Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Công Lý & Báo Thù

Michael Rogan nhìn kỹ cái biển hiệu rực rỡ bên ngoài hộp đêm nóng nhất ở Hamburg. Sinnlich! Schamlos! Sündig! Kích dục! Không mát-x-cỡ! Tội lỗi đầy mình! Đúng là cái hộp đêm này, Roter Peter, không thèm giấu giếm cái gì nó đang rao bán. Rogan rút từ túi mình ra một tấm ảnh nhỏ và ngắm nghía cẩn thận dưới ánh sáng màu đỏ của ngọn đèn nơi cánh cửa có hình con heo. Chàng đã nhìn rất kỹ bức ảnh này hàng trăm lần rồi , nhưng chàng vẫn còn bối rối về chuyện nhận diện kẻ mà chàng tìm kiếm lâu nay. Trong vòng mười năm người ta thay đổi nhiều lắm, Rogan biết thế. Chính mình cũng thay đổi nhiều mà, nói chi ai. Chàng đi qua anh chàng gác cửa đang cúi người một cách xun xoe, khúm núm, để đi vào hộp đêm. Bên trong tối mò ngoại trừ cuốn phim “xanh” (blue movie) đang sáng nhấp nháy trên một màn hình chữ nhật nhỏ. Rogan vạch đường đi xuyên qua những cái bàn đông người, một đám đông ồn ào, nồng nặc mùi rượu bia. Bỗng dưng mọi ngọn đèn trong nhà sáng lên và đóng khung chàng sát sân khấu, với những cô gái tóc vàng trần truồng đang giựt người tưng tưng phía trên đầu chàng! Đôi mắt Rogan vẫn chòng chọc vào mấy khuôn mặt của những kẻ ngồi ở các bàn vòng quanh sân khấu. Một cô tiếp viên chạm vào cánh tay chàng. Cô ả nói bằng giọng đỏm dáng,” Có phải Herr Amerikaner tìm kiếm một món đặc biệt?” Rogan chà xát lướt qua nàng, cảm thấy bực mình vì đã dễ dàng để bị nhận ra là một “ông Mẽo. ”Chàng có thể cảm nhận máu đang đập vào tấm thẻ bằng bạc vốn đang giữ hộp sọ chàng gắn lại với nhau – một dấu hiệu nguy hiểm. Có lẽ chàng sẽ phải nhanh chóng hoàn thành chuyện này và quay về lại khách sạn. Chàng di động qua hộp đêm, kiểm tra các góc tối nơi các ông chủ nốc bia từ những chiếc vại khổng lồ và sờ soạng nhéo bóp bất kỳ em nào gần bên. Chàng liếc mắt vào những bàn có che màn nơi các ông khách nằm ngồi lổn ngổn trên mấy ghế sofas bọc da, “ngâm kiếu” các cô nàng trên sân khấu trước khi nhấc điện thoại lên để “triệu tập” em nào vừa mắt đến hầu quan. Bây giờ Rogan đang mất kiên nhẫn. Chàng không còn nhiều thời gian cho lắm. Chàng quay người và đối mặt với sân khấu. Phía sau những cô gái trần truồng đang nhảy có một bức vách trong suốt. Xuyên qua bức vách đó các ông chủ có thể thấy hàng kế tiếp các cô gái đang sẵn sàng bước lên sân khấu, và bọn họ vỗ tay mỗi khi một trong các cô gái cỡi áo nịt ngực hay tuột vớ ra. Một giọng nhừa nhựa say xỉn gọi vọng ra, ”Ôi các em cưng, các em đáng yêu – ta có thể đánh quả với tất cả các em.” Rogan quay người về phía giọng nói kia và cười trong bóng tối. Chàng nhớ lại giọng ấy rồi. Mười năm đã không làm cái giọng ấy thay đổi là mấy. Đó là một giọng vùng Ba-vi-e chói tai với vẻ thân tình giả tạo. Rất nhanh, Rogan di chuyển về hướng ấy. Chàng mở áo jacket, tháo một cái nút bằng da vốn giữ cho khẩu Walther an toàn trong cái bao đeo nơi vai. Tay kia chàng rút ống hãm thanh ra khỏi túi áo jacket và cầm nó như thể đó là một chiếc tẩu thuốc. Và rồi chàng đến trước chiếc bàn kia, trước khuôn mặt của con người chàng không bao giờ quên, kẻ mà kí ức về hắn đã giúp cho chàng sống suốt mười năm qua. Giọng nói đã không đánh lừa chàng; đúng là giọng nói của Karl Pfann. Tay cựu Đức quốc xã này hẳn đã tăng trọng thêm năm mươi pao nhưng lại mất đi gần hết đầu tóc – chỉ còn vài sợi màu vàng lơ thơ trên cái sọ bóng mỡ - nhưng cái mồm thì vẫn nhỏ tí và hầu như vẫn đầy vẻ hiểm ác như Rogan còn nhớ. Chàng ngồi xuống ở bàn kế bên và gọi thức uống. Khi mọi ánh đèn trong nhà tắt đi và cuốn phim xanh lại bật lên chàng rút khẩu Walther ra khỏi bao da và, giữ hai tay dưới bàn, gắn ống hãm thanh vào đầu nòng súng. Vũ khí hơi chùng xuống vì mất cân bằng; nó sẽ thiếu chính xác nếu cự ly quá năm yards. Rogan nghiêng người về phía phải và vỗ vào vai Karl Pfann. Cái đầu to bự quay lại, cái sọ bóng nhẫy nghiêng qua và cái giọng thân tình giả tạo mà Rogan từng nghe trong những cơn mộng ròng rã đã mười năm, nói, ”À, mein Freund, bạn muốn gì ạ?” Rogan nói giọng khàn khàn,” Tôi là một đồng chí cũ của bạn. Chúng ta có cuộc thương thảo công việc vào ngày Rosenmontag – Thứ hai Lễ hội Hoa hồng – năm 1945, nơi Tòa án Munich, bạn nhớ chứ?” Cuốn phim với cảnh nóng lên cao trào khiến Karl Pfann xao lãng câu chuyện, và đôi mắt hắn dính vào màn hình. ”Không, không, không thể có chuyện đó,” hắn nói một cách sốt ruột, mất kiên nhẫn. ”Năm 1945 tôi đang phục vụ cho tổ quốc.Sau chiến tranh tôi mới trở thành doanh nhân.” “Khi mi là một tên Quốc xã,” Rogan nói. ”Khi mi là một kẻ tra tấn... Khi mi là một tên sát nhân. ”Tấm bạc trong sọ Rogan phập phồng. ”Tên ta là Michael Rogan. Ta làm Tình báo Mỹ. Giờ đây mi nhớ ra ta chưa?” Có tiếng thủy tinh vỡ trong lúc tấm thân phục phịch của Karl Pfann xoay quanh và mắt hắn chọc qua bóng tối nhìn Rogan. Tên Đức nói bình thản, có vẻ hăm dọa, ”Michael Rogan đã chết. Mi muốn gì ở ta?” “Mạng sống của mi,” Rogan nói. Chàng rút khẩu Walther từ dưới bàn ra, ấn vào bụng Pfann và siết cò. Thân người của tên Đức giật nẩy lên.với sức mạnh của viên đạn. Rogan chỉnh lại ống hãm thanh và bắn tiếp phát nữa. Tiếng kêu than lúc chết của Pfann bị nhận chìm bởi tràng cười rộ lên, lan ra khắp hộp đêm khi màn hình diễn ra cảnh rù quến buồn cười. Thân hình Pfann đổ gục xuống vắt ngang qua bàn. Cuộc mưu sát hắn ta sẽ không được ai nhận ra cho đến khi cuốn phim kết thúc. Rogan rút ống hãm thanh ra khỏi đầu nòng súng và đút cả hai thứ trở vào trong các túi áo jacket. Chàng ta đứng lên và lặng lẽ di chuyển xuyên qua hộp đêm tối tăm. Anh chàng giữ cửa mặc đồ viền tua vàng chào chàng và huýt sáo đón taxi, nhưng Rogan quay mặt đi và bước xuống đường hướng về phía bến cảng. Chàng đi dọc theo bến cảng một lúc lâu cho đến khi nhịp tim và mạch máu dần trở lại mức bình thường. Trong ánh trăng lạnh của miền Bắc Đức, những bến tàu ngầm hoang phế và những con tàu rỉ sét mang trở lại những bóng ma ghê khiếp của một thời chiến tranh. Karl Pfann đã chết. Rogan như vừa trút được gánh nặng nhưng rồi lại thấy hụt hẫng, chán chường. Và rồi mười năm mộng dữ đã được trả giá và chàng có thể giảng hòa với tấm bạc trong sọ mình, những tiếng kêu xé lòng còn vang vọng vô tận của Christine gọi tên chàng, kêu cầu sự cứu độ, và cái khúc đoạn mù quáng, lóa mắt khi bảy người trong một căn phòng vòm cao của Tòa án Munich đã hành hình chàng như thể chàng là một con thú. Chúng đã cố mưu sát chàng, không chút nhân phẩm, như một trò đùa độc ác. Ngọn gió dọc theo bến cảng cắt vào da thịt chàng và Rogan quay lên phía lối đi Reeperbahn, đi qua đồn cảnh sát khi chàng bước vào Davidstrasser (Phố David). Chàng không có gì phải sợ cảnh sát. Ánh sáng trong hộp đêm quá tù mù để cho bất kỳ ai có thể thấy rõ mặt chàng, đủ rõ để có thể mô tả chàng tương đối chính xác. Tuy nhiên, để cho an toàn, chàng lỉnh vào con đường rẽ có treo tấm bảng bằng gỗ lớn: ”Cấm trẻ vị thành niên!” Trông nó cũng giống như bất kỳ con phố nào khác cho đến khi chàng quẹo ở góc phố. Chàng đã “sa chân lỡ bước” vào khu phố St Pauli nổi tiếng của Hamburg, khu vực được thành phố dành riêng cho việc mại dâm hợp pháp. Khu phố được chiếu sáng rực rỡ và đông đảo khách tìm hoa qua lại. Những căn nhà ba tầng thoạt trông có vẻ bình thường, ngoại trừ là mọi nơi đều rộn ràng như đang mở hội. Những tầng trệt có những cửa sổ thật rộng để phô bày, cho thấy các phòng bên trong. Ngồi trên các ghế bành, đọc sách báo, uống cà-phê và tán gẫu hay nằm ườn trên ghế sofa và nhìn lên trần mơ màng là một vài trong số những cô gái trẻ đẹp nhất mà Rogan từng thấy. Một vài cô ả còn làm bộ như đang lau chùi nhà bếp và chỉ mặc có mỗi cái tạp dề buông xuống đến nửa đùi phía trước còn nguyên phía sau thì... trống trơn! Mỗi nhà đều có tấm biển: ” Ba mươi Marks cho Một Giờ Mê Ly. ”Trên một số cửa sổ màn được kéo xuống. In bằng chữ vàng trên các tấm màn đen là chữ Ausverkauft, “Hết hàng,” để thông báo một cách tự hào là có vị khách sộp nào đấy đã bao cô gái trọn đêm rồi. Có một nàng tóc vàng đang đọc sách trên một cái bàn bằng thiếc nơi nhà bếp. Cô nàng có vẻ sầu muộn ủ ê, không bao giờ liếc nhìn ra ngoài phố phường nhộn nhịp; một ít giọt cà-phê rơi ra gần quyển sách đang mở của nàng. Rogan đứng bên ngoài căn nhà và chờ cho nàng ta ngẩng đầu lên để chàng có thể mục sở thị dung nhan của nàng. Nhưng có vẻ như nàng chẳng muốn nhìn lên. Chắc là tại nàng hơi xí? Cho nên nàng mặc cảm thua chị kém em, chàng Rogan đóan già đoán non như vậy. Cho dầu thế nào đi nữa chàng cũng sẵn lòng chi cho em ba mươi Marks chỉ để có thể nghỉ ngơi thư giãn một tí trước khi bắt đầu cuộc đi bộ khá dài để trở về khách sạn. Đối với thể trạng của chàng mà để bị kích thích tình dục thì cũng không tốt lắm đâu, các vị đốc tờ đã phán như thế, và một phụ nữ với khuôn mặt xấu xí thì sẽ không làm chàng hứng chí được và như thế lại hóa hay. Với tấm bạc đó trong sọ chàng Rogan bị cấm uống rượu nặng, cấm làm tình quá độ, và ngay cả là không được giận dữ. Nhưng các vị đốc tờ lại chẳng nói gì với chàng về chuyện có được giết người hay không. Khi chàng bước vào phòng bếp được chiếu sáng choang kia chàng thấy rằng cô gái đang ngồi đọc sách đó đẹp quá đi chứ! Nàng gấp lại quyển sách với vẻ hối tiếc, đứng lên, rồi nắm tay chàng và dẫn chàng vào phòng riêng ở phía trong. Rogan cảm thấy một cơn thèm muốn nhanh chóng bốc lên khiến đôi chân chàng run rẩy, đầu chàng nặng và căng. Phản ứng của việc giết người và trốn chạy đập mạnh vào chàng và chàng cảm thấy muốn ngất đi. Chàng để rơi người xuống giường và giọng nói vi vu như tiếng sáo của cô gái trẻ dường như đến từ nơi xa xôi nào. ”Anh sao thế? Anh có đau ốm gì không?” Rogan lắc đầu và lóng ngóng với cái ví tiền của mình. Chàng lôi ra một xấp tiền để trên giường và nói,” Anh bao em trọn đêm nay. Kéo màn xuống đi. Rồi để yên cho anh ngủ. ”Trong lúc nàng trở lại nhà bếp Rogan lấy một lọ thuốc nhỏ từ túi áo sơ-mi và thảy hai viên vào mồm. Đó là chuyện cuối cùng chàng làm mà chàng còn nhớ trước khi mất ý thức và chìm vào giấc ngủ mê man. Khi Rogan thức giấc bình minh xám nhạt xuyên qua những cửa sổ bụi mờ để chào chàng. Chàng nhìn quanh. Cô gái đang ngủ trên sàn dưới một tấm nệm mỏng. Một mùi hương hoa hồng toát ra từ thân thể nàng. Rogan lăn mình để có thể ra khỏi giường ở phía bên kia. Những dấu hiệu nguy hiểm đã tan đi. Miếng bạc không còn phập phồng nữa; cơn nhức đầu cũng đã tan biến. Chàng cảm thấy thoải mái, thư thái và sung sức. Không có gì trong ví của chàng bị lấy đi. Khẩu Walther vẫn nằm trong túi áo jacket. Chàng đã “hái lượm” được một cô gái lương thiện, biết điều, Rogan thầm nghĩ. Chàng đi vòng qua phía bên kia của chiếc giường để đánh thức nàng dậy, nhưng nàng đã ngọ ngoạy đôi chân, thân hình xinh đẹp của nàng đang run lên trong cái lạnh ban mai. Căn phòng sực nức mùi hoa hồng, Rogan để ý và có nhiều hoa hồng được thêu nơi các màn cửa sổ và trên các tấm trải giường. Có cả những hoa hồng được thêu trên chiếc áo ngủ mỏng dính, hầu như trong suốt của cô gái. Nàng cười với chàng. “Tên em là Rosalie. Em thích mọi thứ với hoa hồng – nước hoa, quần áo, mọi thứ.” Nàng có vẻ tự hào một cách rất là...con gái về tính mê hoa hồng của mình, như thể điều đó đem lại cho nàng một nét riêng, đặc biệt. Rogan thấy chuyện ấy cũng vui vui. Chàng ngồi trên giường và vẫy gọi nàng. Rosalie đến và đứng giữa hai chân chàng. Chàng có thể ngửi được mùi hương dìu dịu thoảng ra từ người nàng, và trong lúc nàng từ từ cỡi chiếc áo ngủ bằng lụa ra chàng có thể thấy bộ ngực nàng với hai đầu vú như hai trái dâu chín, đôi chân trắng dài; và rồi thân hình nàng bọc quanh thân xác chàng như những đài hoa lụa mịn màng và miệng nàng với đôi môi dày nhục cảm nở hoa bên dưới miệng chàng, bối rối xốn xang, vỗ cánh phất phới với đam mê nồng nàn. *** Con của những người nhập cư Ý đến sinh sống tại khu Hell’s Kitchen của Thành phố New York, Mario Puzo sinh ngày 15, tháng mười, 1920. Sau Đệ nhị Thế chiến – trong thời gian đó ông là một Hạ sĩ của Quân đội Mỹ - ông theo học Trường Cao đẳng Thành phố New York và bắt đầu làm một nhà văn tự do. Trong thời kỳ này ông viết hai quyển truyện đầu tay "Đấu Trường Đen Tối" (The Dark Arena, 1955) và "Người Hành Hương May Mắn" (The Fortunate Pilgrim, 1965). Khi những quyển sách của ông làm ra ít tiền mặc dầu được giới phê bình hoan nghênh, ông thề phải viết ra một quyển bestseller làm rung động văn đàn. "Bố già" (The Godfather - 1969) là một thành công vang dội không chỉ tại nước Mỹ mà hầu như trên gần khắp thế giới. Ông cộng tác với đạo diễn Francis Ford Coppola để viết kịch bản cho cả ba phim Godfather và thắng giải của Hàn lâm viện Điện ảnh cho cả hai phim The Godfather (1972) và The Godfather, Part II (1974). Ông cũng hợp tác viết kịch bản cho những phim như Superman (1978), Superman II (1981), và The Cotton Club (1984). Ông tiếp tục viết những quyển truyện thành công rất ấn tượng như "Fools Die (1978)", "The Sicilian(1984)", "The Fourth K (1991)", và "The Last Don (1996)". Mario Puzo mất ngày 02, tháng bảy, 1999. Quyển truyện cuối của ông "Omerta" -(Luật Im Lặng), được xuất bản trong năm 2000. Tại Việt Nam, hầu hết các tác phẩm của Mario Puzo đều đã được Nhà xuất bản Phương Đông mua tác quyền và chuyển ngữ tiếng Việt. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) Công Lý & Báo Thù ... Mời các bạn đón đọc Công Lý & Báo Thù của tác giả Mario Puzo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xác Chết - Carter Brown
Cô gái tóc vàng đã có thể. Cô gái tóc nâu đã sẵn sàng. Và Al Wheeler đã sẵn sàng ... vì tình yêu. Cho đến khi tìm thấy ba xác chết. Cảnh sát California bắt đầu cuộc chạy đua truy tìm hung thủ khi xác chết đầu tiên xuất hiện. Xác chết thứ hai xuất hiện trong một căn nhà phòng. Và rồi người thứ ba. Xác chết là một câu chuyện về những cô gái tóc vàng, và những kẻ tống tiền. Và viên cảnh sát tên là Al Wheeler xuất hiện với mục tiêu ngăn chặn tên sát nhân. *** Annabelle Jackson sôi nổi quảng cáo, “Đó là một nơi ăn chơi thật độc đáo, rồi anh sẽ thấy!” Tôi như một thằng ngố mặc cho Annabelle muốn dẫn đi đâu thì dẫn. Khi Annabelle dừng lại trước tấm bảng cũ kỹ có hai chữ ‘Guốc Vàng’ chạy đèn néon vàng óng, tôi ngước nhìn lên và thấy rõ hàng chữ cũng được chạy đèn néon nổi bật “Minuit - nửa đêm”. Tôi giơ tay gãi đầu, hỏi, “Ở đây à?” Không trả lời, Annabelle chộp tay tôi lôi tới trước một cánh cửa, nơi có cầu thang dẫn xuống nhà hầm. Khi đã chọn được chiếc bàn sát tường ưng ý, tôi kéo ghế ngồi và bắt đầu quan sát xung quanh. Nhà hầm rộng mênh mông nhưng nom nó có vẻ giống một cái hang nhiều hơn là một nhà hàng, chẳng có tới một cái máy điều hòa không khí dù là loại tồi tàn nhất. Không khí nóng bức trộn lẫn mùi nước hoa lan tỏa càng tạo cho tôi một cảm giác khó chịu. Thêm vào đó là thứ ánh sáng lờ mờ của nhà hầm khiến tôi phải cố gắng căng mắt lắm mới nhìn thấy được một mái đầu với mớ tóc vàng đang lắc lư bên cạnh. Tôi chồm tới ghé sát mặt để yên chí rằng mình không nhìn lầm. Một gã hầu phòng béo mỡ, thứ lề mề bất cần việc, cặp mắt láo liên tiến đến, gã chống hai bàn tay bẩn thỉu lên mặt bàn và hỏi một cách xấc xược, “Hai người ăn uống ra làm sao? Kể mau nghe!” Tôi ngáp dài, “Hai scotch có đá. Mà này, lần sau nên lịch sự một chút nhé. Nhớ tráng sạch ly trước khi mang ra cho chúng tôi!” Gã nhe răng cười nhăn nhở, “Tại sao vậy? Đêm nay anh không định thầu hết chỗ này chứ?” Gã trả đòn, rồi nhún vai biến nhanh như gió. Tôi nheo một bên mắt, nhìn cô bạn, “Trước đó anh luôn thắc mắc, không hiểu em sẽ tìm đâu ra thứ hang ổ hắc ám trong Pin City này. Bây giờ mới hiểu ra. Thánh thật!” Cô nàng đáp nhanh, “Nếu chịu khó nhìn chung quanh, anh sẽ nhìn thấy tín đồ ở đây đều có trán bóng lưỡng và những tròng kính dày cộm. Chúng ta đang trong hậu cung của các nhà học giả đấy!” “Quí vị đó chui vào hốc bò tó này làm gì?” “Họ đến vì… Jazz. Đó là bộ sậu gồm Clarence Nesbitt đàn bass, Cubn Carter trống và Wesley Stewart kèn đồng, ba tay này trước đây là những kẻ vô danh tiểu tốt, giờ thì mọi người đều ngưỡng mộ họ.” “Hừ, không có tôi trong số đó đâu nhé.” “Chưa hết, còn một nguyên nhân nữa.” “Nguyên nhân gì?” “Cái này dứt khoái là anh ngưỡng mộ: Nàng Minuit, như tấm biển đề ngoài cửa.” “Chà, hấp dẫn đấy. Nàng trốn đâu, sao không thấy? Biệt danh à?” “Không, nàng có tên Minuit O’Hara, chỉ xuất hiện vào.nửa đêm. Lý do như thế nào, hiện giờ chưa rõ. Còn ít phút nữa…” Tôi cắt ngang, lay nhẹ khuỷu tay Annabelle. “Các ca sĩ lớn đang chờ em, ở nhà anh, trong băng nhựa. Máy thu băng của anh thuộc loại thượng hảo hạng, một trong những…” “Anh khoan kể nốt,” cô chặn lại giọng lạnh tanh. “Annabelle là cô gái không dễ mắc câu!” Rượu Scotch được mang ra và gã hầu phòng béo mỡ đang ném cái nhìn chòng chọc vào Annabelle, trước khi đặt chiếc ly trước mặt nàng. “Ối dào, phù… phù! Xin cho biết.” Gã hít một hơi thật sâu. “Cái gì đây?” “Một cô gái,” tôi quát vẻn vẹn ba chữ tạo thành câu. “Tôi nhắc nhở anh! Có cần hiểu rộng thêm ý nghĩa tôi muốn nói không?” “Mẹ kiếp, đêm nay mình gặp hên..” Thốt xong, hắn phe phẩy chiếc khăn trên tay như chó vẫy đuôi, rồi lỉnh vào bếp. Annabelle đầy hưng phấn, nói với vẻ háo hức, “Anh nghe đấy, ta còn thưởng thức dài dài. Từ New Orleans thuần nhất có thể rút tỉa ra vài câu thơ theo cung cách Chicago. Qua thể điệu Wing anh sẽ túy lúy bằng những tiếng ‘hí… hê’ thoát ra từ…” Lạy chúa, giọng lưỡi của cô nữ tín đồ sùng bái được bộ tam sên trên bục diễn che lấp mất qua bản “Có một đứa ngu”. Tôi lơ đãng nhấm nháp Whisky, những điều nghi ngờ tệ hại nhất của tôi về Annabelle Jackson đã được xác nhận rồi. Khi bài hát vừa dứt, Annabelle quay sang tôi, đôi mắt lóng lánh, cuồng nhiệt. Cô hăm hở, “Anh cảm thấy thế nào?” Tôi nhăn mặt, ngáp dài, “Ồn ào quá,” tôi đáp. “Trong khi anh chỉ cần ấn nhẹ cái nút, âm thanh đã vừa đủ nghe và hàng loạt ca sĩ nổi danh đương thời lần lượt cất giọng…” Annabelle vờ ngơ ngác, “Chúa ơi, ở đâu có?” “Trong băng nhựa! Xin nói thêm, tủ rượu của anh có vô số rượu khai vị. Còn Whisky thì khỏi nói, toàn là thứ còn nguyên con dấu và nhãn hiệu đàng hoàng, chưa hết…” ... Mời các bạn đón đọc Al Wheeler [#6]: Xác Chết của tác giả Carter Brown.
Tiếng Chó Tru Trong Đêm - Erle Stanley Gardner
Truyện rất tuyệt, một trong những #Mason hay nhất tôi từng đọc. Tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn kết phải nói là: Hảo Hảo - Mỳ tép số 1 VN. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** - Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, - Della Street mở cửa. - Ông Mason đang đợi ngài ạ. Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng. - Ngài là Perry Mason? - Ông ta hỏi. - Ngài là luật sư ạ? - Vâng, - Mason đáp. - Xin mời ngài ngồi. Người đàn ông ngả xuống ghế bành, rút thuốc lá nhét một điếu vào miệng và chìa bao thuốc cho Mason. Trầm ngâm ngó bàn tay run rẩy, Mason lắc đầu từ chối. - Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn. Người đàn ông hấp tấp nhét bao thuốc vào túi. Quẹt diêm, tựa khuỷu tay vào tay vịn của ghế và châm thuốc hút. - Thư kí của tôi báo với tôi rằng. - Mason thong thả nói. - ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc. - Về con chó và di chúc, - người đàn ông lặp lại như tiếng vọng. - Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm! Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy. - Tên ngài là gì? - Artur Cartrait. - Tuổi? - Ba mươi hai. - Địa chỉ thường trú? - 4893, Milpas Draiv. - Có vợ hay độc thân? - Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng? - Vâng, - Mason nói, ngước nhìn khách hàng. - Điều đó không quan trọng đối với di chúc, - ông kia cự lại. - Mặc dù thế vẫn cần. - Nhưng tôi đã nói rồi, điều đó không liên quan gì với di chúc của tôi. - Vợ ngài tên là gì? - Paula Cartrait. - Bà ấy sống với ngài chứ? - Không. - Vậy thì ở đâu? - Tôi không rõ. Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay. - Được rồi, - ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, - trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không? - Không. - Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai? - Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không? Mason im lặng gật đầu. - Chúng ta cứ cho rằng, - Cartrait tiếp tục. - theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y? - Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, - Mason đáp. - Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc? - Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác. - Ngài có ý gì? - Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu. Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ. - Ngài muốn để tài sản lại cho ai? - Mason nhắc lại. - Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889. Mason sửng sốt nhướng lông mày. - Cho bà hàng xóm ư? - Cho bà hàng xóm, - Cartrait khẳng định. - Rất tốt. Nhưng hãy lưu ý, ngài Cartrait, ngài đang nói với luật sư của mình. Ngài không nên có bí mật gì đối với tôi. Xin đừng lo, tất cả những điều nói ra tại đây, sẽ ở lại giữa hai chúng ta mà thôi. - Thì tôi có giấu giếm gì đâu! - Cartrait kêu lên nôn nóng. - Tôi không tin chắc vào điều đó, - Mason nhận xét trầm tĩnh. - Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã. - Tôi nói hết rồi. - Hết là thế nào? - Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli. Perry Mason đặt bút xuống bàn. - Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy. - Con chó tru. Mason gật đầu vẻ khuyến khích. - Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết. - Con chó này sống ở đâu? - Trong ngôi nhà bên cạnh. - Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru? - Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli. - Hiểu rồi, - Mason gật đầu. - Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait. Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành. - Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc. - Tôi nghe đây. - Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli. - Ngài có ý nói gì? - Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp. - Điều đó không có ý nghĩa gì, - Mason chậm rãi đáp, - nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ... - Tôi không quan tâm điều đó, - Cartrait sốt ruột cắt lời ông. - Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không? - Điều đó không nhất thiết. - Thế nếu như, - cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, - vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà? - Tôi đã giải thích với ngài rồi, - Mason nhẫn nại đáp, - điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ? - Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi. - Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không? - Tất nhiên không, - Cartrait cắt ngang. - Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả. - Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó. - Ngài phải làm gì đó với con chó này. - Đề xuất của ngài? - Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù. - Dựa trên cơ sở nào? - Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, - Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc. Mason lắc đầu. - Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và... - Tôi biết, tôi biết, - Cartrait cắt lời ông. - Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi. Mason mỉm cười yếu ớt. - Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư. - Không! - Cartrait kêu lên. - Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, - ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. - Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn. Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn. - Thưa ngài Cartrait, - ông thốt ra dè dặt, - nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu? - Tôi mong được như thế. - Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài. - Tốt, - Cartrait đáp. Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi. - Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt? - Vâng. - Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo? - Ngài chưa biết Fouli, - Artur Cartrait nhắc lại. - Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy. - Con chó giống gì? - Bécgiê cảnh sát to tướng. Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười. - Nếu người đưa đơn kiện đã sơ bộ nhờ đến luật sư, kể hết với ông ta tất cả không che giấu điều gì, và trong tương lai tuân thủ các lời khuyên của luật sư, thì trong khi xem xét tố tụng về sự buộc tội giả trá, điều đó sẽ có lợi cho người kiện. Còn bây giờ, tôi muốn làm để sao cho Clinton Fouli không có nguyên cớ đâm đơn kiện ngài lên toà. Tôi sẽ đưa ngài đến gặp trợ lí ngài biện lí khu, người phụ trách những vấn đề tương tự. Tôi muốn để ngài nhắc lại với ông ấy tất cả những gì liên quan đến con chó. Có thể không nhắc tới bản di chúc. Nếu ông ấy quyết rằng điều ngài nói là đủ để có lệnh bắt giam, thì lệnh sẽ được viết. Nhưng tôi cảnh báo trước, ngài không nên giấu giếm gì cả. Hãy đưa ra trước ông ấy tất cả các cứ liệu, và lúc ấy bất cứ đơn kiện nào của Fouli cũng không làm hại được ngài. Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây? - Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, - Mason đáp. - Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy. - Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu. Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm... Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên. - Bị cắm sừng à? - Cô hỏi. - Tôi không biết, - Mason đáp, - nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta. Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ. Dorcas ở đầu dây. Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói. - Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì. - Ông ta cần gì? - Ông ta muốn đâm đơn kiện. - Về lí do gì? - Về con chó tru. - Về... - Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư. - Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế. - Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này. - Chỉ vì tiếng chó tru ấy à? - Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên. - Điều đó là chính xác, - Dorcas đồng ý. - Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ? - Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi. - Tôi sẽ đợi các anh, - ngừng một chút, Dorcas nói. - Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. - Mason đặt ống nói xuống. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #04: Tiếng Chó Tru Trong Đêm của tác giả Erle Stanley Gardner.
Sợi Chỉ Mỏng Manh - Yakov Naumov & Aleksandr Yakovlev
Thiếu tá KGB Andrey Mironov và các đồng sự khám phá ra kế hoạch gián điệp do một nhóm phản động âm mưu thực hiện vào những năm đầu sau chiến tranh vệ quốc. *** Đã một giờ trôi qua và có lẽ là hơn nữa, thiếu tá An-đrây Mi-rô-nốp miệng vẫn không rời điếu thuốc lá – hết điếu này anh lại châm ngay điếu khác. Mi-rô-nốp đi đi, lại lại từ góc này sang góc kia trong căn phòng làm việc. Anh đếm mười bốn bước đi, quay lại mười bốn bước, rồi lại đi mười bốn bước nữa. “Đi bao nhiêu bước rồi: năm trăm, một ngàn, năm ngàn hay mười ngàn?” – ý nghĩ đó thoáng đến rồi vụt biến đi vì nó có nghĩa lý gì đâu. Mi-rô-nốp dừng lại bên cửa sổ, anh mở rộng hai cánh cửa. Không khí mát mẻ mùa thu ùa vào căn phòng. Những làn khói thuốc lá đang luẩn quẩn quanh bàn, xao động và tan dần. Tỳ tay vào khung cửa, Mi-rô-nốp nhìn ra đường. Trước mắt anh là những khung cảnh quen thuộc: bên phải là đường phố hẹp mang tên Đgiéc-gin-xki ngược về phía trước, đường hơi dốc thoai thoải. Về buổi chiều, đường phố náo nhiệt hẳn lên với những ô tô du lịch, tơ-rô-lây-buýt và xe khách loại lớn. Bên trái, trông rõ một phần quảng trường Đgiéc-gin-xki với cửa hàng bách hóa “Thế giới thiếu nhi” đang tấp nập người ra vào. Từ trên tầng năm của tòa nhà Ủy ban an ninh nhà nước, có thể trông rõ dòng người vô tận trên các vỉa hè, đường rẽ… Mi-rô-nốp trầm ngâm ngắm nhìn cảnh người, xe tấp nập, nhộn nhịp. Nhưng khung cảnh gần gũi và quen thuộc thường ngày ấy hôm nay đối với anh không thể gợi lên được một niềm vui nào như mọi hôm. Anh đang bận tâm suy nghĩ một vấn đề quan trọng. Mi-rô-nốp thở dài, đóng cửa sổ lại và quay về bàn làm việc. Ngồi xuống chiếc ghế mềm, Mi-rô-nốp lại kéo cặp tài liệu và dở tập ” Hồ sơ số…” Bìa tập hồ sơ màu nâu mỏng dính. Trong đó chỉ có mười đến hai mươi trang. Chính những vấn đề trong cặp hồ sơ ít ỏi đó đã làm cho người thiếu tá an ninh mất ăn mất ngủ suốt ba hôm nay. Anh mở cặp giấy và lại một lần nữa, không hiểu là lần thứ mấy rồi, chăm chú đọc hết trang này sang trang khác. Nhưng tất cả đều vô ích, vì không có gì sáng sủa hơn. Càng đọc bao nhiêu anh càng thấy bế tắc bấy nhiêu (và quả là Mi-rô-nốp hầu như đã gần thuộc lòng) anh không làm sao lần ra đầu mối của cuốn chỉ để theo đó có thể tiến hành cuộc điều tra. Còn nhiều điều chưa rõ ràng, chưa được xác minh. Phải tập trung chú ý ai trước? Phải nghiên cứu ai trước? Mi-rô-nốp suy nghĩ. Xa-môi-lốp-xcai-a ư? Điều này chẳng cần phải nói vì chính là đã bắt đầu từ mụ ta, tuy nhiên Mi-rô-nốp cũng tin là Xa-môi-lốp-xcai-a chỉ là một con cờ ngẫu nhiên không đáng được các cơ quan an ninh nhà nước chú ý. Trê-nhi-a-ép chăng? Rất mơ hồ. Quả thật nếu như tin vào lời khai của Xa-môi-lốp-xcai-a (nhưng có nên tin mụ ta không?) thì trường hợp của Trê-nhi-a-ép quả là lạ lùng thật. Tại sao ông ta, một con người sống phong lưu, dư dật lại phải đi bán những quần áo phụ nữ nhập cảng. Nếu quả như vậy thì dù chỉ là một giả thuyết tồi nhất: điều đó có khác gì một kẻ đầu cơ. Bản thân Trê-nhi-a-ép lại là một đảng viên, từng tham gia cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, một trung tá kỹ sư, một người đã được thưởng nhiều huân chương, một nhà xây dựng cỡ lớn. Không thể nào ông ta lại giống một kẻ có thể gây nên những tội lỗi chống Tổ quốc, chống Nhà nước xô-viết. Vậy thì là ai bây giờ? Tác giả của mẩu thư còn sót lại chăng? Cũng có thể lắm. Nhưng, nên bắt đầu với anh ta như thế nào nếu như chưa biết rõ anh ta, hay đúng hơn là cô ta, là ai? Phải tìm tác giả bức thư đó ở đâu? Tìm như thế nào? Nếu như trong tay Mi-rô-nốp đã có được một mối chỉ nào đấy thì nó cũng rất mỏng manh, rất rời rạc… ... Mời các bạn đón đọc Sợi Chỉ Mỏng Manh của tác giả Yakov Naumov & Aleksandr Yakovlev.
Tiền 2: Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Paul Loup Sulitzer
Cậu chàng Frank Cimballi, 19 tuổi, con nhà tỉ phú chỉ biết ăn chơi, bỗng rơi tõm vào một cảnh ngộ bi đát: Bố, mẹ chết, người yêu tự sát, gia tài khổng lồ được thừa kế bị cưỡng đoạt sạch sành sanh. Bị đẩy đến xứ Kenya Châu Phi xa lạ với hai bàn tay trắng - theo đúng nghĩa đen, cậu chàng bắt buộc phải sống, phải làm lại cuộc đời mình. Thế mà chỉ năm năm sau, Cimballi đã trở thành triệu phú, lần luợt đánh bại tất cả những kẻ độc ác đã “gây nên cuộc lừa đảo có tầm cỡ thế kỷ”, kể cả tên trùm tư bản tài chính Martin Yahl. Đánh bại, không phải bằng vũ lực mà bằng chính sức mạnh của đồng tiền, bằng các mánh lới, các thủ đoạn kinh doanh. Và rồi chính Cimballi, đang ngất ngưởng trên đỉnh cao chót vót thắng lợi huy hoàng, lại một lần nữa bị lôi tuột xuống vực cũng bằng những cái “bẫy” nghề nghiệp... Dịch và giới thiệu “Tiền!...” vào lúc này, chúng tôi hy vọng có thể giúp bạn đọc tiếp cận với “thế giới kinh doanh”, với “nghệ thuật làm giàu”, và còn hơn thế nữa, có một cái nhìn đầy đủ, xác thực về thời đại mình đang sống. *** Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Ngày 7 tháng năm. Ngày hôm ấy, sáng hôm ấy tôi ở Amsterdam. Từ London tới, sau đó phải đi ngay Frankfurt, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Có hẹn trong buổi chiều và ngay tối hôm đó đi Paris ở độ ba bốn ngày, rồi từ Paris bay đi California, qua New York để gặp Catherine. Đây không phải chuyến đi đặc biệt. Trong mấy tháng gần đây tôi đã đi mười lăm hai mươi chuyến như thế này rồi. Ngày 7 tháng năm này cũng không phải là một ngày khác thường. Tôi không hề mường tượng đến điều đang đợi mình. Không một chút linh cảm nào. Cuộc gặp gỡ bên Hà Lan chán phè. Một người không nhìn được đã nhận xét: “Anh còn rất trẻ!” Còn tôi vẫn đưa ra câu trả lời quen thuộc: “Xin yên tâm, điều đó không lây sang ông đâu mà lo”. Sau các thủ tục xã giao đó, chúng tôi vào việc. Họ cho biết có chuyện làm ăn muốn bàn với tôi. Nói với tôi chuyện đó, họ đề phòng cẩn thận như những tên trộm cắp. Tuy chuyện của họ thật đơn giản: Họ có tiền (không ít) và muốn có nhiều hơn (tất nhiên), họ muốn bỏ vốn vào một công ty đầu tư tư nhân thật hoàn toàn ẩn danh đặt trụ sở ở Curacao trong quần đảo Antilles thuộc Hà Lan cũ, hoặc ở Panama, hoặc Caiman, hoặc Bahamas, hoặc Liechtenstein, hoặc bất cứ đâu cũng được miễn là giữ được bí mật triệt để. Họ mong đợi công ty sẽ thu được lợi nhuận cao nhờ tài quản lí tinh ranh của Franz Cimballi. Franz Cimballi chính là tôi. Tóm lại, một chuyện làm ăn kinh điển. Tiếp theo là bài vè cổ truyền về thuế má. Tôi ngồi nghe nhưng đầu nghĩ đến việc khác, cuối cùng tôi bảo: “Tôi hiểu ý mấy ông, xong rồi, mọi việc sẽ tốt đẹp”. Tôi chia tay với họ sau độ một tiếng bàn bạc. Lúc ấy vào khoảng mười một giờ mười lăm. Tôi đi dọc bến Singel, những chiếc xuồng kết hoa đầy ắp hàng chở đi chợ, nhẹ nhàng lướt trên sông. Đến tận hôm nay trong mũi tôi vẫn còn phảng phất hương thơm những bó hoa ấy, trước mặt vẫn còn hiển hiện sắc mầu của chúng. Đi qua quảng trường Rembrandt[1], có lẽ thời tiết tốt nên xung quanh tượng đài nhà danh họa mới đông người thế kia. Việc tôi đi bộ ngày hôm ấy chắc hẳn là một điều gì đó. Tôi vẫn thường đi bộ khi bàn luận, khi muốn thuyết phục người đối thoại, tôi ít khi ở yên một chỗ, nhưng đi như thế này ngoài đường giữa một thành phố, chứng tỏ tôi đang băn khoăn về một điều gì đó tôi không nhớ lại được. Đến trưa tôi về khách sạn Amstel. Tay phóng viên Mỹ đã đợi tôi trong đại sảnh. Tôi không nhớ ra anh ta. Anh ta nói: - Anh quên tôi rồi hả? - Đừng nghĩ bậy! Tôi đã nhớ tới anh ngay. Tên anh là gì tôi cũng quên mất rồi: Mac Quelque gì đó. Anh ta cất công từ New York tới chỉ để gặp tôi, rất sung sướng, và phỏng vấn để viết bài cho tạp chí của anh ta đang có ý định dành hẳn một hoặc hai trang nói về tôi. - Tại sao lại nói về tôi? - Vì không có mấy người làm nổi một trăm triệu đôla ở tuổi hai lăm. - Tôi đâu có làm ra một trăm triệu đôla! Một nửa? - Một nửa cũng được. Một nửa chừng đó cũng giật gân lắm rồi, anh Cimballi. Gọi anh là Franz dược chứ? Vả lại anh còn chưa đến hai lăm nữa kia. Trông mới độ mười tám đôi mươi. Bất thình lình tôi nhớ ra tên anh ta: MacQueen. Michael MacQueen. - Nào ta đi, Mike. - Anh không bằng lòng khi nghe nói mới độ mười tám? - Còn đỡ hơn nếu anh bảo tôi trông như ông cụ năm mươi. ... Mời các bạn đón đọc Tiền 3: Sòng Bạc của tác giả Paul Loup Sulitzer.