem ý tưởng nào trong vô vàn ý tưởng mình đang tìm hiểu chứa nhiều tiềm năng nhất. Bạn cũng có thể dùng nó để quyết định thúc đẩy việc kinh doanh hiện tại hay chuyển hướng phát triển một dự án khác thậm chí còn lớn hơn và tốt hơn những gì bạn trình phát triển của mình. tiến hành những kiểm  đượct chẽ với nhau. hình dung trước đây.“Bánh răng khởi nghiệp” không cung cấp các giải pháp cho những vấn đề cụ thể. Thay vào đó, cuốn sách là khung sườn để đánh giá thực trạng cho một tình huống bạn đang có. Phần trả lời cho các câu hỏi được đặt ra trong từng chương sẽ tạo nên kết quả và chiến lược dành riêng cho bạn. Hãy xem giáo trình này như một huấn luyện viên cá nhân – người sẽ giúp bạn xác định chương trình đào tạo dựa trên mục tiêu của bản thân. Việc áp dụng các bài học sẽ giúp bạn biết cách tận dụng những lợi thế và tài sản quý giá nhất của mình như: các mối quan hệ, danh tiếng, tài năng, thời gian và tiền bạc.Về thực tiễn, “Bánh răng khởi nghiệp” được biên soạn cho những doanh nhân trẻ, nhà lãnh đạo các tập đoàn to và nhỏ trên toàn cầu. Cuốn sách giúp họ xác định ý tưởng mới lạ nào xứng đáng để theo đuổi. Khi họ có cơ hội, “Bánh răng khởi nghiệp” sẽ giúp gầy dựng một thị trường mới hoặc làm nên những đột phá khác biệt tại thị trường đã có sẵn. Có thể nói, tác phẩm này là kết quả của quá trình nỗ lực cộng tác giữa các doanh nhân và học giả. Mỗi đề xuất trong cuốn sách đã được kiểm định bởi các giám đốc điều hành khắp thế giới.“Bánh răng khởi nghiệp” là một quyển sách có thể giúp các bạn hình dung được những chặng đường mình phải đi trên con đường khởi nghiệp. Không một bánh răng nào có giá trị nếu đứng một mình, cũng như trong chuỗi bánh răng ấy, nếu thiếu một yếu tố thì chuỗi bánh răng đó cũng không hoàn hảo.Để giúp cho bạn trẻ Việt có một cái nhìn thực tế hơn từ các thương hiệu khởi nghiệp hàng đầu của Việt Nam, “Bánh răng khởi nghiệp” có thêm mục Câu chuyện minh họa là chính câu chuyện thực tế được chia sẻ từ các Tổng giám đốc, giám đốc hay của người sáng lập như câu chuyện của Adayroi, Nhommua, Ticketbox, Triip.me… sẽ giúp các bạn có được những kinh nghiệm sát thực trong thị trường Việt Nam.“Bánh răng khởi nghiệp” còn là nguồn thông tin hữu ích cho sinh viên đại học và cao học. Nguyên lý học thuật của giáo trình này bắt nguồn từ Khoa Kinh Tế của Đại Học Harvard và Đại Học Stanford, Hoa Kỳ. Hơn nữa, “Bánh răng khởi nghiệp” cũng đang được áp dụng giảng dạy tại Đại Học Stanford và trường Kinh Tế Stockholm.Từ năm 2011, tổ chức Viet Youth Entrepreneur (VYE) đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm truyền cảm hứng, lan tỏa tinh thần cũng những kiến thức nền tảng khởi nghiệp đến với giới trẻ Việt Nam, tập trung vào đối tượng sinh viên. Với sự đỡ đầu của Giáo sư Tom Kosnik cùng sự hỗ trợ mạnh mẽ của những công ty đầu ngành trong lĩnh vực đầ tư và khởi nghiệp, VYE đã lan tỏa được sức ảnh hưởng và mang lại giá trị đến hang nghìn bạn trẻ thông qua hoạt động “boot camp” và những hoạt động cho cộng đồng khởi nghiệp khác. Trong thời gian ấy, kiến thức trong cuốn sách “Gear Up” mà Giáo sư Tom Kosnik đồng tác giả được Ban điều hành của VYE sử dụng làm giáo trình và định hướng cho các hoạt động của mình. Việc chính thức dịch và phát hành cuốn sách này ở Việt Nam không chỉ giúp VYE lan tỏa mạnh mẽ hơn trong các hoạt động của mình mà còn giúp cho các bạn trẻ Việt Nam có thể tiếp cận với kiến thức nền tảng về khởi nghiệp dễ dàng hơn.
Cộng Đồng Khởi Nghiệp
Cộng Đồng Khởi NghiệpNước Mỹ là một trong những quốc gia mà “Cộng đồng khởi nghiệp” đang mọc lên khắp nơi, từ các thành phố trên toàn nước Mỹ như Boulder, Boston, New York, Seattle, Omaha. Cộng đồng khởi nghiệp cũng đang hình thành rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới, đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc gia. Những hệ sinh thái khởi nghiệp này góp phần thúc đẩy sáng tạo, thành lập công ty mới, và tạo thêm việc làm. Cuốn sách Cộng đồng Khởi nghiệp ghi nhận chiến lược, tinh thần, chiến thuật và quan điểm dài hạn để xây dựng cộng đồng các doanh nhân khởi nghiệp nhằm giúp đỡ nhau về tài năng, sáng tạo, các hỗ trợ cần thiết khác.Quyển sách này được viết dựa trên hơn hai mươi năm kinh nghiệm của Brad Feld, một doanh nhân trẻ chuyển hướng thành nhà đầu tư mạo hiểm, cũng như đóng góp của nhiều doanh nhân tại Boulder và nhiều cộng đồng khởi nghiệp khác. Đây là một nguồn tin cậy trình bày điều kiện cần để thành lập cộng đồng khởi nghiệp bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Qua quyển cẩm nang này, bạn sẽ thu thập được kiến thức quý giá để xây dựng cộng đồng khởi nghiệp năng động, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu cho hệ sinh thái khởi nghiệp bằng cách nhân rộng kết nối giữa doanh nhân và người đỡ đầu, tạo điều kiện tiếp cận kiến thức khởi nghiệp, thiết lập sự kiện và hoạt động để thu hút mọi thành phần trong cộng đồng khởi nghiệp, và còn nhiều nữa.Trong quyển sách này, Feld đề cập chi tiết các nguyên tắc thiết yếu để hình thành cộng đồng khởi nghiệp bền vững, thảo luận triển khai những chiến thuật khác nhau. Bạn sẽ làm quen với khái niệm doanh nhân phải là người dẫn dắt sự thay đổi nếu muốn cộng đồng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, và củng cố mật độ khởi nghiệp trong cộng đồng. Bạn sẽ thấy rằng để trở thành nhà lãnh đạo cộng đồng khởi nghiệp, cách duy nhất là phải gắn kết lâu dài.Feld cũng thảo luận cho thấy rằng tinh thần chào đón bất cứ ai muốn tham gia cộng đồng khởi nghiệp – sinh viên, nhà nghiên cứu, giáo sư, hay nhân viên công ty, luật sư, chính quyền, nhà đầu tư – là yếu tố rất quan trọng. Anh cũng nhấn mạnh phải có hoạt động và sự kiện trong cộng đồng khởi nghiệp để thu hút sự tham gia của mọi người từ trên xuống dưới. Vì thế, cho dù bạn tổ chức sự kiện thúc đẩy, họp mặt, cuối tuần khởi nghiệp, bạn phải luôn nhớ chào đón tất cả mọi người.Bạn có thể thiết lập cộng đồng khởi nghiệp bền vững hầu như tại bất cứ thành phố nào trên thế giới. Nhưng bạn phải biết rằng muốn làm được điều này bạn cần hiểu rõ các vấn đề có thể phát sinh trong hệ quyền lực của cộng đồng. Cẩm nang thực tiễn này không chỉ cho bạn thấy cách thức hoạt động của cộng đồng khởi nghiệp, nó còn chỉ cho bạn cách xây dựng thành công cộng đồng khởi nghiệp ở bất cứ nơi đâu.Nhận định“Thành phố nào trên thế giới cũng có thể phát triển một cộng đồng khởi nghiệp năng động. Nhiều nguyên tắc trình bày trong quyển sách này cũng tương tự như những gì chúng tôi đang áp dụng tại DowntownProject.com để giúp hồi sinh thành phố Vegas, đưa thành phố này thành một trong những cộng đồng khởi nghiệp hàng đầu trên thế giới. Quyển sách này và những nguyên tắc trong đó có thể được áp dụng cho bất cứ thành phố nào muốn tái sinh bằng nguồn năng lượng từ khởi nghiệp.” (Tony Hsieh, tác giả quyển sách bán chạy Delivering Happiness; CEO, Zappos.com, Inc)“Khởi nghiệp và sáng tạo là động lực chính của nền kinh tế sáng tạo đang dần hiện hữu. Cộng đồng khởi nghiệp là cẩm nang giúp các cộng đồng chuyển hóa nguồn năng lượng từ nhà doanh nghiệp sáng tạo để thúc đẩy phát triển kinh tế về lâu dài. Feld mang đến cho doanh nhân, nhà lãnh đạo chính trị, lãnh đạo tổ chức một bộ khung hữu hiệu với nhiều ví dụ cụ thể để xây dựng cộng đồng khởi nghiệp năng động.” (Richard Florida, tác giả quyển sách The Rise of the Creative Class; Giáo sư, ĐH Toronto, ĐH New York; Biên tập cấp cao, The Atlantic)