Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Mũi Tên

Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Câm Lặng - Eric Rickstad
Mùa đông chết chóc ở Vermont đang tới gần, quỷ dữ nơi đây bắt đầu hiện hữu và trở nên sống động hơn bao giờ hết. Franks Rath cho rằng mình đã không phải dính dáng tới án mạng khi anh rời khỏi lực lượng cảnh sát, trở thành một thám tử tư để dành phần lớn thời gian của mình chăm sóc cho con gái. Cho đến khi lực lượng cảnh sát của vùng Canaan hẻo lánh tìm được một chiếc xe Monte Carlo đời 89 bị bỏ mặc bên đường và chủ nhân của nó – một cô gái tuyệt đẹp ở độ tuổi 16 biến mất không dấu vết, Rath lại một lần nữa lên đường điều tra, hỗ trợ lực lượng cảnh sát từ trong bóng tối. Càng dấn sâu vào vụ án, anh càng tiến gần tới những góc khuất tối tăm của con người. Một người đàn ông vốn chịu đủ những ám ảnh từ quá khứ, mang trên vai trách nhiệm tìm kiếm những cô gái còn đang mất tích. Rath sẽ phải làm gì khi ngay cả ở những nơi sâu xa hẻo lánh nhất cũng không tránh khỏi bị cái ác bao trùm? *** “Không.” Rath nói, “vị trí này không dành cho tôi.” “Cậu đang làm trái tim tôi tan vỡ đấy nhóc.” Barrons vừa nói vừa đặt bàn tay to bè lên ngực như để chứng minh. Nó chả chứng minh được cái khỉ gì cả. “Tôi không phải cớm.” Rath nói. “Vớ vẩn.” “Tôi đã từng là cớm.” “Một sĩ quan tuyệt vời.” “Một sĩ quan phải có niềm tin.” “Vào cái gì?” “Vào luật pháp, vào thể chế. Tôi thì không, không thể, không phải một cái thể chế như thế này, một dạng pháp luật coi một đứa nhỏ mười sáu tuổi là người lớn, một dạng pháp luật thả những thằng khốn như Preacher ra ngoài săn lùng và sát hại phụ nữ. Chết tiệt! Ngay cả mụ phù thủy già Malroy cũng có thể chống án được đấy.” “Nếu...” “Không, chẳng có chữ nếu ở đây đâu. Đây là cuộc đời và chúng ta không thể sống bằng chữ nếu...” “Nghe cậu nói kìa.” “Phải.” “Ừ thì.” Barrons ngả người ra phía sau và dang rộng đôi tay. Nhìn qua cửa sổ phía sau, Rath có thể nhìn thấy đám chim bồ câu bay qua bay lại. “Grout đã đỡ non và xanh hơn rồi đấy.” Rath đùa. “Grout đã vắng mặt không phép kể từ sau vụ con mụ già ở Connecticut. Mụ ấy suýt chết đấy. Tôi không nghĩ thằng nhỏ sẽ quay lại ngành đâu, hình như chuyển sang bên an ninh rồi, ở New Hampshire thì phải.” Rath gật đầu, chẳng lấy gì làm ngạc nhiên. “Sonja cũng gần chín rồi.” “Tôi nói gì cậu cũng không vào tai nhỉ, nhóc?” Barrons nói. “Biết rồi còn hỏi. Ông có thể rủ tôi xuống Bahamas câu cá. Tôi muốn học câu cá bằng ruồi.” “Cậu đã sẵn sàng chưa nhóc? Sống cuộc đời của một lão già về hưu?” “Sẵn sàng!” Quả thực như vậy. Rath cần phải đến một vùng đất mới, đến nơi mà anh chưa bao giờ đi qua, một nơi nào đó đầy nắng và gió, một nơi nào đó anh có thể thả lỏng và điều chỉnh tâm tình để khi trở lại anh có thể tập trung vào điều quan trọng nhất - Ned Preacher. “Tôi cứ tưởng cậu đang hẹn hò cơ mà?” Barrons hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Câm Lặng của tác giả Eric Rickstad.
Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ - Higashino Keigo
Trong biệt thự nhà Mashiba Yoshitaka, người chồng trúng độc chết trên sàn, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê đổ lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane vốn là nghệ nhân nổi tiếng với các tác phẩm thảm ghép vải độc đáo đắt tiền trưng bày ở khu Ginza, và cô người tình bí mật Wakayama Hiromi, cũng là học trò của Ayane. Nhưng cả hai đều có chứng cứ ngoại phạm vững chắc. Và cảnh sát đau đầu vì vấn đề hóc búa: Làm thế nào hung thủ bỏ thạch tín hạ độc Yoshitaka, khi không ai khác có khả năng tiếp cận nạn nhân quanh thời điểm xảy ra vụ án. Một lần nữa thiên tài “thám tử Galileo” Yukawa Manabu nhập cuộc. Anh đã tìm ra đáp án, nhưng là một “đáp án ảo”, chỉ “có thể suy nghĩ về mặt lý thuyết nhưng không thể tồn tại trong hiện thực”. Từng bước lật lại các tình tiết, tác giả đại tài Keigo đã chìa ra cho chúng ta chân tướng đáng kinh ngạc của một sự thật vô cùng chua xót… *** Lại thêm một tác phẩm xuất sắc nữa của tác giả Higashino, không có gì để chê trách, nội dung tuyệt vời, những bí ẩn dần được khám phá. Nguyễn Quốc Huy *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư ... *** Các truyện về Thám tử Galileo: Tiểu thuyết Yōgisha X no Kenshin (容疑者Xの献身?), 2005 (Phía sau nghi can X, Nhã Nam, 2009) Seijo no Kyūsai (聖女の救済?), 2008 (Sự cứu rỗi của thánh nữ, Nhã Nam, 2019) Manatsu no Hōteishiki (真夏の方程式?), 2011 (Phương trình hạ chí, Nhã Nam, 2018) Kindan no Majutsu (禁断の魔術?), 2015 (Ma Thuật Bị Cấm) Tập truyện ngắn Tantei Galileo (探偵ガリレオ?), 1998 Yochimu (予知夢?), 2000 Galileo no Kunō (ガリレオの苦悩?), 2008 Kyozō no Dōkeshi (虚像の道化師?), 2012 Mời các bạn đón đọc Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ của tác giả Higashino Keigo.
Ác Ý
“Hàng xóm nuôi con mèo lông trắng điểm nâu. Mèo nhà mà cứ thả rông, để nó chạy sang vườn mình bứt cây đi bậy, phiền toái vô cùng, không làm sao mà chịu đựng được.” Một nhà văn có bài tùy bút đăng báo, đại ý như vậy. Báo phát hành được vài hôm thì con mèo hàng xóm chết vì trúng bả. Tình cờ là, chủ nó bắt gặp bài tùy bút. Và vấn đề là, con mèo của chị ta lông trắng điểm nâu. Chiều hôm ấy, chị ta sang vườn nhà văn để tìm vết tích bả độc. Tối hôm ấy, nhà văn bị giết. Có một nhân vật nổi tiếng từng tiêu diệt rất nhiều người, thậm chí phá tan cả mấy băng đảng, chỉ để báo thù cho một con chó. Vậy đây, liệu có phải án mạng để báo thù cho một con mèo? Từ xuất phát điểm là vụ sát hại một nhà văn nhân cách vàng trong khu phố giàu sang, Keigo Higashino kéo tuột người đọc vào một lịch sử được viết lại bằng gian dối, một ma trận được vận hành theo nguyên tắc lấy oán trả ơn. *** Về tác giả Higashino Keigo có lẽ không cần phải đề cập nhiều vì đây hẳn là cái tên đã quá đỗi quen thuộc với độc giả trinh thám Việt Nam. Bằng lối viết đặc trưng đi sâu vào tâm lý của thủ phạm với văn phong giản dị, mộc mạc nhưng ẩn chứa tầng lớp ý nghĩa, Keigo đã cho ra đời không ít tuyệt phẩm độc nhất vô nhị chỉ tính riêng ở mảng văn học trinh thám. Và “Ác ý” chắc chắn là một trong số đó. Hidaka Kunihiko – một nhà văn nổi tiếng bị sát hại ngay tại nhà riêng, thi thể nhanh chóng được phát hiện bởi vợ và người bạn thân của anh, tác giả truyện thiếu nhi Nonoguchi Osamu. Không lâu sau, hung thủ bị bắt, nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó, ẩn đằng sau tội ác tưởng chừng như bình thường ấy là một âm mưu hiểm độc, một “ác ý” đáng sợ đến ghê người. Mình xin không nhận xét gì thêm về tác phẩm này, vì sẽ tốt hơn nếu người đọc được tự mình trải nghiệm một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, mình rất muốn chia sẻ một chút suy nghĩ cá nhân về nhan đề câu chuyện: “Ác ý” Đầu tiên cần hiểu “ác ý” ở đây nghĩa là gì? Theo cách hiểu của mình, “ác ý” nói đơn giản là ý muốn gây tổn thương cho người khác. “Ác ý” thường bắt đầu từ “ác cảm” (nghĩa là cảm giác ghét một ai đó), qua thời gian, “ác cảm” này vì nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ quan có, khách quan có, đơn giản có, phức tạp cũng có, dần phát triển thành “ác ý”. Như nhận xét của nhà văn Natsuo Kirino, “ác ý” là một dòng chảy ngầm, là thứ mà ta không thể nhìn thấy bằng mắt, mà chỉ có thể cảm nhận khi đã ý thức được sự tồn tại của nó. Trong câu chuyện này, “ác ý” cũng khéo léo ẩn mình xuyên suốt tác phẩm, người đọc hẳn phải cực kỳ tinh tế mới nhìn thấy được sự hiện diện của nó trong từng câu chữ, từng lời nói. Nhưng không thấy không có nghĩa là không tồn tại. Keigo có tài đánh lừa độc giả, chơi đùa với tâm lý, cảm xúc và óc phán đoán của họ. Bạn nào đã đọc “Phía sau nghi can X” chắc sẽ không còn mấy xa lạ với trải nghiệm này. Tuy nhiên, sau mỗi lần bị tác giả xỏ mũi, bản thân người đọc có lẽ cũng tự ngộ ra được nhiều điều. Ví như, qua tác phẩm này, mình hiểu ra sự đáng sợ, sức tàn phá khủng khiếp mà “ác ý” có thể gây ra cho cuộc đời một con người. Nụ cười thân thiện bị lầm tưởng thành sự khinh miệt, lời nói vô tội vạ trở nên cái cớ để bắt đầu một cuộc cãi vả, sự quan tâm giúp đỡ bị ngộ nhận là thương hại, ban phát. Khi đã mang trong mình ác ý đối với một ai đó, chúng ta không thể đánh giá mọi thứ bằng cái nhìn khách quan nữa, mà qua lăng kính của sự hằn hộc, đố kỵ và thù hận. Một khi ác ý đã được hình thành, nó sẽ tiếp tục lớn dần, lớn dần, để rồi một ngày nào đó, khi thời cơ cho phép, nó trỗi dậy thống trị và xui khiến ta làm những việc tổn hại đến chính bản thân và người khác. Dĩ nhiên văn học thường mượn chuyện hư cấu để phóng đại một sự kiện, một vấn đề nào đó nhằm làm nổi bật quan điểm, góc nhìn của tác giả và thu hút sự quan tâm từ độc giả. Cá nhân mình vẫn tin rằng ác ý luôn luôn hiện hữu trong cuộc sống, nhưng không phải là vô phương hóa giải. Bởi lẽ, suy cho cùng, ác ý xuất phát từ tâm mỗi người, do đó hoàn toàn có thể nhận biết và khống chế được (tuy không hề dễ dàng). Ngoài ra, tác phẩm còn là một hồi chuông cảnh tỉnh để mỗi người tự nhìn lại bản thân, phải chăng ở một khoảnh khắc nào đó trong cuộc đời, đã từng vô tình gieo rắc ác ý mà không hề hay biết. Đấy có thể là những lời nói xấu, những định kiến vô căn cứ mà ta tự ý áp đặt cho một ai đó. Và tác động của chúng đến cuộc đời người khác, bản thân ta khó bề kiểm soát được. Steven Nguyễn review *** Tự chấm điểm: 9đ + 0.5đ cho sự độc đáo Kunihiko Hidaka, một nhà văn nổi tiếng, bị sát hại tại nhà riêng ngay trước khi chuẩn bị chuyển đến sinh sống ở Vancouver. Những người đầu tiên phát hiện ra vụ án là Rie, vợ của nhà văn và Osamu Nonoguchi, bạn thân nhất của Hidaka. Cả hai người này đều có chứng cứ ngoại phạm. Nonoguchi thậm chí còn viết nhật ký về những gì đã diễn ra trước khi phát hiện ra cái chết của bạn mình. Thám tử Kyoichiro Kaga, người điều tra vụ án này, trùng hợp thay lại là đồng nghiệp cũ của Nonoguchi khi mà hai người trước đây từng cùng là giáo viên. Nhờ nhật ký của Nonoguchi cùng với khả năng điều tra của mình, Kaga đã nhanh chóng phát hiện ra thủ phạm khi cuốn truyện chỉ mới trôi qua một nửa. Thế nhưng, giống như trong tác phẩm Sự cứu rỗi của thánh nữ, Keigo đã cho thấy sự sáng tạo và tính nguyên gốc (original) của mình khi viết nên một tác phẩm trinh thám mà danh tính hung thủ không phải là bí ẩn lớn nhất. Trong tác phẩm này, thông qua cuộc đấu trí căng thẳng, thám tử Kaga đã giải mã được một kế hoạch cực kì tinh vi và nhờ đó, sự thật của quá khứ và hiện tại mới được làm rõ. Mặc dù chưa đọc hết tất cả các tác phẩm của Keigo, đặc biệt là Bạch dạ hành nhưng cuốn Ác ý này chắc chắn sẽ là một trong những cuốn mình recommend cho ai muốn đọc truyện của Keigo. Những bí ẩn trong truyện thực sự rất hay và độc đáo, đủ để cho thấy khả năng sáng tạo của Keigo. Tuy chưa thể đem lại cảm giác như sau khi đọc cuốn The Murder of Roger Ackroyd của Agatha Christie nhưng Ác ý cũng xứng đáng để bạn bỏ thời gian nếu muốn đọc một tác phẩm trinh thám có gì đó mới lạ Quang Huy review *** Vụ án xảy ra vào thứ Ba, ngày 16 tháng Tư. Hôm ấy, tôi rời khỏi nhà vào lúc 3 rưỡi chiều để đến nhà Hidaka Kunihiko. Nhà Hidaka cách chỗ tôi một ga tàu điện. Tuy từ ga phải đi xe buýt một chút, nhưng tính cả thời gian đi bộ cũng chỉ cần hai mươi phút là đến nơi. Bình thường, tôi cũng hay đến nhà Hidaka dù không có chuyện gì quan trọng, nhưng hôm ấy thì có chuyện đặc biệt. Chính xác hơn, nếu bỏ lỡ ngày này, tôi sẽ không được gặp cậu ấy một thời gian dài. Nhà Hidaka nằm trong khu dân cư được quy hoạch ngay ngắn. Khu này toàn nhà ở cao cấp. Thỉnh thoảng còn thấy những ngôi nhà có thể gọi là biệt thự sang chảnh. Khu vực này lúc trước vốn là rừng cây, nên có nhiều nhà cứ để nguyên cây cối coi như cây trồng trong vườn. Phía sau những bức tường là mấy cây họ sồi mọc um tùm, đổ bóng xuống mặt đường. Đường đi cũng không nhỏ hẹp gì, nhưng toàn bộ khu vực này là đường một chiều. Tính an toàn cũng là một tiêu chuẩn đánh giá chăng. Khi nghe Hidaka mua nhà ở khu này mấy năm trước, tôi đã nghĩ bụng quả nhiên là vậy. Bởi những thiếu niên lớn lên ở khu vực này đều từng mơ ước được sống ở đây. Nhà của Hidaka chưa đến mức biệt thự xa hoa, nhưng chắc chắn là quá rộng cho hai vợ chồng. Mái nhà kiểu Irimoya1 truyền thống của Nhật, nhưng lại có cửa sổ lồi, cửa ra vào hình vòm, cửa sổ tầng hai trang trí những chậu hoa theo thiết kế phương Tây. Có lẽ đây là kết quả của việc dung hòa đồng đều ý kiến của hai vợ chồng. Không, nếu nghĩ đến bức tường gạch trần, thì chắc ý kiến của người vợ được thông qua nhiều hơn. Lúc trước, cô ấy từng thổ lộ muốn thử sống trong một ngôi nhà như lâu đài châu Âu. Đính chính, không phải vợ. Là vợ trước. Đi dọc theo bức tường gạch đó, đến trước cánh cổng cũng đắp những viên gạch nằm ngang, tôi bấm chuông gọi. Nhưng chờ mãi cũng không có tiếng trả lời. Nhìn lại, không thấy chiếc SAAB của Hidaka ở bãi đỗ xe. Tôi nghĩ cậu ấy đã ra ngoài. Đang tìm cách giết thời gian, tôi nhớ ra cây hoa anh đào. Trong vườn nhà Hidaka có trồng một cây hoa anh đào cánh kép, lần tôi đến mới đây, hoa đã nở được ba phần. Từ hôm đó cũng đã gần mười ngày trôi qua, không biết nó thế nào rồi. Tuy là nhà người ta nhưng tôi ỷ mình là bạn thân, nên tự ý bước vào. Lối đi vào cửa rẽ nhánh giữa chừng, dẫn đến phía Nam căn nhà. Tôi đi theo đó và vòng ra vườn. Hoa anh đào đã rụng kha khá nhưng vẫn còn lại số cánh hoa đủ để thưởng lãm. Có điều, đây không phải lúc để tôi ngắm hoa vãn cảnh. Có một người phụ nữ lạ mặt ở đó. Cô ta cúi gập người, dường như đang nhìn mặt đất. Trang phục đơn giản, quần jeans, áo len, trên tay cầm thứ gì như miếng vải trắng. “Này, cô ơi...” Tôi lên tiếng. Người phụ nữ có vẻ giật mình, nhìn về phía này rồi đứng phắt dậy. “À, xin lỗi.” Người phụ nữ nói. “Là vì cái này bị gió thổi, bay vào vườn. Hình như chủ nhà đi vắng, tôi cũng thấy thật ngại, nhưng...” Nói rồi cô ta cho tôi xem món đồ cầm trên tay. Một chiếc mũ trắng. Trông cô ta khoảng hơn ba mươi lăm tuổi. Mắt, mũi, miệng đều nhỏ, một gương mặt đơn điệu. Sắc mặt không tốt lắm. Tôi hơi nghi ngờ, vừa có một cơn gió mạnh đến mức thổi bay cả mũ sao? “Trông cô nhìn chằm chằm mặt đất...” “Vâng, à, do bãi cỏ đẹp quá nên tôi cứ nghĩ bụng không biết người ta đã chăm sóc ra sao.” “Ừm, tôi không rõ lắm. Đây là nhà người bạn thân của tôi nên...” Cô ta gật đầu. Có vẻ cô ta biết tôi không phải chủ nhân ngôi nhà. “Xin lỗi anh.” Cô ta cúi đầu rồi băng ngang qua tôi, đi về phía cánh cổng. Khoảng năm phút sau thì phải, tôi nghe tiếng động cơ ô tô ở phía bãi đỗ xe. Có lẽ Hidaka đã về. Tôi quay lại chỗ cửa ra vào. Đúng lúc chiếc SAAB màu xanh thẫm đang lùi vào bãi. Hidaka ngồi ở ghế tài xế nhận ra tôi, khẽ gật đầu. Cả Rie ngồi ghế bên cạnh cũng mỉm cười cúi chào. “Xin lỗi cậu. Tôi định ra ngoài mua sắm chút đỉnh mà kẹt xe quá. Chịu thua.” Vừa bước xuống xe, cậu ấy giơ tay trước mặt tỏ ý xin lỗi. “Chờ lâu không?” “Cũng không lâu lắm. Tôi tranh thủ ngắm cây anh đào.” ... Mời bạn đón đọc Ác Ý của tác giả Higashino Keigo.
Xử Án Trong Tu Viện - Robert Van Gulik
Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Xử Án Trong Tu Viện của tác giả Robert van Gulik.