Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trở Thành Người Lãnh Đạo Hiệu Quả

Những quản trị viên thành công quan tâm nhiều hơn tới việc đạt được những mục tiêu đề ra, hay là tới việc lãnh đạo nhân viên dưới quyền? Các quản trị viên hiệu quả biết rằng để đạt được những mục tiêu đó, họ phải là những người lãnh đạo đích thực, biết dẫn dắt, động viên, huấn luyện, và chăm chút nhân viên của mình. Tất cả những ai khao khát thành công trong công việc nên tập trung vào việc cân bằng giữa kỹ năng lãnh đạo và quản lý. Điều quan trọng là phải biết tìm kiếm sự cân bằng giữa những việc chúng ta đang làm với những việc chúng ta lãnh đạo người khác làm. Bằng cách nào chúng ta có thể nhận diện và cải thiện phong cách lãnh đạo của mình tới mức cao nhất có thể để gặt hái được những kết quả tốt nhất cho chính mình và công ty? Cách chúng ta nhìn người khác và những giả định chúng ta đưa ra về mọi người và thế giới chung quanh giúp định hình thực tế và môi trường trong đó chúng ta làm việc. Qua cuốn sách này, chúng ta sẽ nghiên cứu những bài học chúng ta đã biết về nghệ thuật lãnh đạo và những niềm tin hình thành nên từ những trải nghiệm đó. Vai trò ngày càng thay đổi của người trưởng phòng/người lãnh đạo Thế giới đang thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi những người đang ở vị trí lãnh đạo và quản lý cần phải luôn đảm nhiệm những vai trò, trách nhiệm ngày một thay đổi. Dù chúng ta ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, hay là ở Vành đai Thái Bình Dương, sự cạnh tranh luôn đòi hỏi chúng ta phải tìm ra những cách tốt hơn, hiệu quả hơn, năng suất cao hơn, đồng thời, đem lại nhiều lợi nhuận hơn để tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Những đòi hỏi này không chỉ giới hạn ở sự cạnh tranh giữa các công ty. Những kỳ vọng của nhân viên, khách hàng trong và ngoài công ty, các nhà cung cấp, nhà phân phối, và đối tác kinh doanh cũng ngày càng tăng. Để duy trì sức cạnh tranh trong thế giới đang ngày càng thay đổi nhanh chóng này, chúng ta cần lãnh đạo và quản lý công ty của mình bước vào kỷ nguyên mới. Tạo ra và chia sẻ một tầm nhìn Chúng ta phải sáng tạo và có khả năng tạo ra một tầm nhìn chung, đồng thời truyền đạt nó một cách hiệu quả trong toàn công ty. Chúng ta phải động viên tất cả nhân viên tư duy sáng tạo vượt ra khỏi khuôn khổ của những công việc được giao, của một cách tiếp cận công việc quá đơn giản, nhằm đưa công ty phát triển và trở nên thành công trong thế giới ngày nay. Quan trọng là chúng ta phải tuyển dụng và bồi dưỡng những nhân viên có khả năng giúp đưa công ty lên tầm cao mới. Chúng ta không thể một mình làm được điều này, nhân viên của chúng ta cũng không thể đưa chúng ta lên tầm cao mới, trừ phi trước tiên chúng ta xác định những mục tiêu của mình, tạo ra một tầm nhìn rõ ràng, rồi truyền đạt nó tới mọi người. Một khi tầm nhìn này được đề ra và phổ biến rộng khắp công ty thì nó sẽ dẫn tới việc chúng ta giao phó và trao quyền cho nhân viên, để rồi từ đó sẽ đưa chúng ta lên một tầm cao mới. Mọi nhân viên sẽ không còn nghĩ vai trò của mình là tập trung thực hiện những công việc được giao, mà thay vào đó là hướng đến thành quả. Nhìn thấy rõ thành quả sẽ truyền cho chúng ta và mọi nhân viên nguồn cảm hứng để dám chấp nhận rủi ro và nhận lãnh trách nhiệm; từ đó, ban lãnh đạo sẽ tìm được vị trí xứng đáng trong công ty. Việc xác định rõ ràng những thành quả cần đạt được cho phép mọi người trở thành những nhân viên tự giác hơn và biết cách sử dụng những nguồn lực mà không cần đến sự trợ giúp của cấp trên. Hành vi trao quyền được thúc đẩy bởi một tầm nhìn chung, nhưng sẽ không thể khả thi nếu tầm nhìn này không được truyền đạt rõ ràng xuyên suốt trong công ty. Sự truyền đạt hiệu quả là kỹ năng nền tảng của việc xây dựng những đội ngũ hiệu quả, tạo ra một ý thức thống nhất về mục đích, và đưa công ty lên một tầm cao mới. Cân bằng giữa con người và qui trình Khi được yêu cầu xác định đức tính cá nhân nào đáng chú ý nhất mà ban giám đốc cần tới thì hầu hết các quản trị viên cấp cao trả lời: “khả năng làm việc với người khác”. Các lãnh đạo công ty nhận ra tầm quan trọng của việc sản xuất, phân phối, kỹ thuật, bán hàng, nghiên cứu và phát triển, và họ có sẵn những hệ thống quản trị để tổ chức, hướng dẫn, và kiểm soát các hoạt động trong từng lĩnh vực. Tuy nhiên, khi cần phải thực hiện những quyết định của ban giám đốc thì chúng phải do con người thực hiện. Con người là khoản chi phí tác nghiệp duy nhất và lớn nhất trong bất kỳ một khoản ngân sách nào. Hoạch định, dù là chức năng hay chiến lược, được thực hiện và xây dựng chung quanh con người. Tài sản quí báu nhất một công ty có được là nhân viên của nó. Trên thực tế, hầu hết các quản trị viên dành ra khoảng 3/4 thời gian mỗi ngày làm việc để quan hệ với nhân viên. Điều này có nghĩa là chúng ta tạo ra hệ thống quản trị mà theo đó công ty hoạt động và không ngừng chứng minh rằng năng lực lãnh đạo là yếu tố cho phép những hệ thống đó đạt được những mục tiêu của chúng. Một trong những lý do chính khiến một nhân viên được đề bạt vào những chức vụ quản trị hoặc lãnh đạo là vì họ hiệu quả trong những công việc họ làm. Hiện nay, công việc của một quản trị viên là giúp cho người khác có thể làm tốt hoặc tốt hơn công việc chúng ta từng làm. Điều này đòi hỏi một khối kỹ năng hoàn toàn khác. Sự thành công của chúng ta đòi hỏi bước quá độ từ thực hiện sang lãnh đạo để tận dụng những kỹ năng và thời gian của mình. Để trở thành người trưởng phòng làm việc hiệu quả, chúng ta phải giữ cân bằng giữa con người và qui trình. Tập trung quá vào con người có nghĩa là nếu một nhân viên chủ chốt nghỉ việc thì mọi việc sẽ ngưng trệ; còn nếu tập trung quá nhiều vào qui trình đồng nghĩa với việc có những hệ thống tuyệt hảo hiện đang vận hành đó, nhưng không ai hiểu rõ chúng hoặc muốn làm việc trong những hệ thống như vậy. Tập trung vào qui trình có nghĩa là bảo mọi người: “Đây là kế hoạch còn đây là cách chúng ta thực hiện”. Tập trung vào con người là muốn phát biểu: “Chúng ta hãy cùng thảo luận về kế hoạch này và lý do tại sao chúng ta làm những việc đó”. Nếu giữ được sự cân bằng giữa hai yếu tố này thì cả năng suất lẫn sự tận tâm trong công việc đều được duy trì ở những mức cao nhất. Cân bằng giữa sự động viên và tính trách nhiệm Không có sự động viên khích lệ, không gì có thể hoàn thành được, và có phải mỗi khi chúng ta cố ràng buộc người khác vào trách nhiệm thì họ không còn hăng hái nữa? Không nhất thiết là như vậy! Có những cách ràng buộc người khác vào trách nhiệm đối với những mục tiêu, mục đích, và cam kết nhưng cùng lúc vẫn duy trì động lực. Với sự cân bằng giữa hai yếu tố này, chúng ta càng có nhiều sự kiểm soát lên những thành quả cho chính mình và cho đội ngũ. Ngày nay, hơn bao giờ hết, công việc của một quản trị viên là xây dựng nhân viên. Khi chúng ta có thể tạo ra một môi trường mà trong đó các nhân viên gặt hái được kết quả, phát triển được những kỹ năng mới và đạt được thành công, chúng ta đang hoàn thành bổn phận cao nhất của một quản trị viên và người lãnh đạo của mọi nhân viên. Giao tiếp với sức mạnh và sự nhạy cảm, trở thành một huấn luyện viên, và xây dựng con người là ưu tiên cao nhất của một người lãnh đạo. Xử trí xung đột và sự tiêu cực Dù chúng ta làm gì đi chăng nữa, chúng ta sẽ luôn gặp những thách thức từ các nhân viên tiêu cực và từ nhiệm vụ quản lý hiệu quả công tác của mình. Những thành quả của chúng ta và của đội ngũ phụ thuộc vào cách chúng ta xử trí những hoàn cảnh đó. Sự công bằng, tính nhất quán, và sức mạnh nên được đặt đúng chỗ, đúng lúc, và theo đúng cách. Không có những điều trên, tinh thần làm việc của mọi người có thể đi xuống, ảnh hưởng tới năng suất, lòng trung thành của khách hàng cũng như của nhân viên – những đòi hỏi bắt buộc phải có trong điều kiện lực lượng lao động đầy cạnh tranh như hiện nay. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ giải quyết những vấn đề trên và cả những vấn đề khác mà những người lãnh đạo đối mặt, đồng thời cung cấp những cách tiếp cận giúp chúng ta và đồng nghiệp cải thiện năng suất làm việc và cùng lúc phát triển những kỹ năng, thái độ và năng lực giúp tất cả chúng ta thăng tiến trong công việc của mình. Để có thể tiếp thu tốt nội dung, hãy đọc toàn bộ cuốn sách trước để nắm bắt khái niệm chung về việc thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Sau đó, đọc lại mỗi chương và bắt tay vào áp dụng những nguyên tắc hướng dẫn cho từng khía cạnh được nêu ra trong sách. Tiến sĩ  Arthur R. Pell Biên tập viên *** Peter Drucker, một trong những nhà tư duy quản trị kiêm nhà văn nổi tiếng, từng viết: “Hầu hết những gì mà chúng ta gọi là quản lý bao gồm việc làm cho nhân viên khó hoàn thành công việc”. Những trưởng phòng đó đã làm gì khiến Drucker viết ra nhận định trên? Nhiều người trong vai trò quản lý hoặc giám sát đối xử với nhân viên của mình như thể họ là người máy – kỳ vọng họ làm chính xác theo những qui trình và không cần sử dụng bất kỳ sáng kiến, óc sáng tạo và tư duy của họ khi làm việc. Họ rất quan tâm tới việc theo sát những nguyên tắc, qui định, trình tự và thủ tục đến độ bỏ qua tiềm năng ở mỗi nhân viên làm việc dưới sự giám sát của họ. Các trưởng phòng – những người thực sự lãnh đạo nhân viên của mình thay vì chỉ cách cho họ làm việc – không chỉ gặt hái được những kết quả tốt hơn cho công ty mà còn phát triển được những đội ngũ cam kết làm việc hướng tới thành công trong mọi khía cạnh của công việc và cuộc sống. Bạn có biết phẩm chất quan trọng nhất một người lãnh đạo có thể có được là gì không? Không phải là khả năng thực hiện; không phải là một tư duy vĩ đại; không phải là sự tử tế, lòng can đảm hay óc khôi hài, dù mỗi một đặc tính trên đều rất quan trọng. Điều quan trọng là khả năng kết bạn, mà suy cho cùng có nghĩa là khả năng nhìn thấy điều tốt đẹp nhất ở người khác. Dale Carnegie Những người lãnh đạo phụng sự Người lãnh đạo đích thực phục vụ nhân viên của mình – không thể khác đi được. Hình tam giác là hình học đặc trưng mà chúng ta thường sử dụng để liên hệ tới hầu hết các tổ chức. Trên cùng là ông chủ, người ra lệnh cho cấp quản lý trung gian, và những người này sẽ ra lệnh cho nhân viên. Ở đáy của hình tam giác này là khách hàng, những người chúng ta hy vọng sẽ hài lòng với những gì chúng ta cung cấp. Mục đích của mỗi tầng trên hình tam giác đó là để phục vụ cho tầng bên trên. Trong cách tiếp cận truyền thống, nhân viên phục vụ người giám sát, các giám sát và trưởng phòng cuối cùng sẽ phục vụ cho ông chủ lớn. Khách hàng – ở tận đáy của hình tam giác – gần như bị bỏ quên. Hình tam giác đó nên được đảo ngược. Ban quản trị cấp cao nên phục vụ các quản trị viên cấp trung gian, những người này sẽ phục vụ những người giám sát để rồi họ phục vụ nhân viên – và tất cả họ sẽ phục vụ khách hàng. Những người lãnh đạo phục vụ nhân viên của mình J. Willard Mariott, một ông chủ nhà hàng khách sạn, tóm tắt cô đọng điều trên như sau: “Công việc của tôi là động viên, khích lệ nhân viên của mình, dạy họ, giúp họ và  chăm chút họ”. Hãy chú ý điều sau cùng – chăm chút họ. Những lãnh đạo giỏi thực sự chăm chút cho nhân viên của mình. Họ tìm hiểu kỹ những điểm mạnh và điểm yếu của nhân viên, những gì họ thích và không thích, cách họ hành động và phản ứng ra sao. Họ dành thời gian ra để làm việc với nhân viên, đem lại nhiều nguồn lực, công cụ, bí quyết để nhân viên làm việc hiệu quả. Họ không can dự vào việc của nhân viên bằng cách tỏ ra lo lắng liệu có cần thêm dấu chấm trên đầu chữ “i”, hoặc thêm dấu gạch ngang cho chữ “t” hay không. Khi tiến hành khảo sát về những gì nhân viên muốn ở một người sếp, hầu như điều được nhắc tới nhiều nhất là một người sếp luôn hiện diện vì tôi. Đây là người sếp mà mọi nhân viên có thể tìm tới hỏi ý kiến và không sợ bị xem là ngớ ngẩn, một người sếp mà ai cũng có thể tin cậy tìm đến khi muốn được chỉ bảo, hỏi thêm thông tin và xin lời khuyên, thay vì một người sếp chỉ biết đòi hỏi và ra mệnh lệnh. Đó là người sếp giúp phát triển tiềm năng của con người – không chỉ sử dụng họ như một phương tiện để hoàn thành một công việc. Trao quyền cho người của mình Những người lãnh đạo đích thực “trao quyền” cho nhân viên của mình. Từ “trao quyền” đã trở thành một từ làm khuấy động giới quản trị ngày nay, nhưng những từ như thế thường thể hiện cô đọng một ý niệm đang được chấp nhận. Nó xuất phát từ một thuật ngữ pháp lý, có nghĩa là chuyển quyền pháp lý nào đó từ một người này sang một người khác. Tuy nhiên, trong biệt ngữ quản trị ngày nay, nó được sử dụng với nghĩa rộng hơn – chia sẻ một số quyền hành và sự kiểm soát mà một vị trưởng phòng có được với những nhân viên họ quản lý. Thay vì người trưởng phòng đưa ra mọi quyết định về cách thức tiến hành một công việc, những nhân viên thực hiện nhiệm vụ sẽ góp phần đưa ra quyết định. Khi nhân viên có tiếng nói trong những quyết định này, chúng ta không chỉ gặt hái được nhiều thông tin đa dạng hơn về cách thực hiện một công việc, mà các nhân viên, nhờ được tham gia vào việc ra quyết định, sẽ trở nên tận hiến vì sự thành công của công việc. Quản lý và lãnh đạo Quản lý nhấn mạnh rằng người ta làm theo mệnh lệnh – thường là làm theo răm rắp, không một chút thắc mắc. “Đây là cách việc này sẽ được hoàn thành”. Còn lãnh đạo thì khích lệ óc sáng tạo ở nhân viên bằng cách thu hút ý tưởng của họ cả trong giao tiếp hàng ngày lẫn trong các cuộc họp chính thức, những chương trình đóng góp ý kiến và những hoạt động tương tự. Quản lý là nói cho nhân viên biết họ sẽ chịu trách nhiệm về những gì. Trong khi đó, lãnh đạo trao quyền cho nhân viên – trao cho họ những công cụ để tự đưa ra những quyết định trong phạm vi những nguyên tắc chỉ đạo mà các bên liên quan đều có thể chấp nhận được. Quản lý chú ý hơn tới việc những chính sách được tuân thủ ra sao, giải thích qui tắc, chính sách và làm cho chúng có hiệu lực thi hành. Lãnh đạo khích lệ mọi người và dạy họ làm thế nào để hoàn thành công việc. Nếu nó không hiệu quả như mong đợi, cần phải nỗ lực để cải thiện hiệu quả công việc thông qua nhiều bài huấn luyện tốt hơn. Giúp người khác học hỏi là công cụ chính để đạt được hiệu quả công việc cao. Quản lý tập trung những nỗ lực vào làm việc một cách đúng đắn; lãnh đạo nhấn mạnh làm những việc đúng. Có những lúc người ta cần quản lý – vì những lý do pháp lý hoặc tương tự, quan trọng hơn cả là phải làm thật đúng theo bài bản. Dĩ nhiên là những người trong vị trí quản lý phải đảm bảo rằng mọi việc được thực hiện một cách đúng đắn. Nhưng đây không phải là công việc chính. Đảm bảo nhân viên tuân thủ các nguyên tắc là điều cần thiết trong những trường hợp như thế, nhưng quan trọng hơn là huấn luyện mọi người thạo việc và khích lệ họ khao khát làm hết sức mình để hoàn thành những mục tiêu của phòng ban và công ty. Để đạt được điều này với những nhân viên của mình là một ví dụ hoàn hảo về năng lực lãnh đạo đích thực. Người sếp tốt – người sếp tệ Harry là kiểu sếp thích được người khác ưa thích. Anh nghĩ mình là một người sếp tốt vì mọi người trong phòng của anh thích anh. Anh không muốn làm suy giảm lòng mến mộ này, vì thế anh đã do dự không ép buộc nhân viên phải thi hành những qui định tối thiểu hoặc sửa chữa những lỗi nhỏ trong công việc. Khi cần khiển trách, anh thường im lặng thật lâu đến độ quên luôn cả lý do của việc khiển trách. Tuy nhiên, anh thường khen quá nhiều đến độ lời khen mất đi ý nghĩa. Teresa rất khó chịu. Chị tin rằng người ta phải sử dụng tới quyền hành thì mới khiến công việc được hoàn thành. Chị cộc cằn, giáo điều, và câu nói chị ưa sử dụng là: “Tôi là sếp. Anh được trả lương để làm việc, vì vậy, tốt hơn hết anh nên làm việc, nếu không thì…” Chị hiếm khi khen nhân viên và thường la rầy họ trước mặt người khác trong phòng. Cả Harry và Teresa đều có những vấn đề nghiêm trọng vì cả hai thái cực như thế không thể mang lại hiệu quả. Chúng ta hãy xem điều gì đã xảy ra trong từng tình huống sau. Người sếp xuề xòa Khi một người trưởng phòng không kiểm soát phòng ban mình, công việc sẽ bị ảnh hưởng. Sản xuất sẽ không theo đúng lịch, chất lượng bị ảnh hưởng, mọi nhân viên sẽ lợi dụng sự dễ dãi này, nhiều người xin nghỉ mà không có lý do chính đáng, và sự trễ nải sẽ làm hại tới công ty. Nhân viên của Harry cảm thấy không được lãnh đạo và lấn lướt anh. Tại sao một người trưởng phòng trở nên hiền lành và xuề xòa đến mức khiến cả phòng phải gánh chịu hậu quả? Thường thì nguyên nhân sâu xa có thể là cảm giác bất an trong khả năng cống hiến của họ. Những người bất an đòi hỏi sự chấp thuận từ những người khác để bênh vực cho cái tôi ích kỷ của mình. Những người như thế muốn được người khác yêu mến, muốn có “đồng bọn”. Họ tin sự hiền lành và lòng khoan dung với thuộc cấp sẽ dẫn tới sự chấp thuận của nhân viên. Khi sếp của Harry khám phá ra rằng phòng ban này đang bị rơi lại phía sau, Harry sẽ bị qui trách nhiệm. Bây giờ, Harry hồi hộp và biết mình phải mau chóng thay đổi hoàn toàn. Một phản ứng tự nhiên là thay đổi ngay thái độ. Anh bắt đầu cứng rắn và đòi hỏi khắt khe hơn. Anh phê phán nhân viên mình, thường xuyên la hét và quát tháo. Anh bắt đầu quở trách họ vì những lỗi vụn vặt và phạt họ vì những chuyện mà cách đó một tuần anh từng phớt lờ. Điều này gây ra sự oán giận và bất ổn trong nhân viên. Công việc của toàn phòng có thể khá hơn trong một thời gian, nhưng về bản chất, những hành động này trái với tính tình của Harry nên một khi mọi việc được tháo gỡ, anh ta lại quay trở lại bản tính cũ của mình. Những thay đổi thường xuyên trong cách quản lý thường khiến người ta thoái chí hơn là giữ nguyên một phong cách – dù là tốt hay xấu. Nhân viên của chúng ta không thể tiên lượng chúng ta sẽ hành xử ra sao. Sự không chắc chắn này dẫn tới tinh thần làm việc tệ hại và tỷ lệ biến động nhân sự cao. Nguyên nhân của thái độ xuề xòa, dễ dãi của Harry bắt nguồn từ cảm giác bất an của chính anh. Anh cần phải xây dựng sự tự tin của mình. Một cách để làm được điều này là trở thành chuyên gia trong công việc anh làm. Khi một người có kiến thức sâu về công việc, người đó sẽ có cảm giác an toàn trong công việc, từ đó trở nên tự tin trong mọi vấn đề liên quan tới công việc. Harry cũng nên tìm hiểu thêm về các mối quan hệ con người và áp dụng những gì mình vừa học được vào công việc của mình. Người giám sát khô khan Teresa có một vấn đề tương tự. Mặc dù phong cách của cô khác nhiều với phong cách của Harry, nhưng hậu quả cũng rất giống. Cô gây ra oán giận trong nhân viên và, vô tình hay cố ý, họ từ chối cộng tác. Năng suất thấp hơn, tỷ lệ biến động nhân sự cao hơn, nhiều người xin nghỉ làm không có lý do chính đáng, nhiều mối bất bình, và tinh thần làm việc thường giảm sút đều là những chứng cứ thông thường của sự thiếu cộng tác như thế. Nguyên nhân của cách tiếp cận cứng rắn cũng như khoan dung nêu trên là sự thiếu tự tin. Tuy nhiên, thái độ “khao khát muốn làm vừa lòng” lại được thế chỗ bởi một tính cách cộc cằn và vẻ bề ngoài độc đoán. Khiến cho một người lãnh đạo khô khan thay đổi là việc khó khăn hơn, có lẽ vì họ có một cảm giác khó lay chuyển là cứ cho rằng cách của mình là cách duy nhất. Sự cố chấp là một phần không thể thiếu trong mẫu hành vi của họ. Một lần nữa, giải pháp cho vấn đề này đòi hỏi sự hiểu biết rõ về mối quan hệ con người. Người giám sát phải học cách khen ngợi thường xuyên hơn, học cách làm thế nào để đưa ra lời khiển trách đem lại hiệu quả mà không gây oán giận và hiềm thù. Teresa phải học làm dịu bớt tính cách và ngôn từ của mình để tránh cãi vã và để làm việc thân thiện hơn với đồng nghiệp và nhân viên của mình. Người giám sát tuyệt nhất Phong cách giám sát hiệu quả nhất là ở giữa hai thái cực trên. Nó dựa trên nền tảng là sự hiểu biết hành vi con người và áp dụng kiến thức này vào việc cư xử với những người dưới quyền của mình. Anh hoặc chị ta khen người khác vì làm tốt công việc, nhưng không vung vãi lời khen một cách hời hợt. Harry khen quá mức tới độ không một nhân viên nào của anh cảm thấy công việc họ làm tốt thực sự được đánh giá cao. Teresa không bao giờ khen nhân viên của cô, khiến họ cảm thấy chẳng cần gì phải cố gắng để hoàn thành xuất sắc công việc của mình. Việc quở mắng, khi cần thiết, nên được thực hiện một cách kín đáo và với thái độ điềm đạm. Không bao giờ lên giọng và luôn cho nhân viên mình cơ hội để kể câu chuyện của chính họ. Hãy chú ý lắng nghe và đừng ngắt lời. Hãy đưa ra lời phê bình mang tính xây dựng và phải càng cụ thể bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Đừng quở mắng khi giận dữ hoặc lúc tâm trạng đang khó chịu. Đừng biến nó thành một trận cãi vã. Tránh châm biếm hoặc cằn nhằn. Hãy chỉ nói tới những vấn đề liên quan mà thôi. Nên nhớ mục đích của một lời quở trách là sửa chữa một việc sai. Một người trưởng phòng tốt không muốn làm phức tạp thêm sai sót bằng việc tạo ra sự oán giận. Hãy luôn nhấn mạnh lên công việc hơn là người làm công việc. Những lời khuyên về cách đưa ra lời khiển trách hiệu quả sẽ được thảo luận ở Chương 9. Những người lãnh đạo giỏi không phải là những người mơ hồ, thân mật giả tạo, cũng không phải là những kẻ độc tài. Nhân viên của họ không phớt lờ, cũng không khiến họ lo sợ. Những người giám sát có năng lực luôn có sự tự tin cộng với sự tôn trọng của nhân viên. Chúng ta hãy xem xét một sự so sánh đơn giản giữa cách một người sếp quản lý và một người sếp lãnh đạo: Chuyện hoang đường và những nhận thức sai lầm Thật khó vượt qua những chuyện hoang đường và nhận thức sai lầm chi phối suy nghĩ của con người trong nhiều năm hoặc trong suốt cuộc đời. Tuy nhiên, là một nhà quản lý, chúng ta phải đánh đổ chúng nếu muốn mình có thể tiến lên phía trước. Một số người miễn cưỡng đảm nhận vai trò lãnh đạo. Để làm được việc này, họ tin mình sẽ phải có tài lãnh đạo bẩm sinh, chẳng hạn như có uy tín, hoặc một tính cách vô hình khiến họ có khả năng ảnh hưởng tới người khác. Đúng là một số người lãnh đạo tài giỏi nhất trên thế giới được sinh ra theo cách đó – họ có sức thu hút đặc biệt làm say mê công chúng. Nhưng họ là trường hợp ngoại lệ. Đa số những người lãnh đạo thành công là những người đàn ông và phụ nữ bình thường, đã và đang lao động cật lực để tới được nơi họ đang đứng. Quản lý con người dễ dàng hơn nếu chúng ta có tài năng thiên phú, nhưng không nhất thiết phải như vậy. Mỗi người chúng ta chắc chắn học được những kỹ năng cần để quản lý và lãnh đạo người khác. Lãnh đạo là một nghệ thuật có thể học hỏi được. Với một chút nỗ lực, bất kỳ ai mong muốn đều có thể học cách hướng dẫn người khác thông qua việc thu hút được sự tôn trọng, lòng tin, và sự hợp tác toàn diện của họ. Nhiều người trưởng phòng thích tự gán cho mình là những “chuyên gia”, nhưng liệu quản lý có thực sự là một nghề nghiệp hay không? Những chuyên gia ở các lĩnh vực khác (như bác sĩ, luật sư, chuyên gia tâm lý, và kỹ sư) cần phải hoàn tất nghiên cứu chuyên sâu và vượt qua nhiều kỳ thi để lấy bằng cấp. Người ta không yêu cầu những điều như thế ở một người trưởng phòng. Một vài người trưởng phòng có thể được huấn luyện chuyên biệt, nhận được những bằng cấp về quản trị kinh doanh, nhưng hầu hết những trưởng phòng như vậy được thăng chức từ những cấp dưới và từng qua ít hoặc không qua huấn luyện về quản lý. Hầu hết các trưởng phòng chủ yếu học từ chính công việc họ làm. Ngày càng có nhiều trưởng phòng cố gắng học hỏi kỹ năng thông qua những khóa nghiên cứu có cấu trúc, nhưng hầu hết các trưởng phòng vẫn học hỏi thông qua việc quan sát những phương pháp kỹ thuật từ sếp của họ. Mô hình họ theo có thể là hay, là tốt. Tuy nhiên, thường thì những trưởng phòng mới mẻ học được những triết lý cổ lỗ sĩ và không có cơ sở từ những người sếp của họ. Vài ý tưởng được nêu ra dưới đây có thể đúng trong quá khứ nhưng bây giờ không còn hiệu quả nữa; những ý tưởng khác thì không bao giờ đúng cả. Chúng ta hãy xem xét một số trong nhiều chuyện hoang đường và nhận thức sai lầm về quản lý. Quản lý không là gì ngoài lẽ thường Khi một người trưởng phòng được hỏi về công tác huấn luyện của anh ta lúc bắt đầu vai trò quản lý của mình, anh nói: “Khi tôi được đề bạt vào vị trí quản lý đầu tiên của mình, tôi hỏi xin một người trưởng phòng lâu năm một số lời khuyên về cách đối xử với nhân viên thuộc quyền. Ông bảo tôi: ‘Hãy làm theo lẽ thường, em sẽ không gặp rắc rối.’” “Lẽ thường” chính xác là gì? Những gì tỏ ra hợp lý với một người có thể là vô lý với một người khác. Định nghĩa về “lẽ thường” thường được dựa trên nền tảng văn hóa. Chẳng hạn như ở Nhật, “lẽ thường” được xem là chờ để có được sự đồng thuận chung trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào; ở Hoa Kỳ, việc chờ đợi như thế thường được chế giễu là không hiệu quả và lãng phí thời gian. Những tập quán văn hóa không phải là nguyên nhân duy nhất để lý giải cho sự khác biệt giữa những ý niệm tạo nên lẽ thường. Không ai có quan điểm giống ai về điều gì là tốt và điều gì là xấu, điều gì hiệu quả và điều gì lãng phí, điều gì có tác dụng và điều gì không. Chúng ta có khuynh hướng sử dụng chính những trải nghiệm cá nhân để phát triển những giá trị, cách hành xử phù hợp với lẽ thường của chính mình. Vấn đề là trải nghiệm cá nhân của một người chỉ đưa tới quan điểm hạn chế. Mặc dù những gì chúng ta xem như lẽ thường đã được phát triển từ chính những trải nghiệm riêng của mình, nhưng trải nghiệm cá nhân thì không bao giờ đủ để cung cấp bất kỳ điều gì khác hơn là những quan điểm hạn chế. Năng lực lãnh đạo cần nhiều hơn mức kinh nghiệm mà một cá nhân có thể có. Để trở thành một người lãnh đạo đích thực, chúng ta phải nhìn vượt lên trên lẽ thường. Chúng ta thường không chỉ dựa trên lẽ thường để giúp giải quyết những vấn đề về tài chính hoặc sản xuất. Chúng ta thường nhờ tới tay nghề chuyên môn tốt nhất có thể trong những lĩnh vực này để xin lời khuyên và thông tin. Nếu thế thì tại sao chúng ta lại đi dựa trên một cơ sở ít thực dụng hơn để giải quyết những vấn đề quan hệ con người? Chúng ta có thể học hỏi nhiều về nghệ thuật và khoa học quản lý này bằng cách đọc những sách và tạp chí về ngành nghề của mình, tham dự những khóa học và seminar, và tham gia tích cực vào những hội đoàn của ngành. Trưởng phòng là người biết mọi thứ Các trưởng phòng không biết được mọi thứ. Không ai có thể. Hãy chấp nhận rằng chúng ta không có mọi câu trả lời, nhưng biết rằng mình cần những kỹ năng để có được câu trả lời. Một cách hữu hiệu là phát triển quan hệ bạn bè với nhân viên ở những công ty khác từng có kinh nghiệm trong những hoàn cảnh tương tự. Chúng ta có thể học nhiều điều từ họ. Sinh hoạt mạng lưới – tiếp xúc với người ở những công ty khác mà mình có thể nhờ tới để xin lời khuyên, ý tưởng, và các chiến lược giải quyết vấn đề – giúp chúng ta tiếp cận với những người này khi cần thông tin và ý tưởng mới, và không ngừng cung cấp cho chúng ta một nguồn trợ giúp quí báu để giải quyết vấn đề. Không phải bạn tin vào những ý tưởng mà mình tự khám phá ra hơn là những ý tưởng được người khác trao cho mình hay sao? Nếu bạn tin vào những ý tưởng của mình, thì việc bắt người khác thừa nhận ý tưởng của bạn không phải là ý kiến tồi hay sao? Liệu đưa ra lời khuyên và để cho người ta nghĩ ra kết luận cho chính họ không phải là khôn ngoan sao? Mời các bạn đón đọc Trở Thành Người Lãnh Đạo Hiệu Quả của tác giả Dale Carnegie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho
Khi nhắc tới đầu tư giá trị,  chúng ta không thể không nhắc đến  người đàn ông lỗi lạc, người được ví như một “Warren Buffett đời thứ hai”, đó là Mohnish Pabrai. Thuộc diện sinh sau đẻ muộn lại không được đào tạo bài bản về tài chính nhưng nhưng Mohnish Pabrai đã trở thành một nhà đầu tư vô cùng thành công. Ông được xếp vào hàng ngũ những  nhà đầu tư giá trị nổi danh  thế hệ mới  cùng Phil Town, Guy Spier, Seth Klarman; những con người kế thừa  một cách xuất sắc  phương pháp đầu tư  của  các bậc “tiền bối” Benjamin Graham, Warren Buffett và Charlie Munger. Mohnish được biết tới  bởi  cách tiếp cận cực kì thành công trong dài hạn với thành tích đáng nể: đạt lãi kép tới 18.8%/năm suốt giai đoạn khó khăn của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ từ 1999-2008 (thị trường chung chỉ mang lại mức lợi nhuận khoảng 1%) và  biến  1 triệu đô la  ban đầu của trong quỹ đầu tư của mình ( năm 1999 )  tăng trưởng thành 400 triệu đô la ngày nay. Lối tiếp cận truyền thống của hầu hết các nhà đầu tư trên thực tế luôn là “Rủi ro cao, lợi nhuận cao”  nhưng với  Mohnish Pabrai thì không nhất thiết phải như vậy.  “Rủi ro thấp, lợi nhuận cao”  đó là tất cả những gì ông tìm kiếm. Mohnish Pabrai thông qua cuốn sách nổi tiếng của mình -  “Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho –  The  Dhandho Investor”  sẽ từng bước chỉ ra cho chúng ta những đặc điểm và cách thức đầu tư mà ông đã áp dụng rất hiệu quả trong thực tế. Và thật là may mắn những “túi khôn” và trí tuệ của Mohnish sẽ đến và đi thẳng vào đầu chúng ta bằng lối viết và kể chuyện đơn giản, dễ hiểu. “Ngửa thì tôi thắng, sấp thì tôi chẳng  thiệt  bao nhiêu”  đó chính là nguyên tắc lặp đi lặp lại trong cuốn sách thông qua hàng loạt các thí dụ về những ngành nghề, những doanh nhân, và những cơ hội kinh doanh khác nhau. Bạn sẽ hiểu được nguyên nhân vì sao những người Patel, một dân tộc thiểu số Ấn Độ  di cư sang Mĩ năm 1970 , với số dân vô  cùng ít ỏi , lại có thể vươn lên chiếm tới 50%  thị phần  ngành nghề kinh doanh nhà nghỉ (Motel) tại Mỹ, vì sao doanh nhân Richard Branson lại  đạt được  thành công lớn  với tập đoàn Virgin , vì sao “Vua” thép Ấn Độ Lakshmi Mittal lại là  ông hoàng  trong lĩnh vực của  mình . Hãy tập trung nghiên cứu và đầu tư vào những công ty bán những sản phẩm mà tất cả mọi người cần; hãy đầu tư vào những công ty có xác suất thay đổi và buộc phải thay đổi ít nhất, những công ty có rủi ro thấp và tính bất định cao; hãy biết chờ đợi và đặt cược lớn khi lợi thế nghiêng về phía mình; hãy cược ít, cược lớn và cược không thường xuyên;  hãy  mua khi những người khác tuyệt vọng. Đó là tất cả những gì bạn cần phải làm khi đầu tư theo phong cách của Mohnish Pabrai. NHẬN XÉT VỀ SÁCH Monish Pabrai là một người có tư tưởng sắc sảo, ông thích giải mã thế giới tài chính huyền bí đồng thời cũng là người xâu chuỗi câu chuyện đến tài tình. Cho dù bạn hoang mang thế nào trước những thế lực đứng sau sự bấp bênh của giá cổ phiếu trên Phố Wall hay bạn biết chắc mình đã tỏ đi nữa, bạn cũng sẽ hiểu thấu đáo hơn khi đọc cuốn sách này. Monish Pabrai dẫn ra câu chuyện của những ông trùm kinh doanh và bài thẩm tra thông minh nhằm chắt lọc các nguyên tắc cốt lõi mang giá trị sâu sắc. Tất cả được đóng gói thành bộ ý tưởng hữu ích mà bạn nên vận dụng vào chính quá trình đầu tư của mình. -  Srephane Fitch, Giám đốc Forbes châu Âu   Tôi đọc Nghệ thuật đầu tư Dhandho liền một mạch vì không kìm lòng nổi. Mohnish chia sẻ những “bí mật” tạo nên thành công bứt phá của mình và ghi công vào kho tàng đầu tư giá trị. -  Whitney Tilson, quản lý điều hành kinh doanh và sáng lập quỹ T2 Partners LLC, nhà sáng lập Hội nghị đầu tư giá trị (Value Investing Congress)   Nghệ thuật đầu tư Dhandho đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đơn giản hóa chiến lược đầu tư thành công. “Ngửa thì tôi thắng, sấp thì tôi chẳng thiệt bao nhiêu!” Tôi không phải mua toàn bộ doanh nghiệp, mà chỉ cần mua cổ phiếu của một vài doanh nghiệp đang niêm yết. Tôi muốn giới thiệu cuốn sách này cho bất cứ ai muốn trau dồi kỹ năng đầu tư của mình.   -  Pattrick Fitzgerald, Chủ tịch của quỹ Fitzgerald Management *** “Nghệ thuật đầu tư Dhandho là một cuốn sách dễ đọc, dễ hiểu. Tác giả dùng case study (về người thật, việc thật) để chứng minh rằng, không nhất thiết lợi nhuận cao thì rủi ro cao. Có rất nhiều thành công ngoạn mục trên thế giới này đều xuất phát từ những khoản đầu tư rất nhỏ.” Một độc giả chia sẻ cùng Happy Live. Review Nghệ thuật đầu tư Dhandho - đơn giản mà sâu sắc Hầu hết mọi người nghĩ rằng rủi ro và lợi nhuận có liên quan. Tất cả các nhà đầu tư đều nói rằng nếu bạn muốn kiếm được tỷ lệ lợi nhuận cao, bạn cần phải chịu rủi ro lớn hơn. Tuy nhiên, các nhà đầu tư giá trị như Benjamin Graham, Warren Buffett và Joel Greenblatt đã chỉ ra rằng thực sự có thể kiếm được lợi nhuận lớn với mức độ rủi ro tương đối thấp. Dhandho, dịch theo nghĩa đen, có nghĩa là nỗ lực tạo ra sự giàu có. Trong Nghệ thuật đầu tư Dhandho, Mohnish Pabrai mô tả khuôn khổ đầu tư Dhandho của mình mà bạn có thể kiếm được lợi nhuận cao với mức độ rủi ro thấp. Mohnish Pabrai là Đối tác quản lý của Quỹ đầu tư Pabrai, một bản sao gần gũi của Buffett Partnership ban đầu những năm 1950. Kể từ khi thành lập vào năm 1999, Quỹ đầu tư của ông, đã vượt trội so với tất cả các chỉ số chính và hơn 99% các quỹ được quản lý khác với lợi nhuận hàng năm trên 28% sau khi tất cả các khoản phí và chi phí – 100.000 đô la đầu tư vào năm 1999 có giá trị hơn $ 659.000 vào năm 2006! Nghệ thuật đầu tư Dhandho bao gồm chín nguyên tắc cốt lõi. Nguyên tắc số 1: Tập trung vào việc mua một doanh nghiệp có sẵn Theo Pabrai, đầu tư vào cổ phần trong một vài cổ phiếu đại chúng, là con đường tốt nhất để giàu có. Có một số lợi thế với cách đầu tư này: không cần phải cố gắng quá sức, trên thị trường chứng khoán đôi khi bạn có thể tìm thấy cơ hội mua thực sự, bạn không cần nhiều vốn để bắt đầu đầu tư vào cổ phiếu giao dịch công khai, có một cực – lựa chọn lớn các cổ phiếu (đọc: công ty) có sẵn, và – với các nhà môi giới trực tuyến – chi phí rất thấp. Nguyên tắc số 2: Đầu tư vào các doanh nghiệp đơn giản Đơn giản là sức mạnh cực kỳ lớn. Đối với Einstein, sự đơn giản là mức độ trí tuệ cao nhất. Cách đầu tư của Nghệ thuật đầu tư Dhandho rất đơn giản và nằm ở đó là sức mạnh của nó. Chỉ sau khi mua một cổ phiếu cụ thể, cuộc chiến tâm lý với bộ não của chúng ta mới thực sự nóng lên (xem thêm Nguyên tắc số 3). Để chống lại các lực lượng tâm lý mạnh mẽ này, bạn cần phải mua các doanh nghiệp đơn giản với những luận điểm đơn giản là lý do tại sao bạn có thể kiếm được một khoản lợi nhuận kha khá và không có khả năng mất nhiều tiền. Nếu bạn cần tính toán quá khó, bạn nên xem xét một cơ hội đầu tư khác. Nguyên tắc số 3: Đầu tư vào các doanh nghiệp bị rơi vào tình trạng rất khó khăn Giá cổ phiếu, trong hầu hết các trường hợp, phản ánh các nguyên tắc cơ bản cơ bản. Nhưng điều đó không phải lúc nào cũng như vậy. Theo hãng Chihuahua, tâm lý con người ảnh hưởng đến việc mua và bán cổ phiếu nhiều hơn so với việc mua và bán của toàn bộ doanh nghiệp. Tin tức xấu xuất hiện đôi khi dẫn đến nỗi sợ hãi tột cùng, bán phá giá và định giá rất thấp là hậu quả. Bạn nên tìm kiếm các doanh nghiệp đơn giản đang gặp khó khăn, vì vậy bạn có thể mua chúng với giá thấp bất hợp lý. Bạn có thể tìm thấy các doanh nghiệp đau khổ như vậy bằng cách ví dụ: đọc những câu chuyện tiêu đề tồi tệ về một số doanh nghiệp hoặc ngành công nghiệp nhất định, tìm kiếm những cổ phiếu có tỷ lệ giá thu nhập thấp hoặc đọc một cuốn sách như “Cuốn sách nhỏ đánh bại thị trường”, được viết bởi nhà đầu tư giá trị Joel Greenblatt. Nguyên tắc số 4: Đầu tư vào kinh doanh với những con hào bền vững Chỉ những doanh nghiệp có hào nước bền – hay nói cách khác, chỉ những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh bền vững – mới có thể hiển thị lợi nhuận trên trung bình trên vốn đầu tư của họ. Các công ty như vậy có thể kiếm được nhiều tiền hơn cho các nhà đầu tư của họ hơn các công ty không có hào nước bền. Theo thời gian, sức mạnh của tất cả các con hào có xu hướng suy yếu. Charlie Munger đã từng đề cập rằng trong số năm mươi cổ phiếu quan trọng nhất trên NYSE vào năm 1911, ngày nay chỉ có một cổ phiếu vẫn còn hoạt động (General Electric). Vì vậy, ngay cả những doanh nghiệp có hào nước bền don don cũng tồn tại mãi mãi. Bạn nên tính đến điều đó, khi cố gắng ước tính giá trị nội tại của một công ty. Nguyên tắc số 5: Ít lần đặt cược, cược lớn và cược không thường xuyên Warren Buffett từng nói rằng đa dạng hóa có thể được coi là một sự bảo vệ chống lại sự thiếu hiểu biết. Cuối cùng, đầu tư cũng giống như đánh bạc. Theo ông tìm kiếm các cơ hội cá cược bị đánh giá sai và đặt cược rất nhiều khi tỷ lệ cược quá cao có lợi cho bạn là tấm vé cho sự giàu có. 100 công ty không có ý nghĩa khi bạn muốn kiếm được lợi nhuận trên trung bình. Nguyên tắc số 6: Cố định về giao dịch chênh lệch giá Luôn luôn tìm kiếm các cơ hội chênh lệch giá với mức chênh lệch càng rộng và càng lâu càng tốt. Cơ hội Arbitrage giúp bạn kiếm được lợi nhuận cao từ vốn đầu tư với mức độ rủi ro thấp. Một chênh lệch chênh lệch Dhandho bền bỉ có thể được coi là một con hào hoặc một lợi thế cạnh tranh lâu bền. Bạn nên lưu ý rằng, theo thời gian, chênh lệch giá sẽ dần biến mất. Câu hỏi quan trọng sau đó là: sự lây lan có khả năng kéo dài bao lâu và con hào thực sự rộng bao nhiêu? Nguyên tắc số 7: Ký quỹ an toàn – luôn luôn như vậy Chiết khấu càng lớn so với giá trị nội tại thì rủi ro càng thấp. Chiết khấu càng lớn so với giá trị nội tại, lợi nhuận sẽ càng cao. Hầu hết thời gian, tài sản được giao dịch bằng hoặc cao hơn giá trị nội tại của chúng. Bạn nên kiên nhẫn chờ đợi để tìm kiếm các cổ phiếu giá rẻ với biên độ an toàn lớn, rủi ro thấp và tiềm năng tăng giá cao. Có một biên độ an toàn để giảm thiểu rủi ro mất mát là rất quan trọng: khi bạn mất, ví dụ: 50% bạn cần kiếm được 100% lợi nhuận chỉ khi lấy lại tiền. Đặc biệt trong dài hạn, chi phí tổn thất cực kỳ cao. Nguyên tắc số 8: Đầu tư vào các doanh nghiệp rủi ro thấp, không chắc chắn cao Rủi ro và sự không chắc chắn là các khái niệm khác nhau. Hiệu suất trong tương lai của một công ty gặp khó khăn có thể không chắc chắn. Nhưng, khi bạn đã suy nghĩ cẩn thận về phạm vi các kịch bản có thể xảy ra trong tương lai và kết luận rằng tỷ lệ mất vốn vĩnh viễn là rất thấp, bạn có thể đã tìm thấy một cơ hội đầu tư rủi ro cao, không chắc chắn cao. Khi nỗi sợ hãi tột độ xuất hiện, thị trường chứng khoán có thể hành xử phi lý. Bằng cách áp dụng các kỹ thuật Nghệ thuật đầu tư Dhandho, bạn có thể thu lợi từ hành vi phi lý này. Nguyên tắc số 9: Đầu tư vào copycats chứ không phải là người đổi mới Theo Pabrai, đổi mới là một crapshoot, nhưng nhân bản là chắc chắn. Do đó, nhân bản tốt là doanh nghiệp lớn. Tìm kiếm các doanh nghiệp được điều hành bởi những người đã chứng minh rằng họ có thể liên tục nâng và mở rộng quy mô công việc của các nhà đổi mới. Suy nghĩ cuối cùng Nghệ thuật đầu tư Dhandho là một cuốn sách tuyệt vời cho những người muốn cải thiện đáng kể kết quả đầu tư của họ. Cuốn sách có thể được coi là một phần mở rộng tuyệt vời và làm sâu sắc hơn các nguyên tắc đầu tư giá trị cơ bản như được mô tả trong một cuốn sách như Cuốn sách nhỏ đánh bại thị trường. Trong Nhà đầu tư Dhandho, Mohnish Pabrai làm rõ tất cả các nguyên tắc của khung Nghệ thuật đầu tư Dhandho như đã đề cập ở trên với rất nhiều trường hợp nghiên cứu và ví dụ. Bên cạnh đó, ông cũng chú ý đến các chủ đề như nghệ thuật bán cổ phiếu, ý thức lập chỉ mục (không) và khôn ngoan chi tiêu số tiền bạn có thể kiếm được bằng cách tận dụng các kỹ thuật của Nghệ thuật đầu tư Dhandho như được mô tả trong cuốn sách. >> Review từ Độc giả Trần Thăng Long (có phần dịch từ review của gurufocus) *** Bên cạnh dân tộc Do Thái, những người Patel cũng nổi tiếng thế giới với bộ óc kinh doanh vào hạng kiệt xuất thế giới của mình. Họ là một dân tộc thiểu số Ấn Độ di cư sang Mỹ vào nửa cuối thế kỷ 20 nhưng lại chiếm 50% thị phần kinh doanh motel tại xứ cờ hoa, doanh nhân Richard Branson thành công rực rỡ với tập đoàn Virgin hay vua thép Ấn Độ Lakshmi Mittal với vị thế không thể đánh bại trong lĩnh vực của mình,… Cuốn sách Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho của tác giả Mohnish Pabrai sẽ lí giải cho chúng ta thấy bí quyết đằng sau những thương vụ đầu tư thành công của các nhà đầu tư Patel, cái mà người ta gọi là nghệ thuật đầu tư Dhandho. Ông là một doanh nhân, nhà đầu tư đồng thời là nhà từ thiện người Mỹ gốc Ấn Độ. Con đường đầu tư của Mohnish Pabrai được ảnh hưởng khá nhiều bởi phong cách kinh doanh của ông vua đầu tư Warren Buffett. Bí quyết thành công của Pabrai trong đầu tư có thể gói gọn trong câu: Không cần đầu tư, chỉ cần bắt chước. Ông không hề khai phá những lối đi mới mà chỉ modelling Graham và Buffett. Kết quả là ông đã đạt được những thành tựu nổi bật trên thị trường. Ông viết kha khá những cuốn sách về đầu tư nhưng lại không hề tổng kết bài học thành công của mình, ông thường chỉ luận đàm về triết lý đầu tư và để người đọc tự khám phá. Tổng quan Cuốn Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho chia sẻ những bí quyết đầu tư mang tính triết lý nhưng lại có khả năng ứng dụng rất rộng. Chúng ta có thể áp dụng những triết lý này vào chứng khoán và cả đầu tư bất động sản. Sách tổng hợp những nguyên tắc đầu tư, quy tắc mua vào bán ra và những bài học tác giả đúc rút được sau quá trình tham gia vào thị trường của mình. Nội dung chi tiết Cuốn Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho gồm 16 chương, với nội dung cụ thể như sau: Chương 1: Dhandho – Bí quyết giúp người Patel chiếm lĩnh hoạt động nhà nghỉ ở Mỹ Chương 2: Thương nhân Dhandho tên Manilal Chương 3: Virgin Dhandho Chương 4: Mittal Dhandho Chương 5: Dhandho 101: Đầu tư vào các doanh nghiệp đang kinh doanh Chương 6: Dhandho 102: Đầu tư vào các doanh nghiệp đơn giản Chương 7: Dhandho 201: Đầu tư vào các doanh nghiệp rệu rã trong ngành công nghiệp rệu rã Chương 8: Dhandho 202: Đầu tư vào các doanh nghiệp với con hào kinh tế bền vững Chương 9: Dhandho 301: Những khoản cược ít, khoản cược lớn và những khoản đặt cược không thường xuyên Chương 10: Dhandho 302: Gắn chặt với chênh lệch Arbitrage Chương 11: Dhandho 401: Luôn bám vào biên an toàn Chương 12: Dhandho 402: Đầu tư vào các doanh nghiệp với rủi ro thấp nhưng bất định Chương 13: Dhandho 403: Đầu tư vào những người bắt chước thích hơn những kẻ tiên phong Chương 14: Thế tiến thoái lưỡng nan của người hùng Abimanyu và nghệ thuật bán cổ phiếu Chương 15: Có nên đầu tư theo chỉ số thị trường hay không? Chương 16: Trọng tâm của Arjuna: Những bài học từ vị chiến binh vĩ đại Những chương đầu của cuốn sách, tác giả kể lại câu chuyện thành công, những casestudy kinh điển của những doanh nhân Patel thành đạt. Những chương tiếp theo, tác giả tập trung vào 10 nguyên tắc đầu tư mà ông cho là cốt yếu. Phần cuối của cuốn sách là những bài học thành công, những kinh nghiệm đầu tư mà ông rút ra được cho độc giả. 10 nguyên tắc đầu tư Dhandho – Mua doanh nghiệp đã hoạt động lâu dài, mô hình kinh doanh của nó đã thành công. Hãy mua cổ phiếu thay vì những loại tài sản khác vì nó là tài sản sinh lời cao nhất – Chọn những doanh nghiệp đơn giản trong lĩnh vực có tốc độ biến đổi siêu thấp, tức là những sản phẩm thông thường mà mọi người đều cần. Thay đổi là kẻ thù của đầu tư nên hãy chọn những doanh nghiệp đơn giản và ít biến đổi – Mua doanh nghiệp khi giá rẻ: mua khi người khác sợ hãi và bán khi người khác tham lam. – Mua các doanh nghiệp với con hào kinh tế (lợi thế cạnh tranh), Đó có thể là chi phí thấp, thương hiệu, công thức bí mật hay tính khó chuyển đổi. Đôi khi con hào bị ẩn khuất và bạn phải nghiên cứu báo cáo tài chính để tìm ra – Phần lớn thời gian ta không làm gì, đặt cược rất ít. Chỉ đặt cược khi lợi thế nghiêng về mình – Các khoản chênh lệch sẽ dần biến mất theo thời gian. Quan trọng là xác định xem chênh lệch sẽ tồn tại trong bao lâu – độ rộng con hào là bao nhiêu – Mua doanh nghiệp có chiết khấu lớn so với giá trị nội tại. Chiết khấu càng lớn, rủi ro càng thấp.  – Tìm kiếm doanh nghiệp rủi ro thấp, bất định cao – Làm kẻ bắt chước dễ hơn người sáng tạo: đổi mới là mạo hiểm, nhưng nâng cấp và mở rộng quy mô từ mô hình đã có sẽ chứa ít rủi ro hơn Nhận xét cuốn Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho Sách Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho vốn ưu tiên rủi ro ít nên sẽ không làm hài lòng những nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm. Sách sẽ mất thời gian nghiên cứu bởi tác giả ưa lối viết triết lý nên có khá nhiều thứ để nghiền ngẫm.  Tuy vậy, tác giả vẫn thường xuyên cập nhật những ví dụ sống trong sách giúp cho người đọc dễ hiểu hơn. Phiên bản tiếng Việt của cuốn Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho còn có nhiều casestudy được phân tích chi tiết và bài bản khi chúng ta quét mã QR trên sách, khá hữu dụng. Lời kết Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho là cuốn sách tổng hợp bí quyết, kinh nghiệm đầu tư của dân tộc thông thái và có máu kinh doanh Patel. Những nhà đầu tư có thể đọc sách để mài sắc thêm thanh gươm của mình khi tham gia vào thị trường giao dịch. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho của tác giả Mohnish Pabrai & Đặng Thị Đan Vy (dịch).
Thú Vui Xê Dịch
Mark Tungate là một tác giả đặc biệt, vì ông chỉ viết những loại sách mà ông thích đọc. Do đó, nếu bạn đang tìm kiếm một bộ sách kinh doanh theo kiểu truyền thống – với các bảng biểu và phụ lục – hãy bỏ qua cuốn sách này. Hẳn nhiên, mục đích của Thú vui “xê dịch” là tìm hiểu về lịch sử và chiến lược kinh doanh của các thương hiệu du lịch/khách sạn. Nhưng trên tất cả, cuốn sách còn là bộ sưu tập những câu chuyện kinh doanh sống động và tràn đầy cảm hứng. Thế giới du lịch của ngày hôm qua – khách sạn cung điện, nét quyến rũ thanh lịch của ngành hàng không và những cuộc dạo chơi trên biển. Thế nhưng ngày nay, con người lại hướng tới những tiện nghi và dịch vụ hoàn hảo trong một bầu không khí tự do, không ràng buộc. Tác giả Mark Tungate sẽ đưa chúng ta bước vào hành trình chuyển đổi ngoạn mục này thông qua những cuộc trò chuyện với thế hệ kế thừa tự hào của thời vàng son xưa cũ ấy. Để bắt đầu cho chuyến đi của chúng ta, hãy lật sang trang tiếp theo cho hành trình tìm về quá khứ. *** “Thú vui xê dịch”: Những câu chuyện sống động về ngành công nghiệp du lịch SGGPO Thứ Hai, 13/1/2020 17:09 Với Thú vui xê dịch (Saigon Books và NXB Văn hóa - Văn nghệ) của Mark Tungate, người đọc sẽ biết được tường tận về lịch sử và chiến lược kinh doanh của các thương hiệu du lịch/khách sạn. Hơn hết, cuốn sách là bộ sưu tập những câu chuyện kinh doanh sống động và tràn đầy cảm hứng về ngành công nghiệp du lịch. Chúng ta đang sống trong một thế giới với chủ nghĩa xê dịch lan rộng, du lịch vừa là một xu hướng, vừa là một trong những niềm đam mê của rất nhiều người. Du lịch nước ngoài ngày nay dễ dàng hơn so với trước kia. Khách du lịch có thể mua được vé máy bay giá rẻ, đặt phòng khách sạn, thuê xe - tất cả đều thông qua điện thoại di động, chỉ sau hai ngụm cà phê mà không cần phải rời khỏi chỗ ngồi của mình. Bạn có thể đắm chìm trong các nền văn hóa khác, nếm thử những món ăn xa lạ, tận mắt nhìn thấy nhiều điều chỉ trong kỳ nghỉ cuối tuần mà các vị lữ khách vĩ đại ngày xưa phải mất nhiều tháng mới làm được. “Thú vui xê dịch”: Những câu chuyện sống động về ngành công nghiệp du lịch  ảnh 1 "Thú vui xê dịch" của Mark Tungate mang đến những câu chuyện sống động và đầy cảm hứng về ngành công nghiệp du lịch Bạn có tò mò muốn biết những người “mê xê dịch” xa xưa đi du lịch bằng cách gì? Những nhân vật đầu tiên trong cuộc hành trình viễn xứ trên thế giới là ai? Cuốn sách Thú vui xê dịch sẽ đưa bạn quay ngược hành trình tìm về quá khứ, nơi có những vị lữ khách vĩ đại vượt qua gian khổ, đối mặt với hiểm nguy trong cuộc hành trình viễn xứ. Bạn cũng sẽ biết được thời kỳ bùng nổ khách sạn lớn diễn ra cùng thời điểm với sự ra đời của thời đại công nghiệp, khi động cơ hơi nước không chỉ tạo ra lớp người giàu mới mà còn cho phép họ di chuyển khắp nơi… Và còn nhiều điều thú vị xoay quanh ngành công nghiệp du lịch khác. Công bằng mà nói thì du lịch thời kỳ đầu là một hoạt động tự phát và thường ẩn chứa nhiều sự rủi ro. Thú vui xê dịch của Mark Tungate đưa bạn vào thế giới của những cuộc phiêu lưu đầu tiên của nhân loại. Qua cuốn sách, tác giả tái hiện lại hành trình của những con người tiên phong và lịch sử ngành du lịch từ xa xưa. Đó là William Bankes - một trong những thanh niên đầu tiên người Anh buộc phải trải qua nhiều gian khổ để hoàn thành chuyến đi cho việc học của mình, là cuộc hành trình ở thế kỷ 16 của Philip Sidney, người đặt nền móng cho những chuyến du lịch sau này, ông đã rong ruổi khắp nước Pháp, Đức, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg và Ý, cùng những chuyến thăm ngắn đến Ba Lan và Hungary, ông trở về nhà sau đúng tròn ba năm; là hành trình vượt eo biển Măng - sơ đến Pháp, thiếu thốn phương tiện thiếu thốn cùng như những con đường nhiều trắc trở… Dưới ngòi bút sống động của Mark Tungate, bạn đọc như được chứng kiến bức tranh toàn cảnh về sự hình thành và sức ảnh hưởng trong ngành công nghiệp khách sạn lớn, những cung điện nguy nga dành cho người giàu và người nổi tiếng, các tâm điểm của lĩnh vực du lịch là chuỗi khách sạn tiện nghi, cụm từ “khách sạn boutique” được ra đời như thế nào… Bên cạnh đó, Thú vui xê dịch còn kể về sự cạnh tranh của các đối thủ hãng hàng không thời kì đầu, trong đó Imperial Airways của Anh là một trong những hãng hàng không đầu tiên đầu tư mạnh tay vào chiến dịch xây dựng thương hiệu, quảng cáo, các sự kiện quảng bá và thậm chí cả tạp chí khách hàng riêng. Cuốn cẩm nang du lịch đầu tiên trên thế giới của Karl Baedeker, và cả tên thương hiệu của ông, thành công và lan tỏa đến mức ông được nhớ đến như “cha đẻ của du lịch hiện đại”… Tất tần tật câu chuyện về ngành công nghiệp du lịch được gói gọn trong cuốn sách Thú vui xê dịch của Mark Tungate. HỒ SƠN *** LỜI CẢM ƠN Câu chuyện bắt đầu tại một nhà hàng. Khi đang dùng bữa trưa với vợ, tôi nói rằng mình muốn viết một cuốn sách về các thương hiệu lữ hành. “Anh muốn đặt tên cho nó là Thú vui “xê dịch” - Các đế chế lữ hành đã được xây dựng như thế nào?”, tôi bảo với Géraldine. Tôi có thể nhận thấy rằng nàng thích ý tưởng đó. “Anh hoàn toàn có đủ khả năng làm được”, nàng nói. Cho nên, tôi muốn dành lời cảm ơn đầu tiên cho Géraldine bởi nguồn cảm hứng và sự hưởng ứng ngay tức thì của nàng. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các nhân vật đã nhận lời phỏng vấn cho những trang sách này. Tên của họ sẽ xuất hiện xuyên suốt cuốn sách. Và xin cảm ơn những người đã cất công giới thiệu, đó là Amanda Benfell, Michael Chefles, Brittany Cornejo, Natania Jansz, Anna Moss, Romina Tina Fontana, Brigitte Hogarth, Heloise Hooton, David Kijlstra, Kelly Lee, Ulrich Proeschel, Amanda Smith, Ian Wagasky. Và tôi thành thật xin lỗi nếu có bỏ sót tên của ai. Cuốn sách được viết trong khoảng thời gian khá dài nên đã qua tay hai biên tập. Xin cảm ơn biên tập viên Jasmin Naim và đặc biệt là Jenny Volich, người đã giúp tôi tránh được những câu chuyện lan man. Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Helen Kogan và đội ngũ nhân viên của bà tại nhà xuất bản Kogan Page. *** LỜI TÁC GIẢ “Ý tưởng về du lịch” Hãy tưởng tượng bạn đang đi xuống con phố Broadway, New York, vào những năm đầu thập niên 1920. Bạn nghe thấy tiếng vù vù, ban đầu chỉ hơi có chút khó chịu, giống như tiếng muỗi vo ve. Nhưng âm thanh ấy ngày càng lớn, kèm theo tiếng rền rĩ của động cơ hoạt động quá công suất. Cũng như mọi người, bạn hướng về phía tiếng ồn đó. Bạn ngước lên nhìn, đưa tay giữ mũ khi một luồng gió rất mạnh gào thét băng qua các tòa nhà chọc trời. Thực ra âm thanh huyên náo đó thuộc về một chiếc phi cơ nhỏ, đang bay ở tầm thấp đến mức bạn có cảm tưởng như nó sắp đâm thẳng xuống mặt đường. Đám đông cúi gập người khi chiếc máy bay cánh gỗ lướt qua đầu và gầm gừ lao xuống Broadway, dường như mang theo một tràng cười sảng khoái. Người cầm lái chiếc máy bay đó là Juan Trippe, ông chủ của hãng dịch vụ taxi hàng không đến từ Long Island, đồng thời là nhà sáng lập tương lai của thương hiệu Pan Am. Màn trình diễn đó đang được một người bạn của ông ghi lại để phục vụ cho một bộ phim câm. Hẳn Juan Trippe sẽ nhận lệnh triệu tập của cảnh sát cho hành động mạo hiểm của mình, nhưng đây không phải là lần cuối cùng ông cất công “chơi bạo lấy tiếng” như thế. Khi viết về những thương hiệu mang tính biểu tượng, ta thường khó tránh khỏi nhắc đến những nhân vật đứng đằng sau chúng. Và người xây dựng nên các doanh nghiệp lữ hành thường vô cùng đặc sắc, gần như không có ngoại lệ. Hoạt động kinh doanh lữ hành đã phát triển rộng khắp các châu lục, thế nhưng, những người như Juan Trippe luôn hướng tới một bức tranh rộng lớn hơn. Họ mang khát vọng chia sẻ tầm nhìn đó với chúng ta. Tôi luôn nói rằng tôi chỉ viết những loại sách mà mình thích đọc. Do đó, nếu bạn đang tìm kiếm một bộ sách kinh doanh theo kiểu truyền thống - với các bảng biểu và phụ lục - hãy bỏ qua cuốn sách này. Hẳn nhiên, mục đích của Thú vui “xê dịch” là tìm hiểu về lịch sử và chiến lược kinh doanh của các thương hiệu du lịch/khách sạn. Nhưng trên tất cả, cuốn sách còn là bộ sưu tập những câu chuyện kinh doanh sống động và tràn đầy cảm hứng. Ở khía cạnh kinh doanh, công bằng mà nói thì kinh doanh và du lịch giải trí đã phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Đúng như tựa của cuốn sách, tôi sẽ tập trung vào khía cạnh tiêu dùng của hoạt động du lịch, hay còn gọi là lữ hành, mặc dù hai từ này thường bị trùng lặp. Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu để viết sách, tôi đã tình cờ phát hiện nhiều dữ liệu bất ngờ, một vài trong số đó đã làm thay đổi nhận biết của tôi về ngành công nghiệp du lịch. Nhưng đó chính là vẻ đẹp của một dự án kiểu này. Tôi khởi nghiệp với tư cách một phóng viên, và trong chừng mực nào đó, tôi vẫn là một phóng viên. Tôi hy vọng mình không quá tự đắc khi cho rằng công việc của tôi là khám phá. Và viết sách cũng là một hành trình như thế. Mời các bạn đón đọc Thú Vui Xê Dịch của tác giả Mark Tungate & Lâm Đặng Cam Thảo (dịch).
Những Đế Chế Độc Quyền Thời Hiện Đại
Sự ra đời của điện toán di dộng và khả năng kết nổi của nó đã thay dổi mãi mãi cách con người ta tương tác với nhau, kết nối thế giới thực với thế giới số và làm nhòe danh giới giữa “ngoại tuyến” và “trực tuyến”. Những gã khổng lồ nền tảng đang mở rộng tầm ảnh hưởng của mình từ thế giới số sang toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, rất ít người thực sự nắm bắt được những thay đổi cơ cấu cấp tiến của mười năm qua. Trong Những đế chế độc quyền thời hiện đại, Alex Moazed và Nicholas L.Johnson viết về những thay đổi, ý nghĩa của nó với các doanh nghiệp ngày nay cũng như cách để các nhà quản lý và chủ doanh nghiệp có thể thích ứng và phát triển trong kỷ nguyên mới này. *** Nền tảng bốc cháy Tháng 2 năm 2011, Nokia gặp rắc rối. Từng là kẻ dẫn đầu vô tiền khoáng hậu trong lĩnh vực công nghệ di động nhưng đến thời điểm này, công ty không còn có thể đuổi kịp các đối thủ cạnh tranh. Trong suốt hơn một thập kỷ, Nokia là nhà sản xuất thiết bị cầm tay thành công nhất thế giới. Nhưng giờ nó đang đánh mất vị thế của mình một cách nhanh chóng. Với việc Apple giới thiệu iPhone vào năm 2007 và Google ra mắt Android vào năm 2008, luật chơi đã thay đổi. Đây là hai nền tảng phần mềm vô cùng thành công trong ngành công nghiệp vốn một thời chỉ tập trung vào phần cứng, và Nokia đã bị bỏ lại rất xa. Symbian – hệ điều hành kế thừa của họ – lỗi thời và rất khó để phát triển phần mềm tương thích, còn MeeGo – hệ điều hành thế hệ tiếp theo – thì vẫn chưa sẵn sàng cho giai đoạn hoàng kim. Thời thế thay đổi thật chóng mặt! Mới chỉ một thế hệ trước, Nokia còn là một tập đoàn kinh tế độc quyền yếu ớt của Phần Lan với cổ phần rải đều ở mọi lĩnh vực kinh doanh, từ gỗ xẻ cho đến lốp xe. Nhưng vào cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, công ty đã tiến hành cái mà Hiệp hội Quản trị Hoa Kỳ gọi là một trong “50 Cuộc giải cứu Quản trị Hiệu quả nhất” lịch sử – thành công dịch chuyển trọng tâm sang ngành công nghiệp truyền thông di động. Người ta hoàn toàn có lý do để hy vọng rằng Nokia sẽ lại làm nên một điều kỳ diệu nữa. Vào tháng 9 năm 2010, Nokia thuê Stephen Elop – cựu thành viên ban giám đốc của Microsoft – làm CEO và giao phó cho ông trọng trách xoay chuyển tình thế của công ty. Ngay lập tức, Elop phải đối mặt với một lựa chọn quan trọng. Nokia có nên tiếp tục phát triển hệ điều hành thế hệ mới? Hay nên từ bỏ hướng đi này để phó mặc số phận vào tay một đối thủ cạnh tranh đáng gờm? Vào tháng 1 năm 2011, ban giám đốc của Nokia vẫn nghiêng về lựa chọn thứ nhất, cho đến khi một cuộc họp quan trọng thay đổi suy nghĩ của Elop. Jo Harlow, giám đốc phụ trách Symbian của Nokia, nói với Elop rằng MeeGo “chưa đủ lớn,” và rằng Symbian không thể gánh vác Nokia cho đến khi hệ điều hành mới sẵn sàng. Việc bắt tay với iOS vốn đang bị Apple kiểm soát chặt chẽ là điều không thể, vậy thì Nokia chỉ còn cách đặt hết hy vọng vào Windows Phone hoặc Android – hai ngôi sao đang lên. Sự thay đổi chiến lược này, kết hợp với thách thức phải đánh bại một hệ thống quan liêu, trì trệ, khiến Elop tin rằng Nokia cần thay đổi định hướng. Vào ngày 4 tháng 2 năm 2011, ông gửi đến các nhân viên của công ty một bức email, về sau được gọi là thông điệp Burning Platform (Nền tảng Bốc cháy). Bức thư này bị tiết lộ cho công chúng vài ngày sau đó. Trong thư, nhiệm vụ mà Nokia đang đối mặt được so sánh với câu chuyện về một nhân viên khai thác dầu mỏ đang đứng trên một dàn khoan bốc cháy. “Khi ngọn lửa lan đến chỗ mình, người đàn ông chỉ có vài giây ngắn ngủi để phản ứng,” Elop viết. “Anh ta có thể đứng yên trên dàn khoan và lẽ tất nhiên sẽ bị ngọn lửa ngùn ngụt nuốt chửng. Hoặc, anh ta có thể thả mình rơi 30m xuống mặt hồ lạnh cóng. Người đàn ông đang đứng trên một ‘nền tảng bốc cháy,’ và anh ta cần phải lựa chọn.” Trong câu chuyện của Elop, người đàn ông đã chọn cách lặn xuống nước và vượt qua tình thế hiểm nghèo để sống sót. Nhưng trải nghiệm đó đã thay đổi sâu sắc mọi hành vi của anh ta. Câu chuyện rõ ràng là phép ẩn dụ cho tình cảnh khó khăn của Nokia. Elop viết, “Chúng ta cũng vậy, [nguyên văn] đang đứng trên một ‘nền tảng bốc cháy,’ và chúng ta phải quyết định cách chúng ta định thay đổi hành vi của mình.” Bức thư nêu chi tiết về nhiều thách thức mà Nokia đang đối mặt. “Chiếc iPhone đầu tiên được chuyển đến tay khách hàng vào năm 2007, mà đến nay chúng ta vẫn chưa có nổi một sản phẩm nào so sánh được với trải nghiệm họ tạo ra. Android mới trình làng hơn 2 năm nhưng tuần này, họ đã chiếm được vị trí dẫn đầu của chúng ta về số lượng điện thoại thông minh.” MeeGo được xem như vũ khí cạnh tranh của Nokia, nhưng “tính đến cuối năm 2011, có lẽ chúng ta chỉ có duy nhất một sản phẩm MeeGo trên thị trường,” Elop viết. Cùng lúc đó, hệ điều hành kế thừa của Nokia là Symbian lại “đang chứng tỏ là một môi trường ngày càng khó để phát triển” và “dẫn đến sự ì trệ trong việc phát triển sản phẩm.” Tệ hơn nữa, trong khi Android và iPhone đang tấn công từ đỉnh của phân khúc cao cấp thì ở phân khúc thấp hơn, các nhà sản xuất của Trung Quốc cũng đang bắt đầu nhập cuộc với các lựa chọn rẻ hơn. Những thách thức này rất nghiêm trọng. Thế nhưng, chúng còn là những dấu hiệu về sự thất bại lớn nhất của Nokia, sự thất bại mà Elop đã ngầm thừa nhận. Nokia đã bỏ qua sự kết hợp có thể thay đổi tất cả giữa phần cứng và phần mềm. Nokia vẫn hành động như một công ty sản phẩm[1]. Nhưng giờ đây, cốt lõi của ngành công nghiệp điện thoại thông minh không phải là sản phẩm; mà là nền tảng. “Chúng ta thậm chí còn không sử dụng đúng vũ khí để chiến đấu,” Elop nói. “Chúng ta vẫn luôn cố gắng tiếp cận từng mức giá trên cơ sở thiết bị-với-thiết-bị. Cuộc chiến giữa các thiết bị giờ đây đã trở thành chiến tranh giữa các hệ sinh thái [được in nghiêng để nhấn mạnh].” Một tháng sau khi bức thư nói trên bị tiết lộ cho báo giới, trong một cuộc nói chuyện với tờ Financial Times, Jo Harlow bày tỏ sự đồng tình. Bà cho biết: “Chúng tôi không đủ nhanh nhạy trong việc thay đổi từ một công ty nghiên cứu thiết bị sang công ty nghiên cứu phần mềm. Đáng lẽ chúng tôi đã ở một vị thế khác nếu chúng tôi có thể chuyển đổi nhanh hơn.” Trước đây, Nokia cạnh tranh bằng các tính năng hoặc đặc tính sản phẩm. Tuy nhiên, như Elop đã nói trong thông điệp của mình, “các đối thủ không giành lấy thị phần của chúng ta bằng thiết bị, họ đang làm điều đó bằng một hệ sinh thái toàn diện.” Elop đã đúng. Apple và Android đã sử dụng nền tảng để tiếp cận, xây dựng nên những mạng lưới người tiêu dùng và nhà phát triển chưa từng có từ trước đến nay bằng cách kết nối hai nhóm này thành một thể thống nhất. Những nền tảng này chiến thắng không phải vì tính năng hay công nghệ ưu việt. (Tại thời điểm đó, một số dòng điện thoại của Nokia đang được đánh giá rất cao.) Chúng vượt lên nhờ khả năng tạo ra những thị trường hoàn toàn mới và khai thác những nguồn giá trị mới. Elop đã nhìn ra điều đó đang đến, nhưng không đủ sớm. Hai ngày sau khi bức thư được tiết lộ cho công chúng, vào ngày 11 tháng 2 năm 2011, Elop thông báo Nokia quyết định chuyển đổi sang Windows Phone. Ông đã trao đổi với Google về việc chuyển đổi sang Android, nhưng ông rất thận trọng trong việc để Nokia đơn giản biến thành một nhà sản xuất phần cứng khác trong một thị trường thiết bị Android vốn đã chật chội. Không may cho Elop, quyết định này lại là một sai lầm nữa. Cả Nokia lẫn Windows Phone đều rất chật vật trong vài năm tiếp theo. Vào ngày 3 tháng 9 năm 2013, gần hai năm sau cuộc thử nghiệm tuyệt vọng, Elop tuyên bố Nokia sẽ bán bộ phận Thiết bị và Dịch vụ cho Microsoft trong một thỏa thuận trị giá 7,2 tỷ đô la. Thương vụ này là sự thừa nhận thất bại hết sức rõ ràng của Nokia, vì nó đang tự triệt tiêu toàn bộ năng lực sản xuất và chuỗi cung ứng của mình, và thực chất đang trở thành một công ty chuyển giao IP và công nghệ. Đến đầu năm 2014, mức vốn hóa thị trường của Nokia giảm còn 30 tỷ đôla. Sự sụt giảm này thực sự khiến nhiều người ngỡ ngàng nếu so sánh với một thập kỷ trước, khi mức vốn hóa thị trường của công ty đạt đỉnh 200 tỷ đôla. Elop đã đúng khi nói rằng Nokia đang đứng trên một “nền tảng bốc cháy.” Nhưng không giống như người đàn ông trong câu chuyện, Nokia đã không thể sống sót. MỘT NỀN TẢNG THỨC GIẤC Việc thông điệp “nền tảng bốc cháy” của Elop bị tiết lộ đã làm tê liệt Symbian. Bất chấp sự lỗi thời và đang trên đà tụt dốc so với iOS và Android, tại thời điểm đó, Symbian vẫn là hệ điều hành điện thoại di động nắm giữ thị phần cao nhất. Mặc dù về lâu dài, Symbian không thể đứng vững trước những đối thủ mới, nhưng bức thư của Elop đã đẩy nó tụt dốc nhanh hơn. Nhìn chung, thật không hay chút nào khi một CEO lại đánh giá quá thấp sản phẩm “đinh” của công ty mình, nhất là khi chưa có sẵn sản phẩm nào thay thế. Thị trường đã phản ứng ngay sau đó, và giá cổ phiếu của Nokia giảm không phanh. Sau này, Elop thừa nhận rằng bức thư của ông gây tổn hại đến công ty vì nó bị công khai. Ông đã nhận trách nhiệm về điều này tại một cuộc họp ban quản trị của Nokia vào năm 2011. Tuy nhiên, đối với bất cứ ai đang điều hành một doanh nghiệp hiện nay, sẽ thật sai lầm nếu chỉ nhìn nhận sự xuống dốc của Nokia đơn giản như một ví dụ cho khả năng quản trị yếu kém. Mời các bạn đón đọc Những Đế Chế Độc Quyền Thời Hiện Đại của tác giả Alex Moazed & Nicholas L Johnson & Lại Hồng Vân (dịch).
Nguyên Lý Quản Trị Chuỗi Cung Ứng
Cuốn sách này hướng tới ba độc giả: chủ doanh nghiệp – người quyết định mô hình chuỗi cung ứng phù hợp cũng như chi phí bỏ ra cho nó; các nhà quản lý và nhân viên – những người sớm muộn gì cũng phải chịu trách nhiệm thiết lập và điều hành một phần của chuỗi cung ứng; và cuối cùng là những ai mong muốn được nhanh chóng tiếp cận và tham gia vào các cuộc trao đổi về cơ hội cũng như thách thức mà chuỗi cung ứng mang lại. Những khái niệm và kỹ thuật được trình bày ở đây đều rất thông dụng và ai cũng có thể sử dụng khi bàn luận về đề tài quản lý chuỗi cung ứng. *** Sách giáo trình nguyên lý quản trị chuỗi cung ứng gồm 10 chương, là tài liệu học tập quản trị chuỗi cung ứng cung cấp cho người đọc nền tảng vững chắc về khái niệm cơ bản của quản lý chuỗi cung ứng, hiểu các mắt xích trong môi trường kinh doanh. Cuốn sách với nhiều ví dụ minh họa, bài tập tình huống ứng dụng thực tế khái niệm giúp đọc giả dễ hiểu hơn. Nguyên lý quản trị chuỗi cung ứng là tài liệu tham khảo vô cùng giá trị dành cho những ai đang khao khát tìm hiểu về tài quản trị chuỗi cung ứng hoặc mong muốn củng cố thêm kiến thức của mình. Mục lục: Chương 1: Những khái niệm cơ bản về quản lý chuỗi cung ứng Chương 2: Các hoạt động trong chuỗi cung ứng- lên kế hoach và tìm nguồn Chương 3: Các hoạt động trong chuỗi cung ứng- Thực hiện và phân phối Chương 4: Sử dụng công nghệ thông tin Chương 5: Những chuẩn đo lường đánh giá hiệu quả của chuỗi cung ứng Chương 6: Sự phối hợp trong chuỗi cung ứng Chương 7: Sự đổi mới của chuỗi cung ứng nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thời gian thực Chương 8: Xác định cơ hội chuỗi cung ứng Chương 9: Tạo dựng chuỗi cung ứng hướng đến lợi thế cạnh tranh Chương 10: Triển vọng của chuỗi cung ứng thời gian thực *** Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm tất cả những hoạt động quản trị logistics đã nêu cũng như những hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự phối hợp về quy trình và hoạt động của các bộ phận marketing, kinh doanh, thiết kế sản phẩm, tài chính, công nghệ thông tin. Chuỗi cung ứng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trên thế giới này. Chẳng hạn như bộ quần áo bạn đang mặc là kết quả của một chuỗi cung ứng khổng lồ với sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp. Từ nhà cung cấp nguyên vật liệu, xưởng gia công lắp ráp theo mẫu cho đến phương thức vận chuyển, phân phối, cửa hàng bán sỉ, bán lẻ. Rồi cuối cùng mới đến tay người tiêu dùng. Chính vì vậy, các nhà quản trị chuỗi cung ứng cần nắm rõ những nguyên lý cơ bản cho đến nâng cao. Để có thể tận dụng mọi yếu tố và đem đến doanh thu khổng lồ cho doanh nghiệp của mình. Michael. H. Hugos là một chuyên gia cố vấn cho các doanh nghiệp lớn về chuỗi cung ứng. Ông cũng là người sáng lập và CEO của SCM Globe (www.scmglobe.com). Công ty cung cấp các ứng dụng mô phỏng và mô hình chuỗi cung ứng dựa trên đám mây cho giáo dục, đào tạo và kinh doanh. Nguyên Lý Quản Trị Chuỗi Cung Ứng là cuốn sách dành cho tất cả mọi người. Chủ doanh nghiệp – Người quyết định mô hình chuỗi cung ứng và chi phí bỏ ra cho nó. Nhà quản lý và nhân viên của công ty – Những người góp một phần vào vận hành một khâu nào đó trong chuỗi. Những khái niệm và kỹ thuật được trình bày ở đây đều rất thông dụng và ai cũng có thể sử dụng khi bàn luận về đề tài quản lý chuỗi cung ứng. Mời các bạn đón đọc Nguyên Lý Quản Trị Chuỗi Cung Ứng của tác giả Michael H. Hugos.