Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Ba Trà

Xuân Vũ là một cây bút sáng tác có sức mạnh vũ bão nhất, có vốn liếng đi và sống phong phú nhất. Sách anh bán chạy thuộc hàng đầu, tạo cho anh một ngôi vị cao chót vót và lộng lẫy nguy nga, làm vẻ vang cho tập đoàn các cây bút gốc Nam Kỳ từ trong nước, trước năm 1975 và các cây bút gốc Nam Kỳ ở bốn phương trời hải ngoại. Chưa hết đâu. Xuân Vũ còn moi móc tài liệu trong các xó xỉnh của lịch sử cận đại để viết quyển tiểu thuyết nửa sống thực nửa giả tưởng về cuộc đời một danh kỹ sắc nước hương trời chói rạng Hòn Ngọc Viễn Đông và lan ra khắp ba miền Nam Bắc Trung. Đó là cô Trần Ngọc Trà mà thời nhân gọi là cô Ba Trà, còn giới ăn chơi gọi cô là Yvette Trà và báo giới gọi là Huê Khôi Nam Kỳ, là Ngôi Sao Sài Gòn. Cô Ba Trà khi chui vào tác phẩm truyện dài của Xuân Vũ có một cuộc đời như sau: Má cô xuất thân từ một gia đình khiêm tốn và thanh bạch. Cha cô xuất thân gia đình khá giả, có lễ giáo. Nhưng cha cô hay ghen. Tình cờ ông ta bắt được thư rơi cho biết má cô ngoại tình với một kẻ khác mới sanh ra cô. Thế là vì ghen tương, ông ta thổ huyêt, rồi hành hạ vợ. Má cô không chịu nổi sự rẻ rúng và sự trừng phạt của chồng nên đưa cô về tá túc ở quê ngoại cô. Nhưng ông bà ngoại không chứa mẹ con cô. Túng thế, má cô gá duyên với ông Khách trú xấu xí, làm nghề mở tiệm hút thuộc phiện lậu. Vì thù hận người chồng cũ nên má cô ghét bỏ cô, đày xắc và hành hạ cô rồi bán cô cho người Chà-và để lấy 400 đồng qua trung gian mụ tú bà mà tác giả gọi là dì Hảo. Khi tên Ấn kiều về nước, dì Hảo dàn cảnh để gả cô cho con trai một nghiệp chủ Hoa kiều giàu sụ nhờ nghề buôn cá phơi khô. Nhưng người Tàu vốn ưa lấy vợ còn trinh, cho nên cậu con ông nghiệp chủ kia dù có mê say nhan sắc cô Ba Trà, nhưng vẫn bị sự mất trinh của cô trước khi về làm vợ hắn ám ảnh hoài hoài nên hắn đâm ra khinh khi cô và cặp xách với nhiều cô gái đẹp khác. Cô Ba Trà bỏ trốn và về tá túc nhà dì Hảo. Dì lập mưu lập kế để đưa cô vào nghề mãi dâm. Dì gạt gẫm cô để cô bị lính kiểm tục băt giam, rồi tống cô đi khám bịnh phong tình (đi lục xì) tại nhà thương Bạc Hà tức là bịnh viện bài trừ bệnh hoa liễu. Đó là cách rúng ép cô ký giấy giao kèo hành nghề mãi dâm, để biến cô thành con điếm có môn bài ( une fille publique cartée). Thời may, cô đuợc ông bác sĩ bệnh viện đứng tuổi cứu giúp cô thoát khói lưới bẫy của mụ đàn bà bất lương kia. Rồi cô trở thành tình nhân ông ta. Trong cuộc thi sắc đẹp tại Sài Gòn, ông ta có đưa cô đến xem. Ai ngờ cô gái dự thi trúng giải hoa hậu tên Lê thị Liễu lại xin nhường chức nữ hoàng các mỹ nhân cho cô. Ban giám khảo không biết tính sao vì lời đề nghị cô Liễu sái nguyên tắc. Rồi theo lời quan Biện Lý Thành Phố (người Pháp), họ chỉ bằng lòng tặng cho cô Ba Trà cái danh hiệu Ngôi Sao Sài Gòn. Tên tuổi cô bắt đầu lừng lẫy từ đó. Ông bác sĩ nhân từ kia lại muốn cô Ba được kết hôn với kẻ xứng lứa vừa đôi nên bằng lòng nhường cô lại cho người con trai ông giám đốc Đông Dương Ngân Hàng thuộc chi nhánh ở tỉnh Cần Thơ. Nhưng anh ta có vợ nên khi công việc bí mật đổ bể, hắn phải hủy hôn với cô. Cô lại được một họa sĩ nghèo say mê, chọn cô làm tình nhân kiêm người mẫu.Thế rồi tranh có vẽ chân dung cô đưọc trưng bày tai Đại Lục Lữ Quán do cựu danh kỹ Tư Hồng Mao cai quản. Cô Tư này còn gọi là Tư Ăng-lê vì theo lời đồn chồng của cô ta là người Anh-cát-lợi. Những bức tranh này bị cô Tư Hồng Mao làm trành làm tréo sang đoạt, rồi lại được Bạch Công Tử mua hết. Bạch Công Tử tên là Lê Công Phước mà thời nhân gọi là Phước Georges. Cậu vốn là con quan Đốc Phủ Sứ Lê Công Sủng ở Mỹ Tho vốn là đại điền chủ. Quan Đốc Phủ Sủng ngoài những bât động sản to tát khác, còn là chủ nhân Cù Lao Rồng, thuộc hạng tiền rừng bạc biển. Trong dịp tiếp đón quan Thống Đốc Nam Kỳ tại Đại Lục Lữ Quán có đại điền chủ Trần Trinh Trạch, đại thương gia Quách Đàm (người Tàu), thì cô Ba Trà xuất hiện ký tên tặng tranh cho quan Thống Đốc. Từ đó, tên tuổi cô Ba Trà vang lừng khắp Đông Dương. Cô được chuyền từ tay Bạch Công Tử rồi sang tay Hắc Công Tử và tay Sáu Ngọ... Hắc Công Tử tên là Trần Trinh Qui, con ông Hội Đồng Quản Hạt Trần Trinh Trạch. Ông Trạch là chủ nhân 20.000 mẫu ruộng lúa và 2.000 mẫu ruộng muối ở Bạc Liêu. Còn Sáu Ngọ là vua các sòng bạc ở Sài Gòn và ở các thành phố vùng phụ cận Sài Gòn có thể tặng nhiều lần cho cô Ba rất nhiều tiền, mỗi lần gồm cả bao to đựng giấy bạc. Ông ta còn tặng cho cô kim cương thuộc loại hảo hạng nữa . Cô Ba còn được ông Hoàng Ngự Đệ bên nước Xiêm La đề nghị cưới cô làm vợ, nhưng cô không ưng. Trong thời gian làm việc ở Đại Lục Lữ Quán, có cô danh kỹ Tư Nhị từ Nam Vang xuống xin làm em kết nghĩa với cô Ba. Lại thêm cô Quế Anh vừa đẹp vừa có học thức, cô đầm rặc Danielle vốn là em chồng cô Tư Hồng Mao cũng nhập bọn đàn em cô Ba. Chính Tư Nhị dạy cô Ba dùng ngãi nghệ để rù quến khách tìm hoa. Thế rồi trong chuyến theo Bạch Công Tử ra viếng Hà Nội, cô Ba gặp cô Đốc Sao nổi tiếng là nữ hoàng sắc đẹp trong giới hát ả đào ở khu phố Khâm Thiên. Nhưng trước đó không lâu, cô Đốc Sao giải nghệ để kết hôn với nhà báo Hoàng Tích Chù. Tuy ông ta không giàu có gì, nhưng có thể xây dựng cho đương sự một đời sống lứa đôi hạnh phúc, một cuộc hoàn lương vững vàng. Gặp cô Ba Trà, cô Đốc Sao khuyên cô nên tìm cách xa lánh cuộc đời bán dạng thuyền quyên để sau này tránh khỏi thảm cảnh bị khách tìm hoa bỏ rơi khi hương phai phấn lợt. Rồi cô Ba Trà gặp tên thầu khoán giàu sụ cưới cô làm "vợ hờ", xây cất cho cô một chốn ăn chơi đồ sộ và huy hoắc tên Nguyệt Tiên Cung. Nơi đây, cô tuyển lựa các giai nhân mỹ nữ để tiếp khách thuộc hạng tiền giàu nức vách đổ tường. Nhưng thét rồi cô đâm ra chán ngán cuọc sống dật lạc. Bỗng cô sực nhớ lời khuyên cô Đốc Sao nên cô tìm một người chồng công chức bậc trung, lương tháng 120 đồng. Chàng rất thành thật và chất phác. Đó là thầy Cò-mi họ Vương, người đã yêu cô từ khi chàng hãy còn là học sinh trường Pétrus Ký và đã từng chiêm ngưỡng hình cô chưng tại tiệm Saigon Photo. Thế là cô Bà Trà vì muốn che đậy cái dĩ không đẹp của cha mẹ mình và cái thân thế điếm nhục của mình nên tạo ra cuộc đám cưới có cha giả mẹ giả, mà bà mẹ không ai khác là dì Hảo. Dì này sau khi để cô Ba Trà vuột khỏi tay mình, bị chồng bội bạc, chịu cảnh nghèo vô gia cư, vô định sở nên túng thế đến Nguyệt Tiên Cung tìm cô Ba và được cô dung thứ, nuôi duỡng tử tế. Về sống với Vương ít lâu, cô Ba Trà mời mẹ và hai em chàng lên ở chung. Cô tìm được hạnh phúc trong cảnh làm vợ hiền, dâu thảo, và chị dâu tử tế... Nhưng ông cậu vợ phát giác được tung tích của cô Ba Trà và tung tích cha mẹ giả của cô nên ông ta xuối mẹ của Vương tìm cách cắt đứt duyên chồng vợ chồng của cô. Thế là cô ra đi, rồi trở về Nguyệt Tiên Cung với niềm tuyệt vọng. Cô dùng độc dược để quyên sinh. Đoạn cuối, cô được tỉnh dậy, nhưng tác giả không cho độc giả biết cô có đưộc cứu sống hay không? Hay là có phải đó là phút hồi dương ngắn ngủi để rồi sau đó cô khép mắt thả hồn vào giấc ngủ thiên thu? Tác giả để mặc cho độc giả đoán già đoán non ra sao cũng được Thật ra, trong tiểu sử của cô Ba Trà, thì cô được cứu sống để rồi rước khách, để rồi thua bạc nhiêu lần, rồi tự vận mấy phen nữa. Rồi có một lần, cô ăn bạc to. Lần này cô xuất tiền ra tìm một người chồng trẻ hơn cô rất nhiều tuổi, chẳng những đẹp trai mà lại có học thức, có tư cách. Anh ta tuổi Thìn, nên cụ Vương Hồng Sển trong cuốn "Sài Gòn Tả Pín Lù" gọi là Thìn để giấu tên thật của đuơng sự. Nhưng cuộc sống lứa đôi của cặp vợ già chồng trẻ không bền. Sau đó, Thìn qua Pháp du học. Còn cô Ba Trà gá duyên với ông Trưởng Tòa Trương Văn Tỷ cũng thuộc hạng Vương Khải, Thạch Sùng. Cô tiếp tục đánh bạc cho tới khi nhan sắc héo úa, phải bỏ nhà ông Tỷ và mai danh ở tích ở nơi cùng thôn tuyệt tái bí mật nào đó. Cho nên từ đó về sau, kẻ quen biết coi cô như bóng chim tăm cá, không tìm gặp được dấu tích của cô. *** CÔ BA TRÀ Xuân Vũ dtv-ebook.com Đôi Lời Tác Giả - Một buổi sáng anh Hứa Hoành đem đến cho tôi một bịch tọ Tôi tưởng là trà vì hai đứa thường uống trà để đàm đạo. Nhưng hôm nay cái bịch hơi to hơn thường ngày. Thì ra trong đó có trà và "TRÀ". Anh bảo:Tôi đem cho ông tài liệu Cô Ba Trà để ông viết tiểu thuyệt Khi anh về rồi, tôi dở ra xem. Chu choa mẹc ơi, lớp sách, lớp giấy đánh máy, lớp báo cắt. Có những tấm hình cũ và những ghi chú viết tay nữa. Cô Bà Trà ! Đó là một nhân vật. Nhiều nhà văn nhà báo tiền bối đã viết thành báo thành sách rồi. Bây giờ tới tôi nữa ư? Tôi bỏ ra mấy ngày trời để đọc chữ và xem hình. Ham quá. Nhưng viết ra thì khó thật. Anh Hứa Hoành đã từng gòp ý kiến rất hay, từng cho tôi cốt chuyện để viết vài ba cuốn tiểu thuyết. Và lần này nữa. Tôi kêu phone nói với anh : " Ông hại tôi rồi! " " Sao vậy? " " Viết sao nổi mà viết! " " Cố gắng đi chớ . Nếu dễ thì ai cần nhà Văn. Tôi còn nhiều tài liệu nữa . Tôi sẽ mang lên cho ông. " " Cô Ba Trà Huê Khôi Nam kỳ " của anh đang đăng báo mà anh còn bắt tôi viết tiểu thuyết để làm chi ? Hồ Trường An đã viết rồi, ảnh nói với tôi cô Mộc Cẩn (Hoa Dâm Bụt) trong truyện " Danh Kỷ " chính là Cô Ba . Anh ấy cũng khuyến khích tôi nên viết Cô Ba Trà. Thiệt vô cùng " nguy hiểm! " . Dù chối từ than thở thế nào Hứa Hoành cũng đôn đốc “ thừa thắng xông lên ! " Trước tấm chân tình của đồng nghiệp tôi đành phải liều mình xem sao. Cô Ba Trà là nhân vật có tên, tuổi hình dáng thật trong sinh hoạt Sài gòn vào thời kỳ 1920-1936 . Nhiều vị vào lứa tuổi thất thập cổ lai đều có gặp, có biết hoặc có quen với Cô Bạ Nói rõ ra, Cô Ba là một nhân vật lịch sử chớ không phải là nhân vật tiểu thuyết như các nhân vật hoàn toàn do các nhà văn tạo ra. Viết tiểu thuyết mà có sẵn nhân vật lịch sử có cái dễ mà cũng có cái khó. Dễ là nhân vật đã có tên tuổi, cá tính, hoạt động . Thí dụ như các nhân vật Quan Công, Trương Phi, Lưu Bị của La Quán Trung trong truyện Tam Quốc . Ở trong văn học của nước nhà có những Tiểu Thuyết lich sử Gia Long Tẩu Quốc, Gia Long Phục Quốc (của nhà văn nào tôi không còn nhớ tên). Tả Quân Lê Văn Duyệt của Ngô Tất Tố, Phan Đình Phùng của Đào Trinh Nhất, Bánh Xe Khứ Quốc của Phan Trần Chức, v.v.. Những tiểu thuyết này đã đem lại cho người đời những hiểu biết về lịch sử cụ thể hơn là chính sử sách chép . Những nhân vật như Lê Văn Duyệt, Phan Đình Phùng, Cao Thắng sống lại như những con người thực. Ai không từng nghe danh Chúa Nguyễn Ánh, nhưng nếu không có bộ tiểu thuyết Gia Long Tẩu Quốc thì không được biết những huyền thoại Sấu Ba Kè ở Vĩnh Long, vụ van vái nước mặn trở thành nước ngọt cho quân sĩ uống ở Phú Quốc. Mấy ai biết việc Phan Đình Phùng ở khe núi Vụ Quang, việc Cao Thắng chế tạo được cây súng hoa? mai đã bắn bị thương lính Pháp …nếu không đọc Đào Trinh Nhất. Những hình tượng nhân vật lịch sử được khắc hoa. rõ nét nhất với ngòi bút của nhà viết tiểu thuyết – mà những sử gia – vì qui định của nghề nghiệp không thể làm nhu nhà viết tiểu thuyết . Một ví dụ khác nữa là tiểu thuyết " Tình cuối " (Last love) mô tả mối tình cuối cùng của Nã Phá Luân với cô gái của người giữ ngục ở Ile d Elbe trong lịch sử nước Pháp không thấy ghi chép. Ấy, vậy mà nó đã xảy ra trên thực tế đến mức nào đó để nhà văn nắm lấy tư liệu rồi viết nên tiểu thuyết, hoặc nó không hề xảy ra mà nhà tiểu thuyết vì lý do nào đó, đã tạo nên như thật một mối tình không có xảy ra. Nhưng dù sao cũng phải mô tả hình dạng, cá tính của Napoléon nhu người đời đã biết qua những bài lịch sử. Ông là một người rất đa tình, nhưng không thể là một người cao 1.70m mà là một ngưòoi tầm thước trung bình, có thói quen thọc tay phải vào áo gi-lê khi ngồi họp với các tướng v.v.. Muốn tạc lại Napoléon, nhà tiểu thuyết không thể viết trái ngược lại hoặc bỏ qua hình dáng, và cá tính của ông như người Pháp đã từng biết. Cô Ba Trà sinh năm 1906, cách đây gần 100 năm. Sắc đẹp của cô được các nhà văn nhà báo tiền bối mô tả như " Ngôi sao Sài Gòn " (Étoile de Saigon) hoặc " Huê Khôi Nam Kỳ ". Người tình của Cô Ba cũng là những nhân vật có thật như các đại điền chủ, đại công tử Cậu Tư Phước Georges biệt hiệu Bạch Công Tử con trai của quan Đốc Phủ Sứ Lê Công Sủng chủ nhân Cù Lao Rồng ở Mỹ Tho; cậu Ba Qui biệt hiệu Hắc Công Tử con trai của đại điền chủ Trần Trinh Bạch ở Bạc Liêu mà Thống Đốc Nam Kỳ gọi bằng Papa (Bố). Bên cạnh hai công tử kể trên còn có công tử Bích chủ nhà băng Đông Pháp (chi nhánh Cần Thơ) một người dám cho Cô Ba 70 000 đồng trong lúc lúa 2 cắc 1 gia. . Các đại trí thức như quan toà Trần Văn Tỷ, Thầy Kiện Dương Văn Giáo, Bác sĩ Lê Quang Trinh, Nguyễn Văn Áng, vua Cờ Bạc chủ các sòng bạc Sài Gòn : Sáu Ngọ v.v.. Đó cũng là những nhân vật lịch sử nhu Cô Ba đã tạo nên những giai thoại được người đời truyền tụng cho đến ngày nay. Sở dĩ tôi nói vòng vo Tam Quốc như vậy là để xin thưa lại một điều này : Viết về Cô Ba Trà DỄ mà KHÓ. Dễ là vì cốt tượng mỹ nhân đã có sẵn, chỉ cần tu bổ sơn phết lại là thành bức tượng. Nhưng làm sao cho bức tượng hoạt động, nói năng như người thật hoặc trở thành người thật ? Cũng không khó. Cái khó là mỹ nhân đó phải là Cô Ba Trà mà không được ai khác. Đọc sách xong, độc giả phải nghĩ đó là Cô Bà chứ không ai khác thì mới được . Người viết tiểu thuyết về Cô Ba- nói nôm na, giống như kẻ chèo đò giữa hai bờ sông, một bên là SỰ THẬT, một bên là BỊA ĐẶT (nói theo văn học là sáng tạo, hư cấu). Phải chèo cách nào cho người ngồi trên xuồng thấy cây cỏ bờ bên này lẫn đồng ruộng bờ bên kia. Muốn làm cho khách hài lòng kẻ chèo đò không được đụng bờ bên này hoặc chạm bờ bên kia sẽ bể mũi xuồng, mà phải luôn luôn chèo ở giữa dòng. Ngoài ra còn một điều khó nữa là : Sắc đẹp của Cô Ba đã trở thành niềm mơ ước của tất cả người Sài Gòn, Lục Tỉnh. Nhưng kẻ viết này không được ngắm dung nhan Cô khi Cô còn sanh tiền cũng không được xem ảnh Cô khi Cô qua đời. Ỏ ngoại quốc khó bề tìm ra một bức ảnh của Cộ Anh Hứa Hoành và tôi nữa có tìm gặp được những người cháu của Cậu Tư Bạch Công Tử nhưng đó là những người vượt biển nên không giữ được những hình ảnh lưu niệm của Cậu Tư chụp chung với Cô Bạ Thật vô cùng đáng tiếc. Chỉ có một tấm mờ mờ không thể nhận ra người trong ảnh . Cô Ba đẹp lắm, đẹp đổ quán xiêu đình nhưng cô giống Điêu Thuyền, Dương Qúi Phi, giống Cô Ba con thầy Thông Chánh (in hình nổi trên bánh Xà Bông Cô Ba) hay giống ai? Cho nên khó mà tả cho ra nét đẹp của Cô Bạ Vậy xin cứ xem Cô Ba là một mỹ nhân : Làn thu thủy nét Xuân Sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một…. (như Nguyễn Du tả nàng Kiều vậy) Tôi đọc gần một ngàn trang sách, báo, chữ in lớp cũ lớp mới, trên 200 trang đánh máy bản thảo của anh Hứa Hoành, xem những tấm ảnh về Sài gòn thì thấy bản thảo của anh Hứa Hoành có một đặc điểm mà các sách báo khác không có. Đó là tình hình chính trị đất nưóoc lúc bấy giòo có đám tang cụ Phan Châu Trinh, có Nguễn An Ninh bán báo Tiếng Chuông Rè (Cloche fêlée) có biểu tình đòi tự do, có những tờ báo tranh đấu v.v.. Đặc biệt hơn nữa có những giai thoại giữa các Thống Đốc, Công sứ Pháp và Cô Ba, có chuyến đi của Cô Ba ra Hà Nội. Cuộc đời của Cô Ba quả là một cuộc đời bảy nổi ba chìm lên voi xuống vịnh . Trong quãng thời gian 20 năm làm một người đàn bà đẹp, Cô đã có không biết bao nhiêu mối tình mà chính Cô cũng không nhớ hết, cuộc sống như thực như mơ, khi nghèo mạt rệp, khi lại cầm tiền vảy như trấu. Có lúc không xu teng dính túi, có khi cầm 150 ngàn đồng trong taỵ Còn người yêu thì từ các công tử, anh sinh viên đến ông hoàng xứ lạ Cô chia cho mỗi ngưòi một mảnh tình gặm chơi đỡ buồn, nhưng chớ có mong lấy Cô làm của riêng hoặc làm người yêu vĩnh viễn. Lập gia đình vài ba lần, nhưng rồi vỡ tan. Bao giờ cũng vậy, khi viết một quyển tiểu thuyết, người viết muốn nêu ra những ý tưởng của mình qua câu chuyện . Vậy viết " Cô Ba Trà " tôi muốn nói vấn đề gì ? - Trong con người, tiền và tình cái nào mạnh hơn ? - Con người sống, nhất thiết phải yêu ? - Yêu tất cả là chẳng yêu ai cả. Khi yêu, chỉ một ? - Tình chỉ đẹp khi có nhiều tiền? Tan vỡ khi hết tiền ? - Cứ sống theo sự thèm khát, bản năng bất cần suy tính. Thế mới là yêu ? - Sống làm vợ khắp người ta thú vị hơn nâng khăn sửa túi cho một người v.v.. Tất cả những “ ý tưởng ” đó đều tìm thấy trong cuộc đời của Cô Ba mà sau kh iđọc xong tất cả những tài liệu về Cô, tôi thật tình không biết " cái nào " là chính . Đời Cô Ba là một tấm gương chăng ? Gương gì ? Để cho ai soi ? Cô không lúc nào vắng người yêu. Cô vẫy tay một cái là có hàng lô chạy tới xin " yết kiến nữ hoàng " đông cho đến nỗi phải lấy số chờ đợi . Cô đi chơi một lúc với ba đại công tử. Chính cô cũng không biết mình yêu ai, hoặc không yêu ai cả . Đang hôn người này, người kia đến, bỏ ngưòoi này đi với người kia. Có tình, có tiền cũng chưa thoa? mãn. Cô đánh bài, khi ăn bạc vạn, khi thua phọc túi . Cô thản nhiên như không. Chẳng những công tử Việt mê cô mà quan cao cấp, nhà tư bản ngoại quốc cũng mê cô, cung phụng cô " muốn gì được nấy ". Tôi viết quyển tiểu thuyết này vì tôi ham viết vậy thôi, chớ chẳng có triết lý, ý tưởng, chủ đề gì cả. Như anh thợ săn thấy rừng có nhiều thú thì vác súng xông vô, như gã đầu bếp thấy miếng thịt ngon thì ngứa tay muốn xào nấu, như chàng phó may gặp lụa đẹp thì cắt áo cắt quần. Nhưng anh thợ săn có bắn được thú, gã đầu bếp có nấu được món ngon, chàng phó may có tạo được áo đẹp hay không thì không chắc! Huống chi trước tôi có những bậc tiền bối đã xông vào khu rừng ấy, đã làm nên những mâm cỗ, đã cắt tấm lụa đẹp kia rồi. Và đã được đón nhận nhiệt liệt. Nay lại đến tôi. Gẫm phận mình gối rơm mà dám chồm lên cao, cũng hổ thẹn và run tay lắm. Lâu nay tôi vẫn nghĩ viết văn là một sự phiêu lưu, phiêu lưu hơn tất cả mọi sự phiêu lưu trên đời. Vì, mấy ai đoán trước được kết quả của quyển sách mình ra sao khi nó chưa được đưa ra thử thách. Lắm khi sự dự đoán hoàn toàn trái nghịch. Nhưng thôi, hễ thích thì cứ viết. Xin " liều mình " cho mỹ nhân . Một lý do khác khiến tôi " liều mình " là vì Cô Ba được mệnh danh là Trà Hoa Nữ Việt Nam. Theo tôi đó là một cách giả định. Chứ Cô Ba về mọi mặt chẳng giống Trà Hoa Nữ của Pháp (La Dame aux Came lias của Ạ Dumas fils) một chút nào. Nếu Cô Ba giống Trà Hoa Nữ thì tôi đã không dám nghĩ tới việc viết về Cô. Trước khi đi vào lòng con " Kinh Lấp " của một địa danh có một thời được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông để tìm lại cánh hoa đã nằm yên dưới những cát bụi của thời gian, của thiên nhiên và của cuộc thế, tôi xin thắp nén hương lòng van vái hương hồn Cô Ba, Cậu Tu, Cậu Ba cùng các bậc công tử cùng thời với cô phò hộ cho kẻ hậu sinh đừng bỏ cuộc trong chuyến phiêu lưu mới này. Và xin các bậc lão thành và đồng nghiệp cho một lời chỉ giáo. (Một kẻ hậu sinh xứ Nam Kỳ) Xuân Vũ Mời các bạn đón đọc Cô Ba Trà của tác giả Xuân Vũ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ta Thuộc Về Nhau
Ta thuộc về nhau là câu chuyện tự thuật của Alan & Irene Brogan. Alan Brogan sinh năm 1952 tại vùng East End, Sunderland, nước Anh trong một gia đình có bốn người con trai. Năm Alan lên bốn, mẹ ông qua đời. Chính quyền đại phương cho rằng người cha không thể nuôi nổi bốn người con nên bốn anh em ông bị đưa vào trại trẻ. Cũng chính từ đấy cuộc đời ông thay đổi. Irene Brogan sinh năm 1950 tại Deptford, Sunderland, nước Anh. Bà là con út trong một gia đình có bốn người con gái. Khi Irene hai tuổi, mẹ bà qua đời do căn bệnh lao. Quá đau lòng vì cái chết của người vợ, cha bà chìm đắm trong men rượu nên phải gửi chị em bà đến nhà họ hàng. Nhưng rồi nhanh chóng sau đó Irene cũng bị đưa đến trại trẻ Rennie Road. Tại đấy bà đã gặp Alan. Irene đã viết: “Ngay lúc đó, tôi quyết định mình sẽ không bao giờ hẹn hò với ai khác nữa. Phải là Alan hoặc không ai cả. Nếu tôi không tìm thấy cậu ấy, ít nhất tôi vẫn còn có gia đình. Nhưng nếu tôi muốn gắn bó với ai đó thì tôi biết người đó phải là Alan”. Còn với Alan thì: “Được, tôi sẽ chờ. Tôi sẽ chờ dù cho có mất bao lâu đi chăng nữa. Và nếu tôi gặp cô ấy một lần, lần sau tôi có thể sẽ gặp lại cô ấy. Tôi chỉ cầu nguyện cho lần sau mau đến và khi đó tôi sẽ không để mất cô ấy như năm năm trước.” *** Chân thực, xúc động, mạnh mẽ, cuốn hồi ký về câu chuyện có thật của Irene và Alan Brogan đã chứng minh sự tồn tại vĩnh hằng của tình yêu. Alan và Irene sinh ra và lớn lên tại Anh quốc, sau Thế chiến thứ hai. Hai đứa bé mồ côi mẹ tình cờ gặp gỡ ở trại trẻ mồ côi Rennie, khi đó, cậu bảy tuổi và nàng lên chín. Ngay từ lần đầu tiên chạm mặt, chúng đã dành cho nhau những xúc cảm kỳ lạ và sự tin tưởng tuyệt đối. Alan và Irene mau chóng thân thiết. Chúng cùng nắm tay nhau vượt qua những tháng ngày thiếu thốn khó khăn, những kìm kẹp cả về thể xác và tâm hồn. Cuộc sống khắc nghiệt trong trại trẻ mồ côi bỗng chốc trở nên dịu dàng và yên bình biết mấy. Alan Brogan đã miêu tả về những hồi ức đẹp đẽ ấy: “Trên đường đi bộ quay về Rennie Road, chúng tôi nhìn qua những ô cửa sổ các ngôi nhà trên phố, thấy những ngọn lửa ấm áp, những tấm thiệp sinh nhật trên mặt lò sưởi, và chứng kiến lũ trẻ nô đùa. Chúng tôi thấy những bà mẹ của chúng trao cho chúng những cái ôm, những nụ hôn và những nụ cười. Chúng tôi tự hỏi mình: “Tại sao chúng tôi không được như thế?” Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn có nhau. Một hôm, đang ngồi trên ngọn đồi ngắm những người nhảy dù, tôi nói với Irene rằng khi chúng tôi lớn lên, tôi sẽ cưới nàng. Nàng suy nghĩ một lúc rồi trả lời rằng nàng cũng muốn cưới tôi. Chúng tôi cùng bắt tay nhau thay cho lời nguyện ước.” Tuy nhiên, quy định ở đây không cho phép con trai và con gái chơi chung, vậy nên Alan và Irene chỉ có thể lén lút nắm tay nhau trên đoạn đường giữa trại trẻ và trường học. Nhưng rồi một người làm việc tại đó đã nhìn thấy Alan và Irene trêu đùa nhau. Bí mật bị phanh phui, Alan bị đuổi đi ngay lập tức. Cậu không kịp chào từ biệt Irene, để lại trong cô nỗi nhớ khôn nguôi: “Ghế chỗ Alan ngồi trống không, lũ trẻ chỉ nhìn về phía đó một thoáng rồi lập tức quay phắt đi, như thể nếu chúng nhìn vào nơi ấy quá lâu, sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra với chúng... Người tôi cứ hết nóng, lạnh rồi lại ốm, lúc nào cũng thế. Alan đã đi rồi.” Cô luôn tự nhắc nhở bản thân về việc kiếm tình người tri kỷ của mình: “Tôi tự hứa với lòng rằng vào mùa hè sang năm, nếu chúng tôi được đưa về Whitby để nghỉ hè, tô sẽ đi tìm anh ấy. Cái ý tưởng đó ăn sâu bén rễ và là điều duy nhất khiến tôi tiếp tục sống. Tôi sẽ đi tìm Alan, và cùng nhau chúng tôi sẽ cùng chạy ra bãi biển, cảm nhận ánh mặt trời mơn man trên mặt chúng tôi. Và chúng tôi sẽ lại được hạnh phúc bên nhau.” Với Alan, nỗi đau khi mất đi người thân duy nhất cũng ám ảnh cậu hằng đêm: “Đêm ấy, tôi nằm trên chiếc giường ngủ mới và nỗi đau chợt đến. Tôi đã nghĩ đến Irene. Tôi sẽ lại đi tìm cô ấy. Tôi phải tìm cô ấy." Và họ đã thật sự bước vào cuộc hành trình tìm kiếm đối phương, không ai ngờ rằng nó sẽ kéo dài diễn ra suốt gần 50 năm. Quãng thời gian ấy là tháng ngày dài nối tiếp trong sự cô độc và tổn thương, những nỗi đau tâm hồn không thể bù đắp được. Nhưng số phận vẫn chưa dừng trò chơi của mình lại ở đó, khi gần cuối đời, Alan và Irene lại được gặp nhau trong một hoàn cảnh trớ trêu. Khi ấy, Irene vừa trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, bà li dị chồng dù đã có hai đứa con. Alan cũng đã chia tay người vợ cũ nhưng đang ở trong một mối quan hệ mới. Cuộc gặp họ đã chờ đợi suốt gần năm mươi năm lại khiến cả hai trở nên bế tắc. Giữa những bộn bề giằng xé, cuối cùng, Alan lại một lần nữa quyết định ra đi, để lại cho Irene bao câu hỏi không lời giải đáp. Sau cùng, khi nhận ra mình không thể sống thiếu Irene, Alan quyết định quay trở về. Việc tìm lại Irene vẫn chẳng hề đơn giản, nhưng lần này, trái tim cả hai người đều chủ động đợi chờ đối phương. Số phận cuối cùng đã mỉm cười với cả hai. Họ đã nhận ra nhau tại một ngã tư đường phố đông người, từ đó, Alan và Irene quyết định mãi mãi không rời xa nhau một phút giây nào nữa. Ta thuộc về nhau (tên gốc: Not without you) không đơn thuần là câu chuyện về tình yêu đôi lứa. Đó còn là bản tình ca xúc động về tình thân, là tiếng hát của sự đồng điệu giữa những tâm hồn. Tất cả được tái hiện giữa khung cảnh khốc liệt của một đất nước vừa bước ra từ chiến tranh. Tất cả tạo nên bức tranh cuộc sống chân thực với những gam màu trầm day dứt và ám ảnh. Ở đó, tình yêu là nguồn sáng duy nhất xoa dịu mọi nỗi đau, cứu rỗi tâm hồn con người. *** Đó là một ngày trời lạnh và xám xịt. Tôi ngồi trên bậu cửa sổ trong phòng sinh hoạt chung, nhìn ra bên ngoài. Con đường vắng tanh và những cánh đồng ở phía xa. Tôi bảy tuổi, mồ côi mẹ, không biết bố và các anh trai mình ở đâu, hay liệu tôi có thể gặp lại họ hay không. Tôi đã bị mắc kẹt ở nơi này, nơi có vô số những luật lệ phải tuân theo và chẳng có ai tỏ ra thân thiện. Vừa lúc đó, một chiếc xe hơi lớn màu đen rẽ vào khúc quanh và dừng lại trước cửa ngôi nhà. Một người đàn ông bước ra, và sau đó là một cô bé. Cô ấy nhỏ hơn tôi, mái tóc đỏ cắt ngắn vuông vắn, mặc một chiếc áo không tay màu xám đám con gái vẫn mặc, đi đôi giày cao cổ nhỏ màu đen. Tôi nhìn cô ấy đi theo người đàn ông bước đến cửa trước. Chợt có gì đó vụt lên trong lòng tôi. Tôi biết cô ấy! Tôi không rõ ở đâu hay như thế nào. Chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau, nhưng tôi biết cô ấy. Như thể mọi thứ bừng sáng và tôi cảm tưởng mình có thể chạy hàng dặm cùng cô mà không bao giờ mỏi mệt. Khoảnh khắc ấy tôi hiểu rằng mình sẽ không còn cô đơn nữa. Tôi rời bậu cửa sổ và chạy tới mở cửa… *** Có một ngày khi đi ngang qua cửa hàng du lịch, chúng tôi nhìn thấy thông báo quảng cáo một chuyến du lịch tới Tunisia trong vòng 7 ngày. Giá cả khá hợp lý. Vì vậy chúng tôi dùng số tiền đã tiết kiệm được khi không mua nhà mới mà ở nhà Irene để đăng kí tham gia chuyến đi. Đó là một kì nghỉ hoàn hảo. Khách sạn rất đáng yêu và phòng chúng tôi cũng vậy. Trong phòng có cửa dẫn ra mái hiên nằm ngay trên một vườn cam và chà là. Con đường qua vườn sẽ đi qua hồ bơi, cuối đường là những đụn cát dẫn tới một bãi biển cát sáng lấp lánh. Chúng tôi đã có một tuần vui thú, ngằm cảnh và đắm mình trong không khí ấm áp thân thiện. Trong lúc đó tôi cũng lên kế hoạch. Tôi biết chính xác mình muốn làm gì, và tôi chắc chắn tất cả các bạn mới của chúng tôi ở khách sạn cũng biết, chỉ có Irene là không. Bình mình ló rạng, và ngày cuối cùng của kì nghỉ đã đến. Tôi biết phải là bây giờ, hoặc là không bao giờ. Tôi rủ Irene đi dạo biển lần cuối, và chúng tôi đi qua những đụn cát xuống bãi biển lấp lánh. Ánh nắng chiếu trên mặt biển khiến chúng lôi bị lóa mắt. Trong suốt thời gian ở đây, ngày nào chúng tôi cũng đi dạo trên bãi biển, nhặt những mảnh gốm màu xanh nhạt đã được sóng biển rửa sạch. Chúng tôi định mang chúng về nhà cùng với đám vỏ ốc mút, để Irene làm thành một ốc đảo Tunisian của riêng chúng tôi. Irene muốn chơi chèo thuyền. Cô ấy chạy xuống nước, đứng trong mực nước ngập cỡ đến đầu gối, vùng vẫy đập nước tung tóe và cười vang. Cô ấy bắt tôi phải chơi cùng. Nhưng trong đầu tôi còn suy nghĩ những chuyện khác. Tôi quay lại bờ biển, đợi cô ấy lên và tôi hơi lo lắng một chút. Chính là khi ấy: thời khắc của tôi đã đến. Cả hai chúng tôi đều biết chúng tôi muốn ở bên nhau, nhưng tôi vẫn có rất lo lắng khi chuẩn bị cầu hôn. Có lẽ những người sắp trở thành chú rể đều như vậy. Cô ấy chạy lên khỏi mặt nước, hướng về bãi biển, và chúng tôi cùng đi bộ, tay trong tay. Khi đã đi cách xa mép nước một đoạn, tôi quay sang cô ấy, sau đó quỳ một chân xuống, “Irene, anh yêu em. Em có đồng ý cưới anh không?” Cô ấy ngạc nhiên đến nỗi trong một thoáng đã đứng sững. Sau đó cô ấy trả lời, “Có chứ, có, đương nhiên em sẽ đồng ý”. Tôi đứng dậy, đeo vào tay cô ấy một chiến nhẫn đính hôn đơn giản bằng vàng mà tôi đã chọn, rồi chúng tôi ôm và hôn nhau, cả hai đều cười tới suýt chảy nước mắt. Sau đó, thật đúng lúc, chàng trai bồi bàn thân thiện ở khách sạn - người tôi đã giới thiệu ngắn gọn phía trên - xuất hiện trên bãi cát với một chiếc máy ảnh, chụp lại khoảng khắc đó. Chúng tôi về lại khách sạn, và khi chúng tôi về tới bể bơi, đám đông những người khách đã đang chờ chúng tôi. Mọi người đã rỉ tai nhau và đều đã biết chuyện đó, tất cả đều muốn tham gia vào bữa tiệc chúc mừng. “Cô ấy đồng ý chứ?” - một trong số họ hét lên. Tôi đã định trêu họ và giả vờ như cô ấy đã nói “Không”, nhưng tôi đã không thể làm được. Tôi không thể che giấu nụ cười rạng ngời trên mặt mình. Irene cười và trả lời “Cô ấy đồng ý!” và những nút sâm panh bật mở, hoa xuất hiện và tất cả mọi người chúng mừng chúng tôi. Tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm và hạnh phúc. Mọi thứ đã đúng như tôi mong muốn. Có sắp đặt một chút - nhưng đó là một kết cục đáng nhớ, vui vẻ và cảm động ở một kì nghỉ tuyệt vời. Hôm sau chúng tôi về nhà trong tư cách đã kết hôn và ngập sàn vui sướng. Irene Khi bạn tôi - Dawn - đăng ký cho tôi tham gia vào một cuộc thi Cô dâu của năm do đài phát thanh địa phương tổ chức, tôi đã nói với cô ấy rằng cô ấy bị điên rồi. Nhưng cô ấy nói cô ấy nghĩ câu chuyện của chúng tôi là câu chuyện lãng mạn nhất cô ấy từng được nghe, và rằng những người khác cũng sẽ nghĩ thế. Tôi chỉ cười và nói cô ấy cứ làm nếu cô muốn, nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ giành chiến thắng. Vì thế tôi rất bất ngờ khi khoảng một, hai tuần sau đó, đài phát thanh gọi tới nói tôi đã chiến thắng. Giải thưởng là một chiếc váy cưới, hoa, bánh ngọt, xe hơi và cả váy phù dâu, và còn có một kì nghỉ trăng mật ở nước ngoài. Đó là lần đầu tiên tôi giành được chiến thắng gì đó! Alan và tôi run lên vì sung sướng, và tôi đã gửi hoa và sô-cô-la tới cho Dawn để cảm ơn cô ấy. Việc chiến thắng ở cuộc thi khiến chúng tôi có thể có khả năng tổ chức một lễ cưới lớn hơn dự tính ban đầu. Tôi đề nghị Joanne làm phù dâu chính cho tôi và cháu gái tôi - Faye và Dawn sẽ làm phù dâu. Tôi đã chọn một chiếc váy quây màu trắng xinh đẹp đi kèm với cả voan đội đầu. Và tới lúc chọn màu váy phù dâu, tôi đã biết chính xác màu mình muốn: Nó phải là một sắc xanh đặc biệt - màu xanh của hoa chuông. Buồn là tôi không còn liên lạc với con trai tôi - Michael nữa, vì thế chúng tôi không thể mời thằng bé. Alan đã đề nghị được chồng Joane sẽ là phù rể và cháu trai tôi - Lion sẽ là người đi cùng tôi vào nhà thờ. Chuyện đó khiến tôi rất tự hào vì tất cả những thành viên trong gia đình tôi đều đã chấp nhận Alan là người trong gia đình tôi và chính Alan cũng cảm thấy như thế. Alan Tính đến ngày tổ chức lễ cưới, tôi và Irene đã ở bên nhau được 3 năm - và đó là 3 năm ngập tràn hạnh phúc thiên đường. Chúng tôi đều sung sướng khi được ở cùng nhau, và tận hưởng từng khoảnh khắc. Chúng tôi hầu như chưa từng bất đồng về bất cứ điều gì, và nếu chúng tôi có những ý kiến khác nhau về chuyện gì đó, cuối cùng chúng tôi sẽ chỉ thấy thật buồn cười. Sau tất cả những gì đã trải qua, chúng tôi đều biết mình chẳng bao giờ muốn buồn bã dù chỉ một ngày. Và có quá nhiều thứ phải cảm tạ trời đất, đến nỗi ngày nào với chúng tôi cũng như một ngày cần chúc mừng. Chiến thắng trong cuộc thi thực sự là phần thưởng hấp dẫn theo đúng nghĩa đen. Điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể mời nhiều người tới dự lễ cưới hơn, và cuối cùng danh sách khách mời của chúng tôi đã gần chạm tới con số 100. Chúng tôi đã tìm thấy nhau vào ngày mùng 10 tháng 5, và chúng tôi muốn cưới đúng ngày đó. Chúng tôi đã đi hỏi toàn bộ địa điểm có thể, nhưng không nơi nào còn trống lịch vào ngày đó, do vậy cuối cùng chúng tôi quyết định tổ chức ngày 12 tháng 5 năm 2007, ở Mobray Sui nằm trong trung tâm hành chính Sunderland. Đám cưới của chúng tôi là kết quả của tình yêu chúng tôi đã luôn dành cho nhau và đó là ngày đặc biệt nhất trong đời tôi và Irene. Dường như niềm hạnh phúc của chúng tôi như có sức lan tỏa. Từ khi Irene chiến thắng trong cuộc thi đó, tất cả các tờ báo địa phương đều quan tâm và câu chuyện của chúng tôi lan rộng. Vì thế khi Irene đến lễ cưới trong một chiếc xe cổ màu trắng rất đẹp, gần như một đám đông đã tụ tập ở đó sẵn. Trong lúc đó tôi đang hồi hộp chờ đợi trong căn phòng chật kín những vị khách. Irene bước vào trong tiếng nhạc bài hát chúng tôi đã cùng chọn “At last” của Norah Jones. Không bài hát nào khác có thể đúng với chúng tôi đến thế. Irene của tôi trông thật xinh đẹp. Tôi nín thở, và khoảnh khắc đó cả thế giới như đứng lại và tôi như nghe thấy người con gái tóc đỏ của tôi nói “Có” trên đồi Bunny năm nào, 47 năm về trước. Mời các bạn đón đọc Ta Thuộc Về Nhau của tác giả Alan & Irene Brogan.
Ba Ngôi Của Người
Ba ngôi của người, cuốn tiểu thuyết thứ ba của Nguyễn Việt Hà, trước hết là cuốn sách của không gian và thời gian vô cùng Hà Nội. Tiếp nối mạch chủ đề của Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, cuốn tiểu thuyết một lần nữa bóc ra những lớp đan cài phức tạp của một Hà Nội dồn dập những “sóng lớp phế hưng” trong thời gian tồn tại. Không chỉ dừng ở một Hà Nội những năm gần đây, cuốn tiểu thuyết còn tham vọng trải thời gian trên cùng mảnh đất, ngược lên 600 năm trước, thông qua 10 kiếp “luân sinh” của nhân vật chính. Những kiếp đời này tựa như những mũi khoan thăm dò thời đại đã qua, bằng những chấm phá của lớp trầm tích khảo lên mà tác giả phác thảo một đôi nét đặc thù của thời ấy - cố nhiên là thủ pháp giả lịch sử, hư cấu quyện với những trích dẫn nằm trong mạch viết, tạo nên một không gian xa mà gần, rất đắc dụng để một nhân vật có lý lịch đi xuyên thời gian tung hoành. *** Không gian và thời gian của vô cùng Hà Nội 1- Không gian nhị nguyên, thời gian đa chiều Khi tìm hiểu về một nhà văn, tôi thường chú ý đến nguồn cội hay nơi cư trú của họ. Dù viết thể loại giả tưởng đi chăng nữa, cách họ quan sát và tái hiện không gian sống xung quanh vào tác phẩm vẫn bộc lộ xuất xứ của họ. Trong nhiều trường hợp, đây lại là mảng sinh động nhất, bộc lộ cách nhìn thế giới xung quanh của người viết. Vì thế, tôi không ngạc nhiên khi Nguyễn Việt Hà trở đi trở lại con phố Nhà Chung nơi anh ở trong các tác phẩm của mình, hoặc rộng hơn một chút là những phố cổ chật hẹp gắn với Hồ Gươm, từ các tiểu thuyết Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn hay các tập tản văn rất ăn khách gần đây – Con giai phố cổ, Đàn bà uống rượu, và cuốn tiểu thuyết mới nhất này – Ba ngôi của người. Phố xá, nhà cửa, cây cối và những không gian công cộng của Hà Nội quanh mấy khu vực này dường như là sân bóng của Nguyễn Việt Hà, để anh như một tiền đạo cắm sẽ ghi bàn vào những phút quan trọng. Hình dung được quang cảnh không gian tác giả hít thở sẽ hiểu cách anh ta cho nhân vật sinh tồn ra sao. Phố Nhà Chung đi qua nền ngôi chùa Báo Thiên xa xưa có từ thời Lý, lại cũng là nơi Nhà thờ Lớn được dựng lên, và trong quy hoạch thời Pháp, nó là một con đường nối khu 36 phố phường của người Việt với khu phố Tây. Gần ngay Hồ Gươm, trung tâm của đô thị Hà Nội hơn trăm năm qua, nó chứng kiến những va chạm giữa thần quyền và thế quyền, giữa “phảng phất như là có đức tin” và “chẳng cần có cái đếch gì” (lời nhân vật trong Ba ngôi của người). Mang một vai trò nhị nguyên ở nhiều khía cạnh như thế, vùng phố xá Nguyễn Việt Hà rất thông thạo này đã ảnh hưởng lên không gian trang viết của anh. Một cuốn tiểu thuyết có không gian, có chiều sâu thời gian, luôn hứa hẹn là cuốn sách tầm cỡ. Ba ngôi của người, cuốn tiểu thuyết thứ ba của Nguyễn Việt Hà, trước hết là cuốn sách của không gian và thời gian vô cùng Hà Nội. Ba ngôi của người, tiếp nối mạch chủ đề của Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, một lần nữa bóc ra những lớp đan cài phức tạp của một Hà Nội dồn dập những “sóng lớp phế hưng” trong thời gian tồn tại. Không chỉ dừng ở một Hà Nội những năm gần đây, cuốn tiểu thuyết còn tham vọng trải thời gian trên cùng mảnh đất, ngược lên 600 năm trước, thông qua 10 kiếp “luân sinh” của nhân vật chính. Những kiếp đời này tựa như những mũi khoan thăm dò thời đại đã qua, bằng những chấm phá của lớp trầm tích khảo lên mà tác giả phác thảo một đôi nét đặc thù của thời ấy – cố nhiên là thủ pháp giả lịch sử, hư cấu quyện với những trích dẫn nằm trong mạch viết, chẳng hạn những ghi chép của Hoàng Lê nhất thống chí, tạo nên một không gian xa mà gần, rất đắc dụng để một nhân vật có lí lịch đi xuyên thời gian tung hoành. “Luân sinh” là chữ Nguyễn Việt Hà tạo ra trong tiểu thuyết này, nó cố gắng tránh chữ luân hồi trong Phật giáo và tránh áp một hàm nghĩa đạo đức nào. Các nhân vật của Nguyễn Việt Hà cũng vậy, không bám vào các thang giá trị đạo đức cứng nhắc, họ linh hoạt trong ứng xử, nhiều khi có tính bản năng và tỏ ra cực mạnh về trực giác. Bảo rằng họ tốt cũng không hẳn, mà cũng khó thể nói họ là người xấu. Ở mỗi kẻ có một lương tri riêng, tự nhiên và gắng gỏi tránh sự suy đồi dưới sức ép mặt trái xã hội. Ba ngôi của người diễn tiến ở thì hiện tại theo quá trình đứa con có tên hay biệt danh là Kun sinh năm 1982 tìm lại cha mình – kẻ yếm thế trốn đời tên Tôi – chính là nhân vật đi xuyên thời gian đã nói. Người đàn ông sinh năm 1956 này có khả năng nhớ ngẫu nhiên những gì ở các kiếp luân sinh trước, đấy là một phép lạ nhưng cũng là một gánh nặng. Gần 30 năm trước, người vợ hai mươi tuổi vì một cơn ghen đã dứt khoát chia tay bằng việc nói dối rằng mình đã phá bỏ cái thai. Tất nhiên như kiểu Nguyễn Việt Hà nói, ba người trong cuộc đều là người tử tế nên cuộc đoàn viên sẽ diễn ra. Nhưng cũng tất nhiên như lối viết Nguyễn Việt Hà, cuộc đoàn viên ấy không có màn hân hoan dung tục trào nước mắt, nó tiếp theo bằng sự biến mất của người cha, kẻ chấm dứt kiếp luân sinh thứ 10 của hắn với niềm an ủi rằng đứa con trai mình là một kẻ tử tế và sẽ còn phải trải nhiều duyên nợ với đời. 2-Sự can dự thần bí của kẻ khác Bên cạnh mối quan hệ tam giác đó là ngôi còn lại của “người” – tay tài phiệt trẻ Quang Anh, là em của mẹ Kun, sinh ra vào giữa cuộc chiến tranh khốc liệt năm 1972. Anh ta có phải là “Các Thánh Thần” bên cạnh “Cha-Con” không, điều này là một khả năng bỏ ngỏ, nhưng Quang Anh là kẻ sống với hiện tại. Khác với Tôi hay Kun, nếu có nhớ chuyện đã rồi, anh ta không dành thời gian để dằn vặt nhiều, cho dù là vô tình phát hiện ra mình ngủ với bạn gái của cháu hay sơ sẩy trong làm ăn để thành tay trắng. Điều này ít nhiều có liên quan đến xuất thân học vấn. Nhân vật Tôi hoàn toàn là một trí thức lỡ dở, tuổi xuân nằm gần trọn trong giai đoạn chiến tranh và bao cấp, không rõ làm nghề gì, mà như nhận xét của cậu con trai họa sĩ khi gặp cha lần đầu: “Đấy là một trung niên phong độ bình thường, mặt mũi cũng bình thường, nhưng nếu nhìn thật kỹ thì có nhiều nét lạ”, thì quả thực anh ta khó nắm bắt. Kun là một họa sĩ nhiều năng lực sáng tạo vẫn đang đi tìm một cái đích, mọi suy nghĩ đều xuất phát từ trực quan thiên phú. Còn Quang Anh sinh ra trong gia đình bố hàm Thứ trưởng, có những điều kiện lý tưởng nhất, du học Mỹ, làm việc toàn hợp đồng có vốn tài chính lớn, con đường dù có lúc gập ghềnh bất trắc nhưng anh ta luôn tự tin trí tuệ của mình đang cầm lái đúng hướng. Quang Anh có thể xem như một mẫu hình đàn ông thời thượng, một người hùng kinh tế của xã hội hiện tại. Nhưng khác với Tâm của Cơ hội của Chúa bỏ vốn để lập công xưởng sản xuất, Quang Anh là một nhà đầu cơ tài chính, gần với hình ảnh giới văn phòng cổ trắng, có vẻ sạch sẽ và đẳng cấp.   Mời các bạn đón đọc Ba Ngôi Của Người của tác giả Nguyễn Việt Hà.
Trao Em Mặt Trời
Noah và Jude: chẳng ai bảo họ là một cặp song sinh. Một tên nhóc èo uột rụt rè kỳ quặc lúc nào cũng ôm khư khư cuốn sổ phác họa và vẽ lại tất cả những gì nó thấy. Một nữ thần ánh sáng với suối tóc vàng rực và thân hình nóng bỏng, ngạo nghễ lướt trên con sóng bạc, hiên ngang lao xuống Vực Tử Thần. Mỗi người mang theo mình một nửa câu chuyện, một nửa thế giới – từng mảnh ghép của tình yêu, sự phản bội, lòng thù hận, những nỗ lực hàn gắn, chữa lành dần hiện ra và khớp vào nhau tạo thành một bức tranh hoàn chỉnh, một bức tranh bùng nổ màu sắc và ngập tràn những phép mầu. Trao em mặt trời khiến người đọc choáng ngợp trước những hình ảnh bay bổng tuyệt đẹp và nghẹt thở bởi cảm xúc của những mối tình đầu cùng tình cảm gia đình. Tác phẩm đem lại cho Jandy Nelson vô số giải thưởng danh giá và được nhiều tạp chí, diễn đàn văn học bình chọn là tiểu thuyết nổi bật nhất năm 2015. Đến nay, cuốn sách đã được xuất bản ở hơn 25 quốc gia và được hãng phim Warner Bros mua bản quyền để chuyển thể thành phim. “Một cuốn tiểu thuyết hoang dại, đẹp đẽ, sâu sắc và đầy cảm động. Giọng văn của Jandy Nelson sôi nổi và sống động đến nỗi những trang truyện của cô ấy gần như tỏa sáng trong bóng tối.” – Ransom Riggs, tác giả bộ truyện Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine *** DÀNH TẶNG BỐ VÀ CAROL Vượt qua ranh giới của những quan niệm về hành vi sai trái và hành vi đúng đắn, có một cánh đồng. Tôi sẽ gặp bạn ở đó. RUMI Tôi chỉ tin vào sự thiêng liêng của tình yêu trìu mến từ con tim và chân lý của trí tưởng tượng. JOHN KEATS Ở đâu có tình yêu thương vĩ đại, ở đó luôn có những phép màu. WILLA CATHER Cần có lòng dũng cảm để trưởng thành và trở thành con người thật sự của bạn. E. E. CUMMINGS *** Mọi chuyện đã bắt đầu như thế. Zephyr và Fry - hai kẻ tâm thần chống đối xã hội làm vua làm chúa khu này - phóng theo tôi, toàn bộ thảm rừng dưới chân rung chuyển trong khi tôi lao đi giữa không trung, giữa những hàng cây và giữa cơn hoảng sợ cuồng loạn. “Mày lại đây, thằng hèn!” Fry hét. Rồi Zephyr đè lên người tôi, ghìm chặt một rồi cả hai cánh tay tôi ra sau lưng, còn Fry giật lấy cuốn sổ ký họa. Tôi lao tới chực giật lại nhưng hai tay đang bị giữ chặt, hoàn toàn bất lực. Tôi quằn quại để thoát khỏi vòng tay ghì chặt của Zephyr. Không thể. Cố chớp mắt biến chúng thành lũ bướm đêm. Không. Chúng vẫn là chúng: hai thằng đần lớp Mười, cao bốn mét rưỡi, lấy trò quẳng lũ mười ba tuổi còn sống nhăn như tôi xuống vách đá để mua vui. Zephyr khóa đầu tôi từ phía sau, lồng ngực nhấp nhô của hắn áp vào lưng tôi, lưng tôi áp vào lồng ngực hắn. Cả hai đứa đều đầm đìa mồ hôi. Fry bắt đầu lật mở cuốn sổ. “Mày đang vẽ cái gì thế, Bong Bóng?” Tôi mường tượng cảnh hắn bị xe tải cán. Hắn giơ một trang ký họa lên. “Zeph, nhìn mấy gã trần truồng này xem.” Máu trong cơ thể tôi ngừng chảy. “Đấy không phải mấy gã. Đấy là David,” tôi bật lên thành tiếng, cầu mong giọng mình nghe không giống một con chuột nhảy, cầu mong hắn sẽ không lật tới những bức vẽ sau đó, những bức được vẽ hôm nay khi tôi đang bí mật theo dõi, những bức vẽ chúng đang ngoi lên khỏi mặt nước, nách kẹp ván lướt sóng, không mặc đồ lặn, chẳng mặc gì cả, toàn thân bóng nhẫy và, ờm: nắm tay nhau. Có lẽ tôi đã hơi phóng túng trong nghệ thuật. Và chúng sẽ nghĩ… Chúng sẽ giết tôi trong chớp mắt, chúng sẽ làm thế đấy. Thế giới bắt đầu chao đảo. Tôi quăng từng từ về phía Fry: “Anh biết chứ? Michelangelo? Từng nghe về ông ấy chưa?” Tôi sẽ không thể hiện giống bản chất của mình đâu. Hãy tỏ ra cứng rắn, rồi con sẽ cứng rắn, bố đã nhắc đi nhắc lại nhắc tới nhắc hồi như thế - như thể tôi là một cái ô èo oặt vậy. “Ừ, tao từng nghe về ông ta rồi,” Fry cất tiếng nói từ cái miệng rộng ngoác kết thành khối với những đường nét trương phình còn lại bên dưới vầng trán đồ sộ bậc nhất thế giới, khiến người ta rất dễ lầm tưởng hắn là một con hà mã. Hắn xé trang sổ. “Nghe nói ông ta đồng tính.” Đúng thế - mẹ tôi đã viết nguyên cả một cuốn sách về chuyện đó - mà chắc Fry cũng chẳng biết. Hắn gọi tất cả mọi người là đồng tính khi không gọi họ là pê đê hay đồ hèn. Và tôi: pê đê, thằng hèn và Bong Bóng. Zephyr bật lên một tiếng cười quỷ quyệt hắc ám. Tiếng cười ấy như rung thấu khắp cơ thể tôi. Fry giơ bức ký họa tiếp theo lên. Lại David. Nửa dưới của David. Một bức nghiên cứu chi tiết. Cơ thể tôi ớn lạnh. Giờ thì cả hai đứa đều cười hô hố. Tiếng cười vang vọng khắp khu rừng. Tiếng cười cất lên từ lũ chim. Một lần nữa, tôi nỗ lực thoát ra khỏi thế khóa của Zephyr để có thể giật lại cuốn sổ từ tay Fry, nhưng tôi chỉ khiến Zephyr ghì chặt thêm. Zephyr, thằng này khác quái nào Thor. Một cánh tay hắn nghiến chặt cổ tôi, tay kia quàng quanh thân trên tôi như một sợi dây an toàn. Hắn để ngực trần vì vừa chạy thẳng từ dưới biển lên, hơi ấm từ cơ thể hắn đang ngấm dần qua áo phông của tôi. Mùi kem chống nắng hương dừa sực nức khắp khoang mũi lẫn đầu óc tôi - cả mùi biển cả mặn mòi nữa, như thể hắn đang mang cả đại dương trên lưng mình vậy… Zephyr kéo theo con sóng như một tấm chăn phủ xuống sau lưng… Cảnh ấy đẹp quá, chuẩn quá (CHÂN DUNG: Chàng trai sải bước cùng biển xanh) - nhưng không phải bây giờ, Noah, hiển nhiên giờ không phải lúc để vẽ thằng đần này trong trí tưởng tượng. Tôi thả lỏng toàn thân, nếm vị muối biển mặn mòi trên môi, thầm tự nhủ đời mình thế là tàn… Mái tóc dài như rong biển của Zephyr ướt nhem nhép, nhỏ giọt xuống khắp cổ và hai vai tôi. Tôi nhận thấy cả hai chúng tôi đang cùng nhịp nhàng thở hổn hển. Tôi cố thở khác đi. Tôi cố chống lại định luật của trọng lực và lềnh bềnh nổi lên. Cũng không xong. Chẳng làm được gì cả. Gió đang thổi bay từng bức vẽ của tôi khỏi tay Fry - giờ phần lớn là những bức chân dung gia đình - trong khi hắn xé từng trang, từng trang một. Hắn xé đôi bức vẽ Jude và tôi ở ngay chính giữa, chia cắt tôi khỏi bức tranh. Tôi nhìn bản thân theo gió bay đi. Tôi trông theo trong khi hắn lật giở ngày một gần tới những bức vẽ sẽ khiến tôi tiêu tùng. Bên tai tôi, tiếng mạch đập dội lên thình thịch. Rồi Zephyr nói, “Đừng xé, Fry. Chị nó bảo nó vẽ đẹp lắm đấy.” Bởi vì hắn thích Jude sao? Giờ thì hầu như thằng nào cũng thích chị, bởi chị có thể lướt sóng cừ hơn bất cứ ai, chị thích nhảy từ vách đá xuống và chẳng sợ gì, kể cả lũ cá mập trắng khổng lồ hay là bố đi chăng nữa. Và bởi mái tóc của chị - tôi tô mòn hết cả màu vàng chỉ để vẽ mái tóc ấy. Mái tóc dài cả trăm dặm và tất cả người dân Bắc California đều lo sẽ bị mắc vào đó, đặc biệt là đám trẻ con, lũ chó lông xù và giờ là cả những tay lướt sóng đần độn nữa. Còn cả bộ ngực nữa, bộ ngực mà tôi thề rằng xuất hiện chớp nhoáng như được chuyển phát đến chỉ trong một đêm. Khó tin thay, Fry nghe theo lời Zephyr và thả cuốn sổ xuống. Từ cuốn sổ, Jude ngó lên nhìn tôi, tươi cười, thấu hiểu. Cảm ơn chị, tôi thầm nói với chị trong tâm trí. Chị vẫn luôn giải cứu tôi, thường thì việc đó khá là đáng xấu hổ, nhưng không phải hôm nay. Việc hôm nay là hoàn toàn chính đáng. (CHÂN DUNG, CHÂN DUNG TỰ HỌA: Cặp song sinh: Noah nhìn vào gương, bóng Jude phản chiếu lại) “Mày biết bọn tao chuẩn bị làm gì mày mà, phải không?” giọng Zephyr ken két bên tai tôi, trở lại với chế độ sát nhân được lập trình sẵn như thường lệ. Cái tôi của hắn đặc sệt trong từng hơi thở. Cái tôi ấy đè quá nặng trên cơ thể tôi. “Em xin các anh đấy,” tôi van nài. “Em xin các anh đấy,” Fry nhại lại bằng cái giọng giả gái the thé. Bụng tôi quặn lại. Vực Quỷ, vách đá cao thứ nhì trên ngọn đồi, nơi chúng định ném tôi xuống, mang cái tên ấy cũng là có lý do của nó. Bên dưới bờ vực là cả một bãi đá nhọn lởm chởm và một xoáy nước hiểm độc sẽ lôi bộ xương mục ruỗng của ta xuống tận âm ty địa phủ. Tôi cố thoát khỏi vòng tay Zephyr một lần nữa. Rồi một lần nữa. “Tóm lấy chân nó, Fry!” Cả ba tấn thịt hà mã của Fry lao tới chộp lấy mắt cá chân tôi. Xin lỗi nhưng chuyện này sẽ không xảy ra. Chỉ đơn giản là không. Tôi ghét nước, dễ là tôi sẽ chết đuối và trôi dạt tới tận châu Á lắm. Tôi cần hộp sọ của mình nguyên vẹn. Nghiền nát nó sẽ chẳng khác nào đem quả tạ đến đánh sập một viện bảo tàng bí mật trước khi bất cứ ai được thấy trong đó có gì.   Mời các bạn đón đọc Trao Em Mặt Trời của tác giả Jandy Nelson.
Chuộc Tội
Vào một ngày hè nóng nhất năm 1935, cô bé mười ba tuổi Briony Tallis bất chợt trông thấy chị gái Cecilia trút bỏ áo quần rồi lao mình xuống bể đài phun nước trong khu vườn rộng trước nhà. Cùng chứng kiến cảnh ấy, là Robbie Turner, người bạn của nàng từ thuở nhỏ, và cũng như nàng vừa trở về từ đại học Cambridge.  Đến cuối ngày hôm ấy cuộc đời của cả ba người đã vĩnh viễn thay đổi. Robbie và Cecilia sẽ vượt qua một biên giới mà họ chưa từng hình dung rằng có tồn tại, và trở thành nạn nhân của trí tưởng tượng của cô bé mười ba tuổi kia. Còn Briony, em đã chứng kiến những chuyện bí ẩn và phạm phải một tội ác mà để chuộc lại thì có lẽ cần nhiều hơn một đời người.  Chuộc tội được làm nên bằng từng chi tiết được khắc họa tỉ mỉ đến tinh xảo, những nhân vật và tâm hồn nhân vật được xây dựng cá biệt nhưng thống nhất cao độ, những khám phá cơ hồ thanh tân về sự dối trá của vẻ bề ngoài và sự ngây thơ ẩn tàng diệt hủy, tất cả đặt trong một kết cấu độc nhất vô nhị - dàn trải mà vẫn tập trung, phi tuyến tính nhưng hoàn toàn logic. Vẫn những chủ đề quen thuộc như tình yêu và tội lỗi, giận dữ và thứ tha, nhưng Chuộc tội đã được tạo tác tuyệt vời đến mức không gì trong cuốn sách đem lại cho người đọc cảm giác cũ mòn. Phảng phất u tối nhưng quyến rũ kỳ lạ, cho đến nay đó thực sự là tác phẩm viên mãn nhất của McEwan, xứng đáng với giải thưởng cao quý National Book Critics Circle Award dành cho thể loại tiểu thuyết vào năm 2002.   "Một tiểu thuyết tuyệt tác" - Independent "Những khám phá xuất sắc về dòng chảy của tội lỗi, nỗi hổ thẹn và sự giận dữ..." - Scotsman *** Ian McEwan sinh ngày 21/6/1948 tại Aidershot, Anh. Ông từng học ngành Văn học Anh tại Đại học Sussex và tốt nghiệp cử nhân năm 1970, sau đó lấy tiếp bằng Thạc sĩ Văn học Anh tại Đại học East Anglia. Các tác phẩm của McEwan được giới phê bình thế giới đánh giá cao. Ông đã giành giải thưởng Somerset Maugham Award năm 1976 cho tập truyện ngắn First Love, Last Rites; giải Whitbread Novel Award (1987) và Prix Femina Etranger (1993) cho tác phẩm The Child in Time; đồng thời giành được cả giải Germany’s Shakespeare Prize vào năm 1999. Ông đã nhiều lần lọt vào danh sách đề cử chốt của giải Man Booker Prize và đến năm 1998 đã giành được giải thưởng cao quý này cho tác phẩm Amsterdam. Cuốn tiểu thuyết Atonement đã giành được giải WH Smith Literary Award (2002), giải National Book Critics’ Circle Fiction Award (2003) của giới phê bình Anh, giải Los Angeles Times Prize dành cho thể loại hư cấu (2003) và giải Santiago Prize dành cho Tiểu thuyết Châu Âu (2004). Năm 2000, ông cũng được trao giải CBE, giải thưởng cao quý của Hoàng gia Anh dành cho những người có cống hiến xuất sắc. Năm 2006, cuón tiểu thuyết Saturday của ông đã giành được giải James Tait Black Memorial Prize. Còn tại lẽ trao giải British Book Awards 2008, Trên bãi biển Chesil đã giành được giải Book of the Year (Cuốn sách của năm) đồng thời đem lại cho tác giả của nó danh hiệu Author of the Year (Tác giả của năm). McEwan đã kết hôn hai lần. Người vợ thứ hai của ông, Annalena McAfee, từng là biên tập viên cho mục Bình luận của tờ The Guardian danh tiếng. Ngoài sự nghiệp, ông còn khá nổi tiếng trên mặt báo khi vào năm 1999 người vợ đầu tiên của ông bắt cóc đứa con trai 13 tuổi khi tòa trao quyền giám hộ con chỉ cho mình ông. Tiểu thuyết Chuộc tội cũng từng bị cáo buộc là đạo văn từ cuốn No Time for Romance của Lucilla Andrews. Tuy nhiên McEwan công khai khẳng định mình vô tội trên tờ The Guardian, lý do là trong ghi chú cuối tiểu thuyết của mình, ông đã nêu rõ tác phẩm của Andrews. Bộ phim cùng tên dựng lại từ tác phẩm Chuộc tội của McEwan đã được đề cử bảy giải Oscar quan trọng và giành được giải Nhạc nền xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 80 năm 2008. Cùng năm đó, bộ phim cũng đồng thời giành được giải Phim hay nhất ở cả giải Quả cầu Vàng và giải British Academy Film Awards của Viện Điện ảnh Anh Quốc. Hiện Website chính thức của tác giả tại địa chỉ www.iannicewan.com. *** Review Thu Hoài - Trạm Đọc: Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao? Khi mà xã hội ngoài kia đang sôi sục về những vụ ấu dâm thì tôi cũng đọc được một câu chuyện ấu dâm khác trong thời Thế chiến thứ Hai, khi con người ta còn nhiều nỗi lo hơn so với cái xã hội rảnh như bây giờ. Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao?  Cấu trúc truyện lồng trong truyện trong cuốn sách Chuộc tội của Ian McEwen kể về lời khai của một cô bé mười ba tuổi khi là nhân chứng duy nhất trong vụ cưỡng hiếp người chị họ, kèm theo nỗi đau tinh thần đã kéo dài hơn sáu mươi năm, và một lời thú tội muộn màng. Mùa hè 1935, Robbie Turner bị bắt vì tội cưỡng hiếp cô bé Lola mười lăm tuổi,  một người họ hàng của gia đình Tallis. Nhân chứng và lời khai duy nhất của vụ án là con gái út mười ba tuổi, Briony Tallis, người đã chắc chắn khẳng định hung thủ là Turner, khi cô tình cờ bắt gặp cảnh tượng khủng khiếp ấy trong đêm tối tại khu vườn gần nhà. Turner là con trai người hầu và người giúp việc của gia đình Tallis, đồng thời cũng là người bạn ấu thơ của Cecilia Tallis. Qua lời tố cáo của Briony, Turner cũng là người đã bắt Cecilia cởi bỏ đồ trước mặt hắn, viết bức thư dâm đãng gửi và tra tấn Cecilia trong thư viện. Trong thời chiến tranh, để huy động hết lực lượng quân số, những người mang trọng tội như Turner đã được cho phép đi lính thay vì ngồi trong tù của chính phủ Anh.  Đọc đến đây, bạn có thể nói “Đáng đời hắn, những kẻ vô nhân tính như hắn đáng phải đền tội” hay những câu tương tự như vậy. Tôi cũng phần nào đồng cảm với bạn. Nhưng lời khai của một đứa trẻ tuổi vị thành niên có đáng tin không? Nếu là thời nay chắc cảnh sát và truyền thông còn phải mổ xẻ rất nhiều tình tiết trong lời khai ấy. Nhưng khi ấy, cảnh sát và quân đội Anh còn phải lo về thuốc súng đạn dược trong cuộc chiến tranh với Đức, ai rảnh đâu đi điều tra lời nói của một đứa bé. Họ thậm chí còn mừng thay khi có một nhân chứng, và nhân chứng ấy lại vô cùng quả quyết, chắc chắn về những gì mình nhìn được. Briony có lẽ còn xứng đáng trở thành anh hùng trong lòng các cô gái trẻ ấy chứ.  Ấy vậy mà, người “anh hùng” của chúng ta, Briony lại sống trong những năm tháng đau khổ và dằn vặt suốt phần đời còn lại của mình. Năm năm sau, cô trở thành y tá thực tập trong bệnh viện London thay vì đi học tại Cambridge. Những lần chứng kiến thời khắc cuối cùng của người lính, cô thường nghĩ đến số phận của Robbie ngoài chiến trường. Cô cũng đã viết rất nhiều bức thư gửi chị gái Cecilia, người đã từ bỏ gia đình sau khi Robbie bị bắt và trở thành y tá, nhưng chưa bao giờ nhận được hồi âm. Cô đã lo sợ nếu không gặp được chị gái, cô sẽ không bao giờ có thể nói được lời xin lỗi, vì sự thật mà cô tiết lộ vô cùng đau lòng. Hung thủ mà Briony nhìn thấy năm năm trước hóa ra lại không phải là Robbie Turner.  Đối với cô khi ấy, Robbie là một con quỷ dâm dục nhưng trước đó cũng là người mà cô vô cùng cảm mến. Briony đã từng liều mình nhảy xuống hồ chỉ để xem liệu Robbie có cứu mình không, và để nói lời yêu với anh. Nhưng hỡi ôi, một cô bé ngây thơ và nông nổi trong thâm tâm không muốn người mình yêu ở bên cạnh chị cô nên đã sẵn sàng nói dối dù đã mười mươi nhìn thấy hung thủ là ai, một lời nói dối đủ làm thay đổi cuộc đời của cả ba con người. Trong suốt những năm tháng làm y tá, Briony vẫn viết, nhưng không còn là những tiểu thuyết mộng mơ như thuở nhỏ nữa. Ngồi cô độc đánh máy trong những đêm lạnh tại bênh viện, Briony đã viết một lời thú tội chân thành không màu mè, hoa mỹ cho những người đã tin vào những lời nói dối năm xưa của cô. Lời thú tội đó sau cùng trở thành cuốn tiểu thuyết cuối đời của cô, cuốn sách mang tên Chuộc Tội.  Nhưng rốt cuộc đó vẫn chỉ là sự hèn nhát sau cuối của Briony, khi tất cả những người liên quan đều đã chết, họ mãi không được biết sự thật. Dù có viết bao nhiêu cuốn sách cũng không thể bù đắp lại được cuộc đời hạnh phúc cho Robbie và Cecilia. Vở kịch đầu tiên của Briony xuất hiện ở cuối truyện giống như nhắc lại cuộc đời hai con người ấy suy cho cùng cũng chỉ là vở kịch mà người khác dựng lên.  Briony đã nhận sai, nhưng vẫn tiếp tục làm sai, vẫn chỉ là con người hèn nhát không giống như trong cuốn tiểu thuyết kia.  Briony đã đi đến cuối đời bằng nỗi tuyệt vọng và tự lừa dối chính mình bằng ảo tưởng hạnh phúc. Không có gì sai khi lên tiếng trước một tội ác, chỉ là đừng như Briony, hãy làm người hùng thật đúng cách để không bao giờ phải nhận lấy đau khổ khi đứng trước sự thật mà thôi. *** Vở kịch - mà vì nó Briony đã thiết kế áp phích, tờ chương trình và vé, dựng quầy bán vé từ một bình phong xiêu vẹo quây lại và lót hộp thu tiền bằng giấy kếp đỏ - được em viết trong hai ngày sáng tác vũ bão, khiến em bỏ mất một bữa sáng và một bữa trưa. Khi mọi chuẩn bị đã chu tất, em chỉ còn việc thưởng ngoạn bản thảo hoàn chỉnh và đợi các em họ từ phương Bắc xa xôi đến. Sẽ chỉ có một ngày duy nhất để diễn tập trước khi anh trai em về. Lúc ớn lạnh xương tủy, khi buồn đau bén ngọt, vở kịch kể một câu chuyện của trái tim mà thông điệp được của nó, được chuyển tải trong phần mào đầu có vần điệu là tình yêu không được dựng xây trên nền tảng lý trí thì rồi sẽ lụi tàn. Nỗi đam mê bồng bột của nhân vật chính Arabella dành cho một tên bá tước ngoại quốc gian ác đã bị vận rủi trừng phạt: nàng mắc phải bệnh tả khi bốc đồng lao đến một thị trấn ven biển cùng kẻ ngỡ là sẽ cưới ấy. Bị hắn và hầu như hết thảy mọi người ruồng bỏ, nằm liệt giường trên một căn phòng gác xép, nàng khám phá ra tự trong mình khiếu hài hước. Số phận đem lại cơ hội thứ hai cho nàng xuất lộ dưới hình hài một vị thầy lang bần hàn - thực ra là chàng hoàng tử vi hành tự nguyện lao động giữa những người cùng khổ. Được chàng chữa lành bệnh, Arabella lần này chọn lựa một cách sáng suốt, và được đáp đền bằng cuộc đoàn tụ với gia đình và lễ cưới với chàng hoàng tử-thầy lang trong “một ngày xuân ngập tràn nắng và gió”. Bà Tallis đọc bảy trang vở kịch Những gian nan của nàng Arabella trong phòng ngủ, tại bàn trang điểm, với vòng tay của tác giả choàng qua vai suốt thời gian ấy. Briony chăm chú theo dõi từng dấu hiệu biến đổi cảm xúc trên khuôn mặt mẹ, và Emily Tallis chiều lòng con bằng vẻ mặt khi thảng thốt, lúc khúc khích hân hoan, rồi cuối cùng, nụ cười khích lệ và những cái gật đầu lịch duyệt, tán thành. Bà vòng tay ôm con gái vào lòng - ôi, cái cơ thể nhỏ nhắn mịn màng ấm nóng bà nhớ từ khi còn đỏ hỏn này, vẫn còn chưa lìa khỏi bà, chưa lìa hẳn - và bảo vở kịch thật “tuyệt diệu”, rồi ngay lập tức thì thầm vào vành tai đang căng ra của con gái đồng ý cho phép trích dẫn từ này lên tấm áp phích sẽ treo trên giá dựng ở tiền sảnh cạnh quầy vé. Khi đó Briony cơ hồ chưa biết, nhưng lời nhận xét ấy chính là cực điểm thành công của công trình này. Không gì đem lại cảm giác thỏa nguyện hơn thế, tất cả còn lại chỉ là mộng mơ và thất vọng. Có những khoảnh khắc chiều hè chạng vạng, khi ánh sáng phòng lụi tắt, vùi mình trong sự ảm đạm ngọt ngào của chiếc giường bốn cọc màn, em khiến tim mình rộn lên bằng những tưởng tượng lung linh, khao khát, mang trong chúng những vở kịch ngắn nho nhỏ, từng vở một đều có vai chính là Leon. Ở vở này, khuôn mặt to, hiền lành của anh nhăn lại vì đau đớn khi Arabella rơi vào cảnh cô đơn và quẫn bách. Ở vở kia, kìa anh đó, ly cocktail trên tay tại một quán bar thành phố thời thượng, đang lớn tiếng huênh hoang với đám bạn: Phải, em gái tớ đấy, văn sĩ Briony Tallis, các cậu hẳn đã nghe tiếng rồi. Vở thứ ba, anh đắc chí đấm tay vào không khí khi sân khấu hạ màn, mặc dù chẳng có tấm màn nào hết, cả khả năng tồn tại một tấm cũng không. Vở kịch em viết không phải để dành cho mấy đứa em họ, nó dành cho anh của em, để chào mừng anh trở về, để khơi dậy ở anh lòng ngưỡng mộ và hướng anh tránh xa khỏi hàng loạt cô bạn gái kế tiếp nhau một cách thiếu suy nghĩ, đến hình mẫu người vợ chân chính, người vợ sẽ thuyết phục anh về sống ở vùng quê, người vợ sẽ dịu dàng đề nghị Briony làm phù dâu cho lễ cưới. Em là đứa trẻ bị ám ảnh bởi nỗi khát khao biến thế giới thành nơi trật tự tuyệt đối. Trong khi phòng chị em là mớ hổ lốn những sách không gấp, áo quần không xếp, giường không dọn, gạt tàn không đổ, thì phòng Briony là một thánh đường cho vị thần thích kiểm soát trong em: mô hình trang trại đồ chơi trải ra trên bậu cửa sổ sâu vào phía trong, gồm những súc vật quen thuộc, nhưng tất cả đều hướng về một phía - chủ nhân của chúng - như thể toan cất lời đồng ca, và ngay cả đàn gà mái trên sân trại cũng được quây lại gọn ghẽ. Mà thực ra, phòng Briony là căn phòng ngăn nắp duy nhất ở tầng trên trong nhà. Các em búp bê lưng được đặt thẳng đứng trong biệt thự nhiều phòng của chúng dường như tuân theo một chỉ thị nghiêm ngặt là không được phép chạm vào tường; vô vàn các con giống đồ chơi to cỡ ngón tay cái trên bàn trang điểm - những chàng cao bồi, những thợ lặn biển sâu, những chú chuột hình người - được sắp xếp theo hàng lối ngay ngắn và cách nhau đều đặn như một đạo dân quân đang chờ lệnh. Thích vật thu nhỏ là một khía cạnh của tinh thần ngăn nắp. Một khía cạnh khác là đam mê bí mật: trong chiếc tủ đánh véc ni quý giá có một ngăn kéo bí mật chỉ mở ra được bằng cách nhấn vào thớ gỗ của cái mộng đuôi én khớp lại một cách khéo léo, ở đó em cất giấu cuốn nhật ký khóa bằng móc gài, và cuốn sổ viết bằng thứ mật mã do em tự chế ra. Trong cái két đồ chơi mở bằng mật mã sáu số, em lưu thư từ và bưu thiếp. Một hộp thiếc cũ đựng tiền nhỏ xíu được giấu dưới một tấm ván sàn cạy lên được dưới gầm giường em. Trong hộp là kho báu em tích trữ được trong bốn năm qua, bắt đầu từ lần sinh nhật chín tuổi: một quả sồi đôi đột biến, viên quặng pyrit, một bùa làm mưa mua tại hội chợ giải trí, một cái sọ sóc nhẹ bẫng như chiếc lá. Nhưng ngăn kéo bí mật, nhật ký khóa cài và hệ thống mật mã không che được cho Briony một sự thật giản dị: em chẳng hề có bí mật nào. Khát khao vươn tới một thế giới trật tự hài hòa tước khỏi em khả năng bốc đồng làm điều sai trái. Phá hỏng và hủy diệt là những thứ quá hỗn loạn không phù họp với sở thích của em, và bản tính em cũng không phải là người ác nghiệt. Thân phận thực tế là đứa trẻ duy nhất trong nhà, cộng với việc ngôi nhà gia đình Tallis khá hẻo lánh, đã khiến em, ít ra là trong suốt những ngày nghỉ hè dài dặc, không tham dự vào các trò con gái với đám bạn. Không gì trong cuộc sống em đủ độ hấp dẫn hay đáng xấu hổ đến mức phải giấu đi; không ai biết về cái sọ sóc dưới gầm giường, mà cũng chẳng ai buồn biết. Không gì trong số những điều vừa kể là nỗi ưu phiền gì đặc biệt; có chăng chỉ phảng phất vậy khi hồi cố lại, mà khi đó, giải pháp đã được tìm ra. Năm mười một tuổi, em viết câu chuyện đầu tay - một chuyện tình xuẩn ngốc, mô phỏng đến quá nửa tá truyện dân gian và thiếu, sau này em nhận ra, sự hiểu biết thiết yếu về cách thế giới vận hành để buộc độc giả phải ngưỡng phục. Nhưng thử nghiệm vụng về đầu tiên này mở ra cho em biết trí tưởng tượng, chỉ riêng nó thôi, đã là cả một nguồn sản sinh bí mật: một khi em bắt đầu một câu chuyện, sẽ không ai biết gì cả. Ngụy tạo thế giới bằng ngôn ngữ là việc quá không chắc chắn, quá yếu ớt, quá xấu hổ không thể để ai biết được. Ngay cả viết ra những cô nói, những và rồi cũng khiến em nhăn mặt, và thấy mình thật ngốc nghếch khi tỏ vẻ hiểu cảm xúc của một sinh vật tưởng tượng. Tự phơi bày chính mình là điều không thể tránh khỏi khi em miêu tả sự yếu mềm của nhân vật; độc giả buộc phải ngờ rằng em đang miêu tả chính em. Em còn có tư cách nào khác nữa chứ? Chỉ khi câu chuyện kết thúc, mọi số phận được dàn xếp ổn thỏa và toàn bộ vấn đề đã hoàn toàn khép lại để giống như, ít nhất ở khía cạnh này, mọi câu chuyện có kết thúc khác trên thế giới, thì em mới cảm thấy yên tâm, và sẵn sàng đục lỗ trên lề, dùng dây đóng các chương lại, vẽ bìa bằng màu hay chì đen, rồi mang tác phẩm hoàn tất đến khoe với mẹ, hoặc cha, khi ông có nhà. Mời các bạn đón đọc Chuộc Tội của tác giả Ian McEwan.