Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mắt Quạ Tinh Tường

“Trong Mắt quạ tinh tường, Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo…cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách.” Quill & Quire *** Đây là cuốn sách đầu tiên sau khoảng 10 năm mình chưa đọc một cuốn trinh thám nào tuy từ nhỏ cuốn nào mình đọc mình cũng đều thấy thích, nhưng lại ngại mua. Tự dưng năm nay nổi hứng muốn thay đổi chút thể loại và làm 2 em trong Series này. Một cuốn sách tuyệt vời vì mình hoàn toàn 'enjoy' nó. Sherlock Holmes thì nổi tiếng quá rồi, nhưng thực ra chưa cầm cuốn sách nào của Conan Doyla cả. Nhưng đọc xong cuốn này chắc phải có kế hoạch làm một bộ thôi. Theo ý kiến cá nhân của một người ít đọc truyện trinh thám cũng như không có đầu óc nhạy bén để suy nghĩ sâu xa thủ phạm là ai hay đoán trước tình tiết, mình cứ để cho tác giả dẫn dắt. Shane Peacock thật sự lôi kéo mình, từng chi tiết nhỏ được tiết lộ, manh mối đầy đủ dần, bất ngờ tăng lên, kịch tính dâng trào và cuối cùng thủ phạm cũng bị lôi ra vành móng ngựa và Holmes cũng mất mát không ít, nhưng CÔNG LÝ được thực thi là điều cốt lõi. Song nhiều khi anh hùng không được biết đến là điều hay xảy ra trong xã hội có phần mục ruỗng. Giá như khai thác kỹ hơn về suy nghĩ hay hành động của kẻ lái xe ngựa, câu chuyện có lẽ hoàn hảo hơn. *** "Thời niên thiếu của Sherlock Holmes" là bộ tiểu thuyết đầu tiên về quãng đời trẻ con của thám tử huyền thoại Sherlock Holmes. Ra mắt lần đầu năm 2007, bộ sách của Shane Peacock ngay lập tức thu hút sự chú ý của độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới và giành được hơn 40 giải thưởng danh giá: Giải thưởng Sách của năm của Hiệp hội Thư viện Canada, Top 10 truyện bí ẩn cho thiếu nhi, Giải thưởng Arthur Ellis cho thể loại truyện hình sự thanh thiếu niên, Huy chương vàng cho sách của năm của Tạp chí Foreward... Hình ảnh một Sherlock Holmes tài ba với trí thông minh nhanh nhạy, sự quan sát tinh tế, những phán đoán logic trong tác phẩm của Arthur Conan Doyle đã làm say mê biết bao thế hệ độc giả. Tuy nhiên, chưa có tác phẩm nào cho thấy, tài năng của Sherlock Holmes bắt đầu bộc lộ từ khi nào? Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống từ thời thơ bé có tác động tới Sherlock Holmes ra sao? Ngay cả bác sĩ Watson - người bạn thân thiết của Sherlock Holmes cũng "chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh… Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích…". Qua Thời niên thiếu của Sherlock Holmes, Shane Peacock lý giải những câu hỏi đó và giúp độc giả tiếp tục được đắm mình trong cảm giác hồi hộp gay cấn qua từng vụ án đầy kịch tính. Nhận xét về tiểu thuyết của Shane Peacock, tờ The Global and Mail cho rằng, tiểu thuyết của Shane Peacook dành cho độc giả trẻ, nhưng người lớn cũng cảm thấy thích thú với những cuộc phiêu lưu có tiết tấu nhanh, đầy kịch tính... Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes gồm có: Mắt Quạ Tinh Tường Cú Ngã Tử Thần Cô Gái Bí Ẩn Hung Thủ Giấu Mặt Con Rồng Ma Quái Trưởng Thành ... Trong "Mắt quạ tinh tường", Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo... cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách... (Quili & Quire) *** Shane Peacock là một nhà văn nhà báo đa tài, ông viết nhiều thể loại như tiểu thuyết, kịch, kịch bản phim, tiểu sử. Nhân vật trong các tác phẩm của Shane Peacock đều là những người lỗi lạc, làm được những việc phi thường. *** "Suốt trong quá trình quen biết lâu dài và thân thích với Sherlock Holmes, tôi chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh... Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích..." - Bác sĩ Waston, trích trong Người thông ngôn Hi Lạp. --- Án mạng xảy ra trong đêm tối tại khu Whitechapel nằm sâu về phía đông, nơi khuất xa những ngọn đèn khí đốt trên các tuyến phố chính. Đây là chốn cư ngụ của dân Do Thái và lớp người cùng đinh. Nơi những kẻ vô danh tiểu tốt của một đô thị vĩ đại nhất địa cầu sống như bầy cầm thú. Vụ án xảy ra chỉ trong tích tắc, như một nhát đâm của sự tàn nhẫn, bất công và bạo tàn. Nhiều giờ sau, tại khu Southwark phía nam dòng sông Thames, trong căn hộ xập xệ nằm trên cửa hiệu tồi tàn, một cậu bé miễn cưỡng thức dậy đón ngày mới. Sự công bằng không hiện diện ở nơi này. Nhưng hôm nay sẽ là ngày có tính quyết định đối với cậu bé, với vụ sát nhân và rất nhiều vụ án sau này. Không một ai chứng kiến một vụ án mạng tại Whitechapel. Nhưng trong màn đêm mịt mùng, những đôi mắt đen đã nhìn thấu tỏ. Và sáng hôm nay... một bậc thầy đã thức dậy. Mặt trời xuất hiện, rọi những tia nắng xuyên qua màn sương mù vàng vọt đang dần tan, chiếu lên đám người tuyền một màu nâu, lùm xùm nào mũ nón, nào quần áo cùng giày ủng đang rùng rùng di chuyển qua những chiếc cầu và dọc theo các con phố lát đá. Tiếng móng ngựa khua lọc cọc trên mặt đường hoà cùng tiếng rầm rập của các bánh xe sắt, tiếng chuyện trò râm ran và lời rao của những người bán hàng rong. Mùi ngựa trộn lẫn với mùi rác rưởi, than đá và khí đốt lan toả trong không khí. Phần đông mọi người đều tất tả đi đến một nơi nào đó trong buổi cuối xuân năm 1867 ấy. Giữa đoàn người đang từ bên mạn nam vượt qua dòng sông bẩn thỉu trên cây cầu đá, có một cậu bé cao gầy, da dẻ tái nhợt tựa như sắc giấy trên rìa các trang Thời báo Luân Đôn. Cậu mười ba tuổi, và lẽ ra đang ngồi học ở trường. Từ xa, trông cậu thật bảnh bao trong chiếc áo choàng màu đen dài, cà vạt, áo chẽn và đôi ủng đánh bóng. Nhìn gần, cậu có vẻ xơ xác và buồn bã, nhưng từ đôi mắt màu khói của cậu toát ra nét tinh anh. Tên cậu là Sherlock Holmes. Trong vô vàn tội ác ở Luân Đôn này, tội ác đêm qua tại Whitechapel có lẽ là vụ man rợ nhất. Nó sẽ làm thay đổi cuộc đời cậu. Một lát nữa đây nó sẽ đập vào mắt cậu. Và mấy ngày tiếp theo nó sẽ hút lấy cậu. Sherlock đến với những con phố nhộn nhịp và ồn ã này để tạm lánh các vấn đề của mình và tìm nguồn hứng khởi. Cậu quan sát những con người tiếng tăm giàu có để tìm hiểu xem điều gì khiến họ thành công và được trọng vọng như vậy. Vốn rất thính nhạy trước những sự kiện gay cấn và bức xúc, cậu luôn tìm chúng trên những tuyến phố chính ồn ã náo nhiệt này. Ngày nào cậu cũng ra đây theo cùng một lối. Đầu tiên cậu rời căn hộ trên gác của một hiệu nón cũ kĩ tại khu Southwark bẩn thỉu và đi về phía nam theo hướng trường học. Nhưng ngay khi khuất tầm mắt, cậu liền rẽ sang hướng tây rồi lỉnh lên phía bắc, cùng với đám đông băng qua sông trên cầu Blackfriars để đến với khu trung tâm tráng lệ của thành phố. Các cư dân của Luân Đôn lướt qua cậu như những đợt sóng. Mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình khiến cậu say mê. Sherlock Holmes là một cỗ máy quan sát. Sinh ra cậu đã như vậy. Chỉ trong chớp mắt cậu đã có thể khắc hoạ chân dung của một người nào đó. Cậu có thể nói ngay lí lịch của người này hoặc nghề nghiệp của người khác. Nhờ năng lực đó nên cậu khá nổi tiếng tại khu phố nhỏ của mình. Nếu có đồ vật gì bị thất lạc - một chiếc ủng, một cái tạp dề hay một khoanh bánh mì nóng giòn - cậu có thể nhìn các khuôn mặt, xem xét những chiếc quần, và khám phá các manh mối để chỉ ra thủ phạm, dù lớn hay nhỏ. Người đàn ông đang bước về phía cậu từng ở trong quân ngũ, có thể nhận ra điều đó nhờ bộ ria của ông ta. Ông ta đã từng dùng ngón trỏ tay phải chai sần ấy để bóp cò súng trường. Ông đi lính bên Ấn Độ - cậu từng thấy trong sách một biểu tượng của Ấn giáo giống như hình trang trí nằm trên chiếc măng séc bên trái kia. Cậu đi tiếp. Một phụ nữ đầu đội mũ vải sùm sụp đi lướt qua, tấm khăn quấn trên vai cô ta chạm nhẹ vào cậu. - Đi đứng cái kiểu gì đâu! - Cô ta lườm cậu, làu bàu. "Người này thực ra cũng dễ đoán thôi, Sherlock Holmes thầm nghĩ. Chị ta mới vừa bị thất tình. Nhìn cặp mắt thâm quầng, giọng nói cau có và thanh sôcôla giấu trong tay chị ta thì biết. Chắc chị ta quãng ba mươi tuổi. Trông có vẻ đang béo ra. Chị ta sống tại vùng ngoại ô Sussex, nơi duy nhất có loại đất sét nâu dính trên mũi đôi ủng đen kia." Sherlock Holmes luôn cảm thấy muốn biết hết mọi thứ. Cậu cần nhiều hơn những thứ ít ỏi mà cuộc sống đã mang lại cho mình. Một thầy giáo trong trường từng khen cậu giỏi giang. Cậu không coi chuyện đó là ghê gớm. "Giỏi về cái gì chứ?" Cậu tự nhủ. "Về việc sống nhầm chỗ và nhầm thời điểm à?" Tại phố Fleet, cậu thò tay vào trong một cái thùng rác bằng gang, lôi ra một nắm báo. Thời báo... nhét trở lại. Tin điện hàng ngày... nhét trở lại. Cảnh sát nhật báo... à, đây rồi. Rốt cuộc cũng có một tờ hoạ báo! Mọi cảm xúc mà Luân Đôn có thể tạo ra đều được thổi sức sống vào nhờ những bức vẽ trắng đen kích thước lớn. Cậu đọc toàn những loại báo tường thuật các chuyện gây xôn xao dư luận. Và tờ báo này, cùng với một câu chuyện hấp dẫn, đầy máu me bạo lực và bất công, sẽ chỉ ra định mệnh của cậu. Cậu giấu nó vào trong áo khoác. Tại quảng trường Trafalgar, Sherlock Holmes ngước mắt lên tìm kiếm lũ quạ. Thường thì chúng đậu thành hàng trên nóc khách sạn Morley. Nằm gần toà Northumberland House lộng lẫy, bên mạn đông nam của quảng trường, khách sạn Morley được lũ quạ chọn để tách xa khỏi những con bồ câu béo ú và đám đông gần đài phun nước. Cảnh tượng khiến cậu mỉm cười: Một trong những khách sạn sang trọng bậc nhất Luân Đôn, cùng với hàng quạ đậu trên nóc. Đó là loài chim Sherlock Holmes ưa thích. Cậu len lỏi giữa dòng người lưu thông trên đường, băng qua quảng trường tới các bậc thềm đá trước cửa nhà Triển lãm Nghệ thuật Quốc gia. Những con quạ cũng di chuyển. Đôi khi cậu nghĩ lũ chim đi theo mình. Một đôi quạ sà xuống và đậu bên cạnh cậu bé. - Chào hai cậu. Để xem tin tức hôm nay có gì nào. Cậu giở báo ra. Cái tít trên trang nhất đập thẳng vào mắt cậu. ÁN MẠNG! Bên dưới dòng tiêu đề là bức tranh minh hoạ ghê rợn tái hiện cảnh một người phụ nữ trẻ nằm trên một con phố của Luân Đôn, thân mình ngập trong vũng máu. Hai con quạ kêu toáng lên và bay đi mất. Sherlock đọc tiếp. Án mạng xảy ra ở giữa đêm khuya, tại phía đông của khu phố cổ. Không ai chứng kiến hay nghe thấy gì, dù chỉ là một tiếng hét. Hung khí la một con dao dài và sắc. Sherlock lật sang trang sau. Cậu đọc ngấu nghiến: một phụ nữ chưa rõ địa vị xã hội, không có cái tên nào được nhắc đến, không có kẻ thù nào được biết tới. Cậu nhận thấy cô ta trông giống mẹ mình. Cậu bé nghe thấy tiếng người qua đường xầm xì: - Con bé tội nghiệp. - Chắc hẳn là dân lề đường xó chợ, một đứa ngoại lai. - Lại cái thằng nhóc dễ sợ ngồi đó. Chỉ ước gì nó biến đi. - Mấy con chim lúc nãy là quạ à? Điềm gở đấy. - Bọn lưu manh. Một lũ du thủ du thực. Kìa, chúng đến đấy. Để tôi gọi cảnh sát. Cậu bé liếc mắt nhìn lên. Đó là nhóm bụi đời quảng trường Trafalgar. Cậu gần như có thể đánh hơi thấy bọn chúng. - Sherlock Holmes công tử, nếu tao không nhầm! Một thằng bé tóc đen mặt du côn lên tiếng. Cùng với nó là một nhóm trẻ bẩn thỉu, những bản sao thu nhỏ của thằng đầu đảng. Thằng bé mặc một chiếc áo choàng dài màu đen cũ mèm. Một cái mũ chóp cao sẫm màu vắt vẻo trên đầu nó. Còn trong tay nó là một chiếc gậy chống thô sơ. - Tao nghĩ mày đang chiếm chỗ của bọn tao đấy. Bọn trẻ chưa bao giờ ngồi ở đây. Hôm nay cũng sẽ như thế. - Giáo chủ thân mến của tôi... - Holmes đáp, vẫy tay chào nhóm Bụi đời -...cùng những người bạn. - Ít ra tao cũng có vài đứa bạn. - Ờ. - Biến mau! Nếu không chúng tao lại đập cho bây giờ. - Đồ con nai Do Thái! (Với những chữ n in nghiêng thì bạn hãy đọc thành l, còn chữ l in nghiêng thì ngược lại nhé. FEEN WATTPAD) Một thằng bé khó chịu tên Grimsby quát to. Holmes luôn ngán ngại thằng này. Hàm răng vàng ệch nhọn hoắt như răng chồn của nó trông cứ như sắp cắn người ta đến nơi. Sherlock đứng dậy, vuốt phẳng lại bộ quần áo cũ mèm. Cậu ghét thằng Giáo chủ, nhưng đồng thời cũng ngưỡng mộ nó. - Thấy cái này chưa? - Cậu hỏi, tay giơ tờ Cảnh sát nhật báo. - Đâm nủng bụng kìa, ghê chưa! Nàm khéo thật! - Grimsby thốt lên. Bọn trẻ cười rúc rích. - Vui gì mà cười! - Giáo chủ nạt cả bọn - Chuyện này không hay ho gì đâu. - Chuyện là thế nào? - Holmes hỏi, cậu thừa biết là thằng bé du đãng và băng nhóm của nó tường tận mọi tin đồn lan truyền trong các ngóc ngách của Luân Đôn. - Chỉ có dân đường phố biết... và biết với nhau thôi. - Giáo chủ nói - Tao không ưa cái... - Biết mà! - Sherlock thở dài. - Tôi biết... mấy người không ưa gì cái bản mặt của tôi. Có một chút tương đồng giữa hai cậu bé, mặc dù thằng thủ lĩnh nhóm Bụi đời lớn hơn một chút và nói giọng hơi pha âm sắc Ái Nhĩ Lan. Sự giống nhau ấy còn hơn bề ngoài u ám của hai đứa. Nó nằm trong cung cách bộc lộ bản thân và sự chỉn chu trong những bộ trang phục cũ sờn. Cả hai đều ý thức được điều đó, nhưng Giáo chủ không ưa gì chuyện này. - Mày sẽ không bao giờ là bụi đời được, Sherlock Holmes ạ. - Có chứ, tôi đang bụi đời lắm đây này. Một tay cảnh sát đang đi đến, cực kì bảnh choẹ với cái mũ cối trên đầu và chiếc áo khoác màu xanh dương có hàng khuy sáng bóng đều tăm tắp. Trong tay anh ta có một chiếc dùi cui. Viên cảnh sát canh chừng những cỗ xe đang chạy trên đường, tìm cơ hội tiến lại gần bọn trẻ. - Chuồn thôi! Giáo chủ rít lên, và bọn trẻ nhanh chóng biến đi. *-FEEN-* Đã năm giờ chiều, Sherlock vẫn còn muốn ở ngoài quảng trường, chưa chịu về nhà. Sao lại phải quay về với căn nhà buồn bã, chán chường, về với bố mẹ cậu chứ? Thà cứ ở ngoài này còn hơn. Ở đây cậu được ở gần với sự gay cấn và thành công. Tại đây cậu đã chứng kiến rất nhiều điều đáng kinh ngạc và đầy mê hoặc. Một lần cậu đã nhìn thấy chính Lewis Carroll đang cầm quyển Alice ở xứ sở thần tiên trong tay; một lần khác, nhà chính trị vĩ đại nhất nước, Disraeli, lặng lẽ rảo bước qua quảng trường; rồi người phụ nữ khổng lồ Anna Swan, với cái đầu vượt lên trên đám đông, ngôi sao đu dây Blondin, và ngài Dickens độc nhất vô nhị với chòm râu dê lốm đốm bạc và cặp mắt rực lửa. Cậu đã tận mắt thấy quảng trường chật cứng những người đối lập kêu gọi chính phủ sửa đổi đường lối, rồi có lúc lại đông nghẹt các công dân hô vang những thành tích của Đế chế. Cậu đã thấy những người cạo ống khối với bộ mặt đen nhẻm, những gã ăn mày gớm ghiếc, và cả những tên móc túi nữa. Tại sao phải về nhà kia chứ? Nhưng cậu vẫn phải về nhà. Khi tháp đồng hồ Big Ben tại toà nhà Quốc hội điểm năm giờ chiều, Sherlock Holmes phải chạy nhanh để về đến nhà trước bố mẹ, như thế họ sẽ tưởng cậu đã ở trường. Từ nhiều tháng nay cậu đã lừa dối hai người. Trong thâm tâm, cậu biết bố mẹ đang nghi ngờ mình ghê lắm. Chuyện này không thể tiếp diễn mãi được. Nếu cậu không đi học thì cậu sẽ phải đi lao động. Gia đình cần sự đóng góp của cậu. Cậu sẽ phải chấp nhận số phận của mình giữa những tầng lớp lao động nghèo khó của Luân Đôn. Mây đen đang kéo đến. Sherlock nhận ra tim mình đang đập dồn. Nó đã đập như thế kể từ lúc cậu mở tờ Cảnh sát nhật báo. Có thứ gì đó đang thiêu đốt tâm can cậu. Cậu nhìn xuống tờ báo, vo tròn nó, siết chặt hai chữ án mạng trong nắm tay của mình. Mời các bạn đón đọc Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes Tập 1: Mắt Quạ Tinh Tường của tác giả Shane Peacock.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhân Chứng Đã Chết - Harlan Coben
Vợ chưa cưới KATHY mất tích bí ẩn, sự nghiệp mới chớm nở tưởng như bị đe dọa, nhưng bằng cách nào đó, ngôi sao bóng bầu dục sinh viên CHRISTIAN STEELE vẫn nhẹ nhàng vượt qua được áp lực của dư luận. Mặc dù vậy, khi bức ảnh khỏa thân của KATHY bất ngờ xuất hiện trên một tạp chí khiêu dâm, mọi diễn biến đã đảo lộn đến chóng mặt. Quá nhiều kẻ tình nghi, quá nhiều động cơ, và quá nhiều bí ẩn. Với những lập luận chặt chẽ và hiểu biết sâu sắc của mình về thế giới thể thao Mỹ, HARLAN COBEN đã cùng nhân vật chính của mình, thám tử kiêm nhà đại diện thể thao MYRON, đưa người đọc qua những mặt trái của xã hội, của đời vận động viên để đến với một cái kết đầy bất ngờ và ám ảnh. *** Otto Burke, phù thủy thương thuyết, nâng tầm cuộc đấu lên một bậc. “Đi mà, Myron,” hắn thúc giục với vẻ hăng hái theo cung cách mộ đạo kiểu mới. “Tôi chắc chắn chúng ta có thể thấu hiểu nhau. Anh nhường một ít. Tôi nhường một ít. Titans là một đội. Hiểu theo nghĩa rộng hơn thì tôi muốn tất cả chúng ta là một đội. Bao gồm cả anh nữa. Hãy làm một đội đích thực đi Myron. Anh thấy sao?” Myron Bolitar chụm đầu ngón tay vào nhau. Anh đọc được ở đâu đó rằng hành động đó làm ta trông có vẻ trầm tư. Nhưng bản thân anh thì lại thấy điều đó quả là ngớ ngẩn. “Otto à, tôi nào muốn gì hơn,” anh nhắc lại cái câu vô nghĩa mà suốt từ nãy đã được nhai đi nhai lại không biết bao nhiêu lần. “Thật đấy. Nhưng chúng tôi đã nhường hết mức rồi. Giờ đến lượt anh.” Otto gật đầu lia lịa, như thể hắn vừa nghe thấy một quan điểm triết học kỳ quái khiến ngay cả Socrates cũng phải hổ thẹn. Hắn nghiêng đầu, hướng nụ cười thớ lợ về phía huấn luyện viên đội bóng. “Larry, anh thấy sao?” Bắt lấy tín hiệu gợi ý, Larry Hanson vội gõ nắm tay lông lá to như con chuột nhảy lên chiếc bàn hội nghị. “Quỷ tha ma bắt cậu đi, Bolitar!” gã hét lên. “Nghe thấy không, Bolitar? Cậu có hiểu tôi đang nói gì với cậu không? Quỷ tha ma bắt cậu đi.” “Quỷ tha ma bắt,” Myron gật đầu nhắc lại. “Hiểu rồi.” “Cậu giở trò láu cá với tôi đấy hử? Trả lời tôi xem nào, bố khỉ! Láu tôm láu cá hử?” Myron nhìn gã, “Răng anh giắt hạt anh túc kìa.” “Mẹ kiếp đồ láu cá.” Larry Hanson trợn mắt. Gã liếc mắt về phía sếp rồi quay lại nhìn Myron. “Việc này không hợp với cậu đâu, Bolitar. Mà cậu biết mẹ nó rồi còn gì.” Myron làm thinh. Thực chất, Larry Hanson cũng có phần đúng. Myron không thích hợp. Anh mới làm đại diện thể thao hai năm nay. Phần lớn khách hàng của anh là những trường hợp còn non - những kẻ may mắn đạt đủ tiêu chuẩn và chạm mức tối thiểu của liên đoàn. Và bóng bầu dục chưa bao giờ là món tủ của anh. Anh chỉ có ba cầu thủ chơi ở giải bóng bầu dục nhà nghề Mỹ NPL, trong đó chỉ có một cầu thủ chính thức. Giờ Myron ngồi đối diện bậc tuổi trẻ tài cao - Otto Burke, ba mốt tuổi, người trẻ nhất sở hữu một đội bóng thuộc NFL, và Larry Hanson, một huyền thoại bóng bầu dục nay đã là giám đốc điều hành, đàm phán một hợp đồng mà dù chỉ do một tay non nớt như anh đảm nhận nhưng lại là bản hợp đồng khởi nghiệp bự nhất lịch sử NFL. Phải, anh - Myron Bolitar - đã giành được ‘Hàng nóng’, Christian Steele. Tiền vệ hai lần giành cúp Heisman*. Ba lần lọt vào thẳng bảng xếp hạng của hãng tin AP và UPI với tư cách quán quân. Nếu thế chưa đủ thì cậu nhóc này còn là chàng trai trong mộng của các cô gái. Một sinh viên ưu tú, sáng sủa, ăn nói lưu loát, lịch sự và là người da trắng (hầy, nếu điều này quan trọng). Trên hết, cậu ta thuộc về Myron. “Đề nghị được đưa ra rồi đấy, thưa các quý ông,” Myron nói tiếp. “Chúng tôi nghĩ thế là quá công bằng rồi.” Otto Burke lắc đầu. “Thật vãi cả phân!” Larry Hanson hét lên. “Cậu ngu bỏ mẹ, Bolitar ạ. Cậu sẽ làm sự nghiệp của thằng nhóc đi tong mất.” Myron dang tay ra. “Sao mọi người không cùng ôm nhau một cái cho nó tình cảm nhỉ?” Larry định buông thêm một câu chửi thề, nhưng Otto đã giơ tay lên ngăn lại. Hồi Larry còn thi đấu, những cú đòn chặn của Dick Butkus và Ray Nitzchke không thể cản bước gã. Giờ chỉ một cái khoát tay cũng có thể làm kẻ tốt nghiệp Harvard nặng ngót bảy mươi cân này ngậm miệng. Otto Burke nhoài người ra. Hắn vẫn chưa tắt nụ cười, chưa thôi khua khoắng tay, chưa thôi trao đổi ánh mắt - như một bộ phim quảng cáo sống động về Năng lực Cá nhân của diễn giả Anthony Robbins vậy. Làm người khác bối rối phát điên. Otto nhỏ thó, một gã đàn ông hom hem với những ngón tay bé nhất mà Myron từng thấy. Hắn có mái tóc dài sẫm màu kiểu dân Rock xõa xuống vai. Mặt hắn trông non tơ với chòm râu dê ngớ ngẩn nom như được phác họa bằng bút chì. Hắn hút một điếu thuốc dài ngoẵng, hay có lẽ nằm trên mấy ngón tay bé xíu của hắn nên nó thành ra vậy. “Nào, Myron,” Otto nói, “ta hãy nói chuyện có lý có tình, được chứ?” “Có lý có tình. Mời.” “Tuyệt, Myron, thế sẽ có ích đấy. Sự thật Christian Steele là kẻ vô danh, một tay ất ơ chưa được kiểm chứng. Cậu ta còn chưa từng được khoác đồng phục chuyên nghiệp. Biết đâu cậu ta lại là quả bom xịt của thế kỷ cũng nên.” Larry khịt mũi. “Cậu nên biết chút ít về điều này, Bolitar à, về những cầu thủ chẳng làm được trò trống gì. Những kẻ thất bại.” ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Đã Chết của tác giả Harlan Coben.
Nhân Chứng Câm - Agatha Christie
Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Ngày 1 tháng 5, tiểu thư Arundell từ trần sau một cơn đau ngắn ngủi. Cái chết của tiểu thư không gây ra bất kỳ một chút kinh ngạc nào ở cái thị trấn thôn dã Market Basing nhỏ nhoi này, nơi tiểu thư đã sống từ năm mười sáu tuổi. Thực ra cô gái già này đã quá tuổi bảy mươi, và ai cũng biết là sức khỏe của bà khá mỏng manh. Mười tám tháng trước, bà đã bị một cơn đau gan giống hệt cơn vừa mới rước bà đi. Nếu cái chết của tiểu thư Arundell không làm ai ngạc nhiên thì tờ di chúc của bà lại không phải như vậy. Những ý nguyện cuối cùng của nữ chủ nhân biệt thự Littlegreen đã gây ra ở những người thân của bà biết bao cảm xúc rất khác biệt: kinh ngạc, vui mừng, chê bai, giận dữ và thất vọng. Trong nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng ở Market Basing người ta không nói đến chuyện gì khác cả. Mỗi người phát biểu một cách, từ ông John, bác hàng khô, nhà bảo vệ quyền gia đình đến bà Lampri, cô hàng thuốc lá, ai cũng lặp đi lặp lại cả ngày rằng: "Chắc có gì ám muội đây! Các vị cứ nhớ lấy lời tôi!". Chuyện tiểu thư Arundell viết tờ di chúc này, ngày 21 tháng 4 nghĩa là chỉ ít ngày trước khi chết, cũng đủ để khuấy động tâm trí người ta lên rồi. Hơn nữa, nếu ta biết rằng những người thân cận nhất của Emily Arundell đã đến Littlegreen nghỉ lễ Phục sinh thì sẽ dễ dàng hiểu rằng những giả thuyết tai tiếng nhất đã được phát ra, đem đến cho cuộc sống buồn tẻ của cư dân Market Basing một trò giải khuây thú vị. Người ta ngờ rằng bà Wilhelmina Lawson, tùy nữ của tiểu thư Emily Arundell đã biết nhiều về vụ rắc rối này mà không định nói ra. Tuy thế bà Lawson vẫn khẳng định là mình không biết gì hơn những người khác, và còn tỏ ra sững sờ khi đọc tờ di chúc. Nhiều người nghi ngờ tính thành thực của bà ta. Dù sao thì cũng có một người duy nhất biết đích xác bí mật này: Đó là người chết. Theo thói quen, tiểu thư Arundell chỉ hỏi ý kiến bản thân mình để soạn thảo những ý nguyện cuối cùng của mình và bà cũng tránh bộc lộ cho công chứng viên của bà biết những lý do đã buộc bà đổi ý vào giờ chót. Sự giữ kín này của tiểu thư Arundell là điểm nổi bật về tính cách của bà. Là sản phẩm điển hình của thời Nữ hoàng Victoria, bà có những ưu điểm cũng như những khuyết điểm của thời đại. Bề ngoài kiêu kỳ trong bà ẩn giấu một trái tim vàng. Lời nói của bà ngấn gọn, nhưng hành vi của bà biểu lộ một tâm hồn nhân hậu. Và trong thâm tâm bà bảo tồn nhiều điều tế nhị. Các tùy nữ không tồn tại được lâu ở Littlegreen: tiểu thư Arundell vừa hành hạ họ không thương tiếc, vừa đối đãi rộng lượng với họ. Hơn nữa còn bày tỏ công khai là bà hết sức tôn sùng gia đình dòng họ mình. Thứ Sáu trước ngày Chủ nhật Lễ Phục sinh, Emily Arundell ngồi ở tiền sảnh nhà mình và ra chỉ thị cho bà Lawson. Thời con gái, Emily Arundell rất xinh đẹp. Hiện nay cô gái già này vẫn giữ được dáng dấp thanh nhã, cũng còn rất năng động. Nước da bà khá vàng, cho ta biết bà vẫn phải thực hiện chế độ ăn kiêng. Tiểu thư Arundell nói với bà tùy nữ: - Này u! U đã thu xếp cho họ chỗ nghỉ ở đâu rồi? - Quả là con tin... con hy vọng đã xếp sắp ổn rồi... Bác sĩ Tanios và phu nhân ở phòng gỗ sồi, Theresa ở phòng sơn xanh, còn cậu Charles ở phòng ngày xưa dành cho trẻ con... Tiểu thư Arundell ngắt lời bà ta: - Tốt hơn cho Theresa ở phòng trẻ con, còn phòng xanh để cho Charles. - Vâng, vâng... con xin lỗi... con tưởng phòng trẻ con là thích hợp hơn với... - Theresa ở đó sẽ rất tốt. Tiểu thư Arundell thuộc thế hệ coi phụ nữ là thứ yếu. Trong mắt bà, nam giới là bộ phận quan trọng trong xã hội. - Con tiếc rằng các con nhỏ của bà Tanios không đến. - Bà Lawson nói thì thào, giọng buồn buồn. Bà rất yêu trẻ nhưng lại tỏ ra kém khả năng cai quản chúng. - Bốn vị khách là vừa đủ cho chúng ta rồi. - Tiểu thư Arundell vặc lại, bà rất nuông chiều các cháu bà, còn họ chẳng chịu nghe lời bà chút nào. U Lawson thở dài nói: - Bella Tanios là một người mẹ hiền từ. - Phải, Bella, rất tốt. - Tiểu thư Arundell chấp nhận. ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Câm của tác giả Agatha Christie.
Tên Trộm Xác Người - James Bradley
Tên Trộm Xác Người là tác phẩm thứ ba của nhà văn người Úc James Bradley, sinh năm 1967. Ông được nhật báo Sydney Morning Herald hai lần phong tặng danh hiệu là một trong “Những tiểu thuyết gia trẻ người Úc tài ba nhất”. Hiện ông sinh sống ở Sydney. Câu chuyện kể về Gabriel Swift, một sinh viên y khoa ngành phẫu thuật. Anh tới London vào năm 1826 để theo học với Edwin Poll, một bác sĩ phẫu thuật lớn. Từ những giao dịch mua bán tử thi, Swift dần lún sâu vào con đường tội lỗi do sự dụ dỗ của Lucan, kẻ nhiều quyền lực nhất trong số những tên đào trộm xác chết của thành phố và cũng là tên trùm cai quản hoạt động này. Bị bác sĩ Poll đuổi học, Gabriel bị cuốn vào thế giới ngầm tàn ác và bí ẩn của thủ đô London thời kỳ Georgian, trở thành một tội phạm. Dù sao, sự cứu rỗi đã đến với Swift ở phần cuối sách. Quyển tiểu thuyết dựa một phần vào sự kiện có thật về hai tên giết người hàng loạt Burke và Hare hồi đầu thế kỷ 19 ở Anh và các hoạt động mua bán xác người của các bệnh viện hay trung tâm phẫu thuật lúc bấy giờ. Truyện không phân theo chương nên khó theo dõi nếu bạn đọc không đọc liền một mạch. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Sài Gòn, tháng 4/2015 ★★★ “Chúng ta chào đời cùng người chết Thấy chăng, họ quay về, và mang chúng ta theo.” — T.S. Eliot, Four Quartets ★★★ “Nhiều tháng sau khi bạn đã khép lại trang sách cuối, những câu chữ của James Bradley vẫn còn đọng trong tâm trí bạn: Đẹp, hấp dẫn và không thể nào quên.”  — Markus Zukas, tác giả quyển The Book Thief “Một thiên tiểu thuyết lãng mạn kinh dị đầy chất cổ điển.”  — Daily Telegraph “Một quyển truyện kinh dị trần trụi, khơi gợi suy tư… Khi bạo liệt, khi đầy triết lý, quyển truyện này đầy ắp không khí.”  — Big Issue ★★★ London, 1826-1827 Họ nằm trong những cái bao tời như nằm trong tử cung của mẹ; gối chạm cằm, đầu ép xuống, như thể chết chỉ đơn giản là quay về với nhục thể mà từ đó chúng ta sinh ra, và đây là sự thụ thai lần thứ hai. Một sợi thừng sau gối giữ họ trong tư thế đó, một sợi khác cột đôi tay họ, rồi miệng bao khép lại bên trên họ và được cột ràng lần nữa, toàn thể trông như một gói đồ nén chặt, đã được ngụy trang một cách dễ dàng, vì nếu bị người bên ngoài nhìn thấy, một thứ hàng hóa như thế sẽ thu hút cả một đám đông. Thế rồi một con dao cắt phăng sợi thừng cột bao, và người này nhấc lên, người nọ kéo, chúng tôi lôi những thứ bên trong bao ra, đặt họ duỗi dài lên mặt bàn, trần truồng và giá lạnh, như một con bê hoặc một em bé chuồi ra khỏi lòng của mẹ, sợi dây và cái bao được giữ lại, vì một lát sau chúng tôi sẽ dùng lại chúng, để thu dọn những mảnh xác bị cắt rời. Chúng tôi cùng giữ chặt họ, kéo thẳng thi thể họ ra lần nữa. Dù tứ chi của họ không mềm quặt mà cũng không cứng lại, bất chấp sự giá lạnh vẫn còn nấn ná bên trong, tình trạng cứng đờ của họ đã bị phá vỡ bên cạnh nấm mồ khi họ bị bẻ gập lại và cột ràng để nhét vào bao. Lúc này, họ duỗi ra dưới bàn tay nắm giữ của chúng tôi, di chuyển với sự dễ uốn nắn lạ lùng của một thân hình nằm giữa cái chết và tình trạng thối rữa. Đấy là một công việc ghê tởm, thế nhưng sự ghê tởm không nằm ở việc đứng gần người chết mà ở sự thân mật nó đòi hỏi từ chúng tôi, sự cận kề với xác thịt và vật chất của thi thể họ. Khi họ đã được uốn nắn xong, nằm tái nhợt và trần truồng trên bàn, chúng tôi bắt tay vào việc. Trước hết chúng tôi lật úp họ xuống, để lộ phần lưng và mông lốm đốm tím và xanh giống như những vết bầm do máu đã tụ lại suốt nhiều giờ sau khi chết. Nếu lớp thịt bắt đầu thối rữa, sẽ có những chỗ phồng dộp, mềm, nhũn nước và tái nhợt, có thể vỡ toang nếu bị chạm vào, nhưng khi đó, lớp da cũng ẩm ướt do thứ chất lỏng giống như mồ hôi rỉ ra từ chúng. Đôi khi, những người liệm xác sẽ nút kín những lỗ hậu môn, và nếu thế, những vật đó phải được lấy ra khỏi xác. Sau đó, với giẻ lau, nước và dấm, chúng tôi bắt đầu rửa ráy cho họ, đôi tay cẩn thận di chuyển qua lớp da của họ, mùi dấm lẫn vào những thứ mùi u ám hơn bám vào họ, chúng tôi tiết chế những cử động nhưng không phải không lau chùi một cách nhẹ nhàng. Khi đã làm xong phần lưng và hai cẳng chân, chúng tôi lật họ trở lại, lau từ bàn chân lên háng, từ háng lên ngực, hai cánh tay và hai bàn tay, cuối cùng tới bộ mặt. Ở đây chúng tôi làm việc cẩn trọng nhất, lau quanh những đầu xương và chỗ nhô lên với những tấm giẻ gấp gọn, quanh đôi gò má, quanh phần trũng quanh mắt. Đôi khi hai mí mắt vẫn còn hé mở, cứng đờ, đôi mắt bên dưới mờ đục và không màu sắc như mắt của những người rất già. Khi lau rửa xong xuôi, chúng tôi xuống sân lấy nước, xà bông và dao cạo. Nước lạnh, dùng cho thi thể lạnh. Thế rồi, kéo thẳng lớp da chùng, chúng tôi bắt đầu cạo; trước tiên là phần da đầu và mặt, tóc ướt được tách thành từng lọn để lộ ra phần u lên của cái sọ; sau đó là lồng ngực và hai nách; rồi cuối cùng là bộ phận sinh dục, lưỡi dao cạo soàn soạt lướt trên lớp da. Đôi khi chúng tôi cắt phạm vào họ, nhưng chẳng có chút máu nào chảy ra, vết đứt tái nhợt và trống rỗng. Tôi không thể nói do đâu chúng tôi biết rằng đây là công việc cần phải được tiến hành trong im lặng. Chỉ biết cách thức là thế, phải luôn là thế. Vào những lúc khác chúng tôi di chuyển quanh họ như thể họ không nằm đó, nói cười với nhau trong lúc lôi kéo, cắt và dọn dẹp những mảnh thịt, gạt chúng sang bên một cách ngẫu nhiên giống như gạt sang bên một cuốn sách hay cái áo khoác đang nằm ở nơi ta định ngồi xuống. Nhưng lúc này chúng tôi lặng lẽ làm việc, không nói nhiều hơn mức cần thiết. Như thể việc rửa ráy người chết này chính là một nghi lễ: giống như người ta rửa sạch những thứ nhớt nhau từ lòng mẹ trên thân hình một em bé, chúng tôi chùi sạch mùi âm ty địa ngục khỏi những xác chết bị đánh cắp đó, đưa chúng mới tinh khôi vào thế giới. Khi công việc đã hoàn tất, mấy cái bao đã được gấp lại gọn gàng, mấy cái xô đã trút sạch nước, những tấm giẻ đã được vắt và phơi, bắt đầu tới việc tính tiền. Thầy chúng tôi kỹ lưỡng nhất trong việc lưu giữ sổ sách tiền nong, và số tiền trả cho Caley và Walker phải được ghi lại: tám đồng tiền vàng cho một xác đàn ông hay phụ nữ đã trưởng thành, hay thứ chúng tôi gọi là một cái lớn; bốn đồng tiền vàng cho một đứa trẻ con, hay một cái nhỏ; một siling mỗi phân Anh cho thứ mà chúng tôi gọi là một bào thai, hay một em bé dài chưa tới một bộ Anh. Và cứ vậy, trong lúc tôi lau sàn, Robert lặng lẽ tính toán trên cuốn sổ cái, ghi lại những khoản thanh toán, kiểm lại số tiền còn tồn trong hộp đựng tiền, gương mặt giấu sau một tấm mặt nạ lặng buồn mà anh luôn khoác lên khi nghĩ rằng mình không bị ai quan sát. ... Mời các bạn đón đọc Tên Trộm Xác Người của tác giả James Bradley.
Giả Thuyết Thứ 7 - Paul Halter
Một ngày nọ ở Luân Đôn, có hai người đàn ông tài ba danh giá quá chẳng để làm gì, đã chơi tung đồng xu để thách thức tài trí nhau. Theo đó người thắng phải gây ra một vụ án mạng kiểu gì cũng được, sao cho bản thân mình có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm, còn các manh mối phạm tội sẽ đổ dồn vào người thua. Một âm mưu thoạt nhìn chỉ để cho vui, cuối cùng như hơi độc thổi bung ra trong không khí, xé toang lồng ngực bao nhiêu người khác, lại cũng làm ngạt thở chính mình. Bởi vì mạng người chưa và không bao giờ là thứ nên đem ra làm trò đùa cợt. Paul Halter, nhà văn trinh thám người Pháp, sở hữu gia tài gồm hơn 30 tiểu thuyết cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế. Ông được ưu ái mệnh danh là “Bậc thầy của những căn phòng khóa kín”. Truyện của ông độc đáo vì đã xây dựng được những câu đố và âm mưu tội ác gần như không tưởng. Dùng tiểu thuyết “chuyên chở thông điệp xã hội, khám phá các vấn đề nhân đạo và triết học” cũng trở thành một điểm nhấn khó phai khi nói về Paul Halter. *** Khoảng 10 giờ tối, cảnh sát Edward Watkins đi ngang cung điện St. James như ông vẫn làm nửa tiếng một lần vào những buổi tối phải trực thế này. Nhiều năm qua, ông đã đều đặn thực hiện đúng lộ trình đó mà không gặp sự cố gì. Thi thoảng chạm trán một tay say xỉn có phần ngỗ ngược không thể bỏ qua, nhưng đám đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Khu vực này rất yên bình, yên bình như cuộc đời cảnh sát viên của ông, khi ông đã đi mòn gót, tâm trí chỉ nghĩ về thời khắc nghỉ hưu sắp tới bên người vợ yêu quý của mình. Một cuộc đời chẳng có biến cố gì, thực vậy - cho tới đêm 31 tháng Tám năm 1938. Hai bàn tay đan chéo sau lưng, chiếc mũ cát kéo sụp xuống đầu, thứ âm thanh duy nhất ông nghe được là tiếng bước chân của chính mình trong cái khu vực đang say ngủ, chìm trong bóng đổ của những tòa nhà gớm ghiếc cao ngất bao quanh. Đêm khá lạnh và màn sương nhẹ lững lờ buông xuống phần mặt tiền đầy vẻ hăm dọa. Ông rẽ xuống phố King, đi được nửa chừng thì dừng lại ngó qua vai, như một việc rất bình thường. Đúng lúc ấy, ông nghe tiếng bước chân ở đâu kia phố King, ngay chỗ ngã tư với phố Bury. Nhưng khi vòng trở lại, ông chỉ thấy cái bóng của một kẻ qua đường, hắt lên bức tường cách đó hơn chín mét nhờ một ngọn đèn đường năm ở góc ngã tư. Cảnh sát Watkins đứng yên vài giây, miệng há hốc. Mặc dù chỉ thấy cái bóng trong một thoáng, ông cũng đủ nhận ra một điểm dị thường: Nó có cái mũi dài lạ lùng. Không phải dài hơn mức bình thường vài phân, mà dài một cách quái đản, dễ chừng bằng cả vành mũ rộng mà kẻ đó đang đội. Quỷ quái gì vậy? Một gã cải trang thành chim chăng? Edward Watkins đứng yên thêm vài giây nữa, tâm trí quay cuồng. Khi trấn tĩnh lại, ông rảo bước tới góc phố Bury và nhìn dọc xuống lối đi, vừa kịp thấy nhân vật kia sắp rẽ phải vào một hẻm ở quãng giữa phố, nơi hình như có thêm nhân vật khác đã đến từ trước. Watkins chưa xác định được nhân dạng của kẻ thứ hai, nhưng thoáng thấy thứ gì đó rất giống áo choàng. Diễn biến tiếp theo khá nhanh. Nhân vật kia, có lẽ bị đánh động bởi tiếng chân bước của viên cảnh sát, quay phắt lại đối diện với ông và, lộ rõ vè ngạc nhiên, nó vọt nhanh vào ngõ hẹp. Trong những tình huống bình thường, viên cảnh sát sẽ lập tức bám theo. Nhưng những gì ông vừa thấy - và đặc biệt là vào thời điểm đó - lạ lùng đến mức phải mất vài phút quý giá tâm trí ông mới phục hồi được. Nhưng các giác quan thì không hề phản bội ông và hình ảnh dị thường kia vẫn rõ rệt trong tâm trí: áo choàng dài đến mắt cá chân, đôi tay đeo găng, chiếc mũ rộng vành, và thay vì khuôn mặt, lại chình ình một chiếc mặt nạ trắng ởn mà ở chính giữa là cái mũi dài ít nhất cũng hơn ba mươi phân. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh ấy bằng xương bằng thịt, nhưng ông đã xem đủ minh họa để hiểu ra: Ông vừa nhìn thấy một bác sĩ dịch hạch. Một bác sĩ dịch hạch. Đã từng có dịch hạch ở Luân Đôn. Những câu chuyện về bệnh dịch khủng khiếp vụt qua tâm trí ông: Người chết nhiều như ruồi trên đường phố, quằn quại trong đau đớn, thân thể đầy mụn mủ, mí mắt thâm đen, gương mặt teo tóp. Xác chất đống lên xe đẩy, rồi trút xuống hào sâu bên ngoài thành phố, nơi một sự hoảng loạn không tên ngự trị, nơi gần như không thể trốn chạy, và nơi người sống trong những ngôi nhà bị nhiễm bệnh chết vì đói hơn là vì dịch hạch. Viên cảnh sát xua dòng ý nghĩ hắc ám ấy đi và định thần lại. Ba trăm năm nay không còn dịch hạch ở Luân Đôn, đã có nhiều hiện pháp hiện đại để kiểm soát nó. Hơn nữa, các bác sĩ không còn lang thang trên đường phố trong bộ trang phục kỳ dị này nữa. Người ông vừa nhìn thấy hoặc là một người đi dự tiệc hoặc một dạng tội phạm nào đó đang chuẩn bị ra tay. Không, như thế thật vô nghĩa. Có nhiều cách kín đáo hơn để che giấu nhân dạng. Vậy thì là gì chứ? ... Mời các bạn đón đọc Giả Thuyết Thứ 7 (Dr. Twist #6) của tác giả Paul Halter.