Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Gặt Đỏ

MÙA GẶT ĐỎ - KHO BÁU BỊ ĐÁNH MẤT. Một tay súng đơn độc đi vào trong thị trấn. Anh ta sẽ dọn dẹp nó dù muốn hay là không? "Người chiến đấu với quái vật phải cẩn thận nếu không muốn trở thành một con quái vật khác". Được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Đây cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim nổi tiếng, trong đó có Yojimbo (1961), A Fistful of Dollars (1964) và Blood Simple (1984)… Truyện được mở đầu bằng việc Hãng thám tử tư Continental cử một đặc vụ tới Personville - thành phố đang chìm đắm trong bạo lực và sợ hãi dưới sự cai trị của các băng đảng tội phạm và đám quan chức tham nhũng - theo yêu cầu của Donald Willsson, chủ bút tờ báo địa phương và là người đang muốn lấy lại trật tự, công bằng cho thành phố. Nhưng khi nhân viên đặc vụ đó tới nơi thì phát hiện ra khách hàng của mình đã bị bắn chết. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu. *** Dashiell Hammett (1894 - 1961) là một trong những tác giả tiên phong của thể loại tiểu thuyết trinh thám đen, với các tác phẩm tiêu biểu như Mùa gặt đỏ (1929), Chim ưng Malta (1930) và Chìa khóa thủy tinh (1931). Những tiểu thuyết của ông thường mang phong cách mạnh mẽ, gay cấn, lối viết ngắn gọn, không hoa mỹ, tiết tấu nhanh, hấp dẫn, đậm mùi súng đạn. Mùa gặt đỏ, tác phẩm đầu tay của Hammett, mang đầy đủ những đặc trưng của thể loại trinh thám đen, đồng thời là hình mẫu cũng như nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả trinh thám sau này: một bầu không khí nhớp nhúa ở phần tối của xã hội; một hình ảnh “người hùng không hoàn hảo” với quan niệm về công lý không hoàn toàn đồng nhất với pháp luật. Người thám tử vô danh ấy đến thành phố tội lỗi đó như một lãng khách độc hành thấy việc bất bình ra tay nghĩa hiệp, để rồi bắt đầu “mùa gặt”, mang lại bình yên cho thành phố… *** Review sách Mùa Gặt Đỏ Mùa gặt đỏ được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Tôi đã khá băn khoăn khi quyết định đọc hay không vì không muốn sa đà liên tục vào trinh thám. Thế nhưng vì một vài lí do, tôi vẫn đọc. Có thể vì thế mà tâm trạng đã không tốt khi tiếp cận cuốn sách. Truyện Trinh thám về những thế lực bên rìa công lý, kiểu mafia, mở đầu bằng cái chết của thân chủ khi chưa kịp làm việc với tay thám tử mà mình mời về. Nhiều nhân vật liên quan, nhiều vấn đề nổi cộm của thế giới thu nhỏ Personville được phơi bày. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu.Tiết tấu càng ngày càng nhanh với sự mưu mô, toan tính cả bằng trí tuệ và sự nhanh nhẹn trong việc siết cò với những pha hành động tương đối kịch tính. Truyện thuộc dang trinh thám đen, hành động kịch tính và mang tính giải trí. Cơ bản có lẽ tại tôi không thích văn phong hơi khô của tác giả (hay dịch giả)??, hội thoại, lời văn ngắn gọn, súc tích. Tôi cũng không thích bìa, không thích tên gọi, chỉ an ủi được là việc biên tập đã ổn hơn khá nhiều so với những cuốn sách trước đây của PM. Tạm gác lại, biết đâu một ngày nào đó sẽ có hứng thú đọc lại và biết đâu sẽ thích. Cho tạm 3* vì cuốn sách chưa đủ hấp dẫn khiến tôi bị cuốn hút cũng như tò mò. Hồng Khánh 14.9.2019 *** Người phụ nữ trong bộ đồ xanh và người đàn ông trong bộ đồ xám Lần đầu tiên tôi nghe thấy Personville được đọc lái thành Poisonville là từ một gã tóc đỏ đầu đường xó chợ tên Hickey Dewey tại khách sạn Con Tàu Lớn ở Butte. Hắn cũng phát âm shirt thành shoit. Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì về cách hắn đọc tên thành phố, nhưng rồi tôi thấy những người đã phát âm đúng chữ “r” nhưng vẫn đọc sai như vậy. Tôi chỉ cho rằng việc đám trộm cướp dùng từ richardsnary thay cho dictionary thật quá sức nhạt nhẽo. Vài năm sau, khi đến Personville, tôi mới hiểu rõ hơn. Tôi gọi tới tờ Herald từ một bốt điện thoại tại ga, yêu cầu được nói chuyện với Donald Willsson và sau đó bảo anh ta rằng tôi đã tới. “Anh có thể tới nhà tôi lúc mười giờ tối nay được không?” Anh ta nói, giọng quả quyết. “Số 2101 đại lộ Mountain. Bắt một chiếc xe điện, xuống ở chỗ đại lộ Laurel, rồi đi bộ theo hướng Tây hai dãy nhà.” Tôi hứa sẽ có mặt. Rồi tôi tới khách sạn Great Western, vứt mấy chiếc túi xuống và ra ngoài ngắm nhìn thành phố. Thành phố này không đẹp. Hầu hết chủ thầu xây dựng ở đây đều có gu thẩm mỹ lòe loẹt. Có thể ban đầu họ đã đạt được mục đích. Rồi những lò luyện kim mọc lên sừng sững bên một ngọn núi ảm đạm ở phía Nam đã hun mọi thứ trong lớp khói màu vàng xỉn. Thế là chúng ta có một thành phố xấu xí với bốn mươi ngàn dân, nằm trong một khe hẻm xấu xí giữa hai ngọn núi xấu xí bị ô nhiễm vì sự khai mỏ. Bao trùm lấy nó là bầu không khí ám đầy bụi, như thể vừa chui ra từ ống khói của lò luyện kim. Người cảnh sát đầu tiên mà tôi gặp rõ ràng cần phải cạo râu. Người thứ hai có vài chiếc cúc bị đứt trên bộ đồng phục tồi tàn. Người thứ ba đứng ở giữa giao lộ chính của thành phố, giữa Broadway và phố Union, với một điếu xì gà trên miệng. Sau đó thì tôi không để ý đến họ nữa. Vào lúc chín giờ rưỡi, tôi bắt một chiếc xe điện và đi theo hướng mà Donald Willsson đã chỉ. Nó đưa tôi tới một ngôi nhà có hàng rào bao quanh bãi cỏ. Người giúp việc ra mở cửa bảo tôi rằng ông Willsson không có nhà. Trong khi tôi đang giải thích rằng mình có hẹn với anh ta thì một người phụ nữ tóc vàng mảnh khảnh, khoảng dưới ba mươi tuổi, bận bộ đồ vải crepe màu xanh bước tới. Ngay cả khi cười, sự lạnh nhạt vẫn ẩn hiện trong đôi mắt xanh của cô ta. Tôi giải thích lại một lần nữa. “Chồng tôi hiện không có nhà.” Âm giọng địa phương mờ nhạt khiến phát âm của cô ta hơi nhịu. “Nhưng nếu đã có hẹn thì chắc anh ấy sẽ về sớm thôi.” Cô ta dẫn tôi lên tầng, tới một căn phòng nhìn về hướng đại lộ Laurel. Căn phòng được sơn hai màu nâu đỏ và có rất nhiều sách. Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa da, nửa quay về phía người đối diện, nửa hướng về phía lò sưởi đang đỏ than, và cô ta bắt đầu tìm hiểu về chuyện giữa tôi và chồng cô ta. “Anh sống ở Personville à?” Cô ta hỏi trước. “Không. San Francisco.” “Nhưng đây không phải lần đầu anh tới Personville, phải vậy không?” “Đây là lần đầu tiên.” “Thật ư? Anh nghĩ sao về thành phố này?” “Tôi chưa quan sát đủ để có thể đưa ra ý kiến.” Đó là một lời nói dối. Tôi đã thấy đủ. “Tôi vừa mới tới lúc chiều.” Sự tò mò biến mất khỏi đôi mắt lấp lánh của cô ta. Rồi cô ta nói: “Anh sẽ thấy rằng đây là một chốn ảm đạm.” Rồi cô ta tiếp tục soi mói, “Tôi cho rằng tất cả các thành phố mỏ đều giống như thế này. Anh có tham gia vào ngành khai mỏ không?” “Hiện tại thì không.” Cô ta nhìn đồng hồ trên mặt lò sưởi và nói: “Donald thật thiếu chu đáo khi hẹn anh tới rồi lại để anh ngồi đợi, giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Đã quá giờ làm việc lâu quá rồi.” Tôi đáp rằng không sao. “Có lẽ đây không phải là vấn đề công việc.” Cô ta bóng gió. Tôi không trả lời. Cô ta cười, tiếng cười cộc lốc và có phần chói tai. “Thường thì tôi không tọc mạch thế này đâu”, cô ta vui vẻ nói, “nhưng anh quá kín đáo đến mức tôi không thể không tò mò. Anh không phải dân buôn rượu lậu đấy chứ? Donald đổi người rất thường xuyên.” Tôi để cô ta tự suy diễn và nở một nụ cười. Chuông điện thoại reo dưới tầng. Cô Willsson duỗi đôi chân đi dép lê xanh về phía lò sưởi đang đỏ than và vờ như không nghe thấy gì. Tôi không hiểu tại sao cô ta nghĩ thế là cần thiết. Cô ta bắt đầu, “Tôi sợ rằng mình sẽ ph…”, và dừng lại, nhìn về phía cô hầu đứng bên cửa. Người giúp việc nói rằng đầu dây bên kia muốn gặp cô Willsson. Cô ta cáo lỗi rồi ra ngoài. Cô ta không đi xuống tầng dưới mà nói qua máy điện thoại kéo dài, trong tầm nghe của tôi. Tôi nghe được, “Tôi, Willsson nghe đây… Vâng… Xin lỗi?… Ai đấy?… Anh có thể nói to lên không?… Gì cơ?… Vâng… Vâng… Ai đó?… A lô! A lô!” Rồi có tiếng dập máy và tiếng bước chân của cô ta vang lên trên hành lang. Tôi châm một điếu thuốc và nhìn chằm chằm vào nó cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân của cô ta dưới thềm. Rồi tôi tới bên cửa sổ, vén rèm lên, nhìn xuống đại lộ Laurel và thấy phía sau ngôi nhà là một nhà để xe màu trắng. Ngay sau đó, một người phụ nữ mảnh mai đội mũ và bận áo khoác tối màu vội vã đi ra chỗ nhà để xe. Đó là cô Willsson. Cô ta lái chiếc Buick hai chỗ đi. Tôi quay lại ghế và chờ đợi. Bốn mươi lăm phút trôi qua. Lúc mười một giờ năm phút, tiếng phanh ô tô rít lên bên ngoài. Hai phút sau, cô Willsson bước vào phòng. Cô ta cởi mũ và áo khoác ra. Mặt cô ta trắng bệch, đôi mắt ủ dột. “Tôi vô cùng xin lỗi”, cô ta nói với khuôn miệng mím chặt chuyển động nhát gừng, “anh đã mất công ngồi đợi vô ích rồi. Tối nay chồng tôi sẽ không về nhà.” Tôi nói rằng tôi sẽ liên lạc với anh ta tại Herald sáng mai. Tôi đi về và tự hỏi tại sao mũi dép bên trái của cô ta lại dính thứ gì đó sẫm màu và ướt giống như máu vậy. • • • Tôi đi bộ đến Broadway và bắt một chiếc xe điện. Qua ba dãy nhà lớn ở phía Bắc khách sạn, tôi xuống xe để xem đám đông đang làm gì quanh lối vào Tòa thị chính. Tầm ba, bốn mươi người đàn ông và lác đác vài phụ nữ đang đứng trên vỉa hè, nhìn vào một cánh cửa gắn biển Sở Cảnh sát. Đám đông bao gồm những người công nhân mỏ và lò nung vẫn mặc nguyên đồ bảo hộ, những anh chàng mặc đồ lòe loẹt vừa bước ra từ tiệm bi-a và vũ trường, những gã chải chuốt với khuôn mặt nhợt nhạt, những người mang vẻ ngoài trì độn của một ông chồng đứng đắn, vài người phụ nữ cũng trì độn và đứng đắn y như vậy cùng vài ả gái điếm. Đến bên rìa đám đông, tôi dừng lại cạnh một người đàn ông nghiêm nghị mặc bộ đồ xám nhàu nhĩ. Khuôn mặt và đôi môi dày của anh ta trông cũng xám xịt, mặc dù nhìn qua anh ta không quá ba mươi tuổi. Khuôn mặt anh ta rộng, đường nét thô kệch và sáng sủa. Anh ta đeo một chiếc cà vạt đỏ thắt kiểu Windsor trên chiếc áo sơ mi bằng vải flannel màu xám. “Chuyện gì ồn ào vậy?” Tôi hỏi anh ta. Anh ta cẩn thận nhìn tôi trước khi trả lời, như thế muốn chắc chắn rằng thông tin sẽ được gửi đi một cách an toàn. Mắt anh ta cũng xám như bộ đồ, nhưng trông chúng không hề mềm như thế. “Don Willsson đã đến ngồi bên tay phải của Chúa, nếu Chúa không ngại nhìn vào những vết đạn.” “Ai đã bắn anh ta?” Tôi hỏi. Người đàn ông gãi đầu và đáp lại: “Một kẻ nào đó mang súng.” Tôi muốn thông tin, chứ không phải sự hóm hỉnh. Tôi sẽ thử vận may với một người khác trong đám đông nếu gã đeo cà vạt đỏ này không khiến tôi hứng thú. Tôi bảo: “Tôi mới đến thành phố. Cứ diễn vở Punch và Judy* với tôi đi. Người lạ thì phải chịu thôi.” “Quý ngài Donald Willsson, chủ biên của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, mới được tìm thấy trên phố Hurricane, bị một kẻ vô danh nào đó bắn chết.” Anh ta nói một lèo bằng giọng đều đều. “Hết cảm thấy bị tổn thương rồi chứ?” “Cảm ơn.” Tôi đưa tay ra và chạm vào đầu chiếc cà vạt thắt lỏng của anh ta. “Có ý nghĩa gì không? Hay chỉ đeo vậy thôi?” “Tôi là Bill Quint.” “Hóa ra là anh!” Tôi kêu lên, giả bộ như mình đã biết cái tên này. “Chúa ơi, tôi rất mừng được gặp anh!” Tôi rút chiếc ví chứa danh thiếp ra và lục lọi trong đống danh thiếp mà tôi đã kiếm được bằng nhiều cách, ở nhiều nơi khác nhau. Tấm màu đỏ là cái tôi muốn tìm. Trên đó ghi tôi là Henry F. Neill, thủy thủ được đào tạo bài bản, thành viên cấp cao của Hiệp hội Công nhân Công nghiệp Thế giới*. Không một chữ nào là sự thật. Tôi đưa tấm danh thiếp cho Bill Quint. Anh ta đọc kỹ nó, cả mặt trước lẫn mặt sau, rồi trả lại và nhìn tôi từ đầu đến chân một cách ngờ vực. “Chẳng có gì để nhìn nữa đâu.” Anh ta nói. “Anh định đi đâu?” “Đâu cũng được.” Chúng tôi đi cạnh nhau, rẽ vào sau góc phố một cách bâng quơ. “Điều gì đã đưa anh tới đây, nếu anh là một thủy thủ?” Anh ta chợt hỏi. “Sao anh lại nghĩ vậy?” “Có tấm danh thiếp đó.” “Tôi còn có một cái ghi rằng mình là tiều phu nữa cơ.” Tôi nói. “Nếu anh muốn tôi trở thành thợ mỏ, tôi sẽ làm một cái ngay trong ngày mai.” “Anh không kiếm được đâu. Tôi điều hành ở đây.” “Thế nếu anh nhận được điện báo từ Chi* thì sao?” Tôi hỏi. “Mặc xác Chi! Tôi điều hành ở đây.” Anh ta hất đầu về phía nhà hàng và hỏi, “Uống gì không?” “Kiếm được không đã.*” Chúng tôi bước vào nhà hàng, leo lên các bậc thang và bước vào một căn phòng nhỏ với một dãy bàn dài trên tầng hai. Bill Quint gật đầu và nói, “Hullo!” với vài cậu trai và cô gái, rồi đưa tôi vào một trong nhũng căn buồng có màn che màu xanh lá nằm thẳng hàng dọc bức tường đối diện quầy bar. Chúng tôi dành hai giờ để uống rượu whiskey và nói chuyện. Người đàn ông trong bộ đồ xám cho rằng tôi chẳng liên quan gì tới tấm danh thiếp mà tôi vừa cho anh ta xem, cũng như những danh tính khác mà tôi đã đề cập. Anh ta cũng không cho rằng tôi là một thành viên cấp cao của Hiệp hội. Với vai trò là thủ lĩnh quan trọng của IWW ở Personville, anh ta cho rằng nhiệm vụ của mình là phải tìm ra sự thật về tôi, đồng thời không để mình bị dò hỏi ngược lại trong khi đang làm việc đó. Với tôi thế cũng chẳng sao. Tôi hứng thú với các vấn đề ở Personville. Anh ta thì không bận tâm tới chuyện đó mà chỉ tập trung vào tấm thẻ đỏ của tôi. Và đây là những gì tôi moi được từ anh ta: Trong vòng bốn mươi năm, Elihu Willsson - cha của người đàn ông bị giết đêm qua - đã sở hữu trái tim, linh hồn cũng như xác thịt của Personville. Lão là chủ tịch và cổ đông lớn nhất của Tập đoàn Khai mỏ Personville cũng như ngân hàng First National, là chủ sở hữu của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, những tờ báo duy nhất của thành phố, và đồng sở hữu gần như tất cả các doanh nghiệp quan trọng khác. Cùng với khối tài sản đó, lão cũng nắm trong tay một Thượng nghị sĩ Mỹ, vài dân biểu, thống đốc bang, thị trưởng thành phố và hầu hết các cơ quan lập pháp của bang. Elihu Willsson là Personville, và gần như là toàn bộ bang. Hồi chiến tranh, IWW - khi đó đang lan rộng về phía Tây - đã giúp đỡ Tập đoàn Khai mỏ Personville. Nói giúp đỡ là không hoàn toàn chính xác. Họ đã sử dụng sức mạnh để đòi hỏi quyền lợi. Elihu già buộc phải chấp nhận và nín nhịn chờ thời. Chuyện xảy ra vào năm 1921. Việc kinh doanh gặp khó khăn. Elihu già không quan tâm xem liệu có phải đóng cửa tạm thời hay không. Lão xé hết những bản thỏa thuận trước đó và đá đám công nhân trở lại tình trạng khó khăn trước thời chiến. Tất nhiên là các công nhân đã yêu cầu sự giúp đõ. Bill Quint được trụ sở chính của IWW ở Chicago cử đến để giải quyết tình hình. Anh ta phản đối bạo loạn hay đình công. Anh ta khuyên họ hãy sử dụng một mánh cũ, trở lại làm việc và phá hoại từ bên trong. Nhưng điều đó là không đủ với các công nhân của Personville. Họ muốn tên mình được biết đến, muốn tạo ra lịch sử. Vậy là bạo loạn nổ ra. Nó kéo dài tám tháng. Cả hai bên đều tổn thất nặng nề. Chính các thành viên của Hiệp hội cũng phải đổ máu. Elihu già đã thuê các tay súng, lực lượng chống bạo loạn, vệ binh quốc gia và thậm chí là cả quân đội để chiến đấu cho mình. Khi đám tàn quân cuối cùng bị tiêu diệt, công đoàn của Personville chỉ còn là một xác pháo nổ tan tành. Nhưng, Bill Quint nói, Elihu già không biết gì về lịch sử nước Ý. Lão thắng, nhưng đã đánh mất quyền lực ở thành phố và tiểu bang. Để đánh bại đám thợ mỏ, lão đã để cho đám lính đánh thuê được tự do lộng hành. Khi cuộc chiến kết thúc, lão không thể loại bỏ chúng. Lão đã trao thành phố vào tay chúng và không đủ mạnh để lấy lại. Personville là một miếng mồi ngon và chúng đã chiếm lấy nó. Chúng giúp lão thắng cuộc chiến, và chiến lợi phẩm chúng yêu cầu là thành phố. Lão không thể công khai chống lại chúng. Chúng quá mạnh so với lão. Lão phải chịu trách nhiệm với những gì chúng đã làm trong cuộc bạo loạn. Khi câu chuyện tới được đó thì cả Bill Quint và tôi đều đã chếnh choáng. Anh ta bỏ kính xuống, gạt mớ tóc lòa xòa trước mặt và đưa câu chuyện về thì hiện tại: “Giờ kẻ mạnh nhất trong số chúng có lẽ là tay Pete Người Phần Lan. Thứ chúng ta đang uống đây cũng thuộc sở hữu của hắn. Rồi đến Lew Yard. Hắn có một tiệm cho vay trên phố Parker, chuyên thu tiền bảo lãnh và dính líu tới hầu hết các sự vụ nóng sốt của thành phố - đó là theo những gì người ta nói, và khá thân với Noonan - cảnh sát trưởng. Tay Max Thaler - biệt danh Kẻ Thầm Thì - cũng có rất nhiều bạn. Một gã da màu lươn lẹo có vấn đề ở cổ họng. Không thể nói được. Một tay cờ bạc. Ba kẻ đó, cùng với Noonan, đã giúp Elihu điều hành thành phố của lão - giúp nhiều hơn những gì lão muốn. Nhưng lão buộc phải hợp tác với chúng, hoặc là…” “Người bị bắn tối nay - con trai của Elihu - vị trí của anh ta là ở đâu?” Tôi hỏi. “Ông già đặt đâu thì gã ngồi đó, lúc nào cũng vậy.” “Ý anh là lão già đã khiến anh ta…?” “Có thể, nhưng tôi không cho là vậy. Tay Don đó chỉ vừa mới về nhà và bắt đầu điều hành tờ báo cho lão già. Lão quỷ già này, sắp xuống mồ đến nơi mà vẫn không để cho ai tóm đuôi mà không cắn lại. Nhưng lão phải cẩn trọng với đám kia. Lão đã mang con trai và người vợ quốc tịch Pháp của gã từ Paris về và sử dụng gã như một con khỉ trong rạp xiếc - một chiêu trò chết tiệt của một người cha. Don bắt đầu tiến hành cải tổ tờ báo. Dọn sạch sự tham nhũng và thối nát - đồng nghĩa với việc loại bỏ cả Pete, Lew và Kẻ Thầm Thì, đấy là nếu nó thành công. Anh hiểu rồi chứ? Nước cờ của lão già đã khiến chúng lâm vào thế bị động. Tôi đoán chúng chán chuyện đó rồi.” “Có gì đó sai sai trong suy đoán của anh.” Tôi nói. “Cái chốn đê tiện này còn cả đống thứ sai hơn nhiều. Uống đủ rồi chứ?” Tôi nói đã đủ. Chúng tôi xuống phố. Bill Quint bảo rằng anh ta đang ở trong khách sạn Miners trên đường Forest. Đường về của anh ta đi qua khách sạn của tôi, vậy nên chúng tôi đi cùng nhau. Có một gã cao lớn trông giống một tay cớm mặc thường phục đứng trước khách sạn của tôi, đang nói chuyện với một gã ngồi trong chiếc Stutz du lịch. “Trong xe là Kẻ Thầm Thì.” Bill Quint bảo tôi. Tôi bỏ qua người đàn ông lực lưỡng và thấy khuôn mặt trông nghiêng của Thaler. Hắn còn trẻ, da sậm và nhỏ con, với gương mặt đẹp như tượng tạc. “Hắn trông dễ thương đó.” Tôi nói. “Ừ hứ”, người đàn ông mặc đồ xám đồng ý, “và thuốc nổ cũng thế.” Mời các bạn đón đọc Mùa Gặt Đỏ của tác giả Dashiell Hammett & Nguyệt Minh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Địch Công Kỳ Án Tập 1: Hoàng Kim Án - Robert van Gulik
Mùa hè năm 663, khi mới 33 tuổi, Địch Công được bổ nhiệm chức vụ cấp huyện đầu tiên là Huyện lệnh của Bồng Lai. Vị trí này đi kèm với một nhiệm vụ hóc búa: điều tra vụ bỏ độc mưu sát cố Huyện lệnh - vị quan tiền nhiệm của ông. Nhưng niềm háo hức khi mới nhậm chức mau chóng chuyển thành nỗi kinh hãi, khi ông phải đối mặt với một vong hồn lang thang nơi nha phủ, một con cọp tinh ăn thịt người ẩn nấp chốn rừng rú và một vị tân nương biến mất gần ngôi miếu bỏ hoang… Một Huyện Bồng Lai xa xôi lại ẩn chứa vô số bí ẩn phức tạp đan xen nhau tạo thành mối bòng bong khó tháo gỡ. Hàng loạt các vụ án dây mơ rễ má xuất hiện, không manh mối, không dấu vết. Thậm chí còn cả hồn ma, ma sói xuất hiện trong một không gian mờ ảo, bất định. Liệu Địch Công có tìm ra lời giải thích hợp lý cho những sự kiện kỳ dị và kịp thời phá giải một âm mưu đen tối liên quan đến tận kinh thành hay không? Một tác phẩm trinh thám vừa có tính liêu trai, kì bí, vừa mang đậm nét "duy vật" của Phương Tây. Cái hay của tác giả Robert Van Gulik là lấy ảo để tả thực, lấy cảnh để nói người.. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** “Tống trào có Hắc Bao Công Đường triều Võ Hậu, Địch Công anh hùng.” Hoàng Kim Án là cuốn đầu tiên trong seri 16 cuốn Địch Công kỳ án của Robert van Gulik. Nội dung tác phẩm xoay quanh chuyến đi ” thực địa” đầu tiên của Địch Nhân Kiệt. So sánh với vị đồng môn thời Tống, Địch Công có một điểm nổi trội hơn nhiều. Địch Công giỏi võ, nhờ tài võ công của mình – mà thật ra nhờ nhiều vào thanh kiếm gia truyền hơn – ông thu nhận được hai cận về có vai trò hỗ trợ vô cùng đắc lực là Kiều Thái và Mã Vinh. * Gào thét lần 1: Soái ca Lý Nguyên Phương của tui đâu. Về vụ án chính, thật không có gì phải phàn nàn, thậm chí soi một lỗi nhỏ cũng không có. Tất cả ăn khớp với nhau như việc sau mưa sẽ có cầu vồng. Bản thân mình đã đọc và xem kha khá tác phẩm án lồng án, hai vụ án tưởng chừng như không có mối quan hệ gì nhưng hoá ra lại có mối liên quan mạch lạc với nhau. Nhưng 3 vụ án được lồng vào nhau thì đây đúng là cuốn đầu tiên và hy vọng rằng nó không phải là cuốn duy nhất theo motif này trong cả seri. Ban đầu đọc rất rối, đọc xong một đoạn lại phải dừng, ngẫm nghĩ thử nó liên quan gì đến vụ khác, rồi lại phân vân rốt cuộc chúng có liên quan đến nhau không hay chúng hoàn toàn tách riêng ra. Nếu dùng phương pháp thống kê mà hồi xưa phải cày nhừ tử cho bài thi quốc gia thì 3 vụ án ta có đến tận 6 biến thể. Rườm rà vậy thôi chứ thật ra gộp chung lại thì chỉ có 3 trường hợp mà thậm chí 1 trong số đó – nếu dùng ” định tính” – thì có thể loại bỏ. 3 vụ án lồng vào nhau, các đầu mối từ từ được tác giả lồng vào vô cùng khéo léo nhưng không khó để nhận ra. Điều này giúp người đọc theo kịp mạch suy luận của Địch Công và thậm chí còn đưa ra giả thuyêt với xác suất chắc chắn khá cao * không như bác Jeff, bác quay con mồng mồng*. Và một điều rất hiếm khi không xuất hiện ở một tác phẩm trinh thám cổ điển – twis cuối truyện. Lần này thì Gulik đã thành công như bác hói, twis bất ngờ ở cái giây phút mọi người đã chắc comnt rằng :” Đích thị nó là trùm cuối chứ chẳng ai”. Nói chung là mọi thứ đối với mình hoàn toàn hoàn hảo, không có bất kì một điểm trừ nào. Về phần hình thức. Mình đặc biệt thích mấy cuốn khổ nhỏ tầm 300 trang hơn cả. Các cuốn như thế này thường rất tiết chế về mặt nội dung, không lan man mấy thứ tình cảm nam nữ lằng nhằng, mà thông thường khi gặp mấy tình tiết này, mình thường tua trang. Mấy cuốn nhỏ gọn thế này cũng sẽ không khiến môi bạn xưng vù khi lỡ vừa nằm vừa đọc mà ngủ quên. Về điểm trừ, một điểm trừ to bổ chảng dành tặng ban biên tập của Phúc Minh. Sai chính tả từa lưa hột dưa luôn, lúc đọc thật sự rất phân tâm. Và cuối cùng, mình muốn gào thét part 2: Tác giả đẹp zai ơi, ông giấu soái ca của tui đi đằng nào r. Ơ lẽ ra ảnh phải xuất hiện đầu tiên chớ. Bao Công, Triển Chiêu – Địch Công, Nguyên Phương mà. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 1: Hoàng Kim Án của tác giả Robert van Gulik.
Đêm Kinh Hoàng - Trọng Danh
N hững cụm mây đen trắng trĩu hơi nước, tập trung rất thấp trên bầu trời thành phố. Cơn mưa hăm dọa từ sáng tinh sương, thoắt cái nó đổ ập như thác trút. Đứng chen chút trong số đông hành khách chờ đợi con tàu, Thùy mang tâm trạng bồn chồn lo lắng. Là cô nữ sinh được thầy thương bạn quý và bố mẹ cưng chiều, Thùy quyết dành trọn kỳ nghỉ hè này để đi Quảng Nam. Do đâu Thùy quyết định như vậy? Đơn giản vì cô muốn đến các vùng sâu vùng xa trong cả nước để hòa nhập với đồng bào, cùng chia sẻ cuộc sống. Tuy nhiên, cô linh cảm trong chuyến dã ngoại này, mình sẽ phải đương đầu những việc không báo trước điều tốt lành. Mới sáng nay thôi, khi ngồi trên chiếc xe taxi từ nhà đến ga tàu hỏa thành phố, Thùy mơ hồ ngay việc này. Hình như mình đang bị theo dõi. Cô bé cố gắng thu hết sức lực để tìm hiểu lý do nhưng vô hiệu. Dù vậy, cô vẫn giữ ý định tiến bước cuộc hành trình. Đứng cách Thùy không xa, một thiếu niên cũng mang tâm trạng bồn chồn nôn nóng. Cậu đang chờ một người bạn để cùng lên tàu ra Bắc, làm một chuyến du lịch. Hùng và Việt là hai bạn thân, cùng học hết cấp ba và cùng một sở thích như nhau: Ham tìm tòi học hỏi vậ tò mò tìm hiểu những chuyến đi ly kỳ của người khác. Bất chấp những giọt mưa bắn tung tóe lên quần áo. Việt - tên của cậu thiếu niên - đi đi lại lại trên sân ga, miệng làu bàu: - Đã 11 giờ qua năm vẫn không thấy tăm hơi. Trễ mất! .... Mời các bạn đón đọc Đêm Kinh Hoàng của tác giả Trọng Danh.
Giấc Ngủ Dài - Raymond Chandler
Khi một triệu phú sắp chết thuê thám tử Phillip Marlowe điều tra kẻ tống tiền một trong hai cô con gái gây nhiều rắc rối của ông ta, chính Marlow đã phát hiện ra những rắc rối còn hơn cả vụ tống tiền. Bắt cóc, khiêu dâm, cám dỗ và giết người chỉ là một trong số ít những rắc rối mà anh ta đã tìm ra. "Tác giả Chardler dường như đã tạo hình ảnh người hùng Mỹ lên đến cực điểm: khôn ngoan, triển vọng, thâm trầm, phiêu lưu, đa cảm, giễu cợt và nổi loạn". "Đó là buổi sáng một ngày giữa tháng Mười, khoảng 11 giờ. Mặt trời chưa ló ra sau cơn mưa nặng hạt, bầu không khí quang đãng, sạch sẽ phía chân đồi. Tôi mặc bộ comple màu xanh thuốc súng, với áo sơ mi xanh sẫm, cà vạt và đeo một chiếc khăn quàng cổ, đi đôi giày đen dành cho những người leo núi, bên trong là đôi tất len màu đen có hai chiếc đồng hồ phía trên. Tôi ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, hoàn toàn tỉnh táo và đã cạo râu nhẵn nhụi. Nhưng tôi cũng chẳng quan tâm là có ai biết điều đó hay không. Tôi là vị thám tử tư ăn mặc hoàn chỉnh, lịch lãm nhất với những gì mà một vị thám tử cần phải chuẩn bị. Tôi đang chuẩn bị một công việc trị giá 4 triệu đô la. Đại sảnh của nhà Sternwood cao hai tầng. Trên cánh cửa lớn có thể dành cho cả một đoàn voi Ấn Độ đi qua, có một tấm kính rộng với hình một hiệp sĩ phía trên trong bộ áo giáp màu sẫm đang cứu một cô gái có mái tóc dài bị cột chặt vào cây không hề có quần áo trên người. Tấm kính che mặt của chiếc mũ được hiệp sĩ đẩy ngược về phía sau tạo vẻ gần gũi, anh ta đang cầm những nút thắt trên sợi dây thừng, công việc ấy chẳng đi đến đâu cả. Tôi đứng đó và nghĩ, nếu mình sống trong ngôi nhà này thì sớm hay muộn tôi cũng trèo lên đó và giúp anh chàng hiệp sĩ. Dường như anh ta không thực sự cố gắng lắm. Phía sau của đại sảnh có những cánh cửa kiểu Pháp. Phía xa là một dải cỏ lớn màu lục tươi kéo dài tới chiếc gara màu trắng, trước gara, một người lái xe trẻ tuổi, gầy gò với mái tóc sẫm mặc chiếc quần xà cạp màu đen bóng loáng đang lau chùi một chiếc xe Packard có thể bỏ mùi màu hạt dẻ. Cách gara một đoạn, mấy cây cảnh được tỉa rất cẩn thận như những con chó xù. Phía xa là một ngôi nhà rộng, mái vòm màu xanh lá cây. Và có mấy cái cây  nữa, xa hơn tất cả là những ngọn đồi vững chãi, nhấp nhô. Ở phía đông đại sảnh có một cầu thang tự do lát gạch dẫn tới một phòng dài có rào sắt và tới một đồ vật lãng mạn khác làm bằng thủy tinh. Những chiếc ghế lớn đệm nhung lông được khoảng không của chiếc tường xung quanh bao bọc, có vẻ như là chưa ai từng ngồi lên những chiếc ghế đó. Giữa bức tường phía tây có một lò sưởi lớn rỗng với một tấm bình phong bằng đồng trong bốn tấm ván nối với  nhau bằng bản lề, mặt lò sưởi nạm đá hoa cương với hình thần tình yêu ở các góc. Trên mặt lò sưởi có một bức chân dung thật lớn, phía trên là hai lá cờ kị binh đã bị mối ăn hay bị đạn xé rách căng ngang khung tranh bằng thủy tinh. Đó là bức chân dung một quân nhân thuộc trung đoàn trong thời kì chiến tranh Mexico đang đứng trong tư thế rất cứng nhắc...". *** Raymond Chandler, là người đồng thời với Agatha Christie và Dashiell Hammett, hai đại diện lớn của tiểu thuyết trinh thám, có thể nói ông là người thứ ba có vị trí “ngang ngửa” so với hai tác giả này mặc dầu 45 tuổi mới được biết đến và tác phẩm để lại không nhiều như các đồng nghiệp khác.   Tên đầy đủ của ông là Raymond Thornton Chandler. Ông sinh ngày 23/7/1888 tại Chicago, bang Illinois. Năm 18 tuổi, ông sang Paris (Pháp), rồi sang Đức nghiên cứu ngôn ngữ và luật quốc tế. Mùa xuân năm 1907, ông nhập quốc tịch Anh. Trước khi trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, Chandler làm đủ nghề: đầu tiên ông làm phóng viên cho tờ Tin nhanh hàng ngày ở London, rồi làm thơ, viết kịch ngắn, viết báo, dịch thuật cho các tạp chí. Năm 24 tuổi, ông về Hoa Kỳ, đi khắp Los Angeles làm những việc lặt vặt. 25 tuổi, qua một khóa học thủ thư, ông giữ chân thủ thư và kế toán cho một hãng bột sữa. Vào nửa cuối Thế chiến I (1917 – 1918), ông đăng lính trong lực lượng viễn chinh Canada, sang Pháp, rồi lại chuyển sang Không quân Hoàng gia. Sau khi giải ngũ, ông làm việc cho một ngân hàng Anh ở San Francisco. Ba năm sau, ông lại làm thủ thư và kiểm toán cho tập đoàn dầu mỏ Dabney, và nhanh chóng được thăng chức Phó chủ tịch. Thế nhưng 10 năm sau, ở tuổi 44, ông bị đuổi việc vì uống rượu và hay bỏ việc. Phải đến tuổi 45, sau khi công bố truyện trinh thám đầu tiên Vụ tống tiền không tiếng súng, ông mới chấm dứt giai đoạn lang thang làm đủ mọi nghề để chuyên tâm viết văn. Năm 31 tuổi, ông quan hệ với một người đàn bà đã có chồng, tên là Pearl Cecily Hurburt, và 5 năm sau, họ mới kết hôn. Lúc này Hurburt đã ở tuổi… 54, hơn ông 18 tuổi. Họ sống với nhau đúng 30 năm thì bà mất (1954). Các nhà viết tiểu sử Chandler sau này đều thừa nhận rằng cuộc đời ông còn rất nhiều khoảng trống bí ẩn, nhất là vì ông cứ nay đây mai đó, thay đổi chỗ ở liên tục. Hơn nữa, ông lại là người có hai quốc tịch, là dân Anh đến 49 năm, và chỉ ba năm trước khi mất (1956), ông mới trở lại quốc tịch Hoa Kỳ. Nhưng ai cũng thừa nhận rằng ông kiếm sống khá vất vả, nhất là trong những năm đầu trở thành nhà văn trinh thám chuyên nghiệp. Vì hai lý do: ông chưa bao giờ là một văn sĩ viết nhiều và thời gian đầu, khoảng năm sáu năm sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế, nhuận bút cũng rất thấp. Những hóa đơn, chứng từ thanh toán của ông còn sót lại, cho thấy năm 1936, ông kiếm được 1.500USD nhuận bút từ 5 truyện ngắn. Mời các bạn đón đọc Giấc Ngủ Dài của tác giả Raymond Chandler.
Điều Lệnh Thứ 11 - Jeffrey Archer
Nếu mafia bảo vệ vương quốc của mình bằng luật Omerta (im lặng) thì CIA (Cục tình báo Trung ương Mỹ) biết che giấu những bí mật của mình bởi “Điều lệnh thứ 11”. Tiểu thuyết kể về cuộc đời của Connor Fitzgerald, một sát thủ bí mật của CIA. Suốt 28 năm trời, con người này sống cuộc đời hai mặt, vừa tỏ ra là một công dân đứng đắn, tôn trọng pháp luật, vừa bí mật thực hiện những vụ ám sát theo đơn đặt hàng của CIA. Gã đã từng là kẻ săn đuổi, nhưng cuối cùng lại trở thành kẻ bị săn đuổi bởi đã biết quá nhiều điều bí mật của chủ nhân. Mọi thứ đều có giới hạn, vậy giới hạn của “Điều lệnh thứ 11” ở đâu? *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/04/1940) là nhà văn người Anh và cũng là một chính trị gia. Ông từng là một thành viên Quốc hội (1969-1974), và Phó Chủ tịch Đảng Bảo thủ (1985-1986). Jeffrey Archer sáng tác cuốn tiều thuyết Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là Kane and Abel) vào năm 1979. Tựa đề “Kane and Abel” dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980 và cuốn sách đã được phổ biến trên toàn thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của từ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS cũng với tên là Kane & Abel. Một số tác phẩm của tác giả Jeffrey Archer đã được dịch xuất bản tại Việt nam: Kẻ Mạo Danh Không Hơn Một Xu Không Kém Một Xu Vượt Lên Hàng Đầu Điều Lệnh Thứ Mười Một Luật Giang Hồ Hai số phận Bước Ngoặt Trong Câu Chuyện Quyền Lực Thứ Tư Ấn Tượng Sai Lầm ... *** Gã vừa mở cửa thì tiếng chuông báo động vang lên. Đó là thứ sai lầm chỉ có thể tin là của một tay không chuyên nghiệp, vì thế thật đáng ngạc nhiên bởi vì Connor Fitzgerald được các đồng nghiệp đánh giá là chuyên gia của các chuyên gia. Fitzgerald nghĩ rằng phải mất nhiều phút sau cảnh sát địa phương mới có những phản ứng với một tay trộm đêm ở quận San Victoria. Vẫn còn hai giờ nữa mới đến giờ bắt đầu trận đấu hàng năm với Brazil nhưng một nửa số tivi ở Colombia đã được bật sẵn. Nếu như Fitzgerald đột nhập vào tiệm cầm đồ đó sau khi trận đấu bắt đầu thì có thể phải chờ đến khi trọng tài thổi còi chấm dứt cảnh sát mới bắt đầu động đậy. Ai chẳng biết rằng Cơ quan hình sự địa phương dán mắt vào trận đấu trong suốt chín mươi phút tuần tra. Nhưng các kế hoạch của gã cho chín mươi phút đó sẽ khiến cho cảnh sát phải truy đuổi trong nhiều ngày. Và sẽ có thể là hàng tuần, hàng tháng trước khi ai đó tìm ra được những dấu ấn đặc biệt trong cuộc đột nhập vào buổi chiều Chủ nhật hôm đó. ... Mời các bạn đón đọc Điều Lệnh Thứ 11 của tác giả Jeffrey Archer.