Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Địch Gia Bát Án

Địch Gia Bát Án là một tác phẩm rất đặc biệt trong Series Địch Công kỳ án. Đây là tuyển tập 8 vụ án riêng lẻ nhưng cũng được coi là đáng nhớ nhất trong sự nghiệp quan án xuất chúng của Địch Công cùng các trợ thủ đắc lực là Hồng Sư gia, Mã Vinh và Kiều Thái trong suốt một thập kỷ ông làm quan án tại bốn huyện lỵ khác nhau của vương triều Đại Đường. Từ nghi án phản quốc của một viên Đại tướng khi đối diện sinh tử nơi sa trường với đám mọi rợ Thát Đát ở biên giới phía Tây cho tới vụ sát hại một thi sĩ cô đơn trong lương đình ở Hán Nguyên. Bằng khả năng phán đoán nhanh nhạy và suy luận tài tình, Địch Công không chỉ giúp người dân giải oan, vạch trần tội lỗi của những kẻ ác nhân mà còn tương trợ cho những vị tường đang đối diện sinh tử nơi sa trường, góp phần giữ vững biên cương Đại Đường, giữ vững quốc gia thái bình, thịnh thế. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Tình ơi đau đớn làm chỉ Để cho nhi nữ chia ly với chàng Trời cao số kiếp bẽ bàng Gieo chi ác bệnh, hai hàng lệ rơi Thuyền quyên giấc mộng chơi vơi Xuân sang em bước, người ơi đi cùng... -Tùng Vũ- Vụ án này xảy ra vào năm 663 sau Công nguyên, khi Địch Công chỉ vừa mới chính thức nhậm chức tại địa phương đầu tiên trong sự nghiệp làm quan án là Huyện lệnh huyện Bồng Lai được một tuần, đây là chức vị một mình một cõi cai quản vùng đất xa xôi hẻo lánh ờ bờ biển Đông Bắc của vương triều Đại Đường, Trung Quốc. Ngay sau khi chân ướt chân ráo đến nhận nhiệm sở mới, ông đã phải đối mặt với ba tội ác bí ẩn được đề cập ở tập “Hoàng kim án” trong cùng bộ tiểu thuyết “Địch Công kỳ án”. Câu chuyện đó diễn ra trong bối cảnh ngành công nghiệp đóng thuyền đang phát triển thịnh vượng tại Bồng Lai, dưới sự chi phối của Diệp Thủ Bôn, một chủ thuyền giàu có. Còn câu chuyện này khai màn tại nha sảnh của Địch Công trong nha phủ, nơi ông đang họp bàn với Diệp Thủ Bôn và hai nam nhân khác. Họ vừa kết thúc cuộc thảo luận dài hơi xoay quanh đề xuất của Địch Công về việc chuyển ngành đóng thuyền về dưới sự kiểm soát của triều đình. “À, thưa chư vị,” Địch Công mỉm cười hài lòng nói với ba vị khách, “ta nghĩ đã đủ thông tin để đưa ra quyết định rồi.” Cuộc hội bàn ở nha sảnh của Địch Công đã bắt đầu từ giữa giờ Mùi, hiện đã quá giờ Thân. Nhưng ông nghĩ ngần ấy thời gian đã được sử dụng hữu ích. “Các quy tắc chúng ta dự thảo dường như đã chu toàn cho mọi sự kiện ngẫu nhiên có thể xảy ra,” họ Hồ bình phẩm bằng một giọng điệu chắc nịch. Y là một nam nhân trung niên, ăn vận nhã nhặn, vốn là Lục sự của Thượng thư Bộ Hình, nay đã hồi hưu. Nhìn sang Hạ Minh, gã chủ thuyền giàu có ngồi bên phải mình, y nói thêm: “Hạ tiên sinh, chắc ông sẽ đồng ý rằng nghị ước của chúng ta đã giải quyết hợp tình hợp lý sự bất đồng giữa ông với Diệp tiên sinh đây.” Hạ Minh nhăn nhó mặt mày. “Công bằng là một từ hay,” hắn lãnh đạm nói, “nhưng là một thương nhân, ta thích từ lợi tức hơn nhiều! Nếu ta được trao quyền tự do cạnh tranh với bằng hữu Diệp đây, kết quả có thể không hoàn toàn công bằng đâu... nhưng sẽ mang lại nhiều lợi tức... cho ta!” “Ngành nghề đóng thuyền ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh.” Địch Công nhận xét vẻ kiên quyết. “Triều đình không cho phép độc quyền tư nhân. Chúng ta đã dành cả buổi trưa cho vấn đề này, và nhờ vào lời tư vấn kỹ thuật tuyệt vời của Hồ tiên sinh, mà giờ đây chúng ta đã soạn được nghị ước này rất rõ ràng và chi tiết nhằm nêu bật những quy tắc mà các chủ thuyền phải phục tùng. Ta mong cả hai ông nhất nhất tuân theo chúng.” Diệp Thủ Bôn chậm rãi gật đầu. Địch Công thích thương nhân ma mãnh nhưng thành thật này. Ông đánh giá Hạ Minh thấp hơn, ông biết hắn không hề phản đối các giao dịch mờ ám, lại còn phóng đãng, ham mê tửu sắc. Địch Công ra hiệu cho nha dịch châm đầy các chén trà, rồi ông tựa lưng vào ghế. Ngày hôm nay đã rất nóng nực, nhưng giờ thì một cơn gió nhẹ mát lành thổi qua, thoảng đưa hương mộc lan thơm ngát bên ngoài cửa sổ lan tỏa khắp nha sảnh. Họ Diệp đặt chén trà xuống, liếc mắt ra hiệu cho hai nam nhân kia. Đã đến lúc họ nên cáo từ rồi. Đột nhiên cánh cửa mở ra và Hồng Sư gia, lão quân sư tin cẩn của Địch Công bước vào. Lão tiến lại gần án thư và nói: “Bẩm đại nhân, có người muốn cầu kiến ngài, nói là có chuyện khẩn cấp.” Địch Công nhận ra ánh nhìn đầy ngụ ý của Sư gia, “Xin cáo lỗi, ta có việc một chút,” ông nói với ba vị khách rồi đứng lên và theo lão Hồng ra ngoài. Khi họ đã ra đến hành lang, Hồng Sư gia hạ giọng nói với Địch Công: “Đó là quản gia của Hồ tiên sinh, thưa ngài. Y đến để bẩm báo rằng Hồ phu nhân đã tự tử.” “Trời đất ơi!” Địch Công thốt lên. “Bảo y đợi ta. Tốt hơn là ta nên tự mình báo lại hung tin này cho Hồ tiên sinh. Hồ phu nhân tự tử như thế nào?” “Hồ phu nhân treo cổ quyên sinh, thưa đại nhân, ở tiểu đình trong hậu hoa viên vào giờ nghỉ trưa. Quản gia vừa phát hiện liền lập tức chạy tới đây báo tin.” “Thật là bi thảm cho Hồ tiên sinh khi gặp tai kiếp này. Ta quý mến y, vốn là một kiểu người hơi khô khan nhưng rất tận tâm, chu đáo, và cũng là một luật gia khôn ngoan.” Địch Công buồn bã lắc đầu, đoạn ông quay trở lại nha sảnh. Sau khi ngồi xuống sau án thư, ông nói với họ Hồ, vẻ nghiêm trọng: “Đó là quản gia của ông, Hồ tiên sinh à. Y đến đây với một tin dữ. Về tôn phu nhân.” Họ Hồ nắm lấy tay vịn của ghế: “Về phu nhân của ta ư?” “Có lẽ phu nhân đã tự sát, Hồ tiên sinh à.” Họ Hồ nhấp nhổm đứng dậy, sau đó lại buông mình thẫn thờ xuống ghế. Y nói với giọng yếu ớt đượm buồn: “Vậy là điều đó đã xảy ra, đúng như ta lo sợ. Mấy tuần gần đây nàng... nàng đã rất sầu não và tuyệt vọng.” Y dụi mắt, đoạn hỏi: “Nàng làm sao... làm thế nào mà tự kết liễu đời mình?” “Quản gia của ông trình báo rằng tôn phu nhân đã treo cổ. Bây giờ y đang chờ để hộ tống ông về gia trang. Ta sẽ phái Ngỗ tác đến hỗ trợ ngay để soạn giấy chứng tử. Dĩ nhiên là ông muốn các nghi thức thủ tục được hoàn tất càng nhanh càng tốt để bản thân không còn phải vướng bận tâm tư thêm nữa.” Họ Hồ dường như không nghe thấy Địch Công nói gì. Y lẩm bẩm: “Chết! Chỉ vài canh giờ sau khi ta rời đi sao? Ta biết làm gì đây?” Hạ Minh nói vẻ an ủi: “Chúng ta nhất định sẽ giúp đỡ ông!” Hắn tiếp thêm vài lời vỗ về nữa. Diệp Thủ Bôn cũng góp lời động viên. Nhưng dường họ Hồ không nghe thấy. Y đang nhìn đăm đăm vào không gian bất tận, khuôn mặt co rúm lại. Bất chợt họ Hồ ngước lên nhìn vào Địch Công và cất lời sau một thoáng ngần ngừ: “Địch lão gia, ta cần thời gian, một chút thời gian để... Ta không muốn lợi dụng sự tử tế của lão gia, nhưng... ngài có thể cử ai đó lo liệu các nghi thức và thủ tục ấy thay cho ta được không? Rồi ta có thể sẽ về Hồ gia sau... sau khi thi thể đã được khám nghiệm, và đã...” Giọng y yếu ớt dần, đôi mắt van lơn tha thiết nhìn Địch Công. “Dĩ nhiên rồi, Hồ tiên sinh!” Địch Công mạnh mẽ đáp nhanh. “Ông cứ ở đây và dùng thêm một chén trà. Đích thân ta cùng Ngỗ tác sẽ đi đến Hồ gia trang, và sẽ chuẩn bị một cỗ quan tài tạm thời. Ít nhất ta có thể làm chuyện đó cho ông. Ông chưa bao giờ miễn cưỡng trao cho ta những lời khuyên giá trị, và hôm nay, ông dành cả buổi trưa cho công vụ của huyện nha. Không, bản quan đã quyết rồi, Hồ tiên sinh à! Diệp tiên sinh, Hạ tiên sinh, hai vị hãy chăm sóc bằng hữu của chúng ta nhé. Ta đi thu xếp một chút, khoảng hai khắc nữa sẽ trở lại.” Hồng Sư gia đang chờ ngoài sân nhỏ cùng với một nam nhân béo lùn có chòm râu dê đen nhánh. Lão Hồng bầm với quan án rằng đây là quản gia của họ Hồ. Địch Công nói với kẻ ấy: “Ta đã thông báo với Hồ tiên sinh rồi, giờ ngươi có thể trở về gia trang. Bản quan sẽ theo sau ngay.” Rồi Địch Công nói thêm với Hồng Sư gia: “Tốt hơn là lão hãy về công đường, lão Hồng à, để sắp xếp lại các giấy tờ công vụ vừa được chuyển tới. Chúng ta sẽ cùng xem xét sau khi bản quan về nha phủ. Hai thuộc hạ của ta đâu rồi?” “Bẩm đại nhân, Mã Vinh và Kiều Thái đang ở trong sân chính, điều khiển binh sĩ tiến hành thao luyện.” “Tốt lắm. Bản quan chỉ cần Bộ đầu và hai thuộc hạ cùng tới Hồ gia trang. Họ sẽ đặt thi thể vào quan tài. Tối nay ta cũng không cần đến Mã Vinh và Kiều Thái sau khi họ đã thao luyện đám binh lính xong xuôi. Cho gọi Ngỗ tác và truyền kiệu của ta ra đây.” Trong cái sân nhỏ tẹo phía trong tư gia khiêm tốn của họ Hồ, gã quản gia béo lùn đang đứng chờ Địch Công. Hai nữ tì mắt đỏ hoe quẩn quanh đứng gần cổng gia trang. Bộ đầu giúp Địch Công bước xuống kiệu. Ông lệnh cho y đứng chờ cùng với hai Bộ khoái trong sân nhỏ, rồi bảo quản gia dẫn đường cho mình và Ngỗ tác đến gian tiểu đình nơi Hồ phu nhân đã tự sát. Quản gia dẫn họ đi dọc theo một hành lang lộ thiên bao quanh gia trang, tới một khu vườn rộng lớn nằm giữa những bức tường cao chót vót. Y dẫn họ bước xuống một lối mòn đã được dọn dẹp quang đãng, nằm quanh co uốn khúc giữa những bụi hoa, tới góc xa nhất. Ở đó, dưới bóng râm của hai cây hòe lớn, một gian tiểu đình hình bát giác đứng sừng sững, tọa lạc trên nền gạch tròn. Mái đình nhọn lợp ngói lưu ly, trên chóp đặt một quả cầu dát vàng. Các cột trụ và cửa sổ lưới mắt cáo tinh xảo được sơn son. Địch Công bước lên bốn bậc thềm lát đá hoa cương rồi đẩy cánh cửa mở tung ra. Gian tiểu đình cao nhưng nhỏ hẹp này thật oi bức, mùi hăng hắc của một loại hương trầm kỳ lạ đang lan tỏa nồng nặc trong không khí. Ánh mắt của Địch Công ngay lập tức hướng về phía chiếc trường kỷ bằng trúc kê sát tường bên phải. Thi thể bất động của một nữ nhân đang nằm trên đó, quay mặt về phía tường. Ông chỉ thấy mái tóc dày óng ả xõa tung xuống bờ vai nàng. Nàng mặc xiêm y bằng lụa trắng, bàn chân nhỏ nhắn vừa vặn trong đôi bạch hài bằng gấm thêu. Quay sang phía Ngỗ tác, Địch Công nói: “Ngươi hãy nghiệm thi cho Hồ phu nhân trong khi ta chuẩn bị giấy chứng tử. Quản gia, mở các cửa sổ ra, trong này ngột ngạt quá.” Địch Công lấy từ trong ống tay áo ra mẫu giấy công vụ và đặt nó sẵn trên cái bàn kê sát tường, cạnh cửa ra vào. Rồi ông thong thả nhìn kĩ gian phòng. Trên chiếc bàn chạm khắc gỗ tử đàn đặt giữa phòng có một khay trà đựng hai cái chén. Ấm trà vuông vức đã đổ nhào, nó đang nằm lay lắt với một nửa bên vòi vất vưởng trên một chiếc hộp bằng đồng trơn nhẵn. Một dải lụa đỏ dài loằng ngoằng nằm kế bên cạnh. Hai chiếc ghế lưng tựa cao đứng chơ vơ cạnh bàn. Ngoại trừ hai kệ tương phi trúc nằm giữa những cửa sổ đang chứa sách và vài món đồ cổ nhỏ bé, không còn đồ đạc nào khác. Nửa trên của các bức tường được lát ván gỗ, trên đó chạm khắc những bài thơ nổi tiếng. Không khí thật yên tĩnh, phảng phất phong vị thanh tao. Quản gia đẩy cánh cửa sổ cuối cùng mở tung ra. Bấy giờ y tiến tới gần Địch Công và chỉ tay vào những thanh xà sơn son lớn chạy ngang qua trần nhà hình vòm. Từ thanh xà chính giữa trần treo đu đưa một dải lụa đỏ, một đầu đã sờn. “Bẩm đại nhân, chúng tiểu nhân tìm thấy phu nhân treo cổ ở đó. Nữ tì hầu phòng và tiểu nhân...” Địch Công gật đầu. “Sáng nay Hồ phu nhân trông có chán nản, ủ ê không?” “Ồ không, thưa đại nhân, lúc ăn cơm trưa, tinh thần phu nhân vẫn rất tốt. Nhưng khi Hạ tiên sinh đến thăm lão gia, thì phu nhân..” “Ngươi nói ai? Hạ Minh? Hắn đến đây làm gì? Hắn sắp sửa gặp Hồ tiên sinh ở thư phòng của ta vào giờ Mùi mà!” Quản gia trông có vẻ ngại ngùng. Sau một thoáng do dự, y đáp lời: “Lúc đó, do phải phục vụ trà tại sảnh đường, nên tiểu nhân đã nghe được vài câu họ nói chuyện. Hình như Hạ tiên sinh muốn lão gia góp lời tư vấn có lợi cho hắn trong cuộc thương nghị buổi chiều. Thậm chí hắn còn tặng cho lão gia một... à, khoản đền ơn... kha khá. Tất nhiên là lão gia đã từ chối, vẻ rất phẫn nộ...” Ngỗ tác tiến tới gần Địch Công, thì thầm nói, “Thuộc hạ phát hiện ra vài điều hết sức kỳ lạ!” Nhận thấy vẻ mặt lo lắng của Ngỗ tác, Địch Công xẵng giọng ra lệnh cho quản gia: “Hãy đi tìm nữ tì của Hồ phu nhân về đây cho ta!” Rồi ông tiến về phía chiếc trường kỷ để kiểm tra. Ngỗ tác đã quay đầu của nữ nhân xấu số lại. Khuôn mặt bị méo mó nặng nề, nhưng người ta vẫn có thể nhìn ra nàng là một nữ nhân có nhan sắc. Địch Công áng chừng nàng khoảng hai mươi lăm tuổi. Ngỗ tác vén mái tóc nàng sang một bên và cho Địch Công thấy một vết bầm tím nghiêm trọng phía trên thái dương bên trái. “Đây là điều khiến cho thuộc hạ lo lắng,” y chậm rãi nói. “Còn điều thứ hai, tuy nguyên nhân tử vong là do bị thắt cổ, nhưng không một đốt sống cổ nào bị trật khớp cả. Bây giờ, thuộc hạ đo chiều dài của dải lụa treo lòng thòng từ xà nhà trên cao đằng kia với dải lụa nằm trên bàn và chiều cao của Hồ phu nhân. Thật dễ dàng trông ra được cách nàng ấy tự sát. Nàng ta bước lên chiếc ghế đó, rồi lên bàn. Nàng quăng dải lụa qua thanh xà, thắt một đầu thành nút trượt và rút chặt vòng dây quanh đó. Rồi nàng quấn đầu kia thành chiếc thòng lọng, tròng nó quanh cổ mình và nhảy khỏi bàn, khiến ấm trà đổ tung tóe. Khi đang treo lơ lửng ở đó, chân nàng chắc chắn chỉ cách sàn nhà vài phân. Cái thòng lọng chầm chậm siết cổ nàng, nhưng không khiến nó bị gãy. Thuộc hạ không thể không băn khoăn tại sao nàng ấy không đặt cái ghế kia lên bàn, rồi từ đó hãy nhảy xuống. Một cú rơi như thế sẽ làm gãy cổ nàng, gây tử vong nhanh chóng. Nếu chúng ta kết hợp điều này với vết bầm trên thái dương...” Y đột ngột bỏ lửng câu nói và trao cho Địch Công một cái nhìn đầy ẩn ý. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 13: Địch Gia Bát Án  của tác giả Robert van Gulik.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trước Tòa Đại Hình - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Ông đã đến đây hai trăm, ba trăm lần? Hay còn hơn thế? Ông không muốn đến, cũng không muốn nhớ lại từng trường hợp riêng rẽ, cả những lần nổi tiếng nhất, những lần đã đi vào lịch sử công lý, bởi đó chính là khía cạnh nặng nề nhất của nghề nghiệp ông. Phần lớn những cuộc điều tra của ông tuy nhiên chẳng phải đều kết thúc ở toà Đại hình như hôm nay, hoặc ở toà Phúc thẩm sao? Ông có lẽ thích không biết tới nó hơn, trong bất kỳ trường hợp nào, luôn đứng ngoài những nghi lễ cuối cùng mà ông không bao giờ quên nổi chúng hoàn toàn. Trong văn phòng của ông ở đường bờ sông Orfèvres, cuộc đấu tranh thường kết thúc vào buổi sáng, đúng ra vẫn còn là cuộc đấu tranh của con người với con người. Vài hành lang phải vượt qua, mấy chiếc cầu thang phải leo lên, rồi đến một cảnh tượng khác hẳn, một thế giới khác, trong đó câu chữ không còn cùng một nghĩa, một vũ trụ trừu tượng, thần bí, vừa tôn nghiêm vừa lố bịch. Cùng với những nhân chứng khác, ông vừa rời khỏi phòng xử có những vách gỗ tốt nơi ánh sáng điện của những bóng hình cầu trộn lẫn với màu nhờ xám của một chiều mưa. Viên mõ toà, mà Maigret cam đoan luôn thấy lão vẫn già như thế, dẫn họ tới một căn phòng nhỏ hơn, như một thầy giáo dẫn học trò, và chỉ cho họ những chiếc ghế dài gắn chặt vào tường. Phần lớn ngoan ngoãn ngồi xuống, vâng theo những lời dặn dò của ông chủ tịch, không nói một lời, không cả dám nhìn những bạn đồng hành của họ. Họ nhìn thẳng trước mặt, căng thẳng, kín đáo, giữ bí mật của họ cho khoảnh khắc tôn nghiêm, lát nữa, chỉ có mỗi mình họ giữa một không gian đầy ấn tượng, họ sẽ bị thẩm vấn. Hơi giống như trong kho đồ thánh. Lúc còn bé, mỗi sáng, đến phụ việc hành lễ ở nhà thờ làng, Maigret cũng cảm thấy bối rối như thế khi chờ đợi đi theo ông mục sư tới bàn thờ thắp sáng bằng những cây nến run rẩy. Ông nghe thấy những bước chân của những thiện nam, tín nữ không nhìn rõ mặt, tới ngồi vào chỗ, và tiếng đi đi lại của người coi giữ đồ thánh. Giờ đây cũng vậy, ông có thể đi theo cuộc hành lễ đang diễn ra phía bên kia chiếc cửa không? Ông nhận ra tiếng của ông chủ tịch Bernerie, người xét nét nhất, tỉ mỉ nhất trong các vị quan toà, nhưng cũng có thể là người thận trọng nhất, người say mê nhất trong việc khám phá chân lý. Gầy gò, ăn mặc xuềnh xoàng, đôi mắt như lên cơn sốt, tiếng ho khàn, ông có dáng vẻ như một vị thánh canh cửa. Tiếp đến là giọng nói của công tố viên Aillevard, giữ ghế Viện Công tố. Cuối cùng là tiếng bước chân lại gần của viên mõ tòa hé cửa gọi: “Ngài Cảnh sát trưởng Segré.” .. Mời các bạn đón đọc Trước Tòa Đại Hình của tác giả Georges Simenon.
Kẻ Góa Vợ - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Jeanne là một cô gái điếm bị hành hung, bị rạch mặt một buổi tối xế trước cửa nhà gã, gần một ngôi nhà chứa. Gã đã chứng kiến cảnh đó và đã đưa nàng về nhà mình một cách vô tư, không chút ẩn ý, không lợi dụng mà hoàn toàn vì nhân tính. Khi thanh tra cảnh sát Gordes đến khám nhà vì biết Jeanne trú ở đó, và nói cho gã biết Jeanne là gái điếm có thẻ hành nghề, và đã hai lần trốn khám sức khỏe định kỳ. Gã đã hỏi thanh tra Gordes nếu Jeanne muốn thôi không hành nghề nữa có được không? Tất nhiên gã sẽ đứng ra bảo lãnh vì gã có việc làm ổn định. Thanh tra Gordes đã hướng dẫn gã tiến hành các thủ tục pháp lý nhưng không quên giễu cợt và cảnh cáo gã: “Cái trò này, nó chỉ thành công được một phần nghìn, và cần có quyền thử vận may...” Tám năm trời sống với nhau, có thể gọi là hạnh phúc, mặc dầu là một thứ hạnh phúc khép kín trong một tiểu vũ trụ. Nhưng khi Jeanne hỏi “Anh hạnh phúc chứ Bernard?” thì gã lại chỉ có thể trả lời “Anh không bất hạnh”. Đó là nguyên nhân của mọi sự chăng? Đó là lý do khiến nàng phải sụt sịt khóc thầm khóc vụng, không thành tiếng chăng? Phải chăng vì thế mà nàng mất tích? Phải chăng vì thế mà gã đã để tuột mất cái một phần nghìn nhỏ nhoi trong việc biến Jeanne thành một người vợ bình thường, trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng gã lại không chịu thua cuộc với thanh tra Gordes. Gã vẫn tin ở cái phần nghìn nhỏ nhoi đó của mình. Rốt cuộc, khi được phát hiện việc nàng tự vẫn trong bộ quần áo sang trọng trên chiếc giường hoa của một khách sạn đắt tiền, gần như đã bị hoàn toàn thất bại, gã lại bấu víu vào một cái phao nhỏ khác, đó là bức thư nàng để lại, chắc chắn là để cho gã, nhưng bức thư cũng đã biến mất. Từ thất bại này sang thất bại khác, cuối cùng gã cũng không tin là thư đó gửi cho mình mà rất có thể là cho kẻ đã thuê phòng hàng tháng cho nàng hơn một năm nay. Phải chăng vì lòng tốt, vì thiện ý mà hai người hiểu lầm nhau. Jeanne coi Jeantet như một vị phúc thần, gã quá tốt. Còn Jeantet không muốn Jeanne phải chạm đến quá khứ, cái quá khứ bất hạnh đã để lại một vết sẹo trên má nàng mà có lẽ vì vậy gã rất thích cái mái tóc rủ xuống một bên che đi vết sẹo đó. Gã không biết Jeanne đã phải miễn cưỡng, lén lút bước tiếp cái quá khứ nhơ nhuốc và bất hạnh đó mỗi thứ tư hàng tuần, thời gian duy nhất gã vắng nhà, vì nàng còn có một đứa con trai phải mướn nuôi, phải trả tiền mổ ruột thừa, tiếp đó tiền ăn, tiền trọ học cho nó. Jeantet muốn cùng Jeanne khép mình trong bốn bức tường tạo thành một thế giới riêng nhỏ bé để hạnh phúc của hai người, không ai có thể lọt vào cản trở. Thế nhưng Jeanne lại lén lút phá rào bởi Jeanne không thể, không chịu rời bỏ một người tốt như gã, bởi Jeanne thấy mình cần thiết cho gã. Gã quá tốt, nhưng theo Beaudoin, một chủ doanh nghiệp điện tử lớn của nước Pháp, đầy quyền thế, người tình đầu tiên của Jeanne, là cha đứa con trai của Jeanne, kẻ đã rạch mặt trừng phạt Jeanne vì đã bỏ hắn, lòng tốt của gã đã biến gã thành một con quỷ đồng thời vẫn tỏ ra là một người mộ đạo. Có thật lòng tốt của Jeantet đã buộc Jeanne phải phạm tội, hổ nhục, khốn khổ, vì nhu cầu sống của con người còn mạnh hơn tất cả? Nếu thế sao Jeanne lại tự vẫn? Nếu quả thật Jeantet biến thành một con quỷ sao gã lại nhận con nàng làm con nuôi, chứ không để mặc việc đó cho cha nó, Beaudoin giải quyết sau khi nàng tự vẫn? Đến đây quả thực bức thư gửi cho ai không còn cần thiết nữa, và thực tế là nó đã bị nát trong chậu giặt. Quả thật lý giải lòng tốt, thói xấu, cái thiện, cái ác chẳng để làm gì. Có thể đặt ra một giả thuyết: Cả Jeanne và Jeantet đều cởi mở hơn, nói với nhau tất cả, có khi không cần tốt đến thế họ cũng có thể đạt được hạnh phúc và tránh được cái kết cục bi thảm chăng? Giữa thanh tra cảnh sát Gordes và Jeantet Bernard ai là người thua cuộc, xin dành cho độc giả. Hà Nội, mùa Hè 2002 Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân Mời các bạn đón đọc Kẻ Góa Vợ của tác giả Georges Simenon.
Cô Gái Trong Sương Mù
Trong một ngôi làng bình yên giữa dãy Alpes xinh đẹp, một thiếu nữ biến mất bí ẩn trước đêm GIáng sinh. Anna Lou là 1 cô gái ngây thơ, trong sáng, sinh ra trong 1 gia đình mộ đạo, thuộc 1 ngôi làng mộ đạo. Ở đây, cuộc sống quá đỗi thanh bình, người ta tưởng chừng như mình được Chúa và thiên nhiên chập chùng che chở, bảo vệ trước mọi cái ác của bên ngoài. Và rồi tội ác kia ập đến, dấy lên nỗi bất an, lo sợ nơi trái tim mỗi cư dân nơi đây, rằng cái ác đã bắt đầu xuất hiện, len lỏi giữa họ, rình rập họ. “…cái ác là động cơ thực thụ của mọi câu chuyện. Một cuốn tiểu thuyết, một bộ phim, hoặc một trò chơi điện tử trong đó mọi chuyện diễn ra tốt đẹp sẽ chẳng khiến ai quan tâm… Chính cái ác mới tạo ra câu chuyện” Khác với 2 tiếu thuyết đi trước vô cùng thành công của mình, “Kẻ nhắc tuồng” và “Người ru ngủ”, trong “Cô gái trong sương mù”, không còn những án mạng liên hoàn, không còn những thiên tài tâm lý học giật dây, “nhắc tuồng” cho những kẻ tội đồ của hắn. Cuốn tiểu thuyết trinh thám này hiện đại hơn, với cách thức phá án dựa trên những mánh lới, những chiêu trò giật dây, điều khiển truyền thông và dư luận. Văn phong của Donato đối với tôi vẫn thế, vẫn lối đan xen chiêm nghiệm cuộc sống mâu thuẫn mà sâu sắc, đồng điệu, tuy không mãnh liệt, cao trào, nhưng tinh tế mà thấm nhuần, tìm cách len lỏi vào trong suy nghĩ của tôi. Lối phá án trong tác phẩm vượt ngoài lối phá án truyền thống, những màn đấu trí giữa thanh tra phá án và tên tội phạm thông minh, gian xảo, những cú twist khiến bạn không ngừng cảnh giác trước sự trêu đùa – câu đố của tác giả; tất cả làm nên sự hấp dẫn, nét đặc trưng của “Cô gái trong sương mù” Đánh giá của bản thân: 9/10 Kimie Chen *** Không thể tin được rằng người ta có thể xây dựng một cốt truyện kịch tính đến thế! Những cú “bẻ cua” điêu luyện của Donato Carrisi làm tôi đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Cô gái trong sương mùCÔ GÁI TRONG SƯƠNG MÙ Anna Lou cô gái vị thành niên được đánh giá là ngoan ngoãn, dễ thương đột nhiên biến mất. Sáu mươi hai ngày sau đó, Vogel, viên thanh tra phụ trách điều tra, cũng là ngôi sao của công nghệ truyền thông được tìm thấy trong tình trạng nửa tỉnh nửa mơ, quần áo lem vết máu. Từng ngày, từng ngày, hồ sơ vụ án được hé mở, những nhân vật liên quan chậm rãi bước ra từ phía cánh gà sân khấu, những mảnh ghép rời rạc được chắp nối để tạo thành bức tranh tưởng như hoàn hảo. Ai là nạn nhân, ai là người đứng sau và giật dây tất cả. Rất khó đoán, đến tận trang cuối, cuốn sách vẫn khiến tôi ngỡ ngàng đến run rẩy. Cuộc điều tra mang đầy tính kịch song song với những nét chấm phá nhân văn về cậu học sinh tự kỉ, về sự man rợ của đám đông trong thế giới đầy rẫy những điều xảo trá, ghê rợn tạo sự hấp dẫn, thu hút cho cuốn sách. Văn phong, cách kể chuyện chậm rãi, lời văn sâu sắc khiến tôi vừa hồi hộp, kích thích với diễn biến của cuộc điều tra vừa muốn nghiền ngẫm nghĩ về từng ý tứ. Cũng xin gửi lời chúc mừng tới ban biên tập và dịch giả Hoàng Anh về những trang sách mượt mà và cẩn trọng đến từng câu chữ. Yêu thích: 8.5₫/10 – rất đáng đọc. 04.8.2019 Hồng Khánh *** Nếu ai yêu thích tác giả Donato Carrisi chắc hẳn sẽ biết đến hai tác phẩm nổi tiếng trong làng trinh thám là Người ru ngủ và Kẻ nhắc tuồng. Cô gái trong sương mù là một tác phẩm riêng lẻ (không nằm trong series trên) của tác giả. Mang tâm lí hồi hộp, gây cấn khi đọc 2 quyển trên thì khởi đầu của Cô gái trong sương mù hơi chậm so với 2 quyển trên. Mạch truyện xuyên suốt đều tương đối chậm, không nhiều đoạn gây cấn lắm. Về nội dung thì xoay quanh vụ mất tích bí ẩn của Anna Lou, một thiếu nữ ngoan hiền biến mất trong đêm Noel. Và Thanh tra Vogel, cảnh sát hạng sao, chịu trách nhiệm điều tra.  Cách trình bày tác phẩm theo kiểu đếm ngày kể từ ngày vụ mất tích xảy ra, một điểm khá hay của tác phẩm. Tạo một chút li kì ở đầu truyện vào ngày thứ sáu mươi hai rồi sau đó là đếm dần từ ngày mất tích. Về đoạn kết thì nói thật Ann có hơi mong đợi vì có nhiều review tích cực nhưng khi đọc xong thì có chút thất vọng nhẹ. Vì cái kết không quá bất ngờ với người đọc trinh thám lâu năm như Ann ( hơi chảnh choẹ chút ????). Nhưng thật sự Ann đã có thể đoán được cái twist plot này nên không gây ấn tượng lắm. Không đánh giá cao tác phẩm này so với Series trên. Điểm : 7/10 Ann Kim *** Cái đêm mà mọi thứ thay đổi hoàn toàn khởi đầu với một cú điện thoại. Chuông điện thoại vang lên vào lúc 10 giờ 20 phút tối thứ Hai. Nhiệt độ ngoài trời là -80C, mọi thứ chìm trong một màn sương giá buốt. Flores đang yên ấm nằm cạnh vợ thưởng thức một bộ phim gangster trắng đen trên ti vi. Sophia đã ngủ thiếp đi được một lúc, tiếng chuông điện thoại không thể quấy rầy giấc ngủ của bà. Thậm chí bà còn không hay biết khi chồng mình rời khỏi giường và mặc quần áo. Flores xỏ chân vào chiếc quần bông, mặc áo thun có cổ, rồi khoác chiếc áo jacket đông dày sụ để chống lại màn sương giá dường đang xóa mờ mọi thứ kia. Ông phải nhanh chóng đi tới bệnh viện của Avechot, nơi ông đã làm việc với tư cách bác sĩ tâm thần suốt hơn bốn mươi trong sáu mươi hai năm tuổi đời. Trong quãng thời gian đó, chỉ có vài lần Flores bị lôi ra khỏi giường vì chuyện khẩn cấp, chủ yếu là việc của cảnh sát nhờ. Tại ngôi làng nhỏ trên núi nơi ông cư ngụ từ khi chào đời này, gần như chẳng có gì xảy ra sau khi mặt trời lặn,cứ như thể tại vĩ độ này, ngay đến bọn tội phạm cũng lựa chọn một cuộc sống đúng mực và thường xuyên ngồi nhà vào buổi tối. Chính vì thế, Flores tự hỏi chuyện gì đã khiến cho người ta cần đến sự có mặt của ông vào một giờ giấc bất thường như vậy. Thông tin duy nhất mà cảnh sát cho ông biết qua điện thoại là một người đàn ông đã bị bắt sau một tai nạn đường bộ. Không hơn.” … - Sao các anh lại bắt giữ tôi? Cảnh sát muốn gì ở tôi? Tại sao tôi không được về? Flores cố gắng huy động tất cả sự kiên nhẫn còn lại và đáp: - Thanh tra Vogel, tối nay đã anh đã bị tai nạn. - Tôi biết. - Vogel giận dữ đáp lại. - Và anh chỉ có một mình trên xe, đúng không? - Tôi đã nói với anh rồi. Flores mở một ngăn kéo bàn, lấy ra chiếc gương nhỏ và đặt nó trước mặt Vogel. Ông ta tỏ ra không mấy chú ý. - Và anh không hề hấn gì. - Tôi ổn mà, anh còn hỏi tôi câu đó bao nhiêu lần nữa đây? Flores chồm người tới trước. - Vậy hãy giải thích với tôi một chuyện này. Nếu anh không hề hấn gì, thì chỗ máu trên quần áo anh là của ai?             …         Trong đôi mắt ông ta lúc này có một ánh sáng khác, và tình trạng lú lẫn của ông ta bắt đầu tan biến như thể nó là một màn sương. Nhưng màn sương thực sự vẫn tồn tại bên ngoài cửa sổ, bao trùm lên vạn vật. Cái đêm mà mọi thứ thay đổi hoàn toàn chỉ mới bắt đầu. Vogel nhìn thẳng vào trong mắt Flores, đột nhiên minh mẫn hẳn. - Anh nói đúng. - Ông ta lên tiếng. - Tôi nghĩ tôi nợ anh một lời giải thích. Và câu chuyện từ từ được thanh tra Vogel kể lại theo dòng hồi ức của ông. Anna Lou, một thiếu nữ 16 tuổi bỗng nhiên mất tích khỏi ngôi làng bình yên Avechot vào dịp lễ Noel. “Tình cảnh ở đây là con gái đầu lòng của họ, đứa con gái duy nhất, đã biến mất hai ngày trước đó. Cô bé rời nhà vào buổi chiều, tầm 17 giờ, để đi tới nhà thờ nằm cách đó vài trăm mét. Và không bao giờ đến nơi. Anna Lou đã đi một lộ trình ngắn ngủi trong một khu dân cư với những ngôi nhà nhỏ có sân vườn giống hệt nhau. Mọi người ở đây đều quen biết nhau từ lâu. Nhưng không ai nhìn thấy hay nghe thấy bất cứ điều gì. Báo động được phát lúc 19 giờ, khi mẹ của cô bé không thấy con về và gọi vào điện thoại di động của con, lúc ấy đã bị tắt. Mọi chuyện đều có thể xảy ra trong khoảng hai tiếng đồng hồ đằng đẵng đó. Cuộc tìm kiếm diễn ra trong suốt buổi tối, trước khi lý trí khuyên bảo họ về nghỉ để tiếp tục vào sáng hôm sau. Hơn nữa, cảnh sát địa phương không có đủ nguồn lực để rà soát toàn bộ khu vực. Trong lúc này, họ chưa có bất kỳ giả thiết nào về sự mất tích của cô bé.” Không ai nhìn thấy thủ phạm, và cảnh sát phải vào cuộc: thanh tra Vogel chịu trách nhiệm điều tra vụ này. Là một kẻ háo danh, nhưng Vogel ngay lập tức nhận ra đây không hẳn là một “vụ dễ xơi”. Và để không làm ảnh hưởng đến “thương hiệu cảnh sát hạng sao” của mình, ông ta quyết định đổ tội cho người thầy giáo mới chuyển đến sinh sống từ sáu tháng trước bằng cách vin vào sự cả tin của dân làng và dựng lên những chứng cớ giả mạo. Trong lúc truyền thông và tất cả công chúng, không chỉ những người bình thường, mà cả các sếp ngành cảnh sát, thậm chí ngài bộ trưởng đang sôi sục đòi kết liễu tay thầy giáo để đòi lại công bằng cho gia đình nạn nhân, “Người sương mù” bỗng xuất hiện. Theo nguồn tin, đó mới chính là thủ phạm thực sự mà cảnh sát đang tìm kiếm, kẻ ba mươi năm trước đã sát hại sáu thiếu nữ có đặc điểm tương đồng với cô bé mất tích Anna Lou. Rất nhanh chóng, ông thầy vô tội ngay lập tức được chuyển đổi từ một con quái vật trở thành “nạn nhân của hệ thống”. Thanh tra Vogel sẽ phải sử dụng mánh lới gì để cứu vãn danh dự cho mình khi giờ đây, ông trở thành mũi dùi tập trung của cánh nhà báo? Tác giả Donato Carrisi sinh năm 1973 ở Ý, tốt nghiệp ngành luật và tội phạm học trước khi trở thành nhà viết kịch bản phim truyền hình. Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Kẻ nhắc tuồng của ông đã gây được tiếng vang lớn với năm giải thưởng Văn học quốc tế, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, và đưa tác giả lên vị trí “nhà văn Italia được đọc nhiều nhất trên thế giới”. Dịch giả Hoàng Anh, tên thật là Vũ Hoàng Anh, là dịch giả hai thứ tiếng Anh, Pháp. Bén duyên với công việc dịch thuật từ năm 2009, cho đến nay anh đã ra mắt bạn đọc gần 40 dịch phẩm và nhận được sự đánh giá cao không chỉ bởi nội dung hấp dẫn của tác phẩm, mà còn bởi khả năng chuyển ngữ trung thực và vô cùng khéo léo của dịch giả.  Trích đoạn 1 Bảy ngày sau vụ mất tích Quán ăn ven quốc lộ đông nghịt. Trên lớp kính cửa sổ trông ra cây xăng, người ta vẫn có thể thấy hàng chữ Nghỉ lễ vui vẻ. Ông chủ quán đi lại như con thoi giữa nhà bếp và các bàn khách để bảo đảm mọi người đều được phục vụ và hài lòng. Ông đã phải tuyển thêm người để đáp ứng sự gia tăng đột biến của số lượng khách hàng. Nhà báo, nhân viên kỹ thuật, thợ săn ảnh lẫn người bình thường đổ dồn về Avechot để xem tận mắt địa điểm xảy ra câu chuyện đang chiếm lĩnh trang nhất của mọi mặt báo. Vogel gọi họ là những "du khách ghê rợn". Nhiều người trong số họ đã đưa cả gia đình đi một chặng đường dài. Trong quán có nhiều trẻ con và một bầu không khí nô nức đặc trưng của các chuyến dã ngoại. Vào cuối ngày, họ sẽ mang về nhà vài tấm ảnh kỷ niệm và ấn tượng rằng mình đã góp mặt, dù chỉ bên lề, trong một sự kiện truyền thông được hàng triệu người quan tâm. Họ không hề biết rằng cách đó vài trăm mét đội chó nghiệp vụ và các thợ lặn đang làm việc để tìm kiếm một dấu vết hoặc thậm chí chỉ một manh mối, về số phận của cô bé mười sáu tuổi. Vogel đã dự kiến chuyện này và đã đúng: sự ồn ào trên truyền thông đã thuyết phục các cấp trên của ông phớt lờ các giới hạn ngân sách và cho bọn ông những nguồn lực cần thiết. Họ sẽ làm tất cả để không mất mặt trước công luận. Vogel đang ngồi ở chiếc bàn đã từng ngồi trong ngày Giáng sinh, lúc ông là người khách duy nhất ở đây. Như thường lệ, ông vừa ăn vừa ghi chép vào cuốn sổ bìa đen bằng cây bút bạc. Ông viết rất cẩn thận. Sáng hôm nay, ông mặc một bộ com-lê vải tweet màu xám xanh với cà vạt sẫm màu. Sự lịch lãm của ông hoàn toàn lạc lõng so với những người còn lại trong quán. Nhưng ông phải như thế. Điều đó giúp cho ông đánh dấu sự khác biệt giữa mình và lũ người ồn ào lỗ mãng xung quanh. Càng nhìn họ, ông càng nhận ra một khía cạnh quan trọng. Bọn họ đã kịp quên Anna Lou. Nữ nhân vật chính câm lặng của câu chuyện không còn ở vị trí trung tâm nữa. Sự thinh lặng của Anna Lou chỉ là một cái cớ để người khác bàn tán, cho phép họ nói đủ thứ chuyện về cuộc đời cô bé. Truyền thông, và con người nói chung - trên đường phố, trong siêu thị, hoặc tại những quán bar. Không chút ngượng mồm. Vogel cũng đã dự kiến điều này. Khi chuyện này xảy ra, nó sẽ khởi động một cỗ máy, và những sự kiện có thật bỗng trở thành một kiểu phim truyền hình nhiều tập.   and s Trích đoạn 2   - Tôi sẽ thành thật với em… Ít nhất là về điều này. Giọng đàn ông này đến từ đâu? Mình có biết nó không? Hình như nó vọng đến từ xa. Vậy còn ánh đèn này là gì? Nó giống như cái đèn cắm trại bằng hơi đốt của bố - bố có một cái như thế trong gara. - Tôi biết em đang tự hỏi mình đang ở đâu, và chuyện gì đang diễn ra. Hãy bắt đầu bằng câu trả lời đầu tiên: chúng ta đang ở trong một khách sạn bỏ hoang. Câu thứ hai thì hơi phức tạp hơn một chút… Mình không mặc đồ. Sao vậy? Lúc nãy mình đang ngồi, thế mà bây giờ lại nằm. Nơi này không thoải mái chút nào. Trên là đâu, dưới là đâu? Mình cũng chẳng biết nữa. Mình có cảm giác như đang nhìn vào quả cầu thủy tinh. Cái bóng đang vờn quanh mình là gì vậy? ... Hắn mặc cho mình chiếc quần tập thể dục. Mình cảm thấy nó lướt trên đùi. Nhột ghê. Không biết như vậy có phải là dễ chịu hay khôngnữa. ... Đó là âm thanh phát lên từ chiếc áo khoác lông vũ khi mình kéo khóa. Nhưng không phải mình làm chuyện đó. Là cái bóng đã nói chuyện với mình. Giờ thì hắn đi giày cho mình. Hắn buộc dây giày cho mình. … Ở đây có mùi ẩm mốc. Mình đã mặc đồ, nhưng vẫn còn lạnh và không tài nào cử động được. Mình bị say, giống như hồi năm sáu tuổi, khi mình lén uống rượu lí chua của bà. Giờ này hai đứa em mình chắc đã trang trí xong cây thông. Nó rất đẹp, mìnhchắc chắn như thế. ... - Giờ là câu trả lời khó khăn nhất. Em có tình cờ thắc mắc vì sao tôi lại làm tất cả chuyện này không? Không, không… tôi không muốn biết đâu. - Bởi vì tôi yêu gia đình tôi. Tôi muốn họ có tất cả những gì họ xứng đáng có được. ... Tôi cũng có gia đình của mình. Và tôi cũng yêu họ. Tại sao ông không hiểu điều đó? - Thế đấy, chỉ có vậy thôi. Tôi rất tiếc vì đã lôi em vào chuyện này, nhưng cũng giống như trong tiểu thuyết, kẻ ác mới tạo ra câu chuyện, độc giả không quan tâm tới những câu chuyện mà trong đó tất cả các nhân vật đều tử tế. Nhưng vai trò của em không phải là thứ yếu. Ai mà biết được, có khi một ngày nào đó, người ta sẽ tìm ra người sương mù thật, và công lí sẽ được trao trả cho sáu cô gái mà mọi người đã quên mất. Đó là nhờ em đấy, Anna Lou… Tại sao ông lại kể cho tôi nghe câu chuyện này? Tôi không quan tâm, cũng chẳng thích nghe nó. Tôi muốn mẹ, tôi muốn bố, tôi muốn hai đứa em. Tôi muốn gặp lại họ một lần nữa, xin ông đấy. Chỉ một lần thôi. Tôi phải từ biệt họ. Họ sẽ nhớ tôi lắm.   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Sương Mù của tác giả Donato Carrisi.
Cái Kết Đắng - Ruth Rendell
Cơn ác mộng kinh hoàng nhất của một người cha. Đó là khi bình minh dần hé rạng và cô con gái của George Marshalson vẫn chưa trở về nhà. Nhưng ông không biết được rằng cô gái sẽ chẳng bao giờ có thể trở về nữa - rằng thi thể của cô đang nằm sóng soài phía bên ngoài ngôi nhà cách chưa đầy một mét. Hay biết rằng ông sẽ là người đầu tiên khám phá ra sự thật khủng khiếp đó. Chánh thanh tra Wexford chưa từng điều tra một vụ án nào mà người cha lại chính là người phát hiện ra thi thể con gái mình. Anh cũng có con gái nhưng anh không thể tưởng tượng được bản thân sẽ thế nào nếu lâm vào hoàn cảnh của George Marshalson. Nhặt nhạnh tìm tòi trong số những mảnh ghép của gia đình vốn đã rạn nứt đó, Wexford đã khám phá ra những bí mật đáng kinh ngạc về lối sống của cô gái xấu số - nạn nhân chắc chắn có liên quan tới một vụ án trước đó - Wexford phải tạm gác những vấn đề cá nhân trong gia đình mình sang một bên để giải quyết vụ án đầy cảm động đồng thời nhức nhối nhất trong sự nghiệp của anh… *** Ruth Rendell sinh năm 1930 tại South Woodford, London. Sau khi tốt nghiệp trường trung học nữ sinh tại Loughton, bà trở thành cây bút chủ đạo cho báo Chigwell Times, một tờ báo địa phương của Essex. Bà được phong Sĩ quan cao cấp Đế chế Anh (CBE) năm 1996 và tước vị suốt đời Nữ Nam tước Rendell của Babergh, Aldeburgh ở Suffolk, vào ngày 4 tháng 10 năm 1997. Bà là một thành viên của Thượng nghị viện Anh. Năm 1998, Rendell có tên trong danh sách những nhà quyên góp tài chính cá nhân lớn nhất trong Đảng Lao động. Bà đã đưa dự thảo luật ra trước nghị viện, mà sau này đã trở thành Luật chính thức vào năm 2003. Ruth Rendell đã được trao tặng rất nhiều giải thưởng, bao gồm giải Dagger bạc, vàng và kim cương Cartier từ Hiệp hội nhà văn trinh thám, ba giải Edgar từ tổ chức các tác giả viết truyện trinh thám Mỹ, giải Cuốn sách quốc gia của Hội đồng nghệ thuật, và giải thưởng văn học của tạp chí Sunday Times. Rất nhiều tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim hoặc kịch bản truyền hình. Bà cũng là nhà bảo trợ cho tổ chức từ thiện Kids for Kids nhằm giúp đỡ trẻ em ở những miền quê của Darfur. Sáng tạo nổi tiếng nhất của Rendell, Chánh thanh tra Wexford, là một anh hùng giữa những câu chuyện về cảnh sát phổ biến đã được chuyển thể thành phim. Series mở đầu bằng tác phẩm From Doon with Death (1964). Rendell từng nói rằng nhân vật Wexford được sáng tạo dựa trên chính bản thân bà. Series gồm 4 tác phẩm và vẫn còn dang dở, gắn liền với sự nghiệp sáng tác của Ruth Rendell cho đến khi bà qua đời vào ngày thàng 5 năm 2015. End In Tears (Cái Kết Đắng - 2005) là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong series về Chánh thanh tra Wexford; tác phẩm đã đoạt giải Tiểu thuyết trinh thám của năm do Theakston's Old Peculier trao tặng. Ngoài ra, Rendell còn viết tiểu thuyết tâm lý tội phạm khai thác những chủ đề như ám ảnh về tình yêu, tác động của cơ hội và sự trùng hợp ngẫu nhiên lẫn nhân cách của tội phạm. Các tác phẩm có thể kể đến như A Judgement in Stone, The Face of Trespass, Live Flesh… Rendell còn tạo ra một thương hiệu truyện trinh thám hết sức riêng biệt dưới bút danh Barbara Vine, đi sâu vào việc khám phá tiền sử tâm lý của những kẻ tội phạm và nạn nhân của bọn chúng, rất nhiều trong số đó chính là những con người khổ sở hoặc bị xã hội cô lập; hiểu lầm giữa người với người; cũng như hậu quả khôn lường của những bí mật gia đình và tội ác bị bị che giấu. *** Nhấc ba lô ra khỏi ghế ngồi, hắn cảm thấy nó có vẻ nặng hơn so với lúc đầu để vào trong xe. Hắn đặt nó xuống một thềm dương xỉ mềm. Sau đó hắn trở lại ghế lái và lái chiếc xe vào sâu trong một cái hang được tạo ra bởi những bụi táo gai, những bụi mâm xôi và những dây hoa bia vắt qua tất cả mọi thứ trong khu rừng này. Đang là cuối tháng Sáu và thảm thực vật ở đây rất um tùm, rậm rạp. Xuống xe và lùi lại để quan sát một lượt, hắn khó có thể nhìn thấy chiếc xe nữa. Có lẽ hắn chỉ nhìn thấy nó bởi vì hắn biết có nó ở đó. Không ai có thể nhận ra nó cả. Hắn cúi xuống, kéo ba lô lên vai của mình và từ từ đứng thẳng lên. Động tác này làm hắn nhớ đến một điều gì đó và khựng lại một chút khi nhớ ra đấy là gì: Nhấc đứa con trai bé nhỏ của mình ngồi lên vai. Dường như đã một trăm năm trôi qua. Chiếc ba lô nhẹ hơn thằng bé, nhưng hắn có cảm giác như nó nặng nề hơn. Hắn lo sợ rằng nếu hắn đứng thẳng lên, chiếc ba lô sẽ kéo giật về đằng sau và làm gẫy xương sống của mình. Dĩ nhiên, điều đó chỉ là cảm giác của hắn. Chẳng hề gì, hắn sẽ không đứng thẳng, thậm chí sẽ không thử. Thay vào đó, hắn cúi xuống, gần như gập đôi người lại. Không xa lắm. Hắn có thể đi bộ như thế này suốt hai trăm mét[1] để đến cây cầu. Bất kỳ ai nhìn thấy hắn từ xa trong thứ ánh sáng nửa vời thế này đều sẽ nghĩ hắn là một người gù. ... Mời các bạn đón đọc Cái Kết Đắng của tác giả Ruth Rendell.