Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người hành khách bí ẩn - Georges Simenon

Tên ebook: Người hành khách bí ẩn Tác giả: Georges Simenon Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Người dịch:  Đặng Phú - Lê Việt Dũng   Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân   Kích thước: 13 x 19 cm   Số trang: 385   Năm xuất bản: 2004   Tạo prc: Hoa quân tử   Ebook:  Đào Tiểu Vũ's eBook -  http://www.dtv-ebook.com Đ ây là một căn bệnh tấn công những tàu thuyền trong tất cả các vùng biển trên thế giới mà nguyên nhân thuộc một lĩnh vực chưa ai biết, được gọi là ngẫu nhiên. Nếu những triệu chứng bước đầu của căn bệnh ấy rõ ràng thì chúng sẽ không thể thoát khỏi cặp mắt của những thuỷ thủ. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu bằng những điều hết sức vô cớ, chẳng hạn như: một dây néo đứt văng ra như dây vĩ cầm làm bứt đi cánh tay một thuỷ thủ. Hoặc giả một chàng thủy thủ trẻ xoè ngón tay cái trong lúc gọt vỏ khoai tây và ngày hôm sau “tai hoạ bất ngờ” làm anh ta thét lên. Nếu không do vận hành sai thì làm sao một chiếc canot lại dại dột lao vào sống mũi tàu? Nhưng đó vẫn chưa phải là “cái nhìn xúi quẩy”. Cái nhìn xúi quẩy đòi hỏi hàng loạt những tai nạn. Khi cái loạt xúi quẩy ấy đeo đuổi, người ta dễ dàng nhận thấy những tổn hại mới vào ban đêm hoặc ngày hôm sau. Từ khi nó xuất hiện, mọi việc sẽ ngày càng xấu đi và những người đàn ông, chỉ còn biết nghiến răng mà đếm những trận đòn. Đó là lúc mà cỗ máy đã vận hành ba mươi năm không một lần hỏng hóc, bỗng dở chứng kẹt máy như chiếc cối xay cà phê cũ kỹ. Bất kể những dự báo được xác định là tốt nhất trên những bảng khí tượng và theo kinh nghiệm, nếu đúng, thì trong hai mươi ngày tới vào mùa này, gió không bao giờ xảy ra. Và con sóng đầu tiên ập đến sẽ không cuốn một người vào biển cả! Sẽ có bệnh lỵ nếu không phải dịch hạch! Còn may mắn nếu người ta sẽ không giạt vào mắc cạn ở một bãi cát hoặc khi đi vào cảng, người ta không va phải đê chắn sóng. ○○○ Con tàu Polarlys, neo đậu ở cảng số mười bảy trong một vũng tàu xa xôi nhất và bẩn thỉu nhất ở Hambourg phải nhổ neo dời bến vào ba giờ chiều theo thông báo ở tấm biển móc vào thùng thư tại cầu tàu. Chưa đến hai giờ, thuyền trưởng Petersen đã mơ hồ cảm thấy “cái nhìn xúi quẩy” rình rập. Tuy nhiên đây là một người đàn ông cương nghị, béo lùn, mập mạp. Từ chín giờ sáng, ông bước từng bước dài trên boong giám sát việc bốc hàng lên tàu. Sương mù đặc biệt vàng và xám, chứa đầy bồ hóng, phả ra độ ẩm lạnh giá, đè nặng lên bến cảng và thành phố, người ta chỉ nhìn thấy những chiếc đèn của xe điện, những cửa sổ sáng đèn như giữa đêm. Lúc này là cuối tháng hai. Do lạnh và vì vật lộn trong những đám mây ấy, đã để lại trên mặt và những bàn tay một loại váng băng. Mọi hồi còi đồng loạt rít lên thành một tiếp âm chói tai lấn át tiếng kèn kẹt của những cần trục. Boong tàu Polarlys hầu như vắng vẻ: bốn người đàn ông ở trên khoang trước đang tháo dỡ những chiếc hòm và thùng. Con tàu không có gì nổi tiếng cả. Đây là con tàu chạy hơi nước trọng tải một nghìn tấn, có vẻ tàu đánh bắt cá thu, boong tàu luôn đầy ắp hàng hoá, tàu làm dịch vụ từ Hambourg đến Kirkenes bằng cách đi dọc bờ biển Na Uy để phục vụ giao thông cho những cảng nhỏ. Đây là con tàu hỗn hợp có chỗ cho năm mươi hành khách ghế hạng nhất và cũng ngần ấy hành khách hạng ba. Từ Na Uy, người ta đưa đến nơi nhận những máy móc, hoa quả và thịt muối. Người ta đưa về từ cực Bắc những thùng cá thu cũng như da gấu và dầu hải cẩu. Cho đến Lofoten, khí hậu bình thường. Rồi đột nhiên, người ta rơi vào những miền băng giá và trong đêm dài tới ba tháng. Những sĩ quan là người Na Uy. Những chàng trai tốt biết trước sẽ lấy bao nhiêu thùng ở Công ty Olsen tại Tromsoe và chuyên chở cho ai ở Hambourg những máy công cụ. Ngay buổi sáng ấy, Petersen dứt bỏ chiếc lon cuối cùng của mình chỉ được giữ bằng một sợi chỉ. Công ty bỗng cử ông đi với hàng tràng những lời dặn dò như với sĩ quan thứ ba, một chàng trai Hà Lan mười chín tuổi gầy mảnh như mới mười sáu tuổi! Phải chăng sự xuất hiện của Vriens lúc mười giờ làm cho Petersen đánh hơi thấy cái nhìn xúi quẩy? Anh ta tốt nghiệp trường hàng hải Delfzijl ngay tuần ấy. Hôm qua, anh ta trình diện vẻ xanh xao, xúc động, trong bộ đồng phục đứng đắn, ngơ ngác, đứng nghiêm. — Tuân lệnh, thưa thuyền trưởng! — Này, anh Vriens - Petersen nói với anh ta - tôi không có lệnh cho anh trong lúc này. Anh có thể nghỉ ngơi cho tới ngày mai. Với tư cách là sĩ quan thứ ba, anh lo việc đưa hành khách lên tàu. Vriens đi, buổi tối không trở lại. Vào mười giờ sáng, thuyền trưởng trông thấy anh ta xuống xe taxi, lảo đảo, với nước da xanh xao, mi mắt sưng phồng, cái nhìn sợ sệt. Khi anh ta qua cầu tàu, đúng là anh ta loạng choạng. Petersen xoay lưng lại với anh ta, nghe thấy anh ta chạm gót chào trước khi đi về phía buồng mình. — Anh ta ốm yếu như một con chó! - Một lúc sau người phục vụ nói. - Anh ta yêu cầu tôi cà phê rất đặc. Anh ta nằm duỗi dài, thẳng đơ trên giường hầu như không sao nói được. Người ta để que diêm cháy trước hơi thở của anh ta... Tất nhiên đó không phải là thảm hại! Nhưng khi ta có thói quen sống chung với những sĩ quan của mình, ta không thích nảy sinh một gã trai thuộc loại này, nhất là có một lá thư của quan chức hành chính đến trước, gửi gắm tạo điều kiện dễ dàng cho những bước đầu của anh ta. Ở tuổi mười chín, Petersen chưa tốt nghiệp nhưng ông đã ba lần đi vòng quanh thế giới! ○○○ Ông có thể dự báo trước việc đó. Một loạt “tai họa” sẽ bắt đầu. Trong lúc đi vòng trên con tàu của mình, hai tay đút túi, chiếc tẩu thuốc ở miệng, ông nhìn thấy một gã cao lớn tóc hung đứng tựa lưng vào thành tàu, cuốn một điếu thuốc lá. Người đàn ông đành mập mờ cúi đầu chào ông, tìm diêm trong túi. Rõ ràng là một con chuột ở cảng! Một trong số tên lang thang này ở miền Bắc không giống một tên lang thang nào trên trái đất. Một gã trai dưới bốn mươi tuổi cao lớn, khoẻ mạnh, vẻ đứng đắn mặc dầu bộ râu tám ngày không cạo và đôi má hơi lõm. Gã ở đây như ở nhà gã. Gã rít thuốc từng hơi ngắn, ưỡn ngực dưới chiếc áo hiệu Landwehr cũ mà gã đã thay cúc. — Anh làm gì ở đây? Gã hất cằm chỉ cơ trưởng rõ ràng đang qua cầu. Và người sau giải thích cho thuyền trưởng. — Thủy thủ tiếp than vừa bị sốt rét. Tôi phải để lại hắn trên bờ. Thế là tôi nghĩ đến gã này trên bến cảng, và tôi tuyển dụng gã làm thủy thủ tiếp than vào lò. Gã khỏe mạnh... — Anh ta có giấy tờ không? — Đúng thể thức! Gã ra tù ở Cologne... - Và cơ trưởng cười trong lúc rời đi. “Vậy là hai!" - Petersen làu bàu. Có một kẻ tiếp than vào lò, dù là kẻ mới ra tù đối với ông thế nào cũng mặc vì ông đang cần. Nhưng ông cảm thấy chán ghét gã từ đầu đến chân. Trong lúc đi bách bộ, ông tiếp tục lén quan sát gã. Phần lớn những kẻ lang thang người Đức đều có cái vẻ tự tin này, việc không biết xấu hổ và ngay cả sự hèn mọn này. Thêm nữa, gã này còn có vẻ gì mỉa mai trong cái nhìn. Gã cảm thấy mình bị dò xét. Gã tiếp tục hút thuốc, thỉnh thoảng đá lưỡi thấm ướt giấy thuốc, rồi nhìn khói thuốc phả ra từ miệng gã hoà trộn với sương mù. — Anh tên là gì? — Peter Krull. — Anh đã làm gì để phải vào tù? — Lần cuối cùng tôi không làm gì hết! Đó là sự sai lầm của tư pháp... - Gã nói từ tốn, giọng kéo dài và chính thuyền trưởng bỏ cuộc nói chuyện. Vả lại một dây cáp đứt đúng lúc đó làm cho một chiếc thùng cực lớn bọc kín chiếc máy kéo nông nghiệp lao vụt xuống từ độ cao sáu mét vào đáy khoang. Hành khách đầu tiên lên tàu, Petersen chỉ trông thấy chiếc hòm xanh và chiếc áo khoác màu xám. — Vriens đâu? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ - Tôi mong rằng tôi sẽ không phải lo tới cả việc lên tàu! — Anh ta ở phòng khách trước những cuốn sổ. Đúng thế. Chắc chắn anh ta đau quặn bụng, đầu óc đau đớn nhưng anh ta đang ở vị trí của mình. Anh ta tiếp khách, ghi lại những điều chỉ dẫn trong hộ chiếu của người ấy và chỉ cho người đó một phòng. Hai giờ cuối cùng luôn lộn xộn. Những chiếc xe tải đưa hàng hoá đến chậm. Những chiếc cần trục không thể vận hành nhanh hơn. “Mặc kệ! Ta sẽ bỏ lại ai không lên tàu đúng giờ!" Một sự đe dọa theo truyền thống không làm ai sợ cả. Một nữ hành khách lên tàu, theo sau là một người khuân vác. Cảnh sát thảo luận với Vriens, anh này quên điền một phần vào những bản khai in sẵn. Khi tiếng chuông cảnh báo đầu tiên vang lên, con đường trước mặt con tàu Polarlys thông thoáng. Nhưng khi người ta thả dây chão năm phút sau thì chiếc tàu lớn chở dầu của Anh đang chắn ngang và nó phải thực hiện những thao tác phức tạp. Một chiếc xà lan chạy máy dần dần vững bước tiến lên sát mặt nước chỉ với một thủy thủ tựa vào cần lái và hút tẩu thuốc. Tàu va vào sườn nó. Nửa boong của nó ngập trong nước và thật kỳ diệu là nó có thể tiếp tục chạy giữa những chiếc vỏ đen của các tàu chở hàng dựng lên quanh nó như những bức tường. Trên con sông Elbe là một đám rước. Ba hàng tàu thuỷ đi nối đuôi nhau thành chuỗi trong sương mù ngăn việc phân biệt cái bẫy của tàu trước và những hồi còi dữ dội thi nhau vang lên. Những con tàu chạy nhanh hơn mài miệt vượt lên những chiếc khác. Những thuyền buồm chen lấn nhau và đột nhiên người ta trông thấy cánh buồm mũi của chúng mọc lên cách sống mũi thuyền ít nhất là một sải cáp, khoảng hai trăm mét. — Từ từ... Dừng lại... Lùi lại... Dừng... Từ từ...Một nửa... Dừng... Máy điện báo kêu lách cách và con tàu tiến sang phải sang trái từng đợt trong sương giá. ○○○ Vào bảy giờ, con tàu vẫn ở trên sông và người ta chưa thấy ngọn đèn hiệu ở Cuxhaven báo cho biết đã đến biển. Thuyền trưởng bước xuống từ cầu tàu, để lại thuyền phó cùng với người hoa tiêu ở đó và chuẩn bị cho một việc khổ sai khác: chuẩn bị bữa ăn cho hành khách. Người phục vụ đem theo chiếc cồng đi trong những hành lang, với vẻ năn nỉ, theo kinh nghiệm biết rằng ngày đầu, những hành khách không bao giờ vội vã cả. — Năm suất hả? - Petersen nhận xét. — Một bà và ba ông... Bà đây... Cô ta tiến lên vẻ dễ dãi. Chiếc bót thuốc lá bằng ngọc ở trên môi. Cô ta trang điểm như để ăn tối trên con tàu sang trọng vượt Đại Tây Dương và hầu như khoả thân dưới chiếc áo dài lụa đen. Một con người nhỏ bé lạ lùng, mảnh mai, dễ bị kích động với những cử chỉ lả lơi, bằng những sự khéo léo của thời thượng, tự cho mình là con người nổi bật. Cô ta có mái tóc hoe vàng và cũng óng mượt như tóc một đứa trẻ. Mái tóc được tách ra bằng một đường ngôi giữa, rủ xuống đôi má chỉ với một làn sóng làm nổi bật khuôn mặt bầu dục. Hai đồng tử mắt sẫm màu và để tạo ra sự tương phản mạnh mẽ hơn, lông mi được tô thuốc đen. Miệng mỏng; đôi bầu vú nhô rất cao, rất nhỏ. — Thuyền trưởng? - Cô ta lẩm bẩm với giọng dò hỏi. - Thuyền trưởng Petersen... Ông hầu như không rửa mặt. Mái tóc dày rậm cần phải chải. — Mời bà vui lòng ngồi xuống! Cô ta ngồi với vẻ thong dong, chọn chỗ dễ chịu bên phải thuyền trưởng. Một hành khách khác bước vào, bắt tay Petersen, máy móc thốt lên: — Thời tiết thật tồi tệ!. Đây là Bell Evjen, giám đốc mỏ Kirkenes, hằng năm có chuyến đi Luân Đôn và Berlin và con tàu Polarlys đưa ông đi sớm hơn một tháng. Ông ta thích thú quan sát người phụ nữ trẻ. Một lát sau, một hành khách khác nghiêng mình trước mỗi người, không nói một lời; đây là một gã trai cao lớn đầu cạo trọc, không có lông mi cũng không có lông mày, đeo kính có mắt kính dây đến nỗi đôi mắt anh ta to quá mức. — Hãy dọn ăn đi, anh phục vụ! Sau đó anh gõ cửa hành khách thứ năm... Bởi vì còn một suất ăn chưa có người. Bữa ăn bắt đầu theo mốt Bắc Âu: canh súp nóng mở đầu, tiếp theo là những món nguội, thịt lợn ướp, thức ăn muối, cá hộp, mứt quả và pho mát. — Người ở phòng số mười tám không trả lời. — Hãy nói với sĩ quan thứ ba lo việc đó. Hai lần Petersen trèo lên boong, lo lắng thấy máy đột ngột chạy chậm, vẫn trong tình cảnh sương mù, những tàu chở hàng chạy theo hàng một, những hồi còi inh ỏi, kèn và còi hú. Tại bàn ăn, mọi người yên lặng. Giữa hai món ăn, người phụ nữ trẻ châm một điếu thuốc lá với chiếc bật lửa là một tác phẩm kim hoàn. Petersen cho rằng cô ta là người Đức, cũng như người hành khách đầu cạo trọc. — Chúng tôi sẽ phục vụ các vị cà phê tại phòng hút thuốc! - Cuối cùng ông nói trong lúc đứng lên, theo một công thức mà ông thường nhắc lại từ mười hai năm nay trong mỗi chuyến đi. Ông đang nhồi tẩu thuốc trong hành lang trước buồng mình thì người nữ hành khách qua gần ông và đi vào trong cầu thang thẳng đứng dẫn tới phòng hút thuốc. Trong suốt thời gian cô ta trèo lên, ông nhìn đôi chân cô ta dưới làn lụa đen tạo cảm giác rất thú vị với đôi đầu gối nhỏ nhắn và cả chút ánh da thịt. — Này, ông Vriens hử? Chàng trai liền máy móc đứng theo tư thế của mình. Đôi môi anh ta run lên. Anh đờ người như thể đột nhiên anh rơi vào giữa một thảm kịch. — Không thấy người hành khách ấy. Tuy nhiên hành lý của ông ta còn ở trong buồng ông ta. — Ông ta là ai? — Ernst Ericksen ở Copenhagen. Tôi còn trông thấy ông ta lúc một giờ trước lúc tàu khởi hành! — Người đàn ông mặc áo khoác màu xám với chiếc hòm màu xanh phải không? — Đúng thế! Tôi đã tìm khắp nơi. — Có lẽ ông ta quay lên bờ để mua báo nên lỡ tàu... Vriens và chàng trai đeo kính đã vào buồng họ. Còn lại một mình nữ hành khách ở phòng hút thuốc. Chiếc áo lụa đen xuất hiện trên đầu cầu thang. — Thuyền trưởng... Cô ta tỏ vẻ xúc động, nhưng gắng mỉm cười, hai bàn tay nén giữ nhịp đập của lồng ngực. — Có chuyện gì xảy ra thế? — Tôi không biết... có lẽ tôi sợ. Tôi vừa vào phòng hút thuốc. Tôi thấy bình cà phê ở trên bàn cũng như những chiếc tách và tôi bắt đầu rót cho mình. Đúng lúc ấy, hình như tôi nghe thấy tiếng động đằng sau tôi. Tôi quay lại, trông thấy một người đàn ông mà tôi chưa nhận ra là ai... Tôi tin chắc người đó khiếp sợ bởi vì người đó đứng lên và chạy trốn. — Qua đâu? — Qua cửa này, cửa trông ra boong đi dạo, phải không? — Ông ta mặc áo khoác màu xám phải không? — Xám, vâng. Tôi kêu lên... Tại sao ông ta chạy trốn như vậy? Trong khi cô ta nói, Petersen có cảm giác cô ta nói với Vriens hơn là nói với ông. — Hãy đi xem! - Ông ta ra lệnh cho viên sĩ quan. Người này ngập ngừng rõ rệt, nhất là vào lúc bước qua trước bà khách mà anh ta phải lướt qua để đi ra. — Xin bà hãy bình tâm, thưa bà. Tất cả chuyện này chắc chắn sẽ được lý giải. Cô ta hé cười, bĩu môi làm điệu và nói: — Tôi sẽ ở lại một mình ở phòng hút thuốc ư? — Các bạn bà sẽ sớm lên đây. — Ông không uống cà phê ư, thưa thuyền trưởng? Ông cảm thấy mùi nước hoa của cô ta rất nồng và ông còn cam đoan thấy cả mùi hương của da thịt cô ta toả ra. Một lúc sau trong khi cô ta rót cà phê, ông xoi mói những đường nét của cô ta và khi cô ta quay lại, cô ta thấy mặt ông đỏ lựng, giả vờ bận tâm lôi kéo chiếc cravate của mình. Evjen bước vào. ○○○ Khi Petersen rời phòng hút thuốc rộng lớn chứa được khoảng năm mươi người, thoải mái nhưng tạo cảm giác hơi lạnh vì những đồ gỗ bằng gỗ sồi có màu rất sáng, thì Evjen ngồi ở một góc đang ghi chép những tài liệu buôn bán lấy từ cặp ra. Trong góc đối diện, gã trai đeo kính đọc cuốn Berliner Tagdblau. Ở giữa hai người ấy, người nữ hành khách đã trải lên mặt bàn những quân bài nhỏ và bắt đầu chơi trò phá trận. — Ông vui lòng cho tôi xin tí lửa, được chứ, thưa thuyền trưởng? Ông phải bước lại. Cô ta đưa về phía ông chiếc bót thuốc lá dài, trong lúc cúi xuống không biết làm thế nào mà mắt Petersen nhìn sâu vào chiếc áo ngắn tới chỗ bắt đầu bầu vú. — Cảm ơn... chúng ta tới biển chưa? — Chúng ta đang đến gần Cuxhaven, vâng! Tôi phải lên cầu tàu đây. Nhìn gần, ông nhận thấy như Vriens, cô ta có đôi mi sụp xuống, những nét mệt mỏi của người qua một hay nhiều đêm mất ngủ. Cũng như Vriens, đôi môi cô ta đôi khi bất chợt run lên. Trên cầu tàu, ông gặp viên sĩ quan thứ ba đang tìm ông, nét mặt tiều tuỵ hầu như anh ta đã khóc. — Anh đã tìm thấy ông ta chưa? — Không. Chắc chắn ông ta đang náu mình. Tuy nhiên tôi đã lấy ba người cùng tôi. Nhưng không phải thế... Petersen nhìn anh ta với vẻ hơi tò mò: — Thì sao? — Tôi muốn nói với ông, thưa thuyền trưởng... rằng... rằng tôi hết sức tiếc về... Giọng nói anh ta vỡ ra. Nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh ta. — Tôi cam đoan với ông rằng đây là sự ngẫu nhiên.. Tôi chưa bao giờ uống... Đêm nay... tôi không thể giải thích cho ông... Nhưng điều đó làm tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng ông... — Hết chưa? Mặt anh ta tái nhợt đến nỗi người nói chuyện với anh ta tỏ chút thương hại. — Anh đi ngủ đi! Ngày mai sẽ sao! - Ông nói thêm kém nhẹ nhàng. — Ông nghĩ tôi còn say ư? Tôi xin thề với ông... — Đi đi! Và Petersen, khoác chiếc áo da dê cái, lại gần viên hoa tiêu, trong khi chiếc tàu chở hàng bật đèn xanh lướt theo chiều ngược lại cách có vài mét. — Chưa đến ư? Người đàn ông chỉ bàn tay trái vào màn đêm. — Cuxhaven! - Ông ta làu bàu. Đây là người hoa tiêu ở Elbe, mà dưới đèn tín hiệu của bến này, ông ta phải xuống một chiếc tàu máy nhỏ đang đợi ông ta. Thuyền trưởng mời ông ta rượu trắng truyền thống trong buồng gác trong lúc trao đổi vài câu chuyện bình thường. Ông rót đầy cốc thứ hai thì máy chạy chậm lại, rồi hoàn toàn ngừng hẳn. Người ta sớm nhận ra ánh đèn đom đóm trong sương mù sát mặt nước. Nó hầu như ở xa nhưng chỉ một giây sau, nó chuyển thành chiếc đèn acetylene phân biệt được mọi chi tiết. Lập tức người ta nghe thấy tiếng va chạm vào vỏ tàu, dưới chiếc thang ở cửa tàu. Một cái bắt tay. “Chúc ngủ ngon!" Người phục vụ đã thu dọn gọn gàng phòng ăn. Tại phòng hút thuốc, ba người ngồi cách nhau không quá tám mét, vẫn chưa quen biết nhau mặc dầu Evjen luôn nhìn người đàn bà trẻ. Người hoa tiêu vừa đặt chân xuống tàu đã gọi: — Này! Thuyền trưởng. Có chuyện gì đó cho ông... Ngả người lên tay vịn, Petersen nhìn rõ trong chiếc canot bóng dáng một người đàn ông bất ngờ: một người đàn ông mặc áo choàng, tay cầm một chiếc vali rất to. — Ông muốn nói gì? — Tôi sẽ giải thích cho ông. Người ta phải giúp người đàn ông trèo lên thang. Sau khi lên boong, người này lo lắng nhìn quanh mình. — Cố vấn cảnh sát Von Sternberg! - Ông ta nói - Tôi không thể đi tàu thuỷ tới Hambourg nên tôi phải đi ôtô. Đây là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi có bộ râu nhọn và đôi lông mày rậm càng có vẻ lạ lùng với chiếc áo choàng màu mù mờ làm biến dạng bóng dáng ông ta. — Tôi sẽ ăn trong buồng tôi! - Ông ta nói thêm vì con tàu Polarlys lại bắt đầu chạy - Nếu những hành khách hỏi ông... — Tôi có ba hành khách tất cả! — Nếu những hành khách hỏi ông, ông hãy trả lời rằng tôi bị ốm phải nằm tại giường. Ông hãy nói với họ một cái tên khác... Wolt chẳng hạn, Herbert Wolf, thương gia về áo da lông. Tôi sẽ trả tiền chuyến đi. — Ông có công vụ ư? - Petersen hỏi với tâm trạng bực bội tăng lên. - Có người nào trên tàu cần...? — Tôi nói mình là cố vấn cảnh sát khi không phải là thanh tra. — Tuy nhiên... Thuyền trưởng hoàn toàn không phải không biết chức cố vấn cảnh sát ở Đức là một danh vị nổi tiếng mà chức năng không phải là truy đuổi những kẻ bất lương. Nhưng có vấn đề với cảnh sát đủ làm cho ông tỏ vẻ cà khịa. Ông là thuyền trưởng nên ông khẳng định mình là chủ con tàu của mình. — Dẫu sao, ông sẽ làm theo ý ông! - Ông làu bàu - Nếu đó là Ernst Ericksen làm ông quan tâm thì tôi phải nói ngay với ông rằng không bắt được hắn đâu. Mất tích rồi! Hắn ẩn náu có trời mới biết ở đâu, mặc dầu hắn đã mua vé cho chuyến đi và hành lý của hắn còn ở trong buồng hắn. Ông gọi: — Phục vụ viên đâu! Anh hãy đưa ông đây tới một buồng còn trống. Anh sẽ phục vụ ông ấy tại chỗ. Ông Wolf. Rồi quay về phía người đàn ông mặc áo choàng: — Đúng thế, phải không? Ông trực ban vào sáu giờ sáng và lẽ ra ông phải ngủ từ lâu. Ông trở về buồng mình, nằm vào giường, nhưng ông còn chú ý đến những người đi đi lại lại ở hành lang một cách vô ý thức. Vì vậy ông nghe thấy tiếng Evjen và người hành khách trọc đầu vào phòng họ. Qua nửa đêm mà cửa buồng người đàn bà trẻ chưa mở ra. Ông bấm chuông gọi người phục vụ. — Mọi người đã ngủ rồi ư? — Không phải tất cả. Còn người đàn bà... — Cô ta vẫn chơi trò phá trận à? — Xin lỗi! Cô ta dạo chơi trên boong với... — Với ai? — Với ông Vriens. — Anh ta dám cả gan bám riết cô ta ở phòng hút thuốc ư? — Không! Anh ta ở trong buồng mình. Chính cô ta yêu cầu tôi gọi anh ta... Thuyền trưởng nặng nề trở mình trên giường và càu nhàu điều gì đó khó hiểu đối với người phục vụ làm anh này đợi một lúc mới rút lui.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kế Hoạch Tự Sát
“Kẻ giết bố tôi… chính là mẹ! Cầu mong một ngày nào đó ông trời sẽ giáng sự trừng phạt xuống đầu cô ta.” Watanabe Ruri ---- Ruri vốn là một cô bé có cuộc sống bình dị, hạnh phúc như bao đứa trẻ cùng trang lứa khác. Thế nhưng đến một ngày… hiện thực tươi đẹp ấy bỗng vụt tắt. Mẹ cô qua đời. Căn nhà ấm áp, luôn tràn ngập tiếng cười bỗng trở nên trống trải đến đáng sợ, hai cha con cô phải nương tựa vào nhau, cùng vượt qua mất mát quá lớn kia. Những tưởng đau thương đã dần rời xa ngôi nhà nhỏ của Ruri, cho đến một ngày người phụ nữ tên Reiko xuất hiện, trở thành mẹ kế của cô và làm cuộc sống của cô hoàn toàn xáo trộn. Hai cha con Ruri dần trở nên xa cách, xích mích ngày một nhiều lên, cho đến khi… Vào một sáng thức dậy, Ruri định chụp lén cha mình một bức ảnh dùng để làm lành với ông, nhưng không ngờ… thứ cô chụp lại được chỉ là nỗi ám ảnh kinh hoàng. Cha của Ruri đã chết… Bức hình cuối cùng cô chụp được xuất hiện quá nhiều điểm đáng ngờ: Người mẹ kế bên cạnh cha? Lọ thuốc màu xanh kỳ lạ? Và cả cách sống của mẹ kế Reiko sau khi chồng mình qua đời… Thế nhưng tất cả những chi tiết đó không đủ để buộc tội cô ta. Cảnh sát cũng không thể tìm ra bất kỳ manh mối nào… Vậy chỉ còn cách… chính Ruri sẽ tự tử rồi để lại di thư, khiến cảnh sát có thể điều tra lại cái chết của cha mình. Và từ đây, kế hoạch Tự sát của cô chính thức bắt đầu. Số phận của Ruri rồi sẽ ra sao? Liệu Ruri có làm sáng tỏ được cái chết của cha mình? Sự thật kinh hoàng nào sẽ được vén rèm bí mật? Tất cả những ẩn số đó đều được giải đáp trong “Kế hoạch tự sát” - tác phẩm trinh thám gây được tiếng vang lớn năm 2016 của nhà văn tài năng Akiyoshi Rikako. Với cốt truyện gay cấn đến ngạt thở cùng những tình tiết đầy bất ngờ nhưng cũng không kém phần cảm động, cuốn sách đã tạo nên cơn sốt không nhỏ tại xứ sở hoa anh đào! *** uri đặt trên bàn một bức thư như vậy và toàn bộ tài sản của cô. Tuy rằng ngần ấy tiền để trả cho một đêm trọ là quá nhiều, nhưng cứ nghĩ đến những chuyện phiền lòng về sau, cô lại cảm thấy chừng đó vẫn không đủ. Vì thế, không chỉ tiền, cô còn để lại cả thẻ học sinh và điện thoại di động để cảnh sát địa phương và người của quán trọ không gặp khó khăn gì khi muốn tìm kiếm thân thế và người giám hộ hiện tại của cô. Sau khi đã đọc đi đọc lại bức di thư nhiều lần, cô rời khỏi phòng. Lúc nhận ra mình vô tình đi luôn đôi dép đi trong phòng của quán trọ, cô bối rối xỏ chân vào đôi giày của mình. 9 giờ 30 phút tối. Ngoài sảnh tĩnh mịch đến đáng sợ. Máy bán hàng tự động kêu lên một tiếng “bíp” nhỏ. Điện tắt, các kệ hàng bị phủ kín vải, quầy bán đặc sản và quà lưu niệm này tồn tại được đều nhờ vào lương tâm của khách trọ. Ghế sô-pha và bàn. Máy mát xa chạy bằng đồng xu. Cô đi qua những thứ đó, đặt chìa khóa lên bàn tiếp tân ở sảnh chính rồi nhẹ nhàng tiến ra ngoài. Vừa bước ra khỏi cửa, cô lập tức bị bao trùm bởi không khí ẩm thấp của mùa hè và tiếng kêu inh tai của lũ ếch. Ngay trước quán trọ là một con đường nhựa, chiều rộng chỉ vừa đủ cho một chiếc xe, hai bên đường cây cối xanh mướt um tùm. Ánh đèn đường le lói yếu ớt, bầu trời đầy sao còn sáng hơn thứ ánh sáng nhân tạo này. Hòa cùng với dàn hợp xướng của tiếng ếch, tiếng cú kêu vọng lại rõ ràng từ màn đêm đen phía trước. Đi được một đoạn, ngã ba hiện ra trước mắt Ruri. Cô lấy tấm bản đồ từ trong túi quần jeans ra. Gọi là bản đồ nhưng thực chất nó chỉ là bản in từ trên mạng. Trên đó có vẽ một đường màu đỏ bắt đầu từ quán trọ, đến chỗ ngã rẽ thì đường màu đỏ kéo dài tiếp về phía bên phải. Ruri chỉnh lại mắt kính rồi bắt đầu tiến vào đường nhánh bên phải. Con đường trải nhựa dần thu hẹp lại, cuối cùng thành con dốc toàn đất đá. Ánh đèn đường hoàn toàn biến mất, cô dùng chiếc đèn pin đã chuẩn bị từ trước soi rọi con đường đêm. Mật độ cây cối càng lúc càng dày, những lùm cây um tùm cản trở lối đi của Ruri. Dù vậy, cô vẫn cố gạt những cành cây ngáng đường mình và chăm chăm tiến về phía trước. Khoảng hai mươi phút sau, hơi thở của cô đã trở nên đứt quãng. Mái tóc dài đến eo như một chiếc áo măng tô bao phủ tấm lưng cô, khiến chiếc áo phông cô đang mặc thấm ướt mồ hôi. Vừa lau mồ hôi trên trán, Ruri vừa tiếp tục leo lên con dốc nhấp nhô đầy rễ cây lan ra. Lúc này, một quang cảnh hùng vĩ chợt hiện ra trước mắt. Chính là đây. Ruri lấy vạt áo lau lại mắt kính phủ đầy hơi nước rồi đeo lên mặt. Trông cô như một kẻ lữ hành mệt mỏi vừa phải trải qua một hành trình đằng đẵng không ngơi nghỉ. Giữa con dốc, một vùng đất bằng phẳng được ánh trăng chiếu rọi hiện ra. Trong không gian rộng lớn ấy, khoảng mười thân cây sừng sững vươn lên. Màu xanh của rêu bám đầy trên nền đất. Mùi đất ẩm phảng phất quanh mũi. Đứng từ đây có thể trông thấy ánh sao lấp ló giữa những ngọn cây cao vút và tán lá dày. Một khung cảnh huyền ảo biết bao. Ruri hít một hơi thật sâu, cắt đứt mạch suy nghĩ trong đầu. Cô cảm nhận rõ hơi thở ấm áp tĩnh mịch của thiên nhiên đang bao bọc quanh mình. Thật là một nơi tuyệt đẹp. Trái tim Ruri rung động. Được ở một nơi như thế này thật tuyệt. Tốt quá, trước khi chết còn có cơ hội nhìn thấy cảnh đẹp đến thế. Ý nghĩ sau cùng, quyết tâm bùng cháy trong đôi mắt cô. Hít một hơi thật sâu, Ruri đi về phía một cây đại thụ lớn nhất rồi đặt balo xuống. Mở khóa kéo balo, cô lôi ra một sợi dây thừng. Dùng miệng ngậm đèn pin để soi sáng, cô vòng sợi dây thừng, thắt lại. Độ rộng của vòng dây vừa đúng bằng đầu Ruri. Cô đã tìm hiểu cách thắt nút trên mạng và luyện tập nhiều lần. Sau khi thắt dây xong, Ruri tháo kính cất vào balo. Đoạn, cô đứng dậy, trèo lên cái ghế gấp đã mang theo ở cửa ra vào nhà trọ. Cô treo sợi dây lên cành cây rồi kéo thử. Tốt rồi, chắc sẽ không tuột được đâu. Hít sâu một lần nữa, Ruri liếm môi. Bố, mẹ, hãy chờ con. Ba người chúng ta sẽ lại hạnh phúc bên nhau ở thiên đường. Cô ngước lên ngắm vầng trăng lần cuối. Trăng tròn đẹp thật đấy... Ruri chầm chậm tròng sợi dây vào cổ, rồi cô đưa chân đá chiếc ghế gấp. ° ° ° Cửa đóng “cạch” một tiếng. Âm thanh giày cao gót vang lên chát chúa trên nền đá hoa, Ruri có thể nghe thấy tiếng bước chân tiến từ phía cửa đến hành lang. Cô Reiko đã về. Đang ngồi trước laptop trong phòng riêng trên tầng hai, Ruri gập màn hình lại rồi đứng lên. Cô đi xuống tầng, Reiko đang ở trong bếp cầm bình nước uống ừng ực. “A, Ruri đấy à. Cô về rồi đây.” Reiko vừa lau khóe miệng vừa mỉm cười. Khuôn mặt cô ta hơi đỏ, hơi thở phảng phất mùi ngòn ngọt đặc trưng của rượu. Reiko đặt cái bình lên bàn rồi đi ra ngoài phòng khách, cô ta ngã nhào xuống ghế sô-pha. Cái váy ngắn đỏ rực kéo lên làm lộ ra cả cặp đùi. Phòng kiểu Nhật bên cạnh phòng khách là nơi đặt bàn thờ, Ruri liếc mắt qua đó. Không biết người bố mỉm cười trong tấm ảnh trên bàn thờ kia đang nghĩ gì. Vẫn chưa đến 5 giờ chiều. Vì là mùa hè nên hiện tại bên ngoài trời vẫn sáng. Giờ này mà cô ta đã về nhà với bộ dạng say khướt như vậy. “Không sao. Cô đã nhờ người lái xe về...” Reiko nói với Ruri đang đứng đằng xa, “Cô có mang đồ ăn về đây, vừa hay đúng giờ ăn tối.” “Cháu không ăn đâu. Bây giờ cháu đi ra ngoài một chút... đi với bạn.” “Thế à...” “Chắc cháu sẽ ngủ nhà bạn luôn.” “À, cháu đang nghỉ hè mà nhỉ.” Ôm cái gối bông mềm mại trong lòng, Reiko nói với giọng điệu có chút ngờ vực. Nếu cô ta nhìn về phía Ruri, chắc cô ta sẽ nhận ra thực chất cô chẳng có bạn bè nào ở đây cả. “Nhưng mà... cháu không có tiền.” Dù Reiko đang say xỉn nhưng việc cô ta trở về vào giờ này đúng là may mắn với Ruri, cô không có đủ tiền. “Hả?” Tiếng Reiko chậm chạp vang lên. “Tuần trước cô chưa đưa cháu tiền tiêu vặt à?” “Cháu mua sách nấu ăn nên hết mất rồi.” “Ừm, ra thế.” Reiko không nghĩ ngợi với tay lấy túi xách đặt trên bàn. “Năm nghìn yên đủ không?” “Hai mươi nghìn... À, năm mươi nghìn đi ạ.” Nếu chỉ tính phí đi lại và tiền nhà trọ thì chắc hai mươi nghìn yên là đủ. Nhưng còn phải đề phòng những sự cố bất ngờ phát sinh như tàu chậm hoặc bị mất cắp hay đánh rơi đồ. Dù sao đi nữa, nhất định cô phải đến được nơi đó trong ngày Đại An, nên cần mang theo nhiều tiền hơn mới yên tâm được. “Cháu cần ngần ấy tiền làm gì vậy?” Đôi mắt đang mơ màng của cô ta đột nhiên mở lớn. “Cháu muốn đến USJ* ở Osaka.” “Ừ, được rồi.” Reiko chậm rãi rút ra năm tờ tiền mười nghìn yên đưa cho Ruri. “Của cháu đây.” Tiền vừa chạm vào đầu ngón tay, Ruri đã giật phắt lấy. Reiko cũng từ từ nhắm mắt lại, tay đặt trở lại sô-pha. “Còn gì nữa không?” Reiko hỏi bằng giọng ngái ngủ. Số tiền bảo hiểm ba trăm triệu yên của bố tôi đi đâu cả rồi? Tài sản của bố tôi thì sao? Tại sao bố tôi vừa mất mà mỗi ngày cô đều sống vui vẻ như thế? “Hết rồi ạ. Cháu đi đây.” Ruri quay trở lại căn phòng trên tầng hai. Cô ngồi trước máy tính, mở lại trang web vừa xem. Tusattoantap.com Trong danh sách những địa điểm tự sát, cô kích vào làng Sagamino rồi in bản đồ ra. Ruri kiểm tra những đồ vật cần mang đi lần cuối. Hôm nay cô đã đến cửa hàng DIY* mua dây thừng, đèn pin, ghế gấp, và cả một cái balo leo núi chuyên dụng cỡ lớn. Để chuẩn bị những thứ này, cô đã tiêu hết tiền tiêu vặt, không biết cô Reiko có nghi ngờ gì không. Ruri khoác chiếc balo to nặng lên vai và tắt máy tính. Cô đi xuống tầng dưới, liếc mắt về phía Reiko đang hoàn toàn ngủ say trên sô-pha rồi nhẹ nhàng tiến về phía hành lang. Hôm nay là ngày Chủ nhật đầu tiên của kỳ nghỉ hè nên ga Oshiage rất đông đúc, toàn những cặp bố mẹ đưa đón con. Ruri mua một vé đến làng Sagamino. Sau khi đến ga Tatebayashi, cô đổi sang tuyến tàu địa phương, đi khoảng hai tiếng nữa là đến nơi. Đứng cạnh Ruri là một nhóm học sinh tầm tuổi cô, bạn nữ nắm tay bạn nam chuyện trò rất vui vẻ. Ruri không có bạn gái, cũng không có bạn trai. Ruri mới mười sáu tuổi, là một nữ sinh bình thường... Không, còn tệ hơn cả bình thường. Trong không gian chật hẹp này, cô chợt hiểu ra. Dáng người cô cao gầy, ngực nhỏ, do cận nặng nên lúc nào cũng phải đeo đôi kính màu hồng nhạt, khuôn mặt ngoài làn da trắng thì chẳng có ưu điểm gì. Đúng là thật khó để kết bạn. Hơn nữa, bố mẹ ruột đều đã mất, họ hàng cũng không còn ai, đích thị là một kẻ cô độc giữa đất trời. Không, nói đúng ra thì vẫn còn một bà mẹ kế. Mẹ của cô, Nanami đã mất từ bốn năm trước, khi ấy Ruri vẫn còn là một cô bé lớp Sáu tiểu học*. Bà mắc bệnh xuất huyết dưới màng nhện. Trước đó bà vẫn rất khỏe mạnh, rồi một ngày đột nhiên bà ngã xuống, không bao giờ tỉnh lại nữa. Bà là một người rất dễ mến. Vì làm nghề tổ chức tiệc nên lúc nào bà cũng đem lại cảm giác ngọt ngào, dễ chịu như một chiếc bánh chiffon vậy, nơi đâu có bà nơi đó sẽ trở nên ấm áp. Nhà hàng chỗ bố làm đầu bếp và tiệm bánh ngọt nơi mẹ làm việc rất gần nhau, bố đã yêu mẹ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Ông yêu vóc dáng nhỏ bé xinh đẹp khi bà đội chiếc mũ trắng, yêu vẻ nghiêm túc khi bà ngắm nhìn những chiếc bánh, tất cả đều rất đẹp. Bố đã kể, khoảnh khắc gặp mẹ, cảm giác giống như “có chú bướm nhỏ đậu vào trong ngực, rồi lưu lại mãi chẳng hề bay đi”. Đối với người có máu nghệ sĩ, nắm vững nghệ thuật nấu ăn truyền thống Nhật Bản, hiểu sâu sắc về nghệ thuật cắm hoa, trà đạo và thơ ca như bố, đây quả là một cách diễn tả độc đáo. Mời bạn đón đọc Kế Hoạch Tự Sát của tác giả Rikako Akiyoshi & Nguyễn Thu Hà (dịch).
Chiếc Tất Nhuộm Bùn - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Chiếc tất nhuộm bùn: Ngay từ nhỏ, Kỳ Phát đã chứng tỏ được óc trinh thám và khả năng suy luận tài ba. Từ một chiếc tất nhuộm bùn, chàng đã khám phá ra việc mẹ kế tư thông với nhân tình, gói ghém nữ trang toan bỏ trốn. Song không ngờ, bà ta lại vu cho chàng tội ăn cắp, khiến chàng phải chịu tủi nhục, bị mọi người khinh ghét. Tuổi thơ xa mẹ, nếm chịu nhiều đắng cay, Kỳ Phát luôn mong muốn được biết tung tích của mẹ. Nhưng đau đớn thay, chàng lại gặp mẹ trong hoàn cảnh vô cùng trớ trêu. Và câu chuyện hai mươi năm về trước dần được hé lộ… *** Chúng tôi đều ngồi im lặng… Cảnh bến tầu Nam Định vốn đã buồn, tối hôm ấy lại buồn hơn nữa. Gió lạnh, hạt mưa lất phất bay. Con đê nhỏ bằng xi măng lượn theo dọc sông trông xa như một con rắn dài nằm phơi chiếc bụng da trắng hếu. Một vài chiếc thuyền nan lơ lửng, leo lắt ngọn đèn. Đằng xa, áp bờ sông bên kia, chiếc lò vôi nung đỏ, tỏa ra trong bóng tối một ánh lửa hồng làm cho người ta nghĩ đến chiếc vạc dầu khổng lồ ở dưới âm ty. Ngồi trên đê, Kỳ Phát đưa mắt trông ra xa. Hắn lấy ngón tay sẽ đập rơi tàn thuốc lá, rồi mơ màng nhìn theo làn khói tỏa bay. Giữa cảnh êm đềm yên tĩnh, mọi vật hình như đều say sưa trong giấc mộng, Kỳ Phát lúc đó có dáng điệu một nhà thi sĩ đương trầm ngâm trước một cảnh nên thơ hơn là dáng điệu một tay thiếu niên trinh thám kỳ tài. Có lẽ ít ai ngờ rằng chính chàng trẻ tuổi ấy đã khám phá ra những vết tay trên trần mà tìm ra thủ phạm vụ án mạng bí mật trong Thanh dạo trước* và do một bài thơ kỳ dị đã lấy được cái kho tàng* khi xưa. Tôi ngoảnh nhìn Kỳ Phát không thấy một cái gì là thay đổi: vẫn bộ mặt xương xương với cặp lưỡng quyền cao, vẫn mái tóc lòa xòa vuốt ngược lốm đốm hoa râm. Bỗng chúng tôi cùng quay đầu trông lại. Trong một căn nhà lụp xụp ngoảnh mặt ra sông, một mụ đàn bà đương một tay nắm tóc, một tay cầm roi, vụt lấy vụt để một thằng bé con độ mười hai, mười ba tuổi. Thằng bé khóc lóc kêu van mà mụ đàn bà cứ thẳng tay vụt mạnh. Mụ vừa đánh vừa nghiến răng rít lên rằng: - Con cái đâu lại có con cái như thế này bao giờ? Mới nứt mắt ra mà đã ăn cắp tiền, tiêu bậy! Tôi quay bảo Kỳ Phát: - Anh nghĩ thế nào? Cứ ý tôi thì đánh đập thế này tuy hơi quá nhưng mà cần. Bằng tí tuổi đầu mà đã gian tham, bé ăn trộm gà, lớn ăn trộm trâu, nếu không thẳng tay trừng trị thì từ đồn điền trí cụ đến nhà pha Hỏa Lò cũng không xa là mấy. Tôi bỗng thấy cặp mắt Kỳ Phát sáng quắc. Hắn vất điếu thuốc lá đương hút dở, nhìn trừng trừng vào mặt tôi rồi dằn từng tiếng mà bảo rằng: - Câu này thì anh nên ghi nhớ để nghiệm về sau: khi anh thấy một người đàn bà đánh trẻ về tội ăn cắp - cứ cho rằng người đàn bà ấy là mẹ đứa trẻ - anh cũng chớ tin ngay rằng thằng bé quả là một thằng ăn cắp! Tôi không lạ gì Kỳ Phát. Muốn biết rõ Kỳ Phát, tôi đã từng chia hắn ra làm hai: Kỳ Phát lúc tĩnh và Kỳ Phát lúc động. Kỳ Phát lúc tĩnh thì yếu ớt, nhu nhược, hay nghĩ vơ vẩn và ít nói, những khi ấy thì đừng ai mong hỏi hắn gì, nhất là điều hắn đã muốn giấu thì cậy răng hắn cũng không nói nửa lời. Kỳ Phát lúc động thì lại khác hẳn: hai mắt sáng quắc, chân tay luôn luôn cử động, hắn đã biện thuyết về một vấn đề gì thì nói mãi kỳ cho người ta nghe phải phục thì mới thôi. Tôi biết Kỳ Phát lúc này vừa mới ở trạng thái tĩnh sang trạng thái động. Nhớ tới hôm nào, khi Kỳ Phát khám phá ra cái kho tàng kể chuyện lại cho tôi nghe xong có nói tiếp: - Đời tôi có lẽ toàn là những cái phiêu lưu bí mật, ngay từ lúc tuổi thơ, tôi đã bị nhiều nỗi khổ lạ lùng… Lúc đó tôi có hỏi ngay về cái đời thuở nhỏ của Kỳ Phát song hắn nhất định không nói, tôi bèn nhân lúc này mà gợi chuyện ra. Làm ra bộ ngớ ngẩn, tôi hỏi Kỳ Phát: - Anh nói thế là thế nào, tôi không hiểu đấy! ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Tất Nhuộm Bùn của tác giả Phạm Cao Củng.
Nhà Sư Thọt - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Nhà sư thọt: Một ông già dở người bị đẩy xuống giếng, tuy giàu có ức vạn nhưng chỉ để lại chiếc két rỗng không. Một nhà sư thọt lẻn đến hiện trường đào bới lúc nửa đêm. Liệu ông ta có liên quan đến cái chết của nạn nhân và số của cải bị giấu? Kỳ Phát phải làm thế nào để tìm ra hung phạm và những uẩn khúc được giấu kín suốt nhiều năm? ***   Kỳ Phát vặn khóa, mở cửa vào trong buồng. Chàng nhìn quanh quẩn, đến bên chiếc giường chăn ga còn phẳng nguyên, mở tủ thấy tầng dưới không còn chiếc va ly nữa thì càu nhàu, lẩm bẩm: - Cóc khô, cóc khô! Thằng cha lại đi vắng rồi, mà chẳng biết mấy ngày nữa mới về đây! Nhưng Kỳ Phát cũng cởi bỏ áo ngoài, vắt vào lưng ghế, cắm quạt điện, rồi phàn nàn một mình: - Được ngày về thăm bạn thì bố lại đi vắng, chán quá! Nhưng Kỳ Phát bỗng với tay lấy mẩu giấy đè dưới chiếc gạt tàn thuốc lá, để trên bàn: - Anh chàng để di chúc gì lại đây! À… “Anh Kỳ Phát, tôi đi có việc cho nhà báo, sáng mai mới về. Anh cứ ở lại chơi tự nhiên, trong tủ còn nhiều cà phê, anh đun nước đèn cồn mà pha. Ngăn tủ bên trái còn chai Rhum đấy!” Kỳ Phát gật gù: - Dưới chỗ đề ngày tháng, anh chàng đã chữa đi ba bận, tỏ ra rằng trong tháng này, anh đã đi xa ba lần rồi, và lần nào cũng cẩn thận để giấy lại cho mình. Và chắc bây giờ giấy cao, chàng hà tiện giấy: viết giấy để lại mà mình không về thì để lần khác dùng chỉ chữa có ngày tháng đi thôi! Kỳ Phát liếc nhìn lên ảnh bạn trên tường, mỉm cười, có lẽ đã thầm cảm ơn một người bạn tốt, lúc nào cũng nhớ và săn sóc đến mình mặc dầu sau khi đau đớn vì Cúc chết, đã ra đi và chẳng hẹn ngày về…* Xem Kỳ Phát giết người. Đổ chai nước lạnh vào ấm, tráng đi rồi lại đổ đầy, đánh diêm châm chiếc đèn cồn lên, Kỳ Phát thong thả sửa soạn đun nước. Chàng tháo giầy, cởi quần ngoài vì hôm nay đã đi đường nhiều hơi mệt, chàng cũng không muốn đi chơi đâu nữa. Lấy chai rượu mạnh ra, Kỳ Phát rót một cốc nhỏ, đánh diêm châm điếu thuốc lá thơm, rồi gác chân lên bàn mà uống nhấm nháp. Tiếng nước trong ấm reo đều đều, hòa nhịp với ngọn lửa đèn cồn xanh lè, xì mạnh. Kỳ Phát đứng dậy, lấy cà phê ra, bỏ vào bình lọc, lấy cái đĩa ấn cà phê xuống cho chặt, rồi thong thả pha nước sôi vào. Ghé đầu nhìn giọt nước vàng thánh thót rơi xuống Kỳ Phát xoa tay sung sướng. - Kể sống một đời văn sĩ, tự lập và chẳng bận bịu vợ con như anh chàng này cũng sướng, mình tính dù đã quen hoạt động mà đôi khi hưởng thú nhàn tình này cũng thấy hay hay! Kỳ Phát đợi cho nước trong bình chảy xuống hết, vừa lúc chàng cũng uống cạn cốc rượu mạnh. Bộ mặt xương xương của chàng trinh thám trẻ tuổi và có tài của chúng ta, nhất là chỗ hai lưỡng quyền cao, đã ửng đỏ. Mặc dầu, chàng cũng với tay lấy chai rượu, rót ra gần đầy cốc để sau khi khuấy đường trong cốc cà phê tan hẳn, nhẹ tay mà chế rượu vào. Đưa cốc cà phê lên ngang mũi hít một hơi dài, Kỳ Phát tắc lưỡi một cái ra ý vừa lòng lắm. Chàng lẩm bẩm: - Có say cũng không sao, mình đi ngủ chứ có làm gì đâu mà sợ! Quả vậy, sau khi Kỳ Phát uống cạn cốc cà phê, tráng miệng bằng một chén nước lạnh rồi thì chàng sửa soạn đi ngủ. Trên bàn giấy bấy giờ chỉ còn một ngọn đèn đêm, Kỳ Phát vươn vai, ngáp dài một cái. Một lát sau, trong phòng chỉ còn tiếng chàng thở đều đều. Có lẽ nỗi nhọc mệt khi đi đường, hơi men của cốc rượu mạnh đã làm cho Kỳ Phát vào giấc ngủ một cách dễ dàng mê mệt. Trên chiếc bàn con để ở cạnh giường, chiếc đồng hồ vẫn tí tách đều đều. Đôi kim dạ quang xanh biếc lừ lừ đuổi nhau, rồi vượt qua, đã được mấy vòng. Nhưng ngoài tiếng tí tách của đồng hồ, còn tiếng lạch xạch ở ngoài ổ khóa. Vốn quen ngủ một cách tỉnh táo, có lẽ vào lúc khác thì Kỳ Phát đã sực tỉnh rồi, nhưng lần này thì Kỳ Phát vẫn ngáy đều, không hay biết gì cả. Cho đến khi có tiếng chìa khóa nhè nhẹ xoay hết một vòng. Rồi im lặng. Rồi cánh cửa từ từ hé mở không một tiếng kẹt nhỏ đủ tỏ người đẩy quả đã quen tính không bao giờ làm bận rộn đến chủ nhân đang yên giấc. Một bóng đen rón rén tiến vào, rồi chỉ hai phút sau, ngọn đèn đêm đã vụt tắt. Trên giường Kỳ Phát vẫn ngáy đều. Cái bóng đen như nép yên một chỗ mà nghe ngóng, mãi một lát sau mới bấm ngọn đèn pin, chiếu ra một vệt sáng nhỏ dài như một tia nắng chiếu qua khe cửa vậy. Vệt sáng ấy vụt cháy, rồi vụt tắt, qua hết góc này đến góc nọ trong phòng. Rồi cuối cùng thì tắt hẳn. Một tiếng sột soạt nho nhỏ. Trong bóng tối, mấy chiếc ghế hình như có người nhẹ nhàng khiêng dịch ra chỗ khác. Mấy phút yên lặng vừa qua, rồi ánh sáng trong phòng bỗng chói lòa. Bị chói mắt, Kỳ Phát càu nhàu, giơ tay dụi, chưa kịp nhìn rõ cái gì thì đã có tiếng quát khẽ: - Nằm im, không có chết mất mạng! ... Mời các bạn đón đọc Nhà Sư Thọt của tác giả Phạm Cao Củng.
Đám Cưới Kỳ Phát - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Đám cưới Kỳ Phát: Một buổi sáng, Kỳ Phát tình cờ nhìn thấy Thanh Ngọc trên sân ga và bị hút hồn ngay bởi đôi mắt huyền của giai nhân. Theo chân nàng lên chuyến tàu định mệnh, rồi nhận lấy chiếc va ly duyên nợ, Kỳ Phát bị cuốn vào một vụ án ly kỳ và rắc rối. Liệu cuộc gặp gỡ có phải mối lương duyên tốt đẹp? Kỳ Phát sẽ có một đám cưới hạnh phúc, hay ẩn tàng sau đó là âm mưu thâm độc cùng những cạm bẫy chết người? *** Lúc ấy mới 4 giờ sáng. Trên sân ga Hà Nội, ngoài mấy người bán hàng bánh tây và cà phê, chỉ mới có lác đác dăm ba hành khách. Họ phần nhiều đều có đồ đạc kềnh càng cho nên mới phải ra tầu sớm, hòng kiếm một chỗ rộng rãi. Trong phòng đợi hạng ba chưa có một người nào cả. Có lẽ vì quá 5 giờ rưỡi, chuyến tầu Bắc mới chạy và những bọn khách sang này ít khi bị chen chúc nên không cần ra ga sớm. Trời lại lất phất mưa. Những ánh đèn thắp theo lối phòng thủ không đủ soi sáng suốt sân ga nên qua từng khoảng tối, người ta mới lại trông thấy rõ những hạt mưa nhỏ, lấp loáng, trắng bóng, như những hạt bụi bay trong một vệt ánh nắng vậy. Đằng xa, thỉnh thoảng một tiếng còi tầu rúc ngắn làm cho mấy hành khách đứng đợi nghển cổ nhìn… Nhưng không, đó chỉ là những chiếc đầu tầu người ta dồn đường hoặc đến lấy than, nước. Trời rạng dần. Những hành khách ra đợi tầu cũng mỗi lúc một đông thêm. Sau một tiếng còi rúc dài, một nhân viên Sở hỏa xa từ trong phòng giấy bước ra, tay xách chiếc đèn bão. Đứng cạnh đường tầu, người ấy cầm đèn đưa qua đưa lại để ra hiệu cho đoàn tầu Bắc từ phía xa dồn lại. Các hành khách đã nháo nhào sửa soạn lên tầu. Và khi đoàn tầu vừa dừng bánh họ đã tíu tít chen nhau lên và chỉ thong thả dọn dẹp chỗ ngồi khi thấy số hành khách ra sớm ấy ngồi chưa chật hết được một bên dãy ghế trong hai toa… Họ vội vàng hấp tấp như vậy cũng không có gì là lạ cả, vì họ đã từng gặp nhiều chuyến tầu chật chội quá, người đứng nêm nhau không còn có một chỗ nào mà lách chân trong khi ở dưới sân ga hãy còn bao nhiêu là hành khách nữa đương ngong ngóng chen lên. Họ đâu có được như chúng tôi là những kẻ “vô công rồi nghề” lấy vé ke ra ngoài sân ga chỉ là một công việc làm khi không còn biết làm công việc gì khác nữa. Sáng sớm hôm ấy, tôi đương ngủ, bỗng có tiếng động, mở mắt ra đã thấy Kỳ Phát dậy từ bao giờ, đương lúi húi đun đèn cồn. Tôi ngáp dài, hỏi: - Hôm nay anh làm gì mà dậy sớm thế? Kỳ Phát cười: - Tôi chẳng định làm gì cả nhưng vì chợt tỉnh giấc, sực nhớ có ông bạn biếu gói chè tầu bảo rằng ngon lắm nên trở dậy, đun nước uống chơi! Rồi Kỳ Phát lại tiếp: - Nước đã sôi rồi đây, anh nằm ngủ lại hay dậy uống nước với tôi, tùy thích! Tôi tung chiếc chăn đơn, ngồi dậy, cười mà bảo Kỳ Phát rằng: - Ngủ lại cũng chẳng được nữa, dậy uống nước còn hơn. Tôi lại sực nhớ đến thuở nhỏ ở Nam Định, bao giờ mở mắt thì đã thấy thầy tôi uống tàn ấm nước sáng rồi! Kỳ Phát gật đầu: - Uống trà vào những lúc ấy mới hưởng được hết cái hương vị của ấm trà ngon, chứ đến chơi nhà ai, thì nước cũng pha một cách cẩu thả, uống bằng một cách vội vàng, chẳng qua là cái lối “ngưu ẩm” mà thôi! Ngừng lại một lát để tráng cẩn thận chiếc ấm và đôi chén, rồi Kỳ Phát mới tiếp: - Cổ nhân xưa chỉ thường uống trà vào hai buổi: sáng sớm tính sương và buổi trưa. Theo như chỗ tôi nhận thấy thì uống trà buổi trưa dễ thấy trà ngon nhất, vì lúc đó, sau những giờ làm việc buổi sáng, người mình thấy hơi nhọc mệt nhưng tâm thần thư sướng. Thong thả nhấp chén trà, ta tự nhiên cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, người khỏi mệt, cổ khỏi ráo. Uống trà vào buổi sớm thì tinh thần mình vẫn còn bị hôn quyện do giấc ngủ vừa qua. Nhưng trà là một món giải khát “thanh tâm, minh mục”, nhờ đó mà người ta thành tỉnh táo một cách dễ dàng, mặc dầu hương vị của trà, ta không thể thưởng thức hết được. ... Mời các bạn đón đọc Đám Cưới Kỳ Phát của tác giả Phạm Cao Củng.