Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Nói Dối Thứ Ba

Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Tôi ngồi tù tại cái thành phố nhỏ thời thơ ấu. Không phải là một nhà tù thực sự, đó là một phòng giam trong ngôi nhà của cảnh sát địa phương, một tòa nhà hai tầng như biết bao những nhà khác của thành phố. Phòng giam của tôi xưa kia là một xưởng giặt, cửa và cửa sổ trông ra sân. Những chấn song cửa sổ đã được gắn vào bên trong để cho không ai có thể chạm vào và đập vỡ kính. Một góc vệ sinh được che sau một cái riđô. Giáp với một bức tường, có một cái bàn và bốn cái ghế gắn chặt xuống đất, giáp với bức tường phía trước có bốn cái giường có thể gập xuống. Ba cái đã được gập. Chỉ có một mình tôi trong phòng giam. Trong thành phố này có rất ít tội phạm, và khi có, người ta lập tức đưa đến thành phố bên, thủ phủ của vùng này cách đây hai mươi cây số. Tôi không phải là tội phạm. Tôi ở đây là do giấy tờ của tôi không hợp lệ, hộ chiếu của tôi hết hạn. Với lại tôi cũng có nợ tiền. Buổi sáng, người coi tù mang đến cho tôi bữa sáng, sữa, cà phê, bánh mỳ. Tôi uống chút cà phê rồi tôi đi tắm. Người coi tù ăn nốt bữa sáng của tôi và quét dọn phòng giam. Cửa để mở, tôi có thể ra sân nếu tôi muốn. Đó là một cái sân có tường cao phủ dây trường xuân và nho dại bao quanh. Đằng sau một bức tường, ở phía trái khi ra khỏi phòng giam là một cái hành lang có mái che của một trường học. Tôi nghe tiếng trẻ con cười, đùa, la hét trong giờ ra chơi. Khi tôi còn bé, trường học đã ở đó rồi, tôi nhớ, dù tôi không bao giờ đến trường, nhưng nhà tù thì hồi đó lại ở nơi khác, tôi cũng nhớ bởi vì tôi đã đến đó một lần. Buổi sáng một giờ, và buổi tối một giờ, tôi đi bộ ngoài sân. Đó là thói quen tôi đã có từ thuở nhỏ, khi tôi mới lên năm, tôi đã buộc phải tập đi. Điều này khiến người coi tù khó chịu, vì lúc đó tôi không nói và không nghe một câu hỏi nào. Mắt nhìn xuống đất, tay chắp sau lưng, tôi bước đi, tôi đi vòng quanh dọc theo các bức tường. Mặt đất có lát đá, nhưng cỏ vẫn mọc giữa các kẽ đá. Cái sân gần như vuông, chiều dài mười lăm bước, chiều rộng mười ba bước. Giả sử bước chân của tôi dài một mét thì diện tích cái sân là một trăm chín mươi lăm mét vuông. Nhưng chắc chắn bước chân của tôi ngắn hơn. Giữa sân có một cái bàn tròn và hai cái ghế, và giáp với bức tường cuối vườn là một cái ghế dài bằng gỗ. Ngồi xuống ghế dài đó tôi có thể nhìn thấy một phần lớn bầu trời thuở nhỏ của tôi. Từ hôm đầu, bà chủ hiệu sách đã đến thăm tôi và mang đến cho tôi các đồ dùng cá nhân và một món xúp rau. Bà tiếp tục đến hàng ngày vào giờ trưa với món xúp rau của bà. Tôi bảo bà rằng ở đây tôi được nuôi dưỡng tốt, người coi tù mang đến cho tôi một ngày hai bữa đầy đủ từ nhà hàng trước mặt, nhưng bà ấy tiếp tục mang xúp đến. Tôi ăn một chút để giữ lễ, rồi tôi đưa cái xoong cho người coi tù ăn nốt. Tôi xin lỗi bà chủ hiệu sách vì sự lộn xộn tôi đã để lại trong căn hộ của bà. Bà nói: - Có quan trọng gì đâu. Tôi và con gái tôi đã dọn dẹp cả rồi. Chỉ có rất nhiều giấy. Tôi đã đốt những tờ giấy nhàu nát và những tờ ném vào sọt. Những tờ khác, tôi đã đặt lên bàn, nhưng cảnh sát đã đến và lấy đi. Tôi im lặng một lát, rồi nói: - Tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà. Bà ấy cười: - Tôi đã đòi ông quá đắt cho căn hộ nhỏ đó. Nhưng nếu ông muốn thì ông có thể hoàn lại cho tôi khi ông được về. Có lẽ là sang năm. - Tôi không nghĩ là sẽ về. Người được ủy thác của tôi sẽ thanh toán cho bà. Bà ấy hỏi tôi có cần gì không, tôi nói: - Có, tôi cần giấy và bút chì. Nhưng tôi không còn tiền. - Đáng lẽ tôi đã phải tự nghĩ ra. Hôm sau, bà ấy trở lại với món xúp, một gói giấy kẻ và nhiều bút chì. Mời các bạn đón đọc Lời Nói Dối Thứ Ba của tác giả Agota Kristof.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quà Của Chúa - Dorota Terakowska
AudioBook Quà Của Chúa Tiểu thuyết "Quà của Chúa" chứng tỏ khát vọng của con người muốn vươn lên làm chủ số phận và thế giới của mình. Tuy chưa thành hiện thực, nhưng khát vọng này vẫn tồn tại, vẫn cháy bỏng. Adam và Ewa là cặp vợ chồng lý tưởng, có cuộc sống lý tưởng với những kế hoạch lý tưởng cho tương lai. Công ty của họ làm ăn phát đạt, họ đã xây nhà to, nội thất sang trọng, chỉ còn thiếu mỗi đứa con nữa thôi là hạnh phúc của họ viên mãn. Thế mà tất thảy mọi tuyệt hảo đó đã biến khỏi cuộc sống của họ khi đứa con tật nguyền chào đời. Ngày con gái ra chào đời cũng là ngày toàn bộ kế hoạch đường đời của họ bị sụp đổ, cuộc sống của họ hoàn toàn bị đảo lộn, họ phải đương đầu với những thử thách mới cực kỳ cam go. Trong cái đầu tật nguyền của Myszka, con gái của Adam và Ewa, tiềm ẩn nhiều ma thuật. Cô gái đi tìm chỗ cho mình, kiến tạo cho mình một thế giới riêng: đẹp, an toàn, không có cái ác và cái không hoàn thiện. Thậm chí bé còn giúp Đức Chúa Trời trong công việc sáng tạo. Myszka tựa hồ một con nhộng, bên trong lớp vỏ bọc của con nhộng này đang náu mình một con bướm đẹp, một tâm hồn đẹp nhiều khát vọng, chẳng khác gì người bình thường. Có điều, con bướm náu mình trong cơ thể Myszka sẽ không bao giờ bay đi được. Phòng áp mái là chốn riêng tư đầy bí ẩn của bé, là nơi cho phép bé được vào vườn địa đàng, được sống cuộc sống thứ hai của mình, được gặp Adam và Ewa, được trò chuyện với Rắn và Đức Chúa Trời. Ở đây bé cảm thấy, cho dù chốc lát, mình có giá, thậm chí rất được việc. Tại phòng áp mái, sau khi tắt đèn, bé có thể rời bỏ vỏ bọc của mình, bé trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát và nhanh nhẹn, nhảy múa như một nghệ sĩ múa ba lê thực thụ, không còn phải vất vả với thân thể nặng nề, dị dạng của mình nữa. Chỉ có ở đây, tức trên thiên đường, Myszka mới có thể thoả mãn mọi mơ ước của mình, mới là mình thật sự. Tiểu thuyết Quà của Chúa chứng tỏ khát vọng của con người muốn vươn lên làm chủ số phận và thế giới của mình. Tuy chưa thành hiện thực, nhưng khát vọng này vẫn tồn tại, vẫn cháy bỏng. Cuốn tiểu thuyết đầy tính nhân văn và gây xúc động lòng người này cho chúng ta thấy, người ta phải tốn bao nhiêu thời gian để hiểu được rằng, tình yêu thực sự không đặt điều kiện, và rằng, thực khó phá vỡ bức tường vô hình của sự xa lạ mọc lên ngay trong một con người, bức tường ngăn cách con người này với thời thơ ấu của mình. Nhiều tình tiết của tiểu thuyết chứng tỏ, chúng ta thấy còn quá ít, hiểu còn quá ít, nhận ra còn quá ít, chúng ta thường hay hổ thẹn với những điều nhẽ ra chúng ta phải tự hào... và chính vì thế mà chúng ta đã để uổng phí, đã bị mất rất nhiều, có khi đánh mất chính mình. Thế giới nội tâm của Myszka vô cùng phong phú và đẹp tuyệt vời. Tác giả muốn chứng minh một điều: Cái đẹp kín đáo hay hơn cái đẹp phơi bày. Quà của Chúa là tiểu thuyết hiện đại, dẫu "hàm lượng ma thuật" khá cao, nhiều chương đoạn đậm màu sắc Thiên Chúa giáo (tiêu đề của các chương trong tiểu thuyết chứng tỏ điều này). Quà của Chúa đưa người đọc vào thế giới huyền ảo, hư hư, thực thực, khi trần thế, lúc thiên đường, khi vườn nhà, lúc Vườn địa đàng, nơi con người được trò chuyện với Đức Chúa Trời. Quà của Chúa giúp chúng ta khám phá chính mình, biết được nhiều điều bí ẩn của chính mình. Dẫu đề tài của tiểu thuyết là loại đề tài khó viết, song với tri thức uyên thâm, lối quan sát và cảm nhận tinh tế, khai thác rất hiệu quả "thẩm mỹ" từ "cái xấu", văn phong mượt mà, gợi cảm, bút pháp trữ tình, hư thực đan xen, kịch tính cao, các nhân vật giàu nội tâm, người đọc bị cuốn hút từ đầu đến cuối. Có lẽ lần đầu tiên trên thế giới có một cuốn tiểu thuyết viết về bệnh down hấp dẫn đến như vậy. Quà của Chúa mang lại cho người đọc những ấn tượng mạnh, cảm xúc sâu lắng, nhiều suy tư, trăn trở. Câu chuyện của Adam, Ewa và con gái của họ kết thúc có hậu, lạc quan, như một truyện cổ tích hay, cho dù đây không phải là truyện cổ tích. Cuối truyện Adam yêu con, Ewa yêu đời, đứa con gái thứ hai ra chào đời. Nói cách khác, Quà của Chúa lần này là món quà đổi đời cho họ. Thông điệp mà cuốn sách muốn gửi tới chúng ta là, phải thương yêu, phải cưu mang và đùm bọc những người khuyết tật. Quà của Chúa đã làm rơi nước mắt của rất nhiều bạn đọc Ba Lan, những người, như chính họ tự thổ lộ, chưa bao giờ khóc trong đời. Nhiều bạn đọc Ba Lan cho đây là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất, được họ thích nhất, trong thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, một số người còn cho đây là một kiệt tác văn chương. Có một điều chắc chắn, ngay sau khi ấn hành, Quà của Chúa đã trở thành thiên tiểu thuyết best-seller hàng đầu và từ năm 2001 đến nay cuốn sách liên tục được tái bản với số lượng bản in rất lớn, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Sau tiểu thuyết Hoang thai, xuất bản năm 2006, Quà của Chúa là tiểu thuyết thứ hai của nữ nhà văn Dorota Terakowska được Nhà xuất bản Phụ nữ và dịch giả Lê Bá Thự gửi tặng bạn đọc Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Quà Của Chúa của tác giả Dorota Terakowska.
Tình Yêu Trở Lại - Madge Swindells
AudioBook Tình Yêu Trở Lại Câu chuyện diễn ra tại một vùng đất mà sự phân biệt sắc tộc diễn ra cực kỳ khắc nghiệt và khoảng cách giàu nghèo quá lớn. Nơi đây, không chỉ cuộc sống khốn khó mà ngay cả sự giàu sang phú quý cũng ra sức tàn phá hạnh phúc bao con người. Đó là vùng Đất Mũi Nam Phi, nhưng không giới hạn ở đấy mà bối cảnh câu chuyện mở rộng tới thành phố London náo nhiệt và sang cả bờ Tây nước Mỹ… Tình yêu trở lại là một câu chuyện thật hoàn hảo về những biến động xảy ra trong một gia đình suốt ba mươi năm trời. Nhân vật trung tâm của câu chuyện là Anna, một phụ nữ tuy không thực dịu dàng nhưng xinh đẹp, thông minh và mạnh mẽ… đặc biệt, cô mang trong mình lòng kiêu hãnh đến cực đoan và niềm đam mê làm giàu không gì cưỡng nỗi. Xuất thân trong một gia đình giàu sang vào bậc nhất vùng, nhưng Anna lấy chồng lại là một nông dân nghèo xơ nghèo xác. Một mình cô phải đấu tranh quyết liệt với số phận khắc nghiệt để rồi từ trong cảnh bần hàn, cô đã vươn lên trở thành một nữ thương gia vô cùng sắc sảo và đầy quyền thế trong thời kỳ mà vai trò của người phụ nữ còn chưa được coi trọng. Chỉ có tình yêu là còn né tránh Anna… Chồng Anna là Simon – con một gia đình nông dân nghèo khó sớm mồ côi cha lẫn mẹ. Họ đến với nhau thật nhanh khi chưa kịp hiểu rõ về nhau. Và rồi có quá nhiều khác biệt cũng như lòng kiêu hãnh của mỗi người đều quá lớn đã khiến cho cuộc hôn nhân của họ trở thành một tấn thảm kịch. Nhưng cuối cùng, sau bao nhiêu biến cố của cuộc đời, họ mới hiểu được nhau và tìm về nhau. Tác phẩm còn có tên khác là Vụ Thu Hoạch Mùa Hè. Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Trở Lại của tác giả Madge Swindells.
3 Chị Em Nhà Họ Tống - Nguyễn Vạn Lý
AudioBook 3 Chị Em Nhà Họ Tống Trong lịch sử cận đại, không có một gia đình nào có thể khuynh đảo lịch sử quốc gia và đời sống của hàng trăm triệu người như gia đình họ Tống của Trung Hoa. Trên một nửa thế kỷ, những người của gia đình này đã dùng mọi thủ đoạn để độc chiếm quyền lực chính trị và tài chánh của Trung Hoa, và đã thu thập được những tài sản khổng lồ, lớn nhất thời đại. Dòng họ Tống gồm những ai? Họ là con cháu của một gã thiếu niên đi hoang. Gã thiếu niên đó gặp cơ duyên may mắn qua được Hoa Kỳ, sống dưới sự che chở của giáo hội Methodist vào khoảng cuối thế kỷ 19. Gã thiếu niên may mắn đó vốn người họ Hàn tại đảo Hải Nam, nhưng khi sang Hoa Kỳ, hắn đổi tên là Tống Charlie. Khi trưởng thành và trở về Trung Hoa, Tống Charlie lấy tên là Tống Giáo Nhân, và tạo được một sản nghiệp đồ sộ bằng nghề in và bán sách Thánh Kinh. Tống Giáo Nhân cũng bí mật tham gia phong trào cách mạng của Tôn Dật Tiên, chống lại triều đình Mãn Thanh. Nếu Tống Giáo Nhân không có ba cô con gái thì cuối cùng gia đình nhà họ Tống sẽ không giầu sang quyền thế đến thế, và cũng sẽ chỉ là một gia đình trọc phú tầm thường trong cái đám đông đảo những người Trung Hoa giầu có. Nhưng Tống Giáo Nhân sinh được ba cô con gái rất quý tướng. Đúng ra Tống Giáo Nhân có sáu người con, ba trai và ba gái. Nhưng chính ba cô con gái này đã trở thành những nhân vật xuất chúng trên chính trường Trung Hoa, vì kết hôn với những lãnh tụ lớn của Trung Hoa. Ba chị em nhà họ Tống đã tạo được một sự nghiệp chính trị hiển hách và những sản nghiệp vĩ đại cho nhà họ Tống. Trong số ba người con gái của Tống Giáo Nhân, chỉ có bà Tống Khánh Linh tạo được một địa vị cao quý trong lịch sử và tâm hồn người Trung Hoa. Bà được cả hai phe cộng sản và Quốc dân đảng kính trọng. Tống Khánh Linh kết hôn với Tôn Dật Tiên, nhà đại cách mạng Trung hoa của đầu thế kỷ 20. Mời các bạn đón đọc 3 Chị Em Nhà Họ Tống của tác giả Nguyễn Vạn Lý.
5 Tuần Trên Khinh Khí Cầu - Jules Verne
Jules Verne (1828 - 1905) nhà văn Pháp nổi tiếng được mệnh danh là bậc thầy về viết truyện phiêu lưu và khoa học viễn tưởng. Ông nổi tiếng ngay từ những tiểu thuyết đầu tay của mình, sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, phát hành rộng rãi khắp nơi, được mọi người, nhất là giới trẻ, háo hức đón đọc. Trong những năm 1970, so với các tác giả khác thì số sách của Jules Verne được xuất bản đứng hàng thứ ba trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên người ta gọi ông là "người đồng hành bất tử của tuổi trẻ". J. Verne vừa là nhà văn, vừa là nhà khoa học có kiến thức uyên bác, tư tưởng tiến bộ, trí tưởng tượng phong phú. Ông là người khởi xướng loại truyện khoa học viễn tưởng dựa trên sự thật khoa học. Ông còn là nhà văn kiệt xuất viết tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, đồng thời là người cố sức say sưa cho khoa học và tương lai của nó. Đến nay, nhiều dự kiến, ước mơ của ông đã trở thành hiện thực. Nhiều thế hệ bạn đọc trẻ đã được hiểu biết và giáo dục qua các tiểu thuyết của ông. Nhiều nhà bác học, nhà phát minh, nhà du lịch đã cảm ơn J. Verne mỗi khi nhớ lại rằng, thời niên thiếu, nhờ say mê đọc sách của ông mà họ đã phát triển được năng khiếu, thậm chí đã có những phát minh quan trọng. Mùa thu năm 1862, lúc ấy J.Verne 34 tuổi, ông hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay, mang tựa đề "5 tuần lễ trên khinh khí cầu" nói về những khám phá địa lý giả tưởng ở châu Phi được thực hiện từ trên một khinh khí cầu do ông "thiết kế chế tạo" ra. Là một tác phẩm đã từng bị từ chối bởi nhiều nhà phát hành khác khi cho rằng nó quá "khoa học", 5 tuần trên khinh khí cầu đã cực kì thành công và tiếng vang của nó đã vượt ra khỏi nước Pháp. Ngoài Hai vạn dặm dưới biển (1870), nhiều tác phẩm của Jules Verne như Năm tuần trên khinh khí cầu (1863), Vòng quanh thế giới trong 80 ngày(1873)... đã chinh phục người đọc khắp năm châu, khẳng định ông là nhà văn đi tiên phong trong thể loại khoa học viễn tưởng, một lối đi riêng biệt trong văn học thế giới. Những ý tưởng thiên tài của ông về cuộc sống hiện đại cũng như các thành tựu khoa học kỹ thuật và hơn hết là khát vọng của con người mà ông đã diễn tả dường như cho đến nay vẫn còn đang thời sự. Mời các bạn đón đọc 5 Tuần Trên Khinh Khí Cầu của tác giả Jules Verne.